Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐPS T2A.001 CHƯƠNG 1 PHẬT BẢO
Đức Gotama ương lai của chúng ta ã mang trên mình cánh hoa thọ ký: “ Người này chắc chắn sẽ thành Phật giữa ba loài chúng sanh (nhân loại, chư thiên và Phạm thiên).” Đây là lời tiên tri của hai mươi bốn vị Phật, từ Đức Phật Nhiên Đăng (Dīpaṇkarā) ến Đức Phật Ca-diếp (Kassapa). Tuy nhiên thời gian suốt bốn A-tăng-kỳ (asaṅkhyeyya) và một trăm ngàn ại kiếp mà Bồ tát Gotama của chúng ta thực hành các pháp Ba-la-mật thì có ến hai mươi bảy vị Phật ã xuất hiện trong thế gian. Suốt bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp ấy, Bồ tát ã tinh tấn thực hành các pháp Ba-la-mật, sự xả ly (cāga) và các thiện hạnh (cariya) qua bốn cách tu tập (bhāvanā) và ã ạt ến ỉnh cao của sự viên thành tất cả những pháp cần thiết dẫn ến sự chứng ắc Phật quả. Đến kiếp cuối cùng, kiếp sanh làm thái tử Vessantara, Ngài ã thực hiện những việc phước tối thượng, rốt ráo, vượt trội tất cả mọi việc phước, vô song, báo hiệu giai oạn giác ngộ mục tiêu tối thượng sắp xảy ra. Những việc phước này làm chấn ộng trời ất, ngay cả ại ịa vô tình cũng phải rùng mình rung chuyển ến bảy lần. Và sau khi hết thọ mạng của kiếp ấy ở cõi người, Bồ tát sanh về cõi Đâu-suất-à (Tusitā), làm một vị thiên có tên là Setaketu. Ngài vượt trội các chư thiên khác về mười iều phước, ó là (1) Tuổi thọ, (2) Sắc ẹp, (3) Sự an lạc, (4) Tài sản và tùy tùng, (5) Quyền lực, (6) Sắc, (7) Thinh, (8) Hương, (9) Vị và (10) Xúc.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:5927

Các tên gọi khác

Đức Gotama ương lai của chúng ta ã mang trên mình cánh hoa thọ ký: “ Người này chắc chắn sẽ thành Phật giữa ba loài chúng sanh (nhân loại, chư thiên và Phạm thiên).” Đây là lời tiên tri của hai mươi bốn vị Phật, từ Đức Phật Nhiên Đăng (Dīpaṇkarā) ến Đức Phật Ca-diếp (Kassapa). Tuy nhiên thời gian suốt bốn A-tăng-kỳ (asaṅkhyeyya) và một trăm ngàn ại kiếp mà Bồ tát Gotama của chúng ta thực hành các pháp Ba-la-mật thì có ến hai mươi bảy vị Phật ã xuất hiện trong thế gian. Suốt bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp ấy, Bồ tát ã tinh tấn thực hành các pháp Ba-la-mật, sự xả ly (cāga) và các thiện hạnh (cariya) qua bốn cách tu tập (bhāvanā) và ã ạt ến ỉnh cao của sự viên thành tất cả những pháp cần thiết dẫn ến sự chứng ắc Phật quả. Đến kiếp cuối cùng, kiếp sanh làm thái tử Vessantara, Ngài ã thực hiện những việc phước tối thượng, rốt ráo, vượt trội tất cả mọi việc phước, vô song, báo hiệu giai oạn giác ngộ mục tiêu tối thượng sắp xảy ra. Những việc phước này làm chấn ộng trời ất, ngay cả ại ịa vô tình cũng phải rùng mình rung chuyển ến bảy lần. Và sau khi hết thọ mạng của kiếp ấy ở cõi người, Bồ tát sanh về cõi Đâu-suất-à (Tusitā), làm một vị thiên có tên là Setaketu. Ngài vượt trội các chư thiên khác về mười iều phước, ó là (1) Tuổi thọ, (2) Sắc ẹp, (3) Sự an lạc, (4) Tài sản và tùy tùng, (5) Quyền lực, (6) Sắc, (7) Thinh, (8) Hương, (9) Vị và (10) Xúc.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
ĐPS T2A.001 CHƯƠNG 1 PHẬT BẢO

]

 

 

 

 

 

CHƯƠNG 1

PHẬT BẢO

CÂU CHUYỆN VỀ VỊ THIÊN SETAKETU                                 

VỊ PHẬT ĐƯƠNG LAI

Đức Gotama ương lai của chúng ta ã mang trên mình cánh hoa thọ ký: “ Người này chắc chắn sẽ thành Phật giữa ba loài chúng sanh (nhân loại, chư thiên và Phạm thiên).” Đây là lời tiên tri của hai mươi bốn vị Phật, từ Đức Phật Nhiên Đăng (Dīpaṇkarā) ến Đức Phật Ca-diếp (Kassapa). Tuy nhiên thời gian suốt bốn A-tăng-kỳ (asaṅkhyeyya) và một trăm ngàn ại kiếp mà Bồ tát Gotama của chúng ta thực hành các pháp Ba-la-mật thì có ến hai mươi bảy vị Phật ã xuất hiện trong thế gian. Suốt bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp ấy, Bồ tát ã tinh tấn thực hành các pháp Ba-la-mật, sự xả ly (cāga) và các thiện hạnh (cariya) qua bốn cách tu tập (bhāvanā) và ã ạt ến ỉnh cao của sự viên thành tất cả những pháp cần thiết dẫn ến sự chứng ắc Phật quả. Đến kiếp cuối cùng, kiếp sanh làm thái tử Vessantara, Ngài ã thực hiện những việc phước tối thượng, rốt ráo, vượt trội tất cả mọi việc phước, vô song, báo hiệu giai oạn giác ngộ mục tiêu tối thượng sắp xảy ra. Những việc phước này làm chấn ộng trời ất, ngay cả ại ịa vô tình cũng phải rùng mình rung chuyển ến bảy lần. Và sau khi hết thọ mạng của kiếp ấy ở cõi người, Bồ tát sanh về cõi Đâu-suất-à (Tusitā), làm một vị thiên có tên là Setaketu. Ngài vượt trội các chư thiên khác về mười iều phước, ó là (1) Tuổi thọ, (2) Sắc ẹp, (3) Sự an lạc, (4) Tài sản và tùy tùng, (5) Quyền lực, (6) Sắc, (7) Thinh, (8) Hương, (9) Vị và (10) Xúc.

(Khi nói rằng : “ Đại dương bắt ầu từ dãy núi Cakkavāla càng lúc càng sâu thẳm ến khi gặp chân núi Meru (Tu-di-sơn), chiều sâu của nó là tám mươi bốn ngàn do-tuần,” ếm ược hết những giọt nước trong ại dương ấy là iều không thể ược. Cũng vậy, khi những bậc giới ức nhờ nghe hoặc ọc mà biết ược rằng vị Bồ tát suốt bốn Atăng-kỳ (asaṅkhyeyya) và một trăm ngàn ại kiếp thực hành các pháp Ba-la-mật (pāramī), các pháp xả ly (cāga) và các thiện hạnh (cariya) tu tập liên tục, không mỏi mệt. Người ta suy quán thâm sâu với niềm tin rằng vị Bồ tát ã thực hành các pháp Ba-la-mật,v.v… trong nhiều kiếp luân hồi còn nhiều hơn vô số giọt nước trong ại dương).

           Lời công bố vang rền thông báo Đức Phật sẽ xuất hiện 

                                     (Buddha kolāhala)

 

              Vị thiên Setaketu, vị ương lai Phật, thọ hưởng hạnh phúc tối thượng ở cõi Đâu-suất-à (Tusitā)  trong bốn ngàn năm, theo cách tính của chư thiên, tương ương với năm trăm bảy mươi sáu triệu năm ở cõi người. Theo cách tính ở cõi nhân loại, một ngàn năm trước khi thọ mạng của vị ấy kết thúc ở cõi Tusitā, khi ấy các vị Phạm thiên của cõi Suddhāvāsa (Ngũ tịnh cư) công bố rằng:

“ Này các bạn, trong một ngàn năm nữa kể từ hôm nay sẽ có một vị Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trong thế gian.”

Do lời công bố vang lên từ cõi trời, tiếng reo vui về sự xuất hiện của Đức Phật (Buddha kolāhala): “ Đức Phật Chánh biến tri sắp ra ời ! Đức Phật Chánh biến tri sắp ra ời!” vang dội khắp toàn thể thế gian một ngàn năm, trước khi sự kiện diễn ra.

(Đề cập về tên của vị thiên Bồ tát này, chương Ratanasaṅkama của bộ Buddhavaṃsa Pāḷi có nêu ra như sau: Yadā’haṃ tusite kāye santusito nāma’haṃ tadā. Câu này cho thấy rằng vị thiên có tên là Santusita. Cũng trong Chú giải Buddhavaṃsa và bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā, tên Santusita cũng ược nêu lên. Nhưng trong bộ Pubbenivāsa-kathā, Verañja-kaṇḍa của Chú giải Pārājika và trong kinh Bhayabherava của

Chú giải Mūlapaṇṇāsa thì tên của vị thiên là Setaketu. Hơn nữa các tác giả của các bộ Buddhavaṃsa bằng tiếng Miến như bộ TathāgataUdāna Dīpanī, Mālalaṅkāra Vatthu, Jinatthapakāsanī, v.v… cũng nêu tên của vị thiên là Setaketu. Do ó, nhiều vị A-xà-lê ã giải thích rằng Santusita là tên chung dành cho chư thiên ở cõi Tusita, còn Setaketu là tên riêng của vị thiên sẽ thành Phật danh hiệu Gotama).

                  Sự thỉnh cầu ến vị thiên Bồ tát (Bodhisata Deva)

   Sau khi nghe tiếng reo vang báo tin về sự xuất hiện của một vị Phật, tất cả các vị vua chư thiên thuộc mười ngàn thế giới như Catu Mahārāja, Sakka, Suyāmā, Santusita, Sunimmita , Vasavattī và tất cả chư ại Phạm thiên ồng cu hội ở một vũ trụ nọ ể bàn bạc về Đức Phật ương lai, bậc có tuổi thọ ở cõi chư thiên chỉ còn bảy ngày theo cách tính của loài người và dấu hiệu chấm dứt thọ mạng ã hiện khởi qua năm tiền tướng (pubbanimitta). Rồi tất cả cùng i ến vị thiên Setaketu chấp tay thành kính và nói lời thỉnh cầu ến vị thiên Bồ tát ấy như sau:

“ Thưa Bồ tát thiên, Ngài ã thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật, không mong cầu ịa vị Đế thích thiên vương, Ma vương, Phạm thiên hoặc Chuyển luân vương. Ngài ã thực hành các pháp Bala-mật này chỉ với ước nguyện thành bậc Chánh ẳng giác ể giải thoát chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên. Hỡi Bồ tát thiên, ây là thời gian thích hợp nhất ể Ngài thành một vị Phật Chánh Đẳng Giác! Quả thật ã úng lúc ể Ngài trở thành một vị Phật Chánh Đẳng Giác! Do ó, cầu mong Ngài hãy thọ sanh vào lòng mẹ của Ngài ở cõi nhân loại. Sau khi chứng ắc sự Giác ngộ tối thượng, cầu xin Ngài hãy giải thoát cho nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ra khỏi luân hồi bằng sự thuyết giảng về pháp Bất tử, Niết bàn.”

Bồ tát suy xét năm iều trọng ại 

Vị thiên Bồ tát Setaketu không vội vả nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ến từ khắp mười ngàn thế giới. Theo úng truyền thống của chư Bồ tát trong quá khứ, Ngài thực hiện năm iều suy xét trọng ại sau: 

  1. Thời kỳ thích hợp cho sự xuất hiện của một vị Phật,
  2. Châu thích hợp ể một vị Phật xuất hiện,
  3. Quốc ộ thích hợp ể một vị Phật xuất hiện,
  4. Dòng tộc mà vị Bồ tát sẽ tái sanh trong kiếp chót của Ngài, và 
  5. Thọ mạng người mẹ của Bồ tát.
  1. Trong năm iều quán xét trọng ại này, trước tiên Bồ tát suy xét: “ Đã úng thời kỳ ể Đức Phật xuất hiện trong thế giới nhân loại chưa ?” Thời kỳ không thích hợp là khi thọ mạng của loài người ang tăng ến một trăm ngàn tuổi. Vì tuổi thọ quá cao nên khổ sanh, khổ già, khổ bịnh và khổ chết không hiện khởi rõ rệt. Bị che khuất bởi thọ mạng lâu dài, loài người có khuynh hướng không quan tâm ến mọi khổ au. Các bài pháp ược chư Phật thuyết giảng bằng nhiều cách, thường tập trung quanh các ặc tánh về vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā). Nếu chư Phật xuất hiện khi thọ mạng của loài người nhiều hơn một trăm ngàn tuổi mà thuyết các bài pháp về anicca, dukkhaanattā thì những người trong thời kỳ ấy sẽ phân vân, tự hỏi chư Phật ang thuyết giảng gì. Họ sẽ không lắng nghe và cũng không tin vào những bài pháp. Do không lắng nghe hoặc không có niềm tin, loài người chắc chắn sẽ phân vân tự hỏi chư Phật ang thuyết giảng gì. Họ sẽ không bao giờ giác ngộ Tứ Thánh Đế và không bao giờ chứng ạt Niết bàn. Thật vô ích khi thuyết giảng với những người không có niềm tin về Tam tướng ể giải thoát họ ra khỏi luân hồi. Do ó, thời kỳ mà thọ mạng của loài người trên một trăm ngàn năm là thời kỳ không thích hợp ể chư Phật xuất hiện.

Thời kỳ mà tuổi thọ của loài người dưới một trăm tuổi cũng không thích hợp ể chư Phật xuất hiện vì chúng sanh trong thời kỳ ấy tâm chất chứa quá nhiều phiền não dục. Những bài pháp về vô thường, khổ và vô ngã ược thuyết giảng ến những người như vậy sẽ không có tác dụng. Thực tế những bài pháp sẽ biến mất ngay mà không ể lại dấu vết, giống như người cầm cây gậy mà viết chữ trên mặt nước. Do ó, thời kỳ mà thọ mạng của loài người ang suy giảm dưới một trăm tuổi, cũng không phải là thời kỳ thích hợp ể chư Phật xuất hiện.

(Chỉ những thời kỳ thọ mạng của loài người dao ộng từ một trăm ngàn tuổi xuống một trăm tuổi mới thích hợp ể một vị Phật xuất hiện. Đây là những thời kỳ mà trong ó các tướng sanh, già và chết hiện bày rõ nét nhất. Giáo pháp về Tam tướng: vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anattā), và giáo pháp dạy con ường thoát khỏi luân hồi cũng dễ dàng lãnh hội; chúng sanh trong những thời kỳ ấy cũng không chất chứa quá nhiều phiền não dục.  Thế nên những thời kỳ như vậy là cơ hội thích hợp nhất ể một vị Phật xuất hiện. Do ó, chỉ thời kỳ thọ mạng dưới một trăm ngàn tuổi và trên một trăm tuổi là thời kỳ thích hợp nhất ể vị Bồ tát kiếp chót  chứng ắc Phật quả. (Trùng hợp thay, khi chư thiên và Phạm thiên ến thỉnh cầu Bồ tát Setaketu thì thọ mạng của loài người ang ở trong thời kỳ một trăm tuổi). Như vậy, Bồ tát Setaketu sau khi quán xét về thời kỳ thấy rõ ràng là úng thời và quyết ịnh, “ Đây là thời kỳ thích hợp nhất ể ta thành Phật.”

  1. Tiếp theo, Bồ tát suy xét về châu ảo, là nơi mà chư Phật xuất hiện. Có bốn ại châu, mỗi châu có năm trăm ảo nhỏ bao quanh. Trong bốn châu này, Nam thiện bộ châu còn ược gọi là Diêm phù ề châu (Jambudīpa) vì có cây Jambu, cây táo hồng mọc lên ở ó. Bồ tát thấy rõ chỉ có châu này là nơi mà chư Phật quá khứ hằng xuất hiện.
  2. Rồi Ngài tiếp tục suy xét như vầy: “ Diêm phù ề này rất rộng lớn với kích thước mười ngàn do tuần. Chư Phật quá khứ ã xuất hiện ở âu trong miền ất rộng lớn này?” Rồi Bồ tát trông thấy Majjhimadesa - Trung thổ, ở trong xứ Jambudīpa, là nơi thích hợp ể chư Phật quá khứ xuất hiện.

 (Xứ Trung thổ, Majjhimadesa có mốc ranh giới ở hướng ông là cây ại sāla nằm phía ông của thị trấn Gajaṅgala; ở hướng ông nam có con sông Sallavatī; ở hướng nam có thị trấn Setakaṇṇika; ở hướng tây có ngôi làng Bà-la-môn Thūna; ở hướng bắc có núi Usiradhaja. Xứ Trung thổ ược cho là dài ba trăm do tuần, rộng hai trăm năm mươi do tuần, chu vi chín trăm do tuần. Những vùng ở bên

 

ngoài ranh giới ược gọi là biên ịa (paccanta). Chư Phật Chánh Đẳng Giác, chư Độc giác Phật, hai vị Thượng thủ Thinh văn, tám mươi Đại ệ tử, các vị Chuyển luân vương, những vị Khattiya (Sát-ếlỵ), các Bà-la-môn, các gia chủ giàu có và quyền lực chỉ sống ở vùng Trung thổ hưng thịnh này).

 Xứ Trung thổ có thành Kapilavatthu, là kinh ô của một vương quốc do các vị Sakya cai trị. Bồ tát Setaketu quyết ịnh sanh vào kinh ô vương giả ấy.

  1. Rồi Bồ tát suy xét về dòng tộc mà chư vị Bồ tát sẽ sanh vào trong kiếp chót và thấy rõ rằng: “ Chư Bồ tát quá khứ trong kiếp chót không sanh vào giai cấp thương nhân hoặc giai cấp bần cùng. Các Ngài chỉ sanh vào dòng dõi vua chúa hoặc dòng dõi Bà-la-môn, dòng dõi nào ược dân chúng trong thời ó tôn vinh nhất. Vào thời kỳ mà dân chúng tỏ sự tôn quý cao nhất ến dòng dõi vua chúa thì Bồ tát tái sanh vào dòng dõi ấy. Vào thời kỳ mà dân chúng xem dòng dõi Bà-lamôn là cao nhất trong xã hội thì Bồ tát tái sanh vào dòng dõi Bà-lamôn. Trong thời hiện tại này, dân chúng tôn trọng các vị Khattiya (vua chúa) nhiều nhất, ta sẽ tái sanh vào một trong những gia ình này. Trong số những gia tộc này, thì vua Suddhodana (Tịnh phạn) của thành Kapilavatthu là con cháu trực hệ của vua Mahāsammata, là vị vua ầu tiên ược tuyển chọn từ lúc khai thiên lập ịa, ây là dòng dõi Khattiya thuần túy của những người Sakya (Thích ca). Vua Suddhodana thuộc dòng cao quý và thuần khiết sẽ là phụ vương của ta.”
  2. Cuối cùng Bồ tát suy xét về người mẹ trong kiếp cuối làm người của Ngài. Ngài thấy rõ: “ Mẹ của một vị Phật là người mẫu mực oan chính và khiêm tốn. Bà không bao giờ uống rượu và các chất say. Bà là người ã gieo tạo nhiều phước báu và ã thực hành các pháp Ba-la-mật trải qua một trăm ngàn ại kiếp với chí nguyện ược làm mẹ của một vị Phật. Từ lúc bà sanh ra làm người mẹ tương lai của một vị Phật, bà luôn luôn thọ trì nghiêm ngặt ngũ giới, không bị khuyết phạm. Sirī Mahāmāyā, chánh hậu của vua Suddhodana, là người có ầy ủ tất cả những ức tánh này. Như vậy chánh hậu Sirī Mahāmāyā này sẽ là mẹ của ta.” Rồi Ngài suy xét thêm về thọ mạng của hoàng hậu Sirī Mahāmāyā và thấy rằng bà chỉ sống ược mười tháng bảy ngày nữa là hết tuổi thọ.

Sự chấp thuận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên

 Sau khi thực hiện năm iều suy xét, Bồ tát chư thiên Setaketu quyết ịnh: “ Ta sẽ xuống cõi nhân loại và thành Phật.” Khi ã quyết ịnh như vậy, Bồ tát chấp thuận sự thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên từ mười ngàn thế giới: “ Hỡi chư thiên và Phạm thiên, bây giờ là lúc Ta thành Phật úng như sự thỉnh cầu của các vị. Bây giờ các vị có thể yên tâm ra về. Ta sẽ xuống cõi nhân loại ể chứng ắc Phật quả.”  Sau khi ã hứa chuẩn và nói lời từ biệt tất cả chư thiên và Phạm thiên, Bồ tát Setaketu i vào khu vườn Nandavana có chư thiên cõi Tusitā theo hầu.

Vườn Nandavana

 Bài nói về vườn Nandavana ược nêu ra ở ây dựa vào phẩm Nandana Vagga của bộ Chú giải Sagāthā Vagga, Saṁyutta. Sở dĩ vườn chư thiên này có tên Nandavana là vì nó làm hài lòng tất cả chư thiên ến ngoạn lãm nơi ó.

Mỗi cõi của sáu cõi chư thiên dục giới ều có riêng khu vườn Nandavana. Tất cả những khu thiên lâm viên này ều em lại niềm vui thích giống nhau dù chúng ở những cõi thấp hơn hoặc những cõi cao hơn. Tuy nhiên, chỉ có thiên lâm viên Nandavana của cõi Tāvatiṃsa (Ba mươi ba hay Tam thập Tam thiên) ược mô tả ầy ủ chi tiết trong các bộ kinh.

Thiên lâm viên Nandavana là khu vườn lộng lẫy, ược tô thắm rực rỡ bởi tất cả những loại kỳ hoa dị thảo, những ngôi giả ốc, những loại xe thuyền và các phương tiện vận chuyển khác, cùng tất cả mọi thú vui của cõi dục giới, ầy quyến rũ, kỳ diệu và làm nức lòng kẻ phàm trần. Đó là một hí viện thực sự, nơi lui tới của chư thiên ể tiêu khiển, thưởng ngoạn những bài ca, iệu múa và những khoái lạc khác do các vũ nữ và các nhạc sĩ nhiều hạng tuổi, xinh ẹp muôn vẻ, các loại giọng, muôn hình và muôn sắc. Mỗi nhóm ều cố gắng phục vụ khách vượt trội hơn nhóm khác bằng tất cả các loại dục lạc.

Lâm viên Nandavana này ược chư thiên xem là vật trang iểm vĩ ại cho trú xứ của họ do sự nguy nga tráng lệ của khu vườn, là nơi thưởng ngoạn hấp dẫn nhất và chư thiên i vào ó ể tầm cầu năm loại dục lạc - sắc khả ái, thinh khả ái, hương khả ái, vị khả ái và xúc khả ái - tất cả ều cảm thấy vui sướng và thỏa mãn.

Lâm viên Nandavana này cũng là nơi em lại sự khuây khỏa cho chư thiên sắp chấm dứt thọ mạng. Năm iềm tướng báo hiệu sự sắp mạng chung của họ xuất hiện. Nhiều vị thiên bị sụp ổ, sầu muộn và ta thán khi phải ối diện với những iềm tướng báo hiệu sự mất mát ời sống hạnh phúc vĩnh viễn sắp xảy ra. Nhưng khi họ ã i vào khu lâm viên ầy mê hoặc này, họ sẽ quên hết mọi sầu não, cảm thấy thư thái, nhẹ nhàng và an lạc ngay.

Dù bị bất an, buồn khổ hay thất vọng bởi bất cứ iều gì, khi chư thiên bước vào khu lâm viên Nandavana thì họ bị cuốn ngay vào các khoái lạc. Như màn sương mai bỗng tan biến khi chạm phải những tia nắng của mặt trời, như ngọn èn dầu chập chờn và tắt lịm trước luồng gió mạnh; cũng vậy những lo âu, buồn khổ của chư thiên sắp mạng chung cũng ược lắng dịu. Có một câu nói bất hủ như sau : “ Ai chưa ến khu vườn Nandavana, nơi quy tụ tất cả các loại dục lạc thù thắng nhất của thế gian thì không thể hiểu ược hạnh phúc thực sự của thế gian.” Đó là sự hấp dẫn của khu lâm viên Nandavana ối với tất cả những kẻ phàm phu.

Trong bài trình bày về Verañjakaṇḍa trong bộ Vinaya Sārattha Dīpanī, cuốn I, mô tả như sau: “ Khu lâm viên Nandavana của chư thiên ở cõi Tāvatiṁsa rộng sáu mươi do tuần. (Theo một số vị A-xà-lê thì nó rộng năm trăm do tuần). Khu vườn ược tô iểm rực rỡ bởi một ngàn loại cây quý hiếm của cõi chư thiên.

Bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā trong bài bình giải về Tividha Buddha Khetta cũng nói rằng: “Khu vườn Nandavana nằm phía Đông của thành phố Sudassana ở cõi Tāvatiṁsa, ược bao quanh bởi những dãy tường thành, những tấm màn lửa và những cổng vào hình vòng cung làm bằng bảy loại châu báu. Khu vực rộng một ngàn do tuần. Đó là khu giải trí dành cho tất cả chư thiên. Hai cái hồ xinh ẹp Mahānanda và Cūlananda, nằm giữa khu vườn Nandavana và thành phố

Sudassana, mặt hồ màu xanh lá thẫm hợp với bầu trời trong sáng.”

Thời iểm mạng chung của vị thiên Bồ tát (Bodhisatta Deva) 

Khi vị thiên Bồ tát Setaketu i vào khu vườn Nandavana, nhóm chư thiên tùy tùng nam nữ thưa với Bồ tát rằng:

“ Sau khi mạng chung từ cõi chư thiên này, cầu chúc Ngài i ến cõi hạnh phúc khác, chỗ mà chúng sanh ạt ược do quả của những việc phước!”

 Khi Bồ tát ang du lãm quanh khu vườn Nandavana cùng với hội chúng chư thiên, họ vừa i vừa thỉnh Ngài nhớ ến những việc phước trong kiếp quá khứ, thì giờ phút Bồ tát mạng chung ã tới.

SỰ NHẬP THAI CỦA BỒ TÁT (BODHISATTA)

 Hoàng hậu Sirī Mahāmāyā, chánh hậu vua Suddhodana của vương quốc Kapilavatthu, hiện ang thọ hưởng các dục lạc vương giả tuyệt trần. Lúc bấy giờ bà ang qua thời kỳ trung niên của cuộc ời – majjhima vaya. (Thọ mạng của loài người lúc bấy giờ là một trăm tuổi. Như vậy tuổi của hoàng hậu Sirī Mahāmāyā vào khoảng năm mươi lăm tuổi và bốn tháng. Điều này ược giải thích chi tiết trong bộ Samanta Cakkhu Dīpanī).

Lễ hội chòm sao Uttarāsāḷha 

Vào ngày mồng chín tháng 6 (tháng Āsāḷha) năm 67, theo lịch Mahā Era,  hoàng hậu Sirī Mahāmāyā ược năm mươi lăm tuổi và bốn tháng. Dân chúng trong vương quốc vui mừng tổ chức lễ hội chòm sao

Uttarāsāḷha - lễ hội truyền thống hằng năm. Muôn người như một ều hết mình tham gia lễ hội, người nào cũng ra sức tổ chức hội hè trội hơn người khác.

Hoàng hậu Sirī Mahāmāyā cũng tham gia lễ hội, ược tổ chức từ ngày mồng chín ến ngày mười bốn. Điểm ặc biệt của lễ hội là mọi người hoàn toàn kiêng rượu và thi nhau làm ẹp bằng các loại hoa, vật thơm và những vật trang sức. Vào ngày trăng tròn của tháng, hoàng hậu thức dậy lúc sáng sớm, tắm bằng nước thơm, bố thí tiền bạc và vật dụng trị giá bốn trăm ngàn ồng tiền vàng. Rồi ăn mặc, trang iểm và dùng iểm tâm với những món thượng vị nhất. Sau ó bà nhận Bát quan trai giới (từ vị thầy của bà là ạo sĩ Devila), rồi i ến khuê phòng cực kỳ xinh ẹp. Nơi ây bà trải qua suốt ngày trên chiếc trường kỷ lộng lẫy và thọ trì Bát quan trai giới.

Giấc mộng của hoàng hậu Mahāmāyā 

Vào canh cuối của êm trăng tròn ấy, khi ang nằm trên chiếc trường kỷ lộng lẫy và thọ trì Bát quan trai giới, hoàng hậu Sirī Mahā Māyā bỗng chìm vào giấc ngủ ngắn và trải qua một giấc mộng báo hiệu sự nhập thai của Bồ tát như sau:

Bốn vị Thiên vương (Catummahārājā) ến nhấc chiếc trường kỷ và ưa hoàng hậu ến hồ Anotatta ở Himalaya. Rồi bà ược ặt trên mặt một tảng á bằng phẳng có kích thước sáu mươi do tuần, dưới bóng cây Sala cao bảy do tuần. Sau ó, bốn vị hoàng hậu của bốn vị thiên vương xuất hiện, ưa hoàng hậu Mahāmāyā xuống hồ Anotatta và tắm cho bà thật sạch sẽ. Rồi họ mặc cho hoàng hậu y phục cõi thiên và tô iểm cho bà với những óa hoa trời xinh ẹp. Rồi họ ặt bà nằm trở lại, ầu hướng ông, trong căn phòng của tòa lâu ài vàng nằm trong ngọn núi bạc, không xa hồ Anotatta.

Ngay lúc ấy, trong giấc mơ bà trông thấy một con voi thuần trắng ang gặm cỏ quanh núi vàng, gần núi bạc nơi có tòa lâu ài bằng vàng mà bà ang nằm ngủ ở trong. Rồi con bạch tượng i xuống từ núi vàng, bước lên núi bạc và i vào lâu ài bằng vàng. Khi ấy con bạch tượng i quanh hoàng hậu theo chiều kim ồng hồ, rồi i vào thai bào của hoàng hậu từ hông bên phải.

Sự thọ sanh của Bồ tát 

Khi hoàng hậu ang nằm mộng như vậy, thì vị thiên Bồ tát Setaketu ang dạo quanh khu vườn Nandavana ở cõi Tusitā, ang thọ hưởng sắc thinh khả ái; và ngay lúc ó Bồ tát mạng chung từ cõi chư thiên với tâm hoàn toàn giác tỉnh. Ngài thọ sanh vào bào thai như hoa sen của mẹ bằng tâm Đại quả (mahāvipāka citta) - một trong 19 tâm tục sanh (paṭisandhi citta), kết quả của tâm ại thiện (mahākusala citta), câu hành hỉ (somanassa sahagata), tương ưng trí (ñāṇa sampayutta), vô trợ hay tự phát (asaṅkhārika) và ược tạo ra bởi trạng thái chuẩn bị (parikamma bhāvanā) của thiền Tâm Từ (mettā jhāna). Sự kiện ấy xảy ra vào sáng thứ năm ngày rằm, tháng Āsāḷha năm 67, lịch Mahā Era do vua Añjana, ông nội của Bồ tát lập nên. Bồ tát thọ sanh úng vào lúc mặt trăng giao hội với chòm sao Uttarāsāḷha.

(Năm tháng, ngày thọ sanh và ản sanh của Bồ tát ược nêu ra theo úng với cách tính trong các tác phẩm tục sự về khoa chiêm tinh và biên niên sử của các vị vua. Các bộ kinh Pāḷi, Chú giải và Phụ chú giải ều không ề cập về vấn ề này. Bộ Gotamapurāṇa cho rằng năm thứ 2570 của thời kỳ kaliyuga là năm sanh của Đức Phật Gotama).

Đại ịa chấn ộng  

Ngay vào lúc Bồ tát thọ sanh, ại ịa chấn ộng dữ dội. Mười ngàn thế giới rung chuyển và chao ảo theo sáu cách sau ây:

(1) Mặt ất nổi phồng ở hướng Đông và chìm xuống ở hướng Tây. (2) Mặt ất nổi phồng ở hướng Tây và chìm xuống ở hướng Đông.

  1. Mặt ất nổi phồng ở hướng Bắc và chìm xuống ở hướng Nam.
  2. Mặt ất nổi phồng ở hướng Nam và chìm xuống ở hướng Bắc.
  3. Mặt ất nổi phồng ở  chính giữa và chìm xuống ở chung quanh.
  4. Mặt ất nổi phồng ở chung quanh và chìm xuống ở chính giữa.

Ba mươi hai hiện tượng khác thường 

Thêm nữa, cùng với sự thọ sanh của Bồ tát trong kiếp chót của Ngài  xuất hiện ba mươi hai hiện tượng khác thường, là thông lệ ối với chư Bồ tát trong kiếp chót. Qua các hiện tượng kỳ diệu này, các bậc trí có thể biết ược rằng: “ Vị Bồ tát ã thọ sanh.” Ba mươi hai hiện tượng báo trước này ược kể ra trong phần giới thiệu của Chú giải Bổn sanh như sau: 

  1. Ánh sáng rực rỡ tối thắng chiếu khắp mười ngàn thế giới.
  2. Người mù ược sáng mắt vào lúc ấy, tựa như họ muốn trông     thấy oai lực của vị Bồ tát. 
  3. Người iếc cũng nghe ược vào lúc ấy.
  4. Người câm nói ược vào lúc ấy.
  5. Người khuyết tật trở lại bình thường vào lúc ấy.
  6. Người què có khả năng i ược vào lúc ấy.
  7. Chúng sanh bị giam giữ, cột trói, ều thoát khỏi lao tù, xiềng xích.
  8. Lửa trong mọi ịa ngục ều tắt.
  9. Những chúng sanh ở cõi ngạ quỹ ều thoát khỏi ói khát.
  10. Muôn thú thoát khỏi hiểm nguy.
  11. Tất cả chúng sanh có bệnh ều ược bình phục.
  12. Chúng sanh nói lời thân ái với nhau.
  13. Loài ngựa hí vang trong niềm hân hoan.
  14. Loài voi cũng rống lên tiếng rống hay nhất của chúng.
  15. Tất cả các loại nhạc khí như àn hạc, kèn, v.v… ều tự phát ra tiếng nhạc rộn rã.
  16. Các vật trang sức trên người chúng sanh như vòng cổ, vòng eo tay, v.v… ều phát ra tiếng kêu thanh tao mà không cần chạm vào nhau.
  17. Tất cả mọi cảnh vật trong khắp các hướng ều trở nên thông suốt và rõ ràng.
  18. Gió thổi hiu hiu em lại sự an bình và thoải mái cho tất cả chúng sanh.
  19. Mưa sái mùa rơi nặng hạt.
  20. Những luồng nước ngầm thoát ra khỏi lòng ất và chảy i khắp các hướng.
  21. Trên trời không có chim bay (thời iểm ó không có chim bay trên không trung).
  22. Nước ở các con sông, suối ều ngưng chảy “ như người hầu sợ hãi ngưng di chuyển khi nghe tiếng la của ông chủ.” 
  23. Nước mặn ở dưới biển vào lúc ấy trở nên ngọt.
  24. Mặt sông hồ ở khắp nơi ều ược phủ ầy năm loại hoa sen ba màu.
  25. Tất cả các loại hoa ở dưới nước và trên ất ồng loạt nở rộ vào lúc ấy.
  26. Hoa ở trên thân cây (khandha paduma) nở thắm tuyệt ẹp.
  27. Hoa ở trên cành (sākhā paduma) cũng nở thắm tuyệt ẹp.
  28. Hoa ở trên các dây leo (latā paduma) cũng nở thắm tuyệt ẹp.
  29. Những cụm hoa (daṇḍa paduma) hiện lên từ những tảng á lớn và nở ra ủ bảy tầng.
  30. Hoa sen của chư thiên rơi từng chùm xuống mặt ất.
  31. Mưa hoa rơi xuống liên tục khắp vùng.
  32. Các nhạc cụ chư thiên tự nhiên trỗi nhạc.

Trong chương nói về lịch sử của hai mươi bốn vị Phật, mỗi vị Phật lúc thọ sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót của các Ngài ều có xảy ra ba mươi hai hiện tượng kỳ diệu này.

Các vị Bà-la-môn thông thái tiên oán iềm mộng của hoàng hậu           Khi hoàng hậu Sirī Mahāmāyā thức dậy, bà kể lại giấc mộng của bà với vua Suddhodana.

Sáng hôm sau vua Suddhodana cho triệu tập sáu mươi bốn vị Bà-la-môn thông thái bậc thầy, mời họ ngồi trên những chỗ ngồi ã ược sửa soạn dành cho những bậc cao quí và trên nền ất ã ược trát phân bò bằng phẳng và mặt trên có rải bánh tráng, hột nổ và những thứ khác ể tỏ dấu hiệu tôn kính. Đức vua cũng dâng cúng ến các vị Bà-la-môn món cơm sữa ược nấu bằng sữa tươi , mật ong và ường ựng trong những cái tô bằng vàng có nắp ậy bằng vàng và bạc. Đức vua còn tặng cho họ những bộ y phục mới, những con bò sữa, và những hình thức tôn kính khác ể làm cho họ thỏa mãn và hài lòng.

Sau khi ã thết ãi các vị Bà-la-môn và tôn kính họ khiến họ ược vui vẻ thỏa mãn, ức vua Suddhodana cho người kể lại giấc mộng của hoàng hậu rồi hỏi họ rằng: “ Giấc mộng như vậy báo iềm gì? Hên hay xui? Hãy giải thích cho trẫm rõ.”

Sau khi ã phân tích tỉ mỉ những chi tiết của giấc mộng, các vị Bà-la-môn tâu rằng: “ Tâu ại vương, hãy yên tâm. Hoàng hậu ã có thai. Bệ hạ chắc chắn sẽ có một người con trai. Nếu khi lớn lên hoàng tử chọn cuộc ời ế vương thì hoàng tử chắc chắn sẽ trở thành vua Chuyển luân trị vì khắp bốn châu thiên hạ. Nếu hoàng tử từ bỏ ời sống gia ình, xuất gia làm Sa-môn, thì chắc chắn sẽ trở thành một vị

Phật Chánh Đẳng Giác, phá tan mọi phiền não trong tam giới.”

Sự bảo vệ của các vị Thiên vương 

Từ lúc Bồ tát thọ sanh, vị thiên vương (Catumahārājā), tên Vessavana và những vị khác sống trong cõi sa bà này, ến phòng của hoàng hậu Sirī Mahāmāyā và liên tục bảo vệ ngày êm. Mỗi vị cầm một cây ại ao ể trấn giữ, ngăn chặn các loài dạ xoa và Atula, các loại chim thần và thú thần mà Bồ tát và hoàng hậu có thể nghe hoặc thấy. Bằng cách này, bốn chục ngàn vị thiên vương trong mười ngàn thế giới, canh giữ toàn thể không gian từ những cánh cửa phòng của hoàng hậu ến tận cùng của thế giới, uổi i các loài quỉ dữ, các loài dạ xoa, v.v...

Bảo vệ như vậy không phải vì e ngại ai ó làm hại ến tính mạng của Bồ tát và hoàng hậu; dù mười trăm ngàn triệu Ma-vương em mười trăm ngàn triệu quả núi Tu-di (Meru) ể e dọa mạng sống của Bồ tát trong kiếp chót và mẹ của ngài, chắc chắn tất cả sẽ bị tiêu diệt, Bồ tát và mẹ của ngài sẽ bình an, vô hại.

Sự bảo vệ chỉ là phòng ngừa những cảnh và âm thanh trái ý, không vừa lòng có thể gây ra sự lo lắng và sợ hãi cho hoàng hậu. Một lý do khác, các vị thiên vương bảo vệ Bồ tát vì oai lực của Ngài làm khởi dậy sự tôn kính và ngưỡng mộ trong họ.

Một câu hỏi có thể ược ặt ra là liệu các vị thiên vương ến bảo vệ hai mẹ con của Bồ tát, họ có hiện hình cho bà trông thấy không? Câu trả lời là họ không hiện ra khi bà ang tắm, làm sạch thân thể, ang mặc y phục và ang ộ thực. Họ chỉ hiện ra cho bà thấy khi bà i vào phòng và nằm trên chiếc trường kỹ quí báu.

Hình ảnh của các vị thiên vương có thể làm cho người bình thường phải sợ hãi; nhưng do oai ức của Bồ tát và hoàng hậu, bà không chút sợ hãi khi thấy họ. Bà thấy họ như thấy các dũng sĩ hoàng cung quen thuộc.

Sự thọ trì kiên ịnh các giới hạnh 

Mẫu thân của Bồ tát trong kiếp cuối của Ngài luôn thọ trì giới rất trong sạch. Trước khi Đức Phật xuất hiện, dân chúng thường thọ trì giới từ những vị du sĩ bằng cách thành kính quỳ lạy họ. Hoàng hậu Sirī Mahāmāyā trước khi thọ thai Bồ tát, cũng thường thọ giới từ ẩn sĩ Kāḷadevila. Nhưng khi Bồ tát bắt ầu thọ sanh trong bào thai của bà thì việc bà quỳ lạy bất cứ ai không còn thích hợp nữa. Giới chỉ ược thọ trì từ người có giới ngang bằng hoặc cao hơn, không phải người có giới thấp hơn. Từ lúc thọ thai Bồ tát, hoàng hậu tự mình thọ giới. Điều cần lưu ý, ở ây là giới tự nhiên phát sanh trong người của hoàng hậu Sirī Mahāmāyā nên bà không cần phải xin giới từ ạo sĩ Kāḷadevila.

Không có tình dục 

Mẹ của Bồ tát trong kiếp chót của Ngài, từ lúc bà mang thai hoàn toàn không có dục tâm ối với bất cứ người àn ông nào, ngay cả ối với cha của Bồ tát. Bản tánh tự nhiên của bà trong giai oạn ấy là hoàn toàn trong sạch, vô nhiễm. Ngược lại, không thể nói rằng những kẻ phàm phu không sanh khởi dục tâm khi trông thấy sắc tướng của bà. Do oai ức của các pháp Ba-la-mật và các việc phước mà hoàng hậu ã tích lũy trong nhiều ời nhiều kiếp, bà có sắc ẹp siêu phàm, dung mạo tao nhã mà không một họa sĩ tài ba hay một iêu khắc gia lão luyện nào có thể vẽ hoặc tạc lại hình ảnh của bà một cách trung thực và chính xác.

Khi trông thấy hoàng hậu như vậy, nếu kẻ nhìn ngắm cảm thấy chưa thỏa mãn, hoặc nếu họ cố gắng ến gần bà do sự thôi thúc của ái dục, thì chân của họ sẽ bị chôn chặt tại chỗ, tựa như họ bị trói xiềng bởi những sợi xích sắt. Do ó, cần ghi nhớ rằng, mẹ của Bồ tát trong kiếp chót của Ngài là một trang thục nữ cao quý, có một không hai, không thể bị xâm phạm bởi bất cứ ai dù là người hay chư thiên.

Bào thai của người mẹ giống như một bảo tháp 

Bào thai kiết tường nơi Bồ tát ngự, thiêng liêng như bảo tháp mà không một ai khác xứng áng ở trong ó. Ngoài ra, khi mẹ của Bồ tát còn sống thì không có người phụ nữ nào khác, ngoài chính bà có thể ược tôn phong ịa vị cao nhất là chánh hậu. Do ó, bảy ngày sau khi hạ sanh Bồ tát thì quy luật tự nhiên là hoàng hậu sẽ tái sanh vào cõi Tusitā (Đâu-suất-à). Bào thai giống như hoa sen của hoàng hậu Mahāmāyā, nơi Bồ tát ngự tựa như chứa ầy những viên kim cương lấp lánh.

 Dâng tặng các lễ vật 

Hay tin tốt lành rằng chánh hậu Mahāmāyā của vua Suddhodana, bậc trị vì vương quốc Kapilavatthu, ã thọ thai một hoàng tử có ầy oai lực, các vị vua khắp nơi xa gần ều gởi ến những món quà tặng có giá trị nhất như vải vóc, vật trang sức, dụng cụ âm nhạc, v.v...  có thể làm Bồ tát hoan hỉ. Do quả phước của Bồ tát và mẹ của ngài trong những kiếp quá khứ, những lễ vật ến từ khắp nơi nhiều không kể xiết.

Người mẹ nhìn thấy ứa con trong bụng 

 Tuy hoàng hậu Mahā Māyā mang thai Bồ tát nhưng bà không bị khổ như những phụ nữ mang thai khác như chân tay bị sưng phồng, au ớn, nặng nề, v.v... Do không bị những sự khó chịu này, bà dễ dàng vượt qua ược thời kỳ thai nghén ầu tiên. Đến thời kỳ thứ hai, khi phôi thai hình thành ầy ủ năm phần chính của con người, bà thường ngắm nhìn ứa bé ể xem liệu có ang ở vị trí thuận tiện, thích hợp và nếu không, thì có những phương thức chăm sóc ặc biệt theo cách của những người mẹ. Bất cứ khi nào ngắm nhìn, bà ều thấy rõ Bồ tát như sợi chỉ ngũ sắc xuyên qua viên ngọc tám cạnh, xinh ẹp và trong suốt; hoặc bà thấy Ngài ang ngồi kiết già trầm tịnh tựa vào xương sống của người mẹ, như vị pháp sư ngồi trên pháp tòa tựa vào lưng ghế.

Việc nhìn thấy ược Bồ tát  

 Sở dĩ hoàng hậu Mahāmāyā từ bên ngoài có thể nhìn thấy ược người con ang ở trong bào thai như hoa sen là do oai ức của các việc phước mà bà ã thực hiện trong nhiều kiếp quá khứ. Da sạch sẽ và láng mịn khác thường, không chút tỳ vết. Da ở vùng bụng của bà cũng sạch sẽ, láng mịn và trong suốt như tấm kính. Như vậy mẹ của Bồ tát có thể thấy thai nhi bằng mắt thường của bà xuyên qua lớp da mỏng trên bụng như món bảo vật ựng trong cái hộp bằng pha lê.

Chú ý: Dù hoàng hậu Mahāmāyā có thể trông thấy ứa con trong bụng của bà nhưng người con, Bồ tát thì không thể trông thấy mẹ của mình vì nhãn thức của Ngài (cakkhuviññāṇa) chưa phát triển ầy ủ trong khi còn ở trong bụng mẹ.

SỰ RA ĐỜI CỦA BODHISATTA

Tất cả những phụ nữ thường sanh con sau hoặc trước mười tháng mang thai, họ không biết chính xác thời gian mà ứa bé sẽ sanh ra. Việc sanh con của họ xảy ra bất chừng khi họ ang ở một trong bốn tư thế: một số sanh con khi ang nằm, số khác thì ngồi, ứng hoặc ang i.

Tuy nhiên, mẹ của Bồ tát trong kiếp chót của Ngài thì hoàn toàn khác. Bồ tát sanh ra khi mẹ ang trong tư thế ứng. Khi ra ời như vậy, thân của Ngài sạch sẽ tinh khiết, không một chút cấu uế, như viên hồng ngọc ược ặt trên tấm vải lụa kāsi mới dệt.

Đứa bé bình thường khi ra ời phải trải qua nhiều au ớn. Người mẹ khi bắt ầu chuyển bụng thì một số biến cố lần lượt xảy ra: ứa bé bị quay ngược lại, ầu trút xuống dưới và bị tống ra qua một ường khe hẹp, cứng, chịu nhiều au ớn cùng cực, giống như một người ang rơi xuống hố thẳm hay một con voi bị kéo ra qua lỗ khóa.

Việc ra ời của Bồ tát thì không như vậy, Ngài sanh ra dễ dàng như nước chảy qua cái lọc nước; như vị pháp sư từ tốn và khoan thai i xuống pháp tòa sau khi thuyết pháp xong; như người chầm chậm i xuống bậc cấp của bảo tháp; như mặt trời với hàng ngàn tia sáng từ từ nhô lên khỏi ngọn núi vàng; Bồ tát ung dung, tự tại i ra với chân duỗi thẳng, bàn tay mở ra, mắt mở rộng, chánh niệm và tỉnh giác, hoàn toàn không chút sợ hãi.

Chuyến i của hoàng hậu Mahāmāyā  ến thành phố Devadaha 

Khi hoàng hậu Mahāmāyā mang thai ến giai oạn cuối, cưu mang Bồ tát suốt mười tháng trong bào thai giống như hoa sen, tựa như bà ang mang một bát dầu, bà cảm thấy muốn ến thành phố Devadaha ể viếng thăm quyến thuộc hoàng gia của bà. Bà thỉnh cầu vua Suddhodana rằng: “ Tâu bệ hạ, thiếp muốn về thăm quyến thuộc ở Devadaha.”

Đức vua Suddhodana chấp thuận và truyền lịnh sửa soạn mọi thứ cho chuyến i của hoàng hậu. Toàn bộ con ường từ Kapilavatthu ến Devadaha ược sửa sang bằng phẳng, những cây chuối, những cây cau rừng, những cái chum ựng ầy nước ược ặt hai bên ường, cờ xí cũng ược treo dọc theo ường. Sau khi ã trang hoàng con ường giống như cõi chư thiên, ức vua cho ặt hoàng hậu ngồi trên chiếc kiệu vàng có một ngàn người khiêng, những vệ sĩ và những nữ hầu cũng i theo ể làm các phận sự cần thiết. Trong sự lộng lẫy và huy hoàng như vậy, hoàng hậu ược tiễn về Devadaha.

(Bài mô tả về chuyến i của hoàng hậu Mahāmāyā từ Kapilavatthu ến Devadaha ược nêu ra trong phần Anudīpanī).

Vườn Lumbinī ầy những cây Sāla 

Giữa hai kinh ô Kapilavatthu và Devadaha có vườn cây sāla tên là vườn Lumbinī, là nơi thưởng lãm của dân chúng ở cả hai vương quốc. Khi hoàng hậu Mahāmāyā ến ó thì tất cả cây sāla trong vườn ều nở hoa từ gốc tới ngọn.

Giữa những bông hoa và những tán lá của cây sāla có những àn ong ủ năm sắc màu kêu vo ve vui nhộn và àn chim ủ loại cất tiếng hót tạo ra những âm thanh tưng bừng, rộn rã. Toàn thể rừng cây sāla khả ái, khả lạc bởi những nét riêng biệt, ví như khu vườn Cittalatā của Đế Thích thiên vương. Nó giống như nơi thường xuyên có những tiếng chào hỏi qua lại và những tiếng cười vui vẻ trong một buổi tiệc do một vị vua hùng mạnh tổ chức. (Đây là bài mô tả về khu vườn ược nêu ra trong Chú giải Bổn sanh kinh).

Do những âm thanh rộn rã phát ra từ những cô ong cái ang lượn trên những chồi non và những bông hoa, những nhánh cây và những tán lá; chúng bị kích thích bởi chất mật say tiết ra từ những bông hoa sāla thơm ngát. Lumbinī quả thật giống như vườn Nandavana của chư thiên.

Đại ức Buddhadatta, tác giả của bộ Chú giải Buddhavaṃsa có bài kệ sau ây ể tán dương khu vườn Lumbinī:

Vibhūsitā bālajanāticālinī,

                    Vibhūsitaṅgī vaniteva mālinī

                     Sadā janānaṃ nayanālimālinī                      Vilumpinīvātiviroci lumbinī.

 “Giống như một thiếu nữ có thể làm say ắm tất cả những người nam, người của nàng ầy những chuỗi ngọc, những chiếc vòng tai, và iểm xuyến với những bông hoa cực kỳ xinh ẹp. Khu vườn Lumbinī cũng vậy, với những nét tô iểm, nó là nơi lui tới ưa thích của mọi người, vui thích thưởng ngoạn bằng ôi mắt say mê của loài ong với những bông hoa hương sắc tựa như cô tiểu thư khuê các cực kỳ xinh ẹp.” 

Trông thấy vườn Lumbinī rực rỡ, khả ái như vậy, hoàng hậu Mahā-māyā muốn vào vui chơi trong ó. Được sự cho phép của vua Suddhodana, các quan và tùy tùng ưa hoàng hậu i vào khu vườn trên chiếc kiệu vàng.

Sự cu hội của chư thiên (deva) và Phạm thiên (Brahma) 

Lúc hoàng hậu Mahāmāyā i vào khu vườn Lumbinī, thì tất cả chư thiên công bố vang rền khắp mười ngàn thế giới: “ Ngày hôm nay Bồ tát sẽ ra ời.” Chư thiên và Phạm thiên từ khắp mười ngàn thế giới cu hội lại, tập hợp toàn thể vũ trụ này. Họ em theo nhiều loại châu báu làm quà cúng dường ể tỏ sự tôn kính nhân ngày ản sanh của Bồ tát. Khắp bầu trời ược che phủ bằng những cái lọng trắng của chư thiên và toàn thể thế giới vang dội những bài ca kiết tường, nhạc trời và những tiếng tù và.

Khi hoàng hậu Mahāmāyā vừa i vào vườn Lumbinī, bà bỗng khởi lên ước muốn ầy thôi thúc là nắm lấy nhánh cây sāla ang ra hoa rực rỡ. Tựa như biết ược ước muốn của bà, thân cây sāla tròn và thẳng ứng bỗng cong xuống như cây mía và từ từ hạ xuống ngang tầm tay của hoàng hậu. Quả là một hiện tượng phi thường, làm ộng tâm nhiều người. 

Hoàng hậu Mahāmāyā nắm lấy cành cây sāla ang oằn xuống với cánh tay duỗi thẳng ược trang sức những vòng tay bằng vàng óng ánh, ngón tay của bà thon nhỏ như cọng sen, móng tay ỏ óng ả như màu ỏ của mỏ của con chim két. Sắc ẹp kiều diễm của hoàng hậu Mahāmāyā lúc ấy như mặt trăng vừa ra khỏi ám mây en hoặc như tia chớp chiếu sáng hay như nàng tiên nữ xinh ẹp xuất hiện ở vườn Nandavana.

Sự ản sanh của Bồ tát 

Khi ang vịn vào nhánh cây sāla, hoàng hậu Mahāmāyā ứng uy nghi, trong chiếc áo gấm trắng phủ xuống gót chân, thêu những mẫu chỉ vàng rất xinh ẹp, giống như mắt con cá chép. Ngay khi ấy, bà cảm thấy có những dấu hiệu sắp sanh. Tùy tùng của bà vội vã dựng lên một hàng rào cách ly bằng những tấm màng và rồi họ rút lui.

Lập tức mười ngàn thế giới cùng ại dương gầm thét, chao ảo và rung chuyển giống như bánh xe của người thợ gốm. Chư thiên và Phạm thiên ồng thanh reo mừng và tung rải những nắm hoa trời; tất cả các loại nhạc khí ều tự nhiên phát ra những âm thanh kỳ diệu. Toàn thể thế giới trở nên thông suốt khắp các hướng, không bị ngăn che. Tất cả ba mươi hai hiện tượng kỳ diệu ồng loạt xảy ra ể báo hiệu sự ản sanh của Bồ tát. Như vật báu ra khỏi ngọn núi Vipulla và bay lượn trên không trung rồi từ từ áp xuống nơi ược ặt sẵn; Bồ tát cũng vậy, với ba mươi hai hảo tướng và tám mươi tướng phụ trên người, Ngài ra khỏi bào thai hoa sen như bảo tháp của hoàng hậu Mahāmāyā với thân sạch sẽ và tinh khiết vào ngày rằm của tháng Vesākha - ngày mặt trăng giao hội với chòm sao Visākha.

Lúc Bồ tát ản sanh, hai cột nước thuần khiết ấm mát từ trên hư không chảy xuống, tưới lên cơ thể sạch sẽ và tinh khiết của Bồ tát và mẹ của Ngài như một dấu hiệu tôn kính. Do vậy Bồ tát và hoàng hậu có thể thích nghi với việc nóng và lạnh trong cơ thể.

Phạm thiên, chư thiên và nhân loại lần lượt ón nhận Bồ tát 

Bốn vị ại Phạm thiên (Brahmā), những bậc ã xa lìa phiền não dục, ầu tiên ón nhận Bồ tát trong một tấm lưới vàng vào lúc Ngài sanh ra. Rồi họ ặt Ngài trước mặt người mẹ và nói rằng: “ Thưa hoàng hậu tôn kính, hãy vui sướng lên. Một ứa con trai có ại uy lực ã sanh ến cho bà!”

Tiếp theo, bốn vị ại Thiên vương ón nhận Bồ tát từ tay của bốn vị Phạm thiên bằng tấm da màu en của con sơn dương, ược xem là vật may mắn. Tiếp theo, loài người tiếp nhận Bồ tát từ tay của bốn vị Thiên vương bằng tấm vải trắng.

Sau khi rời khỏi tay của loài người, Bồ tát ứng vững chắc trên ôi bàn chân của Ngài, lòng bàn chân xinh ẹp như ế của ôi giày vàng. Khi ứng vững chải trên mặt ất như vậy, Ngài nhìn về hướng ông. Khi Bồ tát nhìn về hướng ông như vậy thì hàng ngàn thế giới ở hướng ông trở thành một khoảng không trải dài liên tục, không có sự ngăn che giữa thế giới này với thế giới khác. Chư thiên và nhân loại ở khu vực phía ông bày tỏ sự tôn kính tột bậc ến Bồ tát bằng những vật thơm, các loại hoa, v.v… và nói rằng: “ Thưa Bậc cao nhân hiền thánh, ở hướng ông này không một ai ngang bằng Ngài. Làm sao có thể có ược bậc cao quí hơn Ngài ?”

Tương tự, Bồ tát nhìn về các hướng còn lại trong mười phương. Bốn hướng chính, bốn hướng phụ, hướng trên và hướng dưới - lần lượt từng hướng một, Ngài thấy không một ai ngang bằng Ngài trong tất cả những hướng này. Ngài xoay mặt về hướng bắc và từ chỗ ứng, Ngài bước i bảy bước về phía trước.

Khi Bồ tát bước i,  Đại phạm thiên (Mahā Brahmā), vua của các vị Phạm thiên theo hầu, tay cầm cái lọng trắng; một vị thiên là chúa tể cõi Suyāma theo hầu, tay cầm cái phất trần bằng lông uôi của con bò Tây tạng. Những vị thiên khác tay cầm những biểu tượng của vua như ôi hia, bảo kiếm và vương miện cũng theo hầu Bồ tát. Loài người lúc ấy không thể trông thấy chư thiên này, họ chỉ có thể trông thấy các biểu tượng của vua mà thôi.

Những iểm ặc biệt cần chú ý:

Khi Bồ tát bước i, Ngài thực sự bước i trên ất, nhưng loài người thì trông thấy Ngài dường như lướt i trên hư không. Bồ tát bước i với thân ‘tự nhiên’ không y phục của một ứa bé mới sanh, nhưng ối với loài người thì Ngài bước i với y phục ầy ủ. Bồ tát bước i với hình hài của một ứa bé mới sanh, nhưng loài người lại trông thấy Ngài là một thanh niên tuấn tú ở tuổi mười sáu.

(Những iều ược kể ra ở ây liên quan ến việc bước i bảy bước về hướng bắc của Bồ tát theo các bài Chú giải về Buddhavaṃsa, Sutta Mahāvagga và bộ Jātaka. Ở chương Vijāta Maṅgala của bộ Jinālaṅkāra thì sự ản sanh của Bồ tát ược kể lại có phần chi tiết hơn như sau)

Trong khi Bồ tát bước i thì Đại phạm thiên theo hầu, tay cầm cái lọng trắng rộng ba do tuần ể che cho Ngài, các vị Đại phạm thiên còn lại từ khắp mười ngàn thế giới cũng làm như vậy. Như vậy toàn thể thế giới ược che phủ bằng những cái lọng trắng, giống như những tràng hoa ược kết bằng những bông hoa màu trắng.

Mười ngàn vị thiên vương Dạ-ma (Suyāma) sống trong mười ngàn thế giới, cầm những cái phất trần bằng lông uôi của con bò Tây tạng. Mười ngàn vị thiên vương Đâu-suất-à (Santusita) của những thế giới ấy cầm những cái quạt tròn, có cẩn hồng ngọc. Tất cả ều phe phẩy những cái phất trần và những cái quạt trải dài ến những chân núi của tận cùng thế giới. Tương tự, mười ngàn vị Đế thích thiên vương (Sakka) sống trong mười ngàn thế giới ang ứng thổi những chiếc tù và.

Tất cả chư thiên khác cũng làm theo cách như thế, một số thì cầm những bông hoa bằng vàng; số khác thì cầm những bông hoa tự nhiên hoặc những bông hoa bằng pha lê lấp lánh (như thủy tinh); một số cầm những cái phất trần và cờ xí; số khác thì cầm những vật cúng dường có cẩn ngọc. Các tiên nữ tay cầm nhiều loại lễ vật khác nhau cũng ứng ầy cả thế gian.

Khi cảnh tượng tôn kính ang diễn ra, các nhạc khí của chư thiên và nhân loại ang ược tấu lên và các tiên nữ ang vui mừng múa hát thì Bồ tát dừng lại sau khi i bảy bước về hướng bắc.

Vào lúc ấy, tất cả Phạm thiên, chư thiên và nhân loại ều giữ yên lặng chờ ợi với ý nghĩ rằng: “ Bồ tát sắp nói ra iều gì ây ?”

Tiếng gầm vô úy 

Bồ tát dừng lại sau khi i bảy bước về hướng bắc, ngài thốt lên kệ ngôn vô uý vang khắp cả mười ngàn thế giới:

  1. Aggo’ haṁ asmi lokassa !

  Ta là bậc Tối thượng trong chúng sanh khắp ba cõi !

  1. Jeṭṭho’ haṁ asmi lokassa !”

 Ta là bậc Vĩ ại nhất trong chúng sanh khắp ba cõi!

  1. Seṭṭho’ haṁ asmi lokassa !”

 Ta là bậc Tối thắng trong chúng sanh khắp ba cõi ! 

  1. Ayaṁ antimā jāti !”

  Kiếp này là kiếp chót của ta ! 

  1. Natthi dāni punabbhavo !”

  Sau kiếp này không còn kiếp nào khác nữa ! 

Khi Bồ tát nói lời vô úy này thì không ai có thể thách thức hay ối ịch với Ngài, toàn thể Phạm thiên, chư thiên và nhân loại ều bày tỏ sự tôn kính tán dương.

Những hành ộng phi thường của Bồ tát và ý nghĩa của chúng 

Những hành ộng phi thường diễn ra vào lúc Bồ tát ản sanh, mỗi hành ộng là một iềm tướng và ý nghĩa của các iềm tướng ấy ược giải thích như sau:

  1. Bồ tát ứng vững chắc bằng ôi chân trên mặt ất là iềm tướng cho thấy tương lai Ngài sẽ chứng ắc Tứ thần túc (iddhipāda)
  2. Bồ tát quay mặt về hướng bắc là iềm tướng báo hiệu Ngài sẽ là bậc tối thượng hơn tất cả chúng sanh.
  3. Bồ tát i bảy bước là iềm tướng báo hiệu Ngài sẽ chứng ắc Thất giác chi.
  4. Cái lọng trắng che mát cho Bồ tát là iềm tướng báo hiệu Ngài sẽ chứng ắc thánh quả A-la-hán.
  5. Bồ tát có ược năm biểu tượng thuộc vương quyền là iềm tướng báo hiệu Ngài sẽ chứng ắc năm loại Giải thoát (Vimutti): Giải thoát qua sự thực hành các việc phước trong cõi dục - Nhất thời giải thoát (Tadaṅga vimutti); Giải thoát do sự chứng ắc các tầng thiền - Trấn phục giải thoát (Vikkhambhana vimutti); Giải thoát do sự chứng ắc các Đạo – Chánh oạn giải thoát (Samuccheda vimutti); Giải thoát do sự chứng ắc các quả - Chỉ diệt giải thoát (Paṭippassaddhi vimutti); Giải thoát do sự chứng ắc Niết bàn - Xuất ly giải thoát (Nissaraṇa vimutti).
  6. Bồ tát nhìn thấu suốt khắp mười phương mà không bị ngăn ngại, là iềm tướng báo hiệu tương lai Ngài sẽ chứng ắc Vô chướng trí (Anāvaraṇa ñāṇa)
  7. Bồ tát nói lời vô úy “Ta là bậc Tối thượng, bậc Vĩ ại nhất và bậc Tối thắng!” là iềm tướng báo hiệu tương lai Ngài sẽ quay bánh xe chánh pháp mà không có vị Phạm thiên, chư thiên hay nhân loại nào có khả năng ngăn cản sự luân chuyển của nó.
  8. Vô úy ngôn của Bồ tát: “ Đây là kiếp cuối cùng của ta ! Đối với ta không còn kiếp nào khác nữa!” là iềm tướng báo hiệu tương lai Ngài sẽ chứng ắc vô dư Niết bàn (anupādisesa).

Ba kiếp Bồ tát nói ược ngay vào lúc ra ời 

Bồ tát ã từng nói ược ngay sau khi ra ời, không chỉ trong kiếp chót làm thái tử Siddhattha, mà trong kiếp sanh làm Mahosadha bậc trí và kiếp sanh làm vua Vessantara. Do ó, có ba kiếp mà Bồ tát ã nói ược ngay sau khi sanh ra.

Lượt giải

  1. Trong kiếp sanh làm bậc trí Mahosadha, Bồ tát ra khỏi lòng mẹ tay cầm miếng gỗ àn hương do Đế thích ặt vào. Người mẹ thấy miếng gỗ trong lòng bàn tay của ứa con mới sanh, bèn hỏi rằng: “ Này con yêu, con cầm cái gì trong tay vậy?” Bồ tát liền trả lời: “ Thưa mẹ, ây là thuốc chữa bệnh.”

Ngay tức thì ứa bé ược ặt tên là Osadha Kumāra, nghĩa là “Cậu bé có thuốc trị bịnh.” Thuốc trị bịnh ấy ược cất giữ cẩn thận trong một cái lọ. Các bệnh nhân với tất cả các loại bệnh, như mù, iếc, v.v... ều ược chữa khỏi bằng thuốc ấy. Người ầu tiên ược chữa khỏi là cha của Bồ tát, trưởng giả Sirivaddhana, ông bị chứng nhức ầu. Do thuốc chữa bệnh có tác dụng hiệu quả nên chàng trai trẻ ược dân chúng tôn danh là Mahosadha, Dược vương Bồ tát.

  1. Trong kiếp sanh làm vua Vessantara; vào lúc mới ra ời Bồ tát mở rộng bàn tay phải và nói rằng: “ Thưa mẹ, trong cung vàng mẹ có gì cho con ể con bố thí không?” Người mẹ trả lời: “ Này hoàng nhi yêu dấu, con ã sanh vào hoàng cung, nơi ây có nhiều của cải ể con tha hồ bố thí.” Rồi người mẹ ặt một túi tiền ựng một ngàn ồng tiền vàng vào bàn tay con. Như vậy, Bồ tát cũng nói ược ngay sau khi sanh ra trong kiếp làm vua Vessantara.
  2. Như ã kể trên, trong kiếp chót sanh làm thái tử Siddhattha, Bồ tát ã nói lời vô uý ngay khi Ngài vừa mới sanh ra.

Những hiện tượng kỳ diệu xảy ra vào lúc Bồ tát ản sanh và iềm báo của chúng 

Vào lúc ản sanh của Bồ tát, những hiện tượng kỳ diệu ã xảy ra rõ ràng. Những hiện tượng này và iềm báo của chúng ược giải thích dưới ây theo úng với bài kinh Mahāpadāna và các bài Chú giải của bộ Buddhavaṃsa.

    1. Vào lúc ản sanh của Bồ tát, mười ngàn thế giới chấn ộng.  Đây là iềm báo sự chứng ắc Nhất thiết trí của Ngài.
    2. Chư thiên và Phạm thiên trong mười ngàn thế giới cu hội lại trong vũ trụ này. Đây là iềm báo sự cu hội của chư thiên và Phạm thiên ể nghe Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân.
    3. Phạm thiên và chư thiên ầu tiên tiếp nhận Bồ tát vào lúc Ngài mới ản sanh. Đây là iềm báo Ngài sẽ chứng ắc bốn tầng thiền Sắc giới (Rūpāvacara-jhāna).
    4. Nhân loại ón nhận Bồ tát từ tay của Phạm thiên và chư thiên. Đây là iềm báo ngài sẽ chứng ắc bốn tầng thiền Vô sắc giới (Arūpāvacara-jhāna).
    5. Các loại àn dây tự nhiên phát ra tiếng nhạc. Đây là iềm báo Ngài sẽ chứng ắc Cửu thứ ệ ịnh (Anupubba vihāra samāpatti) gồm có tứ thiền Hữu sắc (Rūpāvacara-samāpatti), tứ thiền Vô sắc ( Arūpāvacara-samāpatti), và Diệt thọ tưởng ịnh (Nirodha-samāpatti).
    6. Những loại nhạc cụ bằng da, trống lớn và trống nhỏ cũng tự nhiên phát ra tiếng nhạc. Đây là iềm báo Đức Phật sẽ gióng lên tiếng trống bất tử ể nhân loại và chư thiên cùng nghe.
    7. Nhà tù, trại giam và các gông xiềng trói buộc con người ều tự nhiên vỡ ra từng mảnh. Đây là iềm báo Ngài sẽ oạn diệt hoàn toàn ngã kiến về ‘cái ta’.
    8. Tất cả các loại bệnh ều biến mất khỏi người bệnh, như bụi bám trên những vật bằng ồng ược chùi rữa bằng acid. Đây là

iềm báo nhân loại sẽ chứng ắc Tứ Thánh Đế, oạn diệt luân hồi khổ.

    1. Người mù bẩm sinh có thể nhìn thấy mọi hình mọi sắc như người bình thường. Đây là iềm báo nhân loại sẽ ược chứng ắc Thiên nhãn (Dibbacakkhu).
    2. Người iếc bẩm sanh nghe ược mọi âm thanh như người bình thường. Đây là iềm báo nhân loại sẽ ược chứng ắc Thiên nhĩ (Dibbasota).
    3. Người què có ược ôi chân bình thường và có thể i lại như mọi người. Đây là iềm báo sự chứng ắc Tứ thần túc

(Iddhipāda).

    1. Người câm bẩm sinh có ược sự ghi nhớ và có thể nói ược. Đây là iềm báo sự hoạch ắc Tứ niệm xứ (Satipaṭṭhāna).
    2. Những chiếc thuyền ang trôi dạt mất ịnh hướng ngoài biển cả ều trở về cảng một cách an toàn. Đây là iềm báo sự chứng ắc Tứ Vô ngại giải trí (Patisaṃbhidā-ñāṇa).
    3. Tất cả các loại ngọc quí ở cõi chư thiên và nhân loại ều phát sáng lấp lánh. Đây là iềm báo sự hoạch ắc ánh sáng của chánh pháp, oai lực sáng chói của Đức Phật, Bậc tỏa chiếu ánh sáng của chánh pháp ến những ai muốn lãnh hội nó.
    4. Pháp bác ái tỏa rộng trong tất cả chúng sanh ang thù nghịch lẫn nhau. Đây là iềm báo sự chứng ắc Tứ Vô lượng tâm (Brahmavihāra).
    5. Những ngọn lửa ịa ngục ều lịm tắt. Đây là iềm báo sự chấm dứt mười một loại lửa như tham, sân, v.v...
    6. Ánh sáng xuất hiện trong ịa ngục Lokantarika, nơi thường xuyên tối tăm. Đây là iềm báo về khả năng diệt trừ bóng tối của vô minh và sự tỏa sáng của trí tuệ.
    7. Nước sông thường xuyên lưu chuyển bỗng ngưng chảy. Đây là iềm báo sự hoạch ắc Tứ Vô úy trí (Catuvesārajja ñāṇa). 
    8. Tất cả các nước trong ại dương ều chuyển qua vị ngọt. Đây là iềm báo sự hoạch ắc hương vị ngọt ngào ộc nhất của sự an lạc do chấm dứt các phiền não.
    9. Thay vào những cơn cuồng phong bảo táp, những luồng gió nhẹ thổi qua mát mẻ và dễ chịu. Đây là iềm báo sự biến mất sáu mươi hai loại tà kiến.
    10. Tất cả các loại chim ang bay trên không trung, hay ang ậu trên các ngọn cây hoặc ở trên núi ều bay xuống ậu dưới mặt ất. Đây là iềm báo nhân loại sẽ quy Tam bảo suốt ời sau khi nghe pháp của Đức Phật.
    11. Mặt trăng chiếu sáng hơn bình thường. Đây là iềm báo trạng thái hân hoan của nhân loại.
    12. Mặt trời có sức nóng vừa phải và hào quang tươi sáng tạo ra khí hậu ôn hòa. Đây là iềm báo nhân loại sẽ ược an lạc về thân lẫn tâm.
    13. Chư thiên ứng ở ngưỡng cửa trước lâu ài của họ, vỗ tay, huýt sáo và vui mừng tung vẫy y áo của họ. Đây là iềm báo sự chứng ắc ạo quả Phật Chánh biến tri của Đức Phật và ngâm lên bài kệ khải hoàn.
    14. Mưa ổ xối xả xuống khắp bốn châu. Đây là iềm báo sẽ có cơn mưa của pháp bất tử rưới xuống chúng sanh do sức mạnh vĩ ại của trí tuệ.
    15. Tất cả chúng sanh ều không thấy ói. Đây là iềm báo họ sẽ chứng ắc pháp Bất tử bằng pháp Niệm thân (kāyagatāsati) mà trong ó thân là ề mục của niệm, hay sự thoát khỏi cơn ói các phiền não sau khi ã thọ hưởng món ăn bất tử của pháp Niệm thân.
    16. Tất cả chúng sanh ều không cảm thấy khát. Đây là iềm báo họ sẽ chứng ắc sự an lạc của thánh Quả A-la-hán.
    17. Những cánh cửa ã óng tự nhiên mở tung. Đây là iềm báo những cánh cửa i vào Niết bàn sẽ ược mở ra, ó là Bát Thánh ạo.
    18. Cây ra hoa và cây ăn trái tự nhiên ra hoa và trái. Đây là iềm báo chúng sanh sẽ mang vào những bông hoa Giải thoát (Vimutti) và những quả của bốn tầng Thánh (Ariya-phala).
    19. Tất cả mười ngàn thế giới ều ược che phủ bởi một lá cờ hoa duy nhất. Mười ngàn thế giới ược che phủ bởi lá cờ chiến thắng. Đây là iềm báo về sự trải rộng của lá cờ hoa, tức Thánh ạo.

Hơn nữa, cơn mưa rơi xuống những bông hoa cực kỳ xinh ẹp và thơm ngát; sự rực sáng của những ngôi sao và những chòm sao ngay cả dưới ánh sáng của mặt trời; sự xuất hiện những dòng suối trong thuần khiết từ lòng ất; các con thú ra khỏi hang; không có tham, sân và si; không có những ám mây bụi; không có những mùi khó chịu; tràn ngập những mùi hương thơm ngát của cõi thiên giới; nhân loại trông thấy các vị Phạm thiên sắc giới (rūpa-brahmā); không có sự sanh và tử của nhân loại và các hiện tượng khác diễn ra một cách rõ ràng. Sự xuất hiện của những hiện tượng này báo hiệu sự chứng ắc những ân ức của Đức Phật.

Bảy nhân vật ồng sanh với Bồ tát 

Vào lúc Bồ tát ản sanh, bảy nhân vật sau ây sanh ra cùng một lúc:

  1. Công chúa Yasodharā, cũng có tên là Baddakaccānā, mẹ của hoàng tử Rāhula,
  2. Hoàng tử Ānanda, (3) Vị quan Channa,
  1. Vị quan Kāḷudāyī,
  2. Tuấn mã Kaṇḍaka,
  3. Cây ại bồ-ề Assattha và  (7) Sự xuất hiện của bốn hủ vàng.

Vì tất cả sanh ra hay xuất hiện cùng lúc với Bồ tát nên ược gọi là bảy nhân vật ồng sanh với Bồ tát. Trong bảy nhân vật này:

  1. Công chúa Yasodharā Baddakaccānā là con của vua Suppabuddha và hoàng hậu Amittā thuộc vương quốc Devadaha,
  2. Hoàng tử Ānanda là con trai của vị Thích ca Amittodāna, em trai của vua Suddhodāna,
  3. Cây ại Bồ ề mọc lên ở trung tâm của khu vực chiến thắng, nơi mà Đức Phật thành ạo ở khu rừng Uruvelā thuộc xứ Trung Ấn,
  4. Bốn hủ vàng lớn xuất hiện trong những khu vực cung iện của kinh ô Kapilavatthu. Trong bốn hủ vàng này:
  1. Hủ vàng Sankha, miệng hủ có ường kính là một gāvuta.
  2. Hủ vàng Ela, miệng hủ có ường kính là hai gāvuta.
  3. Hủ vàng Uppala, miệng hủ có ường kính là ba gāvuta.
  4. Hủ vàng cuối cùng tên là Puṇḍarīka, miệng hủ có ường kính là 4 gāvuta, tương ương một do tuần (yojana).

Khi một số vàng ược lấy ra khỏi bốn hủ vàng này thì vàng lại ầy như cũ, không có dấu vết của sự hao hụt. (Bài mô tả về bốn hủ vàng này ược nêu ra trong bài kinh Caṅkī của bộ Chú giải Majjhimapaṇṇāsa, và trong bài trình bày về bài kinh Sonadaṇḍa của bộ Chú giải Dīgha Nikāya Sīlakkhandhavagga).

Thứ tự về tên của bảy nhân vật ồng sanh với Bồ tát ược nêu ra ở trong các bộ Chú giải về bộ Jātaka và bộ Buddhavaṃsa và trong bài kinh Mahāpadāna của bộ Chú giải Dīgha Nikāya Mahāvagga.

Trong bài kể về câu chuyện của Kāḷudāyī trong bộ Chú giải Aṅguttara và câu chuyện của Rāhula trong bộ Vinaya Sārattha Dīpanī Ṭīkā, tên của Ānanda ã bị bỏ sót trong bài liệt kê. Nó gồm có (1) Cây bồ-ề, (2) Yasodharā, (3) Bốn hủ vàng, (4) Con voi kiết tường tên Ārohanīya, (5) Tuấn mã Kaṇḍaka, (6) Vị quan Channa, (7) Vị quan Kāḷudāyī.

Hoàng hậu Mahāmayā trở về Kapilavatthu

Dân chúng của hai kinh thành Kapilavatthu và Devadaha tiễn hoàng hậu Mahāmāyā và Bồ tát, con trai của bà về kinh thành Kapilavatthu.

Câu chuyện về ạo sĩ Kaḷadevila 

                     Vào ngày Bồ tát và mẹ của Ngài        ược     ưa về kinh ô

Kapilavatthu, chư thiên ở cõi Tāvatiṃsa do Sakka (Đế thích) dẫn ầu, rất hân hoan khi biết rằng: “ Một người con trai tôn quý ã sanh ến cho vua Suddhodana ở kinh thành Kapilavatthu” và “ Người con trai tôn quý này chắc chắn sẽ thành một vị Chánh Đẳng Giác tại thánh ịa của cây Bồ-ề Assattha.” Họ tung lên không trung những chiếc áo choàng của họ, vỗ tay, v.v... và bày tỏ những hình thức hoan hỉ khác.

Lúc bấy giờ ạo sĩ Kāḷadevila, bậc ã chứng ắc Bát thiền và Ngũ thông, thường hay ộ thực ở cung iện của vua Suddhodana, rồi bay lên cõi Tāvatiṃsa và nghỉ ngơi suốt ngày trên ó. Vị ấy ngồi trên chiếc ghế bằng ngọc bảy báu trong cung iện và thọ hưởng sự an lạc của thiền ịnh. Khi xuất khỏi thiền, ứng trước cửa cung iện và nhìn quanh, vị ấy trông thấy Sakka ang hân hoan, vui mừng và chư thiên ang tung lên trời những chiếc khăn vấn ầu, những chiếc áo khoác của họ và ang tán dương những ân ức của Bồ tát trên con ường chính của chư thiên dài sáu mươi do tuần. Đạo sĩ hỏi, “ Thưa chư thiên, iều gì làm cho các vị hoan hỉ và vui vẻ như thế ? Hãy cho bần ạo biết lý do.”

Nhân ó, chư thiên bèn trả lời: “ Kính bạch ạo sĩ, một người con trai tôn quý ã sanh ến cho vua Suddhodāna ngày hôm nay. Người con trai tôn quý ấy, khi ngồi kiết già dưới cội cây bồ-ề Assattha nơi thiêng liêng nhất, là trung tâm của vũ trụ, sẽ chứng ắc Vô thượng Chánh Đẳng Giác. Khi ấy Ngài sẽ thuyết pháp, chuyển bánh xe pháp. Như vậy chúng tôi sẽ có ược cơ hội vàng ngọc là ược thấy oai ức vô lượng của một vị Phật và ược nghe giáo pháp cao siêu của Ngài. Đó là lý do khiến chúng tôi vui sướng hân hoan.”

Sau khi nghe câu trả lời  của chư thiên, ạo sĩ Kāḷadevila vội vã rời khỏi Tāvatiṃsa và vào ngồi nơi ã chuẩn bị sẵn trong cung iện của vua Suddhodāna. Sau khi trao ổi những lời chào hỏi với ức vua, ạo sĩ Kāḷadevila nói rằng “Tâu bệ hạ, tôi ã nghe rằng một người con trai tôn quý ã sanh ến cho bệ hạ. Tôi muốn gặp mặt thái tử.” Đức vua truyền lịnh ưa thái tử ến với y phục chỉnh tề, và ức vua bồng ứa con trai ể trước mặt vị quốc sư ể bày tỏ sự tôn kính. Khi Bồ tát ược ưa ến trước như vậy thì hai chân của Ngài bay bổng lên và ứng trên búi tóc của ạo sĩ giống như tia chớp xẹt xuống ỉnh của những ám mây en.

Điểm ặc biệt lưu ý: Quả thật không có ai ể Bồ tát phải hạ mình tôn kính trong kiếp cuối của Ngài. Nếu có ai ó, vì không biết iều này mà ặt ầu của Bồ tát dưới chân của Kāḷadevila thì cái ầu của Kāḷadevila sẽ vỡ thành bảy mảnh.

Khi nhận ra oai lực kỳ diệu và phi thường này của Thái tử, ạo sĩ Kāḷadevila quyết ịnh rằng: “ Ta sẽ không tự hủy hoại mình.” Đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi, vị ấy chấp tay ảnh lễ Thái tử. Chứng kiến cảnh kỳ diệu này, vua Suddhodāna cũng cúi mình trước chính người con của mình.  

Hành ộng cười và khóc của ạo sĩ Kāḷadevila 

Kāḷadevila, sau khi chứng ắc Bát thiền và Ngũ thông, có thể nhớ lại các sự kiện trong bốn mươi kiếp quá khứ và thấy trước (biết trước) các sự kiện trong bốn mươi kiếp tương lai. Như vậy vị ấy có khả năng nhớ lại và biết rõ những sự kiện trong tám mươi kiếp. (Chi tiết mô tả về Kāḷadevila ược nêu ra trong phần Anudīpanī). 

Sau khi ngắm nhìn kỹ những tướng chính và phụ trên người của Thái tử, ạo sĩ Kāḷadevila suy gẫm việc Thái tử sẽ thành Phật hay không và với trí tuệ biết rõ tương lai, ạo sĩ thấy rằng Thái tử chắc chắn sẽ thành Phật. Do trí tuệ thấy rằng “ Đây là con người cao cả.” Đạo sĩ bật cười trong nỗi hoan hỷ tột cùng.

Đạo sĩ lại suy ngẫm xem bản thân có ược thấy Thái tử thành Phật hay không; qua trí tuệ biết rõ tương lai ạo sĩ biết rằng, trước khi Thái tử chứng ắc Phật quả thì bản thân vị ấy ã hết tuổi thọ và tái sanh vào cõi Phạm thiên vô sắc, nơi ó các vị Phạm thiên vô sắc không thể nghe ược giáo pháp bất tử cho dù có hằng trăm hằng ngàn vị Phật ến và thuyết pháp. “Ta sẽ không có cơ hội trông thấy và ảnh lễ con người cao siêu này, bậc có ầy ủ phước báu Ba-la-mật vô song. Đây là sự mất mát lớn ối với ta.” Sau khi nói thế và ầy sầu khổ, ạo sĩ Kāḷadevila bật khóc nức nở.

(Cõi vô sắc (arūpa) của các vị Phạm thiên là cõi hoàn toàn không có sắc pháp, chỉ có tâm (citta) và sở hữu tâm (cetasika) mà thôi. Cõi ấy chứa những hạng phàm phu tam nhân (tihetuka puthujjana) với ba căn (vô tham, vô sân và vô si) và những bậc thánh như Tu-à-hườn (Sotāpanna), Tư-à-hàm (Sakadāgāmī), và A-nahàm (Anāgāmī), là những bậc ã chứng thiền vô sắc (arūpa jhāna). Những vị Sotāpanna, SakadāgāmīAnāgāmī ã sanh về cõi Phạm thiên vô sắc (arūpa brahma) ấy thì sẽ không còn trở lại những cõi thấp hơn. Vì khi còn ở các cõi thiện dục giới (kāma sugati) và các cõi sắc (rūpa) giới, các ngài ã thực hành pháp Thiền quán tuệ (Vipassanā) và ã chứng ắc các tầng thánh bậc thấp, nên khi sanh về các cõi vô sắc các ngài vẫn có thể tiếp tục pháp hành thiền tuệ và chứng ắc các tầng thánh cao hơn cho ến chứng ắc ạo quả A-la-hán và chấm dứt luân hồi, cho dù các ngài không nghe pháp từ bất cứ ai. Những kẻ phàm phu có tam nhân (những bậc ã ắc thiền vô sắc ở cõi người) như các ạo sĩ Kāḷadevila, Āḷāra và Udaka thì tái sanh về cõi vô sắc khi thân hoại mạng chung. Vì cõi này có ặc tánh là không có sắc pháp nên những chúng sanh tái sanh về ó hoàn toàn không có mắt (cakkhupasāda) ể nhìn thấy Đức Phật và không có tai (sotapasāda) ể nghe Pháp. Như vậy họ không thể trông thấy Đức Phật cũng không thể nghe giáo pháp của Ngài cho dù Ngài ến ó thuyết pháp. Thực tế thì chư Phật không i ến và thuyết pháp ở cõi vô sắc. Và nếu những kẻ phàm phu không có cơ hội ể nghe pháp thì họ sẽ không bao giờ chứng ắc Đạo Quả).

Đạo sĩ Kāḷadevila và Udaka ã sanh về cõi vô sắc Phi tưởng phi phi tưởng (nevasaññā-nāsaññāyatana arūpa) sẽ ở trong luân hồi (saṁsāra) suốt tám mươi bốn ngàn ại kiếp.  Đạo sĩ Āḷāra sanh về cõi vô sắc Vô sở hữu xứ (ākiñcaññāyatana arūpa) và sống ở ó trong sáu chục ngàn ại kiếp. Do ó, cho dù chư Phật có xuất hiện ở cõi người trong ại kiếp này, thì họ cũng không có cơ hội ể chứng ngộ giải thoát.

Về iểm này, người ta hỏi rằng phải chăng ạo sĩ Kāḷadevila không thể tái sanh vào một cõi sắc giới nào ó nếu vị ấy hướng tâm về cõi ó? Câu trả lời: Vì ạo sĩ ã chứng ắc tám tầng thiền hợp thế, nên sự tái sanh của vị ấy có thể xảy ra ở bất cứ cõi nào trong mười cõi Phạm thiên hữu sắc ến cõi cao nhất là cõi Vehapphala (Quãng quả thiên) nếu vị ấy có ước muốn như vậy. 

Người ta hỏi rằng: “ Nếu có cơ hội như vậy, tại sao ạo sĩ Kāḷadevila không ước ược sanh vào một trong mười cõi sắc giới theo sự chọn lựa của vị ấy ?” Câu trả lời là ạo sĩ không có ước muốn ấy là vì vị ấy không ủ thiện xảo ể làm như vậy. Đại ý là: Người chứng ược Bát thiền có thể tái sanh vào cõi sắc giới hoặc vô sắc giới mà vị ấy thích. Nếu sanh về ó, vị ấy sẽ có cơ hội ảnh lễ Đức Phật với tư cách là một vị Phạm thiên hữu sắc (rūpa Brahmā). Nhưng vị ấy không sanh về ó là vì vị ấy thiếu sự thiện xảo thích hợp ể hướng tâm về cõi ặc biệt ấy, cõi thấp hơn các cõi vô sắc.

(Thêm một vấn ề khác: “Kāḷadevila là người ã trấn phục ưu bi (domanassa) vì ã chứng ắc các tầng thiền thì lẽ ra không nên ầu hàng cảm thọ bất lạc ấy và chảy nước mắt.” Vị ấy làm như vậy vì trấn phục ược ưu bi nhưng chưa oạn diệt ược nó. Giải rõ hơn : Chỉ những phiền não ã bị oạn diệt hoàn toàn do bởi thánh Đạo thì không thể tái xuất hiện trong dòng tâm của vị thánh ấy. Nhưng những phiền não chỉ vắng lặng trong tâm của người chứng ắc các tầng thiền hiệp thế, thì có khả năng khi gặp iều gì ó ủ mạnh ể kéo chúng xuất hiện trở lại. Kāḷadevila chưa oạn diệt những phiền não như vậy mà chỉ trấn phục chúng nên vị ấy khóc là iều không lạ).

(Lại một câu hỏi khác ược ặt ra là: Làm sao ạo sĩ Kāḷadevila có thể tái sanh vào cõi vô sắc khi vị ấy ã bị ứt thiền do ưu bi khởi sanh lúc vị ấy khóc? Câu trả lời là vị ấy có thể tái sanh. Đạo sĩ có thể nhập thiền trở lại mà không cần phải cố gắng. Nói rõ hơn:  Những phiền não mà các vị Yogi còn phàm vừa mới oạn trừ có thể khởi sanh lại, do một cảnh bất thiện mạnh mẽ nào ó và vì thế làm cho các vị Yogi bị ứt thiền nhưng nếu các phiền não không ến mức ộ mạnh nhất thì các vị này có thể nhập thiền trở lại ngay khi những phiền não ấy ược nhiếp phục mà người khác không thể biết ược iều này).

(Tóm lại, giống như ạo sĩ Kāḷadevila, những người ã ắc Bát thiền có thể tái sanh vào một trong mười cõi Phạm thiên hữu sắc là những cõi thấp hơn, hoặc một trong bốn cõi Phạm thiên vô sắc, là những cõi cao hơn, nếu họ ã chuẩn bị tâm ể làm như vậy. Nếu họ không chuẩn bị tâm, họ chỉ tái sanh vào cõi ã quyết ịnh bởi tầng thiền cao nhất vì riêng tầng thiền ấy quyết ịnh sự tái sanh. Kiến thức cho rằng người ta có thể ạt ến bất cứ cõi nào mà họ hướng tâm ến là kiến thức chỉ có ược trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật. Tuy nhiên, ngoài giáo pháp của Đức Phật thì không có sự thấu hiểu như vậy. Kāḷadevila không phải là ệ tử của Đức Phật nên không ở trong giáo pháp của Đức Phật. Do ó, vị ấy không biết phương pháp rèn luyện tâm. Nếu vị ấy biết, thì vị ấy có lẽ ã làm như vậy ể ược tái sanh vào một trong mười cõi Phạm thiên hữu sắc, trong ó Vehapphala (Quảng quả thiên) là cõi cao nhất. Nếu vị ấy làm thế, vị ấy có lẽ ã tái sanh ở ó và có  cơ hội ể yết kiến Đức Phật. Nhưng vì vô minh ã che mờ khiến vị ấy ã không làm iều thích hợp cho bản thân. Thế nên, Kāḷadevila ã tái sanh vào Phi tưởng phi phi tưởng vô sắc giới (Nevasaññā-nāsaññāyatana arūpa), là cõi vô sắc cao nhất. Và khi quán thấy sự tái sanh sắp ến của mình vị ấy ưu phiền ến nỗi không kìm ược nước mắt. Khi khóc như vậy, ạo sĩ ã ánh mất các tầng thiền của mình. Nhưng vì ạo sĩ không phạm phải ại ác nghiệp nào nên vị ấy ắc ịnh trở lại bằng cách tiếp tục lại những bước thực hành ban ầu của pháp thiền Kasiṇa một cách quen thuộc, ngay khi sức mạnh của ưu bi lắng xuống, nên không ai hay biết việc vị ấy bị ứt thiền. Đạo sĩ Kāḷadevila vào lúc mạng chung ã chứng ắc tầng thiền cao nhất là Phi tưởng phi phi tưởng xứ ịnh nên vị ấy tái sanh về ó).

Sự thắc mắc của mọi người 

     Các quan trông thấy ạo sĩ khi cười khi khóc, họ suy nghĩ như vầy: “ Vị ạo sĩ áng kính của chúng ta cười rồi lại khóc, thật kỳ lạ.” Họ bèn dò hỏi: “ Thưa ạo sĩ, tai họa gì xảy ến cho con trai của chủ chúng tôi chăng?” “Không có tai họa nào xảy ến cho Thái tử. Thực vậy, vị ấy sẽ thành Phật.” “Thế thì tại sao ạo sĩ lại khóc ?” Các quan lại hỏi. “ Bởi vì ta không có ược cơ hội trông thấy sự thành ạo của một con người cao cả có những ức tánh kỳ diệu như vậy. Đây là sự mất mát to lớn ối với ta. Vì nghĩ vậy nên ta mới than khóc.” Đạo sĩ trả lời.

(Câu chuyện trên ược kể lại úng với những gì ược mô tả trong các bộ Chú giải Buddhavaṃsa và Jātaka và bộ Phụ chú giải Jinālaṅkāra. Trong một số tác phẩm viết về cuộc ời của Đức Phật bằng văn xuôi, nội dung như sau: Khi vua Suddhodāna hỏi: “ Thái tử sẽ i xuất gia và thành Phật năm bao nhiêu tuổi?” Kāladevila trả lời : “ Năm Thái tử ba mươi lăm tuổi.” Đây là phần suy diễn ược rút ra từ lời của ạo sĩ Kāladevila nói với ứa cháu trai (con trai của người em gái), chàng thanh niên Nālaka, “Này cháu Nālaka, ức vua Suddhodana ã có một người con trai, chính người con trai này là Đức Phật ương lai; Ngài sẽ thành ạo ở tuổi ba mươi lăm.” Đức vua không hài lòng khi nghe rằng con trai của mình sẽ thành Phật, vị ấy chỉ muốn thấy con trai của mình làm Chuyển luân vương. Do ó, ức vua hỏi về thời gian i xuất gia và thành Phật của con trai. Đó là lý do khiến có sự lướt bỏ oạn văn như vậy trong các bộ Chú giải và Phụ chú giải. Ở ây trong tác phẩm này cũng vậy, chúng tôi không nêu ra nội dung của oạn văn kể trên).

Sự xuất gia của thanh niên Nālaka 

Sau khi trả lời như vậy, ạo sĩ Kāḷadevila suy ngẫm: “Tuy ta không ược trông thấy sự thành ạo của Thái tử Bồ tát, nhưng hiện ai trong quyến thuộc của ta sẽ có cơ hội chứng kiến sự kiện ấy?” Rồi vị ấy thấy rằng ứa cháu trai Nālaka sẽ có cơ hội ấy. Thế nên, ạo sĩ i ến nơi của người em gái, và cho gọi ứa cháu trai ến, bèn nói với cậu ta rằng: “Này cháu Nālaka, việc người con trai của vua Suddhodana ra ời trong hoàng cung. Thái tử là hiện thân của một vị Bồ tát. Ngài sẽ thành Phật khi ến tuổi ba mươi lăm. Cháu là người áng ược yết kiến Đức Phật. Do ó, cháu nên i xuất gia ngay ngày hôm nay.”

Tuy sanh trong gia ình giàu có, tài sản của cha mẹ trị giá lên ến tám trăm bảy chục triệu ồng tiền vàng, nhưng chàng trai Nālaka ặt niềm tin nơi cậu và nghĩ rằng: “ Cậu của ta không bao giờ bảo ta làm iều gì bất lợi. Vị ấy dạy như vậy vì iều ó thật sự có lợi ích.” Kết luận như vậy, cậu ta sai người mua về y và bát của Sa-môn và ngay lập tức cạo râu tóc và mặc vào y phục Sa-môn, Nālaka tự nhủ: “ Ta xuất gia ây vì niềm tịnh tín ối với Đức Phật, bậc cao quý nhất trong thế gian. (Ta xuất gia ể ược gặp Đức Phật, chắc chắn Ngài sẽ xuất hiện).”

Sau khi nói vậy, cậu ta quay mặt về hướng Kapilavatthu, nơi Bồ tát ang trú ngụ, và chấp tay tôn kính ảnh lễ với năm iểm chạm ất. Sau ó cậu ta ặt cái bát vào trong cái túi, mang nó trên vai và i vào Himalaya, Nālaka thực hành pháp khổ hạnh trong rừng trong khi chờ ợi Đức Phật

(Liên quan ến sự ản sanh của Bồ tát, lịch sử về dòng dõi của Ngài cùng với sự thành lập kinh ô Kapilavatthu ược nêu ra trong phần Anudīpanī).

Sự tiên tri các tướng trên người của Bồ tát trong lễ Gội ầu và Đặt tên

Vào ngày thứ năm sau khi Bồ tát ản sanh, vua cha Suddhodana tổ chức lễ Gội ầu, và ý ịnh ặt tên cho con trai, ức vua sai rải khắp hoàng cung bốn loại bột thơm, ó là: tagara (linh lăng hương), lavaṅga ( inh hương), kuṅkuma (bột nghệ tây) và tamala ( một loại cây cho bột thơm), và cũng sai rải năm loại hoa phẩm, ó là : saddala (một loại cỏ), gạo, hạt mù tạt, nụ hoa lài và hột nổ. Đức vua cũng sai nấu món cơm sữa tinh khiết không có nước, và cho mời một trăm lẻ tám vị Bà-la-môn thông thái rành mạch về Tam Phệ à, và chuẩn bị cho họ chỗ ngồi tốt và sạch sẽ trong hoàng cung và ãi họ món cơm sữa thượng vị.

( Bốn loại bột thơm ở ây úng với những gì ược nêu ra trong bài kinh Sekha, Majjhima Paṇṇāsa Ṭīkā và trong phần Ṭīkā về bài kinh Mahāparinibbāna. (a) Tuy nhiên, trong bài kinh Mahāsudassana, kuṅkuma ược thay thế bằng turukkha. (b) Trong bài trình bày về Avidure Nidāna, v.v… Jātaka Ṭīkā, sự liệt kê là àn hương, linh lăng hương, long não và tinh chất của àn hương. (c) Trong bộ Magadha Abhidhāna (Abhidhānappadīpikā), bốn loại bột thơm là bột nghệ tây, inh hương, bột cây tagaraturukkha; (d) Trong bài kinh thứ sáu của phẩm Āsīvisa Vagga, Salāyatana Saṃyutta Ṭīkā, gồm có bột nghệ tây, turukkha, inh hương, và tamala; (e) Bộ Mālālaṅkāra vatthu thì mô tả là sāla, mahātagara, tinh chất của cây long não và tinh chất của gỗ àn hương; (f) Bộ Jinatthapakāsanī thì kể ra là aguru ( gỗ cây lô hội), tagara, long não và àn hương).

Sau khi thết ãi long trọng như vậy, ức vua tôn vinh họ bằng các lễ vật quí giá, và từ một trăm lẻ tám vị Bà-la-môn, tám vị ược tuyển chọn tiên oán về các tướng trên thân của Thái tử. 

Trong tám vị Bà-la-môn ược tuyển chọn, bảy vị là : Rāma, Dhaja, Lakkhaṇa, Jotimanta, Yañña, Subhoja và Suyāma, sau khi xem xét các tướng trên thân của Thái tử, mỗi vị ều ưa lên hai ngón tay và cho lời tiên tri như sau: “ Nếu sống cuộc ời gia chủ thì Thái tử sẽ thành một vị Chuyển luân vương, trị vì khắp bốn ại châu. Tuy nhiên, nếu xuất gia làm Sa-môn thì Thái tử sẽ thành Phật.”

Nhưng Sudatta thuộc dòng Bà-la-môn Koṇḍañña, người trẻ tuổi nhất trong tám vị, sau khi xem xét cẩn thận các tướng của bậc ại nhân trên thân của Thái tử, ưa lên một ngón tay và chỉ tiên tri một câu như sau: “ Không có lý do gì ể Thái tử sống cuộc ời thế tục. Ngài chắc chắn sẽ thành Phật, phá tan bức màn phiền não.”

(Vị Bà-la-môn trẻ Sudatta của dòng dõi Koṇḍañña là người mà trong kiếp hiện tại của vị ấy là kiếp chót và do tích lũy nhiều phước báu trong quá khứ ã giúp vị ấy chứng ắc ạo quả A-la-hán. Thế nên, vị ấy xuất sắc hơn bảy vị bà-la-môn thâm niên lạp trưởng kia về kiến thức và có thể thấy trước khả năng thành Phật của Thái tử nên vị ấy mới tự tin ưa chỉ một ngón tay).

Sự tiên tri các tướng do chàng trai Sudatta, người thuộc dòng dõi Koṇḍañña, ưa lên chỉ một ngón tay ã ược tất cả các vị Bà-lamôn uyên bác công nhận.

Khoa giải tướng nơi các bậc ại nhân

Các vị Bà-la-môn có thể biết ược các tướng trên thân của bậc ại nhân như Đức Phật và những vị thánh khác là do những sự kiện sau: Vào thời iểm, khi một vị Phật sắp xuất hiện thì các vị Phạm thiên ở cõi Tịnh cư thiên ưa các bộ sách về thiên văn, những bài biên soạn về cách giải các tướng, v.v... của bậc ại nhân sẽ thành Phật (Buddha Mahāpurisa Lakkhana). Các vị Phạm thiên i xuống cõi nhân loại và trong hình tướng những vị thầy Bà-la-môn dạy học trò. Các giáo sư ấy cho rằng: “ Những ai có phước ã tích lũy và có trí tuệ thành thục sẽ học ược những bộ sách về thiên văn, bao gồm thuật xem tướng của bậc ại nhân.” Đó là lý do khiến những vị Bà-la-môn này có thể xem ược những tướng báo trước sự chứng ắc Phật quả và những iều khác.

Ba mươi hai tướng của bậc ại nhân 

  1. Bàn chân bằng phẳng và ầy ặn;
  2. Một trăm lẻ tám vòng tròn nhỏ trên mỗi bàn chân, với bánh xe có một ngàn căm, vành xe, trục xe và tất cả những tướng khác;
  3. Hai gót chân nhô ra;
  4. Ngón tay và ngón chân dài và thon;
  5. Lòng bàn tay và lòng bàn chân mềm mại;
  6. Ngón chân và ngón tay ều ặn như những song cửa sổ bằng vàng của hoàng cung, kẽ hở giữa hai ngón tay và giữa hai ngón chân rất khít;
  7. Hai mắt cá chân hơi cao và không dính bụi;
  8. Hai chân giống như của loài sơn dương tên eṇī; 
  9. Cánh tay có bàn tay dài, có thể chạm ến ầu gối khi ứng thẳng;
  10. Tướng mã âm tàng, tức bộ phận sinh dục ẩn dạng trong lớp da bọc ngoài giống như của con voi Chaddanta;
  11. Nước da vàng và sáng như vàng ròng siṅgīnikkha;
  12. Da nhẵn mịn, bụi không thể bám vào;
  13. Lông trên người, mỗi lỗ chỉ có một sợi;
  14. Mỗi sợi lông trên thân của Bồ tát ều xoắn lên phía trên, tựa như chúng ang cung kính nhìn lên mặt của Ngài;
  15. Thân thẳng như thân của Phạm thiên;
  16. Bảy chỗ trên thân có thịt ầy ặn: hai phần trên của bàn chân, hai mu của bàn tay, hai vai và cổ;
  17. Thân của Ngài ầy ặn và khéo phát triển như phần trước của con sư tử.
  18. Mặt sau của thân ầy ặn và khéo phát triển từ cổ xuống thắt lưng như tấm i-văng bằng vàng, không có vết rảnh ở giữa xương sống;
  19. Thân của ngài cân ối như cây a tỏa nhánh tròn vì chiều cao của thân và sải tay của Ngài có kích thước bằng nhau; 
  20. Cổ của Ngài tròn ều;
  21. Bảy ngàn mao mạch tập trung ở cuống họng và truyền vị của vật thực i khắp thân dù vật thực ấy nhỏ bằng hạt mè;
  22. Cằm sư tử ( hơi giống cằm của người sắp mỉm cười);
  23. Răng của Ngài có úng bốn mươi cái;
  24. Hàm răng ều ặn;
  25. Răng rất khít, không có kẽ hở;
  26. Bốn chiếc răng nhọn của Ngài trắng và sáng như sao mai;
  27. Lưỡi dài, dẹp và mềm;
  28. Giọng nói có tám ặc tánh giống như giọng nói của Phạm thiên;
  29. Đôi mắt Ngài xanh trong;
  30. Lông mi mềm và mượt giống như lông mi của bê con mới sanh;
  31. Tướng bạch hào mi giữa hai chân mày;
  32. Tướng lớp thịt mỏng xuất hiện tự nhiên ở trán, như dãi băng thêu bằng chỉ sợi vàng vấn quanh ầu

Đây là ba mươi hai tướng tốt của bậc ại nhân ( ược trích ra từ bài kinh Mahāpadāna và Lakkhana của Dīgha Nikāya -Trường bộ kinh cũng như từ bài kinh Brahmāyu của Majjhima Nikāya -Trung bộ kinh).

Giải thích về 32 hảo tướng  

  1. Tướng bàn chân bằng phẳng và ầy ặn.

Khi những người khác ặt chân xuống ất, thì ầu ngón chân, hoặc gót, hoặc phía ngoài của bàn chân chạm ất trước, còn lòng bàn chân thì không chạm ất. Cũng thế, khi bàn chân ược nhấc lên khỏi mặt ất thì ầu ngón chân hoặc gót hoặc phía ngoài của bàn chân lên trước.

Nhưng một bậc cao nhân như Bồ tát, khi ặt bàn chân xuống mặt ất thì cả bàn chân ều chạm ất như ế của chiếc giày vàng mềm mại ặt trên ất. Cũng thế, khi Ngài nhấc chân lên thì tất cả các phần của bàn chân ều lên một lượt. Trường hợp vị Bồ tát tôn quí ặt chân trên chỗ ất không bằng phẳng, lồi lõm, có ường rảnh, có khe nứt, có hào mương, hố, v.v... thì tất cả những phần lõm sẽ nổi lên ngay khi ấy, giống như cái túi da ược thổi phồng và mặt ất nơi ó trở nên bằng phẳng, giống như mặt trống.

Nếu Ngài nhấc chân lên với ý ịnh ặt chân xuống ở một khoảng xa thì ngay cả núi Tu-di (Meru) cũng xuất hiện dưới bàn chân của Ngài ngay lập tức.

  1. Tướng của những hình thù trong một trăm lẻ tám vòng tròn ở trên mỗi lòng bàn chân, cùng với bánh xe có một ngàn căm, vành xe, trục bánh xe và tất cả những ặc tánh khác.

 Các hình thù trong một trăm lẻ tám vòng tròn là : (1) một cây ại thương, (2) một ngôi nhà nguy nga, srivatsa, (3) một bó hoa mao lương, (4) ba hình vòng ngấn ở cổ, (5) một vật trang sức ở trên ầu,

(6) một bữa ăn ược bày sẵn, (7) một long sàng, (8) một cái móc câu, (9) cung iện, (10) một cổng vòng cung, (11) một cái lọng trắng, (12) một cây kiếm, (13) một cái quạt tròn bằng lá thốt nốt, (14) cái quạt bằng lông uôi của con chim công, (15) một khăn vấn ầu như cái trán, (16) viên hồng ngọc, (17) cái bát bóng loáng, (18) chuỗi hoa sumana, (19-23) năm loại hoa sen : sen xanh, sen ỏ, sen trắng, sen paduma và sen puṇḍrīka, (24) cái bình ựng ầy hạt cải, v.v... (25) cái bát chứa ầy những thứ tương tự, (26) ại dương, (27) núi cakkavāla, (28) núi Himalaya, (29) núi Meru, (30-31) mặt trăng và mặt trời, (32) các tinh tú, (33-36) bốn châu ảo với hai ngàn tiểu ảo bao quanh, (37) một vị Chuyển luân vương với những bông hoa và bảy báu, (38) chiếc tù và trắng bằng vỏ ốc, (39) ôi cá chép vàng, (40) một cây lao, (41-47) bảy con sông lớn, (48-54) bảy rặng núi bao quanh, (55-61) bảy con sông nằm giữa bảy rặng núi, (62) một ại bàng chúa garuḍa, (63) một con cá sấu, (64) một lá cờ, (65) một cây phướn, (66) một cái kiệu vàng, (67) một cái phất trần bằng uôi con bò yak, (68) núi bạc Kelāsa, (69) một sư tử chúa, (70) một chúa, (71) một ngựa chúa Valāhaka, (72) một voi chúa Uposatha hay một voi chúa Chaddānata,

(73) một rồng chúa Bāsukī, (74) một thiên nga chúa, lông bằng vàng, (75) một bò chúa, (76) một voi chúa Erāvaṇa, (77) một quái vật bằng vàng ở biển, (78) một chiếc thuyền bằng vàng, (79) một vị ại Phạm thiên, (80) bò mẹ và bò con, (81) một Thích ề hoàn nhân (kinnara) ực và cái, (82) một iểu vương Ca-lăng-tần-già (karavīka), (83) một chim công chúa, (84) một chim sếu chúa, (85) một ngỗng chúa cakkavāka, (86) một trĩ chúa jīvajīva, (87-92) sáu cõi trời dục giới, (93-108) mười sáu cõi Phạm thiên sắc giới.

Đây là những hình ảnh nằm trong một trăm lẻ tám vòng tròn ở dưới hai bàn chân của Bồ tát.

(Những hình này ược kể ra trong bài kệ của ngài Tăng thống Taunggwin Sayadaw, ở cuốn I, bộ Guḷhathadīpaṃ của ngài).

  1. Tướng gót chân nhô ra.

 Có nghĩa là hai gót chân phát triển toàn diện. Giải rõ : với người bình thường thì phần trước của bàn chân dài hơn; bắp chuối chân nằm bên trên gót chân, và vì vậy gót chân trông như bị gọt. Trường hợp của vị Bồ tát tôn quí thì không như vậy, bàn chân của Ngài có thể ược chia thành phần ều nhau, trong ó hai phần trước hình thành phần chính của bàn chân. Bắp chuối chân nằm ở phần thứ ba, gót chân nằm ở phần thứ tư, trông như món ồ chơi hình tròn ược ặt trên tấm thảm ỏ tựa như nó ược gọt ẽo qua máy tiện. ( Đối với những người bình thường, vì bắp chuối nằm ở trên của gót chân nên gót chân trông thô xấu tựa như nó bị gọt. Tuy nhiên, nơi vị Bồ tát, bắp chuối nằm ở phần thứ ba. Gót chân tròn kết hợp phần thứ tư và dễ thấy vì gót ỏ như son nên trông phù hợp và nhanh nhẹn).

  1. Ngón tay và ngón chân thon dài.  

 Những người bình thường, một số ngón tay và ngón chân dài, số khác thì ngắn, những ường vòng của chúng cũng khác nhau.

Nhưng của vị Bồ tát thì khác, ngón tay và ngón chân của Ngài cả hai ều dài và bằng; ngón thì ầy ặn và thon lên ến ầu ngón.

  1. Tướng lòng bàn tay và lòng bàn chân mềm.

Lòng bàn tay và lòng bàn chân của Bồ tát rất mềm mại - Dầu ến tuổi già, chúng vẫn mềm mại như lúc còn trẻ.

  1. Ngón tay và ngón chân ều ặn như song cửa sổ của hoàng cung; kẽ hở giữa hai ngón tay và giữa hai ngón chân rất khít.

Bốn ngón tay (không kể ngón cái) và năm ngón chân của Bồ tát có chiều dài bằng nhau. Tám ngón tay của thái tử Bồ tát ở cả hai bàn tay ều có chiều dài bằng nhau;  cả mười ngón chân ở hai bàn chân của Ngài cũng thế. Thế nên, những ường hơi cong trên những khớp nối có hình hạt lúa mạch không có sự khác biệt về chiều dài. Thực ra, chúng giống như một dãy những ường cong.

  1. Tướng mắt cá chân hơi cao và không dính bụi.

Mắt cá chân của những người bình thường nằm gần sát với mu của bàn chân như bị buộc bởi những thanh kẹp và những cái inh nhỏ và chúng không thể xoay theo ý muốn. Khi người ta bước i thì không thể trông thấy lòng bàn chân.

  Mắt cá chân của Bồ tát thì không phải như thế, chúng nằm bên trên cách bàn chân khoảng hai hay ba ngón tay giống như cái cổ của bình tưới nước. Do ó, phần trên của thân từ rốn trở lên ở vị trí không chuyển ộng, như pho tượng vàng ược ặt trên chiếc thuyền; chỉ phần dưới của thân mới di ộng và bàn chân quay tròn dễ dàng. Những người ứng ngoài nhìn vào từ bốn hướng - trước, sau, bên phải và bên trái - ều có thể dễ dàng trông thấy lòng bàn chân của Ngài. (Khi con voi bước i, người ta có thể trông thấy lòng bàn chân của nó từ ằng sau. Nhưng khi Bồ tát bước i, lòng bàn chân của Ngài có thể ược thấy từ bốn hướng).

  1. Tướng cẳng chân như của con sơn dương.

(Hãy sờ vào cẳng chân của chính mình, ta sẽ thấy phần cứng của xương ống chân nhô ra ở phía trước và phần thịt lỏng lẻo ở phía sau). Nhưng bắp chuối chân của Bồ tát thì khác, giống như vỏ thóc bọc lấy hạt thóc, những thớ thịt bọc ều xương ống chân làm cho cẳng chân tròn ều và xinh xắn, giống như cẳng chân của loài sơn dương, tên gọi eṇī.

  1. Cánh tay có bàn tay dài, có thể chạm ến ầu gối khi ứng thẳng.

Những người bình thường có thể bị gù lưng hoặc có chân i vòng kiềng, hoặc vừa gù lưng vừa i vòng kiềng. Những người lưng cong thì thân không cân ối vì phần trên của thân ngắn hơn phần dưới. Người có chân vòng kiềng cũng vậy, phần dưới thân của họ ngắn hơn phần trên. Vì thân phát triển không cân ối nên họ không thể chạm tay ụng ầu gối, trừ khi họ nghiêng người tới trước.

Trường hợp của vị Bồ tát thì không phải vậy. Phần trên và phần dưới ều cân ối, hoàn hảo; vì vậy ngay khi Ngài ứng thẳng người, không cúi, tay của Ngài vẫn có thể chạm vào ầu gối.

  1. Tướng mã âm tàng, tức bộ phận sinh dục ẩn tàng trong lớp da bọc ngoài giống như của con voi Chaddanta.

Bộ phận sinh dục của Bồ tát ược dấu kín trong lớp da như hoa sen, giống như bộ phận sinh dục của những con bò chúa hay những con voi chúa, v.v... Bộ phận sinh dục có lớp da bọc phía ngoài tựa như ược ặt trong cái túi bằng vải len hay vải lụa.

  1. Tướng nước da vàng và sáng như vàng ròng siṅgīnikkha.

Nước da tự nhiên của Bồ tát có màu vàng sáng bóng như pho tượng bằng vàng ược chùi bóng bằng bột oxid chì ỏ và ược chà bằng răng cửa của con báo và bằng ất son.

(Về ặc tướng này, cho dù những bộ kinh Pāḷi và những bộ Chú giải giải rõ rằng : “ ...suvaṇṇavaṇṇa vā kañcanasannibhattaca…” trong ó, suvaṇṇa kañcana có nghĩa là vàng thông thường. Bản dịch của những vị Chú giải sư cao quí, dịch những từ này sang tiếng Miến là “ như vàng siṅgīnikkha…”. Chữ ‘siṅgīnikkha savaṇṇa’ có nghĩa là ‘có sắc của vàng ròng siṅgīnikkha’ ược chứa trong những câu kệ do Đế thích giả dạng một chàng trai thốt lên, khi Bồ tát i vào thành Rājagaha ể khất thực, và cũng do sự kiện rằng siṅgī nổi tiếng là loại vàng tốt nhất. Trong số loại vàng mà người ta dùng, vàng rasaviddha tốt hơn vàng yuttika; vàng ākaruppaññā tốt hơn vàng rasaviddha; vàng ược chư thiên dùng tốt hơn vàng ākaruppaññā; trong các loại vàng ược chư thiên dùng thì vàng sātakumbha tốt hơn vàng cāmīkara; vàng jambunada tốt hơn vàng sātakumbha; và cuối cùng vàng singī thì tốt hơn vàng jambunada. Điều này ược nêu ra trong bài trình bày về Paṭhama Pīṭha của bộ Chú giải Vimānavatthu, và phần trình bày của chương nói về Bimbisārasamāgama, Mahākhandhaka của bộ Vinaya Mahāvagga, Terasakaṇḍa Ṭīkā).

  1. Tướng da nhẵn mịn bụi không thể bám vào.

Da của bậc cao nhân mềm và nhẵn khiến cả bụi mịn và thô không thể bám vào, như giọt nước rơi trên lá sen không thể bám trên lá ược mà lăn i và rơi xuống. Tương tự, tất cả những hạt bụi chạm vào Bồ tát ều trượt i ngay.

Nếu thân của Ngài không bị dính bụi và sạch sẽ như vậy thì tại sao Ngài phải rửa chân tay hoặc tắm ? Ngài làm như vậy với mục ích ể thích ứng với nhiệt ộ khi ấy, ể làm tăng thêm phước báu của thí chủ, và ể làm gương là làm sạch chính mình trước khi i vào tịnh xá theo úng các iều luật mà các vị tỳ khưu phải hành trì.

  1. Tướng lông trên thân của Ngài, mỗi sợi ở một lỗ chân lông.

Những người bình thường có hai hoặc ba sợi lông hoặc nhiều hơn mọc trên mỗi lỗ chân lông. Nhưng trường hợp của vị Bồ tát thì khác; chỉ có một sợi lông mọc trên mỗi lỗ chân lông.

  1. Tướng mỗi sợi lông trên thân của Bồ tát ều xoắn lên phía trên, tựa như chúng ang thành kính nhìn lên mặt của Ngài .

Lông trên thân của Bồ tát, mỗi sợi ở một lỗ chân lông, có màu xanh như màu của á collorium. Những sợi lông này xoắn lên phía trên theo chiều kim ồng hồ thành ba vòng, tựa như chúng ang bày tỏ sự tôn kính nhìn lên mặt của Bồ tát, trông tươi tắn và duyên dáng như hoa sen mới nở.

  1. Tướng  thân thẳng ứng như thân của vị Phạm thiên. 

Thân của vị Phạm thiên không bao giờ nghiêng về phía trước, hoặc phía sau hoặc hai bên mà có tư thế thẳng ứng. Thân của Bồ tát hoàn toàn thẳng ứng, thân Ngài mềm dẻo và xinh ẹp tựa nó ược hòa quyện trong vàng siṅgīnikkha.

Đối với những người bình thường, thân của họ thường nghiêng hoặc cong về một phía ở một trong ba chỗ: ở gáy, thắt lưng hoặc hai ầu gối. Trong ba chỗ này, nếu nó nghiêng ở thắt lưng thì thân sẽ gãy về phía sau; nếu nó nghiêng ở gáy hoặc hai ầu gối thì thân sẽ cụp về phía trước. Một số người rất cao có khuynh hướng nghiêng về hai bên, hoặc bên phải hoặc bên trái. Nhưng người bị gãy ra phía sau thì mặt thường cúi xuống tựa như họ ang nghiên cứu những ặc tánh của ất.

Một số người thân nghiêng và gầy ốm như cây cọc hoặc cây gậy vì họ không ủ máu và thịt.

Tuy nhiên, Bồ tát không giống như thế, vì Ngài có thân thẳng ứng, giống như cái cột bằng vàng của cái cổng vòng cung ược dựng lên ở lối vào thành phố chư thiên.

Trong vấn ề này, những tướng như thân thẳng ứng giống như thân của Phạm thiên và một số tướng khác của bậc ại nhân chưa hiện bày ầy ủ khi Ngài còn bé trước mắt người bình thường có hiểu biết trung bình. Nhưng qua sự xem xét các tướng, các nét ặc thù và những iều kiện hiện có lúc Ngài mới sinh ra, các vị Bà-la-môn, nhờ sự hiểu biết rành mạch về các Vedariga Mantra của các vị Phạm thiên ở cõi Tịnh cư ã truyền lại, họ tin rằng “ Khi thái tử Bồ tát lớn lên thì thân Ngài thẳng ứng giống như thân của Phạm thiên, những tướng khác sẽ hiện bày rõ ràng và tất cả mọi người ều có thể nhìn thấy.” Họ nghiền ngẫm, suy xét, tính toán và ưa ra lời bình giải tựa như những hảo tướng ấy lúc bấy giờ ã hiển hiện ầy ủ trước mắt họ. (Khi trưởng thành Ngài chính xác có bốn chục cái răng, tánh chất ều ặn của chúng và những nét ặc thù khác chưa hiện khởi lúc Ngài còn bé, nhưng các vị Bà-la-môn thấy trước rằng những nét ặc thù này sẽ xuất hiện trong tương lai vào thời iểm thích hợp).

  1. Tướng thịt ầy ặn ở bảy chỗ trên thân : hai phần trên của hai bàn chân, hai mu của hai bàn tay, hai vai và cổ.

Những người bình thường có hai mu bàn chân và hai mu bàn tay, mà những ường ộng mạch nổi lên như mạng lưới. Các khớp xương cũng ược thấy rõ ở hai ầu của vai và cổ. Do ó, khi nhìn họ, người ta sẽ nghĩ rằng họ giống như những ngạ quỉ, loài sống ở bãi tha ma có ôi vai xấu xí, xương cổ lồi và gân lộ ra.

Bồ tát thì không như vậy. Bảy chỗ trên ều có những thớ thịt ầy ặn. Thịt ầy ặn không có nghĩa là thịt phồng lên thô kệch, xấu xí. Thịt ầy ở ây có nghĩa vừa ủ thanh nhã, làm cho các ường gân và các khớp xương không lộ ra. Bồ tát không có những ường ộng mạch nổi lên ở mu bàn chân và mu bàn tay, và cũng không có những ốt xương nhô ra ở hai vai và cổ. Cổ của Ngài tròn ều như cái trống vàng ược ánh bóng. Nhờ sự ầy ặn và xinh xắn ở bảy chỗ nói trên, Ngài xuất hiện trước mắt người xem như một pho tượng ược ẽo gọt hoàn hảo hay như một bức chân dung bất hủ ược vẽ từ tay một họa sĩ tài ba.

  1. Tướng thân của Ngài ầy ặn và hoàn chỉnh như phần trước của con sư tử.

Phần trước của con sư tử ược phát triển ầy ủ, nhưng phần sau thì không. Như vậy, phần sau không ược nêu ra làm ví dụ ở ây, chỉ có phần trước ược dùng làm ví dụ so sánh. Dầu ví dụ này ược nêu ra cũng không phải là có những tướng khó coi trên người của Bồ tát như ở con sư tử, tức là cúi xuống, nhổm dậy, rùn người xuống và vươn tới, v.v… ở một số phần của cơ thể. Thực tế thì tứ chi của Bồ tát chỗ nào nên như thế nào, thì chúng như thế ấy: dài chỗ nên dài, ngắn ở chỗ nên ngắn, ầy ặn ở chỗ nên ầy ặn, mảnh khảnh ở chỗ nên mảnh khảnh, to rộng ở chỗ nên to rộng và tròn ầy ở chỗ nên tròn ầy và như vậy, tứ chi của Ngài hoàn hảo nhất và xinh ẹp nhất. Đối với một con người có thân sắc hoàn hảo như vậy, ngay một nghệ nhân ại tài cũng không thể mô tả hết chân dung của Ngài.

  1. Tướng phần sau của thân ầy ặn và khéo phát triển từ cổ xuống thắt lưng như tấm i-văng bằng vàng, không có vết rãnh ở giữa xương sống.

Ý nghĩa tóm gọn là như thế này: lưng của Bồ tát ược phát triển ặc biệt và phi thường.  Các thớ thịt ở trên xương sườn, thịt ở hai bên phải và trái của lưng và thịt ở giữa lưng tạo thành và duyên dáng từ lưng ến cổ.

Mặt lưng của những người thường trông như bị chẻ thành hai phần. Xương sống và thịt của họ ở giữa bị lỏm xuống; hoặc bị cong hoặc lộ ra thành từng ốt. Thịt ở mỗi bên của xương sống nổi lên và thẳng như thanh tre ược ặt ở vị trí nằm sấp. Thịt phía ngoài lưng thì mỏng và thưa thớt.

Bồ tát thì khác. Thịt ở mỗi bên và ở cuối cột xương sống, thịt ở trên xương sườn ở phần dưới của hai vai dọc theo giữa cột xương sống, tất cả ều ược phát triển ầy ủ từ thắt lưng ến cổ mà không có vết ứt dài ở giữa. Và vì vậy, mặt lưng của Ngài ầy những lớp thịt như tấm i văn bằng vàng ược dựng ứng.

  1. Tướng thân của Ngài cân ối như cây a tỏa nhánh ều ặn, vì chiều cao của thân và sải tay của Ngài có kích thước bằng nhau.

Như cây a có thân và các nhánh dài năm mươi hoặc một trăm hắc tay, chiều cao và chiều ngang bằng nhau, cũng vậy chiều cao của Bồ tát và chiều dài của hai cánh tay dang ra có kích thước bằng nhau (bốn hắc tay)  (chiều cao của thân và chiều dài của sải tay nơi những người thường không bằng nhau).

  1. Tướng cổ tròn ều

Một số người có cổ dài như cổ con sến, số khác thì cổ cong; số khác nữa cổ béo lùn, bạnh ra và lớn như cổ heo. Khi họ nói chuyện thì những ường gân trên cổ nổi lên trông như mạng lưới chằng chịt và giọng nói thì phát ra yếu ớt.

Cổ của Bồ tát như chiếc trống nhỏ và tròn. Khi Ngài nói thì những ường gân trên cổ không ược trông thấy. Giọng nói của Ngài lớn và vang như tiếng sấm hoặc tiếng trống.

  1. Tướng bảy ngàn mao mạch tập trung ở cuống họng và truyền vị của vật thực i khắp châu thân, dù vật thực ấy nhỏ bằng hạt mè.

Đầu của bảy ngàn mao mạch nối kết nhau và tạo thành một nhóm nằm ở cuống họng. Chúng có mặt như vậy như thể chúng ang chờ ợi ể truyền vị tất cả vật thực ã ăn i khắp châu thân. Khi vật thực dù nhỏ như hạt mè ặt trên ầu lưỡi và khi ăn thì vị của nó ược truyền i khắp châu thân. Đó là lý do khiến Bồ tát có khả năng duy trì mạng sống chỉ bằng một hạt cơm hoặc một nắm ậu, v.v... suốt sáu năm Ngài thực hành pháp khổ hạnh.

Đối với những người thường thì chất dinh dưỡng của tất cả vật thực họ ăn không thể truyền i khắp thân thể của họ. Vì lý do này họ thường mắc nhiều căn bịnh.

  1. Tướng cằm như sư tử (hơi giống như cằm của người sắp mĩm cười).

Hàm dưới của con sư tử ầy ặn, hàm trên của nó thì không. Tuy nhiên, cả hàm trên và hàm dưới của Bồ tát ầy ặn như hàm dưới của con sư tử. Chúng cũng có thể sánh với mặt trăng mọc vào êm mười hai của tháng.

  1. Tướng răng có úng bốn mươi cái.

Bồ tát có hai mươi cái răng ở hàm trên và hai mươi cái răng ở hàm dưới, tổng cộng là bốn mươi cái.

Đối với người thường ược xem là có bộ răng ầy ủ chỉ có ba mươi hai cái. Tuy nhiên, Bồ tát hơn mọi người là Ngài có bốn mươi cái răng. 

  1. Tướng răng ều ặn.

Người bình thường, răng cái thì nhô ra trước, cái thì ngắn và thụt vào, v.v… bộ răng không trật tự. Ngược lại, răng của Bồ tát như những hạt ngọc trai ều ặn.

  1. Tướng răng chạm khít nhau, không có kẽ hở.

Người thường thì răng thưa thớt, kẽ hở giữa các răng xa nhau giống như kẽ hở hàm răng con cá sấu. Thế nên, khi họ ăn hay nhai, thức ăn hay mắc vào kẻ răng. Riêng Bồ tát không như vậy, răng Ngài như những hạt kim cương ược xếp ều ặn và thẳng tấp trên tấm ván bằng vàng hay san hô.

  1. Tướng bốn chiếc răng nhọn trắng và sáng bóng như sao mai.

Một số răng cửa của người thường bị lão hóa nên en hoặc mất màu. Nhưng bốn cái răng nhọn của Bồ tát thì rất trắng, chúng bóng và sáng như sao mai.

(Về vấn ề này, câu hỏi ược nêu ra là tại sao các vị Bà-la-môn uyên bác có thể biết ược những ặc tướng liên quan ến những chiếc răng này, khi thực tế chúng chưa xuất hiện khi Bồ tát mới sanh ra. Câu trả lời là : Các vị Bà-la-môn uyên bác ọc ược những tướng trên thân nhờ vào bộ sách Bà-la-môn giáo của họ, quan sát chỗ cái răng sẽ mọc, và oán trước ược iều gì chắc chắn sẽ xảy ra khi Bồ tát ến tuổi trưởng thành, nên họ ã tiên oán tựa như những cái răng ấy ã mọc lên rồi).

Ở ây những iều liên quan ến tướng của bậc ại nhân sẽ ược tìm thấy trong bài kinh Ambaṭṭha và những bài kinh khác. Vào thời gian trước khi Đức Phật xuất hiện, các vị Phạm thiên ở cõi Tịnh cư thiên (Suddhāvāsa) ã ưa khoa tiên tri vào những bộ sách Vệ à, công bố rằng: “ Những iều này ược dùng ể tiên tri về chư Phật,” họ ã ưa ra những lời chỉ dẫn trong các bộ sách Vệ-à khi hóa hiện làm những giáo sư Bà-la-môn. Trong bộ sách nói về các tướng của bậc ại nhân chỉ ra cách tiên tri về chư Phật, các tướng trên thân của những bậc sẽ thành Phật, Bích chi Phật (Paccekabuddha), Thượng thủ thinh văn (Aggasāvaka), Tám mươi Đại thinh văn (Mahāsāvaka), mẹ và cha của vị Phật, thị giả của Ngài hay vị Chuyển luân vương ều ược mô tả ầy ủ. Do ó, sự mô tả các tướng của bậc ại nhân ược ghi lại trực tiếp trong các bộ sách Vệ à cổ xưa này.

(Nhưng sau khi Đức Phật viên tịch ại Niết bàn thì khoa tiên tri các tướng của bậc ại nhân ã xuất hiện do oai lực của Đức Phật dần dần biến mất, giống như ánh sáng của mặt trời dần dần biến mất sau khi mặt trời lặn).

  1. Tướng lưỡi dài, dẹp và mềm.

Lưỡi của người thường có thể dày, có thể nhỏ, ngắn, thô hoặc bằng phẳng. Tương phản với chúng, lưỡi của Bồ tát mềm mại, dài, rộng và xinh ẹp.

Giải rõ hơn: những tướng nơi lưỡi của Đức Phật không thể dễ dàng trông thấy ược bởi những người muốn nghiên cứu chúng sau khi Ngài ắc Phật quả. Bởi vậy, ể phá tan hoài nghi của những thiện nam tử Ambaṭṭha, Uttara và những người khác ến ể xem xét những ặc tướng ấy, Đức Phật ã cho họ thấy cái lưỡi mềm mại của Ngài bằng cách uốn cong và xoắn nó lại, như miếng giấy vấn quanh vật cuốn, và rồi ưa lưỡi chạm vào hai bên lỗ mũi. Ngài cũng cho thấy bề dài của cái lưỡi bằng cách chạm nó vào hai bên lỗ tai. Ngài cũng hiện bày bề rộng của cái lưỡi bằng cách ưa nó lên che hết cái trán ến chân tóc. (Lưỡi của người bình thường không thể ưa ra khỏi miệng dài hơn một inch).

  1. Tướng giọng nói có tám ặc tánh như giọng nói của Phạm thiên. 

Những người thường có giọng nói bị ứt quãng, vỡ tiếng và khó nghe như tiếng kêu của con quạ. Ngược lại, Bồ tát có giọng nói như của Phạm thiên. Để làm rõ hơn : giọng nói của Phạm thiên trong trẻo và rõ ràng vì nó không bị ảnh hưởng bởi mật hay àm. Cũng vậy các bộ phận phát âm của Bồ tát như cuống họng, vòm miệng, v.v... ều sạch sẽ và thông suốt do oai lực của những việc phước mà Ngài ã tích luỹ trong quá khứ. Do tính chất sạch sẽ và không khuyết iểm này, âm thanh phát ra từ rốn rất trong trẻo, nó có tám ặc tánh, ó là :

  1. Rõ ràng
  2. Dễ nghe
  3. Êm ái
  4. Khả ái
  5. Tròn chữ
  6. Gọn vừa ( không vượt quá người nghe)
  7. Sâu lắng 
  8. Vang dội

Thật phi thường và kỳ diệu về giọng nói là nó ngọt ngào và khả ái gấp trăm lần, ngàn lần so với giọng hót cực kỳ du dương của con chim Ca-lăng-tần-già (karavīka). Giải thích: Tiếng kêu của chim karavīka chậm, ngân dài và khả ái, ấm áp, gọn sắc và du dương. Khi ậu ở nhánh cây phía trên, nó cất tiếng hót, và rồi nó nhảy xuống nhánh dưới. Tuy nhiên, người ta vẫn còn nghe tiếng của nó ã hót khi ở nhánh trên. Như vậy tiếng hót của nó ngân dài và khả ái.

Sau khi mổ vào trái xoài chín thơm ngon và uống nước của trái xoài ấy, chim karavīka cất lên tiếng hót; khi ấy tất cả loài vật bốn chân ều say ắm giọng hót của nó ( tựa như chúng ang bị ngất i bởi cơn say) và bắt ầu nhảy nhót trong vui sướng. Loài vật khác cũng vậy, khi ến bãi cỏ và ang gặm cỏ chúng ã quên i miếng cỏ trong miệng mà ứng yên, lắng nghe tiếng hót của chim karavīka. Những ộng vật như hươu, nai, v.v... ang sợ hãi bỏ chạy vì bị những con thú săn mồi như sư tử, báo và cọp rượt uổi, nhưng khi nghe tiếng hót của chim karavīka, chúng quên cả mạng sống của mình, dừng lại, nếu chân ã nhấc lên thì vẫn như vậy, hoàn toàn bất ộng. Cũng thế, những con thú hoang ang rượt uổi con mồi cũng quên i miếng mồi trước mắt mà dừng lại ể nghe tiếng hót của chim karavīka. Những con chim ang bay trên không trung bỗng xòe cánh ra và ngừng bay ể lắng nghe. Loài cá ở dưới nước cũng vậy, chúng vận dụng những bộ phận nghe và ngừng lội ể nghe bài ca của chim karavīka (Buddhavaṃsa Atthakathā).

(Hãy xem câu chuyện về giọng hót của chim karavīka và hoàng hậu Asandhimittā trong phần Anudīpanī của cuốn sách này).

    1. Tướng ôi mắt trong xanh. 

Điều này không có nghĩa là ôi mắt của Bồ tát ều xanh. Đây chỉ là cách nói chung chung. Thực ra, chỗ con mắt có màu xanh giống như màu của hoa aparājita, chỗ con mắt có màu vàng giống như màu của hoa kaṇikāra; chỗ con mắt có màu ỏ giống như màu của hoa bandhuku; chỗ con mắt có màu trắng giống như màu của sao mai; chỗ con mắt có màu en giống như màu của những hạt cườm en. Đôi mắt của Bồ tát giống như cánh cửa sổ mở của cung iện bằng vàng - Cửa sổ có họa tiết hình con sư tử bằng những viên hồng ngọc ở dưới chân cửa. (Theo bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā, sự so sánh ược nêu ra là cửa sổ của cung iện có hình con sư tử làm bằng những viên hồng ngọc và ược gắn ở dưới chân tường).

    1. Tướng lông mi mềm và mướt như lông mi của bê con mới sanh.

Tướng ặc biệt này có tên Pāḷi là gopakhuma lakkhana. Chữ Pāḷi gopakhuma ám chỉ con mắt (toàn bộ con mắt) bao gồm lông mi và những phần khác của con mắt. Trong tất cả những loại bê, mắt của con bê en ầy và ục. Mắt của con bê ỏ ặc biệt trong và sáng. Ở ây trường hợp của gopakhuma lakkhaṇā có nghĩa là mắt của con bê ỏ mới sanh. Đôi mắt của người bình thường không hoàn hảo, giống như ôi mắt của loài voi, chuột hay quạ, một số thì mắt lồi, số khác thì mắt chìm sâu trong hốc mắt. Đôi mắt của Bồ tát thì khác, chúng giống như những viên hồng ngọc ược ánh bóng và ược chùi sạch và có những sợi lông mi mềm, bóng và hơi xanh mọc lên ều ặn. Tướng của toàn thể con mắt ở ây nổi bậc là lông mi (tướng này trên thực tế là sự mô tả toàn bộ con mắt liên quan ến mi mắt là một phần của con mắt. Điều này nghĩa là Bồ tát có ôi mắt không lồi ra cũng không sâu hoắm, mà ôi mắt trong như những viên hồng ngọc ược ánh bóng và ược chùi sạch, với những sợi lông mi mềm, mượt, bóng và hơi xanh, mọc ều thành hàng như lông mi của con bê ỏ mới sanh).

    1. Tướng sợi lông nằm giữa hai ường chân mày.

Sợi lông này mọc lên một cách duyên dáng giữa hai chân mày, ngay trên ường sóng mũi và ở trung tâm của trán. Toàn bộ sợi lông có màu trắng như màu của vải lụa simbali. Khi ược kéo thẳng ra thì chiều dài của sợi lông là hai hắc tay. Khi ược buông ra khỏi bàn tay thì sợi lông xoắn lại theo chiều kim ồng hồ với ầu của nó xoắn lên phía trên. Nó có vẻ ẹp, thu hút sự chú ý và làm khởi dậy sự tôn kính nơi người xem, giống như ngôi sao bằng bạc ược ính trên cái ĩa bằng vàng ròng, hoặc như sữa nguyên chất chảy ra từ cái bình bằng vàng, hoặc như sao mai trong bầu trời phản chiếu ánh sáng của mặt trời mới mọc.

    1. Tướng lớp thịt mỏng xuất hiện tự nhiên ở trán như dãi băng thêu bằng chỉ sợi vàng vấn quanh ầu.

Điều này có nghĩa là Bồ tát có cái trán hoàn hảo cũng như cái ầu hoàn hảo.

Trán

Lớp thịt mỏng này che hết trán của Bồ tát từ bên phải sang bên trái. lớp thịt ặc biệt này mềm, có màu vàng ròng, bóng láng và rộng, duyên dáng như dãi băng bằng vàng vấn quanh ầu của vua. Thực vậy, dải băng bằng vàng ở trên trán của vua là biểu tượng của các vị vua vì nó có ặc tướng như của Bồ tát. (Đây là lời giải thích về  cái trán hoàn hảo của Bồ tát).

Đầu

Đầu của Bồ tát hoàn hảo về tất cả mọi phương diện. Đầu của những người thường: một số giống như ầu của con khỉ, tựa như chúng bị tách ra làm hai phần; số khác trông như có những ường nứt; số khác nữa có rất ít thịt ến nỗi chúng trông như những cái sọ có lớp da bọc ngoài; có ầu không cân ối như trái bầu, có ầu phình ra ở phía sau hoặc vồ ở phía trước. Tương phản với chúng, Bồ tát có cái ầu hoàn hảo như cái trụ gỗ của hàng song ược ẽo gọt tròn ều, nhẵn và xinh ẹp.

(Tướng thứ ba mươi hai ược nêu ra trong kinh Tạng là uṇhīsasīso. Ý nghĩa của nó có thể hiểu theo hai cách: (a) có cái ầu trông như ược bọc ngoài  bởi lớp thịt mỏng ở trên trán và (b) có cái ầu tròn tuyệt hảo như dãi băng quanh ầu ược làm bởi người thợ bậc thầy. Do bởi hai ý nghĩa của nó, những lời giải thích về cái trán hoàn hảo và cái ầu hoàn hảo ược nêu ra ở ây).

(Nghiệp (kamma) và những yếu tố khác tạo ra ba mươi tướng chánh này sẽ ược bàn riêng về mỗi tướng ở phần Anudīpanī).

Kết thúc phần giải thích về ba mươi hai tướng chánh 

Tám mươi tướng phụ  

Bồ tát, bậc ại sĩ, cũng có tám mươi tướng phụ gọi là asīti anuvyañjana, phụ theo các tướng chánh. Tám mươi tướng phụ này ược kể ra một cách tóm tắt như ã ược kể ra trong bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā và những bộ kinh khác.

  1. Tướng những ngón tay và những ngón chân khít ều với nhau không có kẽ hở (cit’aṅgulita).
  2. Những ngón tay và những ngón chân thon dần từ dưới lên trên (anupubb’aṅgulita).
  3. Ngón tay và ngón chân tròn (vaṭṭ’aṅgulita). (Đây là ba tướng về ngón tay và ngón chân).
  4. Móng tay và móng chân hồng ỏ (tamba nakhatā).
  5. Móng tay và móng chân dài, nhọn ều và nổi bậc (tuṅga nakhatā).
  6. Móng tay và móng chân gọn và bóng láng (siniddha nakhatā). (Đây là ba ặc tướng liên quan ến móng tay và móng chân).
  7. Mắt cá chân bằng phẳng (niguḷa gopphakatā). (Mắt cá chân của những người thường phình ra và dễ thấy).
  8. Đầu của tất cả mười ngón chân ngang bằng nhau (sama pādatā) . (Đây là một ặc tướng liên quan ến ngón chân).
  9. Tướng i hùng dũng như voi chúa (gajasamān’akkamatā).
  10. Tướng i dõng mãnh như sư tử (sīhasamān’akkamatā).
  11. Tướng         i         duyên dáng   như     thiên   nga     chúa

(haṃsasamān’akkamatā).

  1. Tướng i vững chải như bò chúa (usabhamān’akkamatā).
  2. Tướng i theo chiều kim ồng hồ (dakkhiṇātvaṭṭa gatitā). (Đây là năm ặc tướng liên quan ến tướng i của Đức Phật).
  3. Đầu gối tròn, trông xinh ẹp ở mọi phía (samantato cārujaṇṇu maṇḍalatā). (Đây là một ặc tướng liên quan ến ầu gối).
  4. Bộ phận nam tính phát triển tốt (paripuṇṇa purisavyañjanatā). (Đây là một ặc tướng về bộ phận sinh dục àn ông).
  5. Rốn có những ường liền lạc (acchidda nābhitā).
  6. Rốn sâu (gambhīra nābhitā).
  7. Rốn có vòng nhỏ chạy quanh bên phải (dakkhiṇāvatta nābhitā) . (Đây là ba ặc tướng liên quan ến rốn).
  8. Hai bắp vế và hai cánh tay giống như cái vòi của con voi

(dviradakara sadisa-ūrubhujatā). (Đây là một tướng liên quan ến bắp vế và cánh tay).

  1. Thân thể khỏe mạnh (suvibhatta gattatā).
  2. Thân nẩy nở dần dần (anupubba gattatā). (Có nghĩa là phần trên và phần dưới của thân cân xứng).
  3. Thân mịn màng (mattha gattatā).
  4. Thân rất cân ối (anussann ānanussanna sabbagattatā).
  5. Thân không có nếp nhăn (alīna gattatā).
  6. Thân không có nốt ruồi, tàn nhang, v.v... (tilakādivirahita gattatā).
  7. Thân luôn sáng chói (anupubba rucira gattatā).
  8. Thân ặc biệt sạch sẽ (suvisuddha gattatā) . (Nhiều ặc tướng liên quan ến thân sẽ theo sau).
  9. Sức mạnh của thân bằng sức mạnh của mười ngàn triệu con voi Kalavaka (koṭisahassa hatthibala dhāraṇatā). (Đây là một ặc tướng duy nhất liên quan ến sức mạnh của thân).
  10. Mũi dài như chiếc gậy hích bịt vàng (tunga nāsatā). (Đây là một ặc tướng duy nhất liên quan ến mũi).
  11. Lợi (niếu) có màu ỏ sẫm (suratta dvijamaṁsatā) (Trong bộ sách Samantacakkhu Dīpanī có chữ rattadvjamukhatā, ôi môi ỏ). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến lợi).
  12. Răng sạch (suddha dantatā).
  13. Răng ều ặn và nhẵn bóng (siniddha dantatā). (Hai ặc tướng liên quan ến răng).
  14. Ngũ căn thuần tịnh (visuddh’indriyatā). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến ngũ căn).
  15. Răng nhọn tròn (vaṭṭa dāṭhatā). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến răng nhọn).
  16. Đôi môi ỏ (ratt’oṭṭhatā). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến môi).
  17. Vòm miệng dài (āyata vadānatā). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến miệng).
  18. Những        ường chỉ       ậm trên hai lòng bàn tay (gambhīra pāṇilekhatā).
  19. Những        ường chỉ dài trên hai lòng bàn tay dài (āyata lekhatā).
  20. Những ường chỉ thẳng trên hai lòng bàn tay (uju lekhatā).
  21. Những ường chỉ trên hai lòng bàn tay cấu trúc xinh ẹp

(surucira-saṇṭhāna lekhatā).

  1. Vầng hào quang tròn tỏa ra quanh thân (parimaṇḍala kāyappabhātvantatā).
  2. Hai gò má ầy ặn (paripuṇṇa kapolatā). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến gò má ).
  3. Đôi mắt dài và lớn (āyatavisāla nettatā).
  4. Đôi mắt rất trong với năm sắc màu (pañca pasādavanta nettatā). (Hai ặc tướng liên quan ến mắt ).
  5. Lông mi cong (kuñjitagga bhamukatā). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến lông mi).
  6. Lưỡi mềm, mỏng và ỏ (mudu tanuka ratta jīvhatā). (Samantacakkhu Dīpanī, cuốn I, cho rằng ặc tướng này nên hiểu là gồm có ba chi: mềm, mỏng và ỏ, trong khi những Chú giải sư khác chỉ giải thích rằng nó chỉ có hai chi: mềm và mỏng. Ở ây trong bộ sách này, ặc tướng ược nêu theo úng với bộ Jinālaṅkāra Ṭikā). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến lưỡi).
  7. Đôi tai dài và xinh ẹp (āyata-rucira kaṇṇatā). (Liên quan ến tướng này, những vị khác cho là có hai chi). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến tai).
  8. Tướng gân máu không lộ ra dưới lớp da (nigganṭthi siratā).
  9. Những tĩnh mạch không chìm cũng không nổi (niggūḷa siratā). ( tức là không thể trông thấy những tĩnh mạch). (Hai ặc tướng liên quan ến tĩnh mạch).
  10. Đầu tròn thanh lịch như một cái ô tròn (vatta-chattanibha cāru sīsatā). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến ầu).
  11. Trán dài, rộng và ẹp (āyata-puthu nalāṭa sobhatā). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến trán).
  12. Hai hàng lông mày tự nhiên và xinh ẹp, không cần chải (susaṇṭhāna bhamukatā).
  13. Lông mày mềm (saṇha bhamukatā).
  14. Lông mày mọc ều ặn (anuloma bhamukatā).
  15. Hàng lông mày rộng (mahānta bhamukatā).
  16. Hàng lông mày dài (āyata bhamukatā). 

(Năm ặc tướng liên quan ến lông mày).

  1. Thân mềm dẻo (sukumāla gattatā).
  2. Thân rất khả ái (ativiya-somma gattatā).
  3. Thân rất tươi sáng (ativiya-ujjalita gattatā).
  4. Thân luôn sạch bụi (vimala gattatā).
  5. Thân không dính bụi ( da luôn luôn trông tươi tắn) (komala gattatā).
  6. Cơ thể gọn gàng và ưa nhìn (siniddha gattatā).
  7. Cơ thể có mùi thơm (sugandha tanutā). (Mười lăm ặc tướng liên quan ến cơ thể, bao gồm tám ặc tướng trên từ số 20 ến

27).

  1. Lông có chiều dài bằng nhau (sama lomatā).
  2. Lông không dính bụi (komala lomatā).
  3. Tất cả sợi lông trên cơ thể ều xoắn theo chiều kim ồng hồ (dakkhiṇāvaṭṭa lomatā).
  4. Lông trên cơ thể có màu xanh biếc (bhinn’añjana-sadisanīla lomatā).
  5. Lông trên cơ thể vòng tròn (vaṭṭa lomatā).
  6. Những sợi lông trên cơ thể ều trơn láng (siniddha lomatā).  (Sáu ặc tướng liên quan ến lông trên cơ thể).
  7. Hơi thở vô ra rất vi tế (atisukkhuma-assāsapassasā dhāraṇatā). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến hơi thở).
  8. Miệng tỏa ra mùi thơm (sugandha mukhatā). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến miệng).
  9. Đỉnh ầu có hương thơm (sugandha muddhanatā). (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến ỉnh ầu).
  10. Tóc en nhánh (sunīla kesatā).
  11. Tóc xoắn theo chiều kim ồng hồ (dakkhiṇāvaṭṭa kesatā).
  12. Tóc mềm mượt tự nhiên (susaṇṭhāna kesatā).
  13. Tóc ngắn và gọn gàng (siniddha kesatā saṇha kesatā).
  14. Tóc không bị rối (aluḷita kesatā).
  15. Những sợi tóc có chiều dài bằng nhau (sama kesatā). ( Những người thường tóc dài và ngắn lẫn lộn. Trường hợp của Bồ tát thì không).
  16. Tóc không dính ( komala kesatā). (Bảy ặc tướng liên quan ến tóc).
  17. Một vầng hào quang chiếu ra từ ỉnh ầu gọi là ketumālāratana vicittatā. (Đây là ặc tướng duy nhất liên quan ến hào quang).

Bồ tát có tám mươi tướng phụ kể trên. (Sự mô tả ược nêu ra ở ây theo bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā).

Những ặc tướng Satapuñña 

Những tướng chánh và tướng phụ ược kể ra ở trên ược gọi là ặc tướng satapuñña. Mỗi việc phước mà Bồ tát ã thực hiện gấp trăm lần so mỗi việc phước mà những người khác ã làm, Ngài ã làm những iều phước trải qua vô số kiếp. Do ó, những việc phước của Ngài ược gọi là satapuñña ‘phước trăm lần’, nhờ thế Ngài có ược 32 hảo tướng và tám mươi tướng phụ.

Việc ặt tên cho Thái tử 

 Như vậy sau khi xem xét kỹ lưỡng các tướng chánh và tướng phụ của Bồ tát, các vị Bà-la-môn thông thái tiên tri rằng : “ Thái tử sẽ thành Phật”. Sau khi thảo luận với nhau nên ặt tên gì cho Thái tử, họ ặt tên cho Ngài là Siddhattha là iềm chỉ ra Ngài sẽ hoàn thành viên mãn phận sự em lại lợi ích cho toàn thể thế gian.

Câu chuyện về nhóm năm vị Sa môn (Pañcavaggī) 

 (Đề cập về nhóm năm vị tỳ khưu (Pañcavaggī) do ại ức Koṇḍañña dẫn ầu, bộ Phụ chú giải Sārattha Dīpanī Vinaya và bộ Chú giải Jātaka Atthakathā cùng bộ Chú giải Buddhavaṃsa cũng có những câu chuyện khác nhau. Câu chuyện về năm vị tỳ khưu sẽ ược ưa vào ở ây căn cứ vào các bản dịch của những bộ Chú giải và Phụ chú giải kể trên).

Bản dịch của bộ Sārattha Dīpanī 

 Vào lúc ản sanh của Bồ tát, từ những vị Bà-la-môn thông thái ược tuyển chọn vào xem tướng cho Bồ tát như các vị Rāma, Dhaja, Lakkhaṇa, Manti, Koṇḍañña, Bhoja, Suyāma và Sudatta, nhóm năm anh em Koṇḍañña tiên oán rằng: “ Thái tử chắc chắn sẽ thành Phật.” Sau khi trao lại cho gia ình của họ món tiền thưởng mà họ nhận ược trong buổi lễ xem tướng cho Thái tử, họ mặc vào y phục của vị ạo sĩ, hiến dâng cuộc ời của họ ến Bồ tát vì họ ã kết luận rằng: “ Bậc ại nhân ấy, vị Thái tử Bồ tát ấy chắc chắn sẽ thành Phật, Ngài sẽ không sống cuộc ời thế tục.” Những vị Bà-la-môn này ã thông suốt các bộ kinh Phệ à (Veda) ngay từ lúc còn nhỏ, và ngay khi ấy họ cũng ã ược xem như những vị thầy. Nhóm năm anh em Koṇḍañña ã thỏa thuận với nhau là sẽ từ bỏ thế gian, vì họ nghĩ rằng: “Chúng ta không thể nào cắt bỏ mối ràng buộc của gia ình khi ã lập gia ình. Do ó, tốt hơn cho chúng ta là xuất gia sớm.” Do ó, họ ã hiến dâng cuộc ời của mình ến Bồ tát ngay sau khi họ có lời tiên tri lúc họ vẫn còn trẻ. Sau khi vào trú trong rừng, thỉnh thoảng họ dò hỏi mọi người: “ Này các vị, vị Thái tử trẻ ã từ bỏ thế gian chưa ?” Dân chúng áp rằng: “ Làm sao các ngài có thể nghĩ rằng Thái tử từ bỏ thế gian trong khi ang thọ hưởng khoái lạc ế vương giữa các cung nữ xinh ẹp trong ba cung iện, tựa như ngài là một vị thiên.” Rồi các vị Bà-lamôn nghĩ rằng: “ Trí tuệ của Thái tử chưa trưởng thành,” và họ tiếp tục chờ ợi Thái tử i xuất gia. (Đây là bản dịch ược nêu ra trong cuốn ba của bộ Sārattha Dīpanī Ṭīkā).

Bản dịch của các bộ Chú giải Buddhavaṃsa và Jātaka 

Sau khi ặt tên cho Thái tử là Siddhattha, tám vị Bà-la-môn thông thái nhất về nhà, gọi những ứa con trai của họ ến và nói rằng: “ Này các con, bây giờ chúng ta ã già. Thái tử Siddhattha, con trai của vua Suddhodāna của chúng ta, chắc chắn sẽ thành Bậc Giác ngộ. Tuy nhiên, chúng ta không thể biết chắc liệu chúng ta có gặp ược vị thái tử khi Ngài thành Phật hay không. Khi Ngài thành Phật, các con hãy xuất gia trong giáo pháp của Đức Phật ấy !”

Trong tám vị Bà-la-môn thông thái, bảy vị sống ến tuổi già nhưng mạng chung trước khi Thái tử xuất ly và tái sanh vào cõi hạnh phúc hay au khổ theo nghiệp riêng của họ. Riêng Koṇḍañña vẫn còn sống khỏe mạnh. Khi Bồ tát ến tuổi trưởng thành và từ bỏ thế gian, ngài i ến khu rừng Uruvela và trầm ngâm suy nghĩ: “ Nơi này thật lý tưởng cho người có khuynh hướng tham thiền nhập ịnh.” Và khi ang chuyên tâm thực hành khổ hạnh trong khu rừng ấy thì Koṇḍañña nghe tin: “ Bồ tát ã xuất gia làm Sa-môn”, bèn ến gặp những ứa con trai của bảy vị Bà-la-môn quá cố và nói rằng: “ Này những chàng trai trẻ, thái tử Siddhattha ã xuất gia Sa-môn rồi. Thái tử chắc chắn sẽ thành Phật. Nếu cha của các cậu vẫn còn sống, họ sẽ xuất gia và sống ời ạo sĩ ngay ngày hôm nay. Nếu các cậu muốn xuất gia Sa-môn thì hãy làm i. Ta sẽ theo vị Thái tử cao quý và trở thành Sa-môn.” Trong những người con trai của bảy vị Bà-la-môn, ba người ở lại vì họ không muốn xuất gia. Chỉ bốn người còn lại ồng ý và xuất gia Samôn do Koṇḍañña dẫn ầu. Năm người này ược gọi nhóm năm vị trưởng lão – Pañcavaggī Thera  (Đây là câu chuyện ược nêu ra trong hai bộ Chú giải Buddhavaṃsa và Jātaka).

Những biện pháp của vua Suddhodana ể ngăn chận Bồ tát ừng trông thấy bốn iềm tướng 

Sau khi ức vua Suddhodāna mời các vị Bà-la-môn ến hoàng cung xem tướng cho Thái tử, họ tiên tri rằng: “ Thái tử sẽ từ bỏ thế gian và trở thành một Sa-môn.” Đức vua hỏi rằng: “ Con trai của ta sẽ trông thấy những gì mà i xuất gia?” Các vị Bà-la-môn ồng thanh trả lời: “ Do trông thấy bốn iềm tướng : một người già, một người bịnh, một người chết và một vị Sa-môn – con trai của bệ hạ sẽ từ bỏ thế gian và trở thành một Sa-môn.”

Sau khi nghe câu trả lời của các vị Bà-la-môn, vua Suddhodāna bèn truyền lịnh: “ Nếu con trai của trẫm xuất gia sau khi thấy bốn iềm tướng, vậy từ nay trở i, cấm bất cứ người già, người bịnh, hay Sa-môn nào ến viếng con trai của ta.  Họ sẽ làm cho Thái tử ộng tâm (saṃvega) và khởi chí xuất gia. Ta không muốn con trai của ta thành Phật. Ta chỉ muốn thái tử làm Chuyển luân vương, trị vì bốn ại châu với hai ngàn ảo nhỏ bao quanh và i trên hư không bằng xe báu có tùy tùng theo hầu rộng hai do tuần.” Khi ấy lính gác ược bố trí quanh bốn hướng, mỗi chỗ cách nhau một gāvuta, giữ không ể người già, người bịnh, người chết và vị Sa-môn ở trong tầm thấy của Bồ tát.

Vào ngày hôm ấy, lễ tắm ầu kiết tường ược tổ chức với tám chục ngàn hoàng thân tham dự và họ ã bàn bạc với nhau: “ Dù thái tử có thành Phật hay Chuyển luân vương chăng nữa, mỗi người trong chúng ta hãy cho một ứa con trai ể hầu hạ vị ấy. Nếu thái tử thành Phật, vị ấy sẽ sống một cách uy phong giữa hội chúng Sa-môn gồm những người thuộc dòng Sát-ế-lỵ. Hoặc nếu thái tử thành Chuyển luân vương, vị ấy sẽ oai phong i giữa ám tùy tùng gồm tám chục ngàn vị hoàng tử.” Thế rồi mỗi người trong bọn họ, hứa sẽ dâng hiến một người con trai ến Bồ tát.

Hoàng hậu Mahāmāyā mạng chung và tái sanh cõi Tusitā 

Vào ngày thứ bảy sau khi hạ sanh Thái tử, hoàng hậu Mahāmāyā Devī mạng chung sanh về cõi Tusitā làm một vị thiên tên Santusita.

(Hoàng hậu chết không phải vì bà ã hạ sanh Bồ tát mà do bà hết tuổi thọ. Hãy nhớ lại rằng ngay khi Bồ tát, chư thiên Setaketu thực hiện năm iều suy xét thì hoàng hậu Mahāmāya chỉ còn sống ược mười tháng và bảy ngày. Không ai có thể xứng áng ở trong bào thai như hoa sen của Phật mẫu vì nó giống như hương phòng dành cho Đức Phật hoặc tượng của Ngài hoặc vật tôn thờ. Ngoài ra, trong khi mẹ của Bồ tát còn sống, không một người nào khác có thể thay thế ịa vị Chánh hậu của bà. Thế nên, việc hoàng hậu còn sống thêm bảy ngày sau khi hạ sanh Bồ tát là pháp thông lệ. Cho nên hoàng hậu mạng chung trong thời gian ấy).

Tuổi của hoàng hậu Mahāmāyā lúc mạng chung 

Với câu hỏi: “Hoàng hậu Mahāmāyā chết vào thời kỳ nào trong cuộc ời ?” Câu trả lời là: “ Bà chết vào thời kỳ giữa.” Giải rõ: Vì chúng sanh trong thời kỳ ầu có nhiều ham muốn và khát vọng, nên người àn bà mang thai trong thời kỳ này không thể chăm sóc cái bào thai một cách chu áo ược. Do ó, ứa bé ở thời kỳ này dễ bị nhiều chứng bịnh. Tuy nhiên, bào thai sẽ ược sạch sẽ khi người mẹ ã qua hai phần ba của thời kỳ giữa và ở giai oạn một phần ba cuối. Và bất cứ hài nhi nào ở trong bào thai sạch sẽ như vậy sẽ không bị các chứng bịnh. Do ó, mẹ của Bồ tát, sau khi thọ hưởng khoái lạc ở cung vàng iện ngọc trong thời kỳ ầu của bà, ã sanh con và chết khi bà bước qua giai oạn một phần ba cuối của thời kỳ giữa. (Chú giải kinh Trường bộ, cuốn II, trong phần trình bày về pháp tánh của vị Bồ tát - Bodhisatta dhammatā).

Theo úng sự trình bày của bộ Chú giải này, các vị Chú giải sư cổ xưa ã biên soạn một bài kệ súc tích ể giải thích rằng mẹ của Bồ tát ã mạng chung khi bà úng năm mươi sáu tuổi, bốn tháng và hai mươi bảy ngày. Cũng có bài khác nói rằng hoàng hậu Mahāmāyā thọ thai khi bà ược năm mươi lăm tuổi, sáu tháng và hai mươi ngày.

Giải thích thêm : Vào thời kỳ hoàng hậu Māyā tái sanh làm người, thọ mạng trung bình của loài người là một trăm tuổi, em 100 tuổi chia ra thành ba thời kỳ, mỗi thời kỳ là ba mươi ba năm và bốn tháng. Bà thọ hưởng ời sống cao sang của bà trong thời gian ầu gồm ba mươi ba năm và bốn tháng. Nếu thời kỳ thứ hai là ba mươi ba năm bốn tháng mà em chia thành ba giai oạn thì mỗi giai oạn là mười một năm, một tháng và mười ngày. Như vậy hai giai oạn ầu sẽ là hai mươi hai năm, hai tháng và hai mươi ngày. Thời gian của hai giai oạn này cộng với thời gian của thời kỳ ầu, tổng cộng là năm mươi lăm năm, sáu tháng và hai mươi ngày. Ở tuổi này hoàng hậu mang thai Bồ tát. Đây là phần giải thích về nội dung của bài kệ thứ hai.

Nếu lấy mười tháng thời gian mang thai Bồ tát và bảy ngày sau khi hạ sanh Bồ tát cộng với năm mươi lăm năm, sáu tháng và hai mươi ngày thì toàn bộ thời gian  là năm mươi sáu năm, bốn tháng và hai mươi bảy ngày. Đây là phần giải thích của bài kệ thứ nhất.

Hoàng hậu Mahāmāyā tái sanh làm vị thiên nam hay thiên nữ 

Với câu hỏi liệu hoàng hậu Māyā sẽ tái sanh làm vị thiên nam hay nữ ở cõi Tusitā, câu trả lời là bà tái sanh làm vị thiên nam.

Về vấn ề này, sau khi nghiên cứu một cách hời hợt câu Pāḷi ‘mātaraṃ pamukhaṃ katvā’, một số học giả nói hoặc viết rằng bà tái sanh làm thiên nữ; nhưng những tác phẩm áng tin cậy như Chú giải bộ Theragāthā và những tác phẩm khác thì cho rằng “ Bà Māyā chỉ là vị thiên nam ở cõi Tusitā.” Theo những câu kệ của trưởng lão Kāḷudāyi ở chương Dasaka Nipāta của bộ Chú giải Theragāthā, cuốn II, nói rằng “dev’ūpapatti pana purisabhāven’eva jātā - sự tái sanh của hoàng hậu Mahāmāyā ở cõi chư thiên chỉ xảy ra dưới hình dạng người nam.”

Cũng trong chương nói về sự ản sanh của Bồ tát, bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā có oạn nói rằng: “ Yasmā ca Bodhisattena vasitakucchi nāma cetiyagabbhasadisā hoti, na sakkā aññena sattena āvasituṃ vā paribhuñjituṃ vā. Tasmā Bodhisattamātā gabbhavuṭṭhānato sattame divase kāḷaṃ katvā Tusitapure devaputto hutvā nibatti -  Bào thai nơi Bồ tát ngụ giống như căn phòng của bảo tháp, những chúng sanh khác không xứng áng ược trú trong ó hay sử dụng nó. Do ó, bảy ngày sau khi hạ sanh, mẹ của Bồ tát mạng chung và trở thành ‘vị thiên tử’ ở thành phố chư thiên của cõi Tusitā.”

Cũng trong phần trình bày về phẩm Vīsatigathā của bộ Manidīpa Tīkā, cuốn I, có oạn khẳng ịnh rằng: “ Sirī Mahāmāyā hi Bodhisattaṃ vijayitvā sattābhamattaṁ thātvā ito cavitvā Tusitabhavane purisabhāven’eva nibattā, na itthibhāvenā ti -  Bảy ngày sau khi hạ sanh Bồ tát, hoàng hậu Sirī Mahāmāyā mạng chung từ cõi này và chỉ tái sanh làm vị thiên nam, không phải tiên nữ. Theo pháp tánh tự nhiên thì tất cả những người mẹ của các vị Bồ tát ều sống chỉ bảy ngày sau khi sanh con và mạng chung sanh về cõi Tusitā, là vị thiên nam, không bao giờ là tiên nữ.” Do ó, sự kiện hoàng hậu Mahāmāya tái sanh làm vị thiên nam là iều nên chấp nhận không hoài nghi.

Những người hầu Bồ tát 

Đức vua Suddhodāna ã tuyển chọn hai trăm bốn chục người nữ ể hầu hạ cho thái tử Siddhattha, họ là những nữ hầu sạch sẽ và  khéo léo trong việc thực hiện các phận sự như nuôi bằng sữa ở vú bằng cách cho uống sữa ngọt không có vị hăng, cay, mặn và những vị không tốt khác; tắm, bồng ẳm và làm những công việc phục vụ khác.

Đức vua cũng chỉ ịnh sáu chục người nam theo phụ giúp các nữ hầu và cũng chỉ ịnh thêm sáu chục vị quan ể giám sát các phận sự của những người hầu nam và nữ này. Trong số hai trăm bốn chục nữ hầu này, sáu chục người làm công việc cho thái tử bú sữa, sáu chục người khác làm công việc tắm rửa bằng nước thơm và mặc y phục cho thái tử; lại sáu chục người khác làm công việc bồng ẳm Ngài thường xuyên và sáu chục nữ hầu còn lại cũng làm công việc tương tự thế phiên cho sáu chục nữ hầu trước. Như vậy công việc chăm sóc thái tử ã ược phân công ến hai trăm bốn chục nữ hầu. Ngoài ra, còn có thêm ba trăm sáu chục người khác chăm lo cho vị thái tử nhỏ.

Tất cả những chi tiết ược nêu ra ở ây là theo bộ Sutta Mahāvagga và Chú giải của nó, trong ó nói rõ việc vua Bandhumā chỉ ịnh những người hầu ể chăm sóc cho con trai là thái tử Vipassī (Bồ tát). Dựa vào cơ sở này, sự chỉ ịnh của vua Suddhodāna ã ược mô tả.

Sự tuyển chọn những người hầu như ược mô tả trong Bổn sanh Temiya  

Trong bổn sanh Temiya của bộ Chú giải bổn sanh, sự mô tả chi tiết về việc vua Kāsi tuyển chọn những người hầu cho con trai là thái tử Bồ tát Temiya, ược ghi lại như sau:

  1. Người nữ có thân cao không ược chỉ ịnh làm vú nuôi, vì cổ của ứa bé dễ bị dài ra do khi bú sữa phải kề sát ngực của nàng ta.
  2. Người nữ thân thấp bé không ược chỉ ịnh làm vú nuôi, vì cổ của ứa bé dễ bị ngắn lại do khi bú sữa phải kề sát ngực của nàng ta.
  3. Người nữ thân gầy guộc không ược chỉ ịnh làm vú nuôi, vì tứ chi của ứa bé như bắp ùi, v.v... dễ bị thương tổn do khi bú sữa phải kề sát ngực của nàng.
  4. Người nữ thân mập mạp không ược chỉ ịnh làm vú nuôi, vì hai chân của ứa bé dễ bị dị tật do khi bú sữa phải kề sát ngực của nàng.
  5. Người nữ có vú dài không ược chỉ ịnh làm vú nuôi, vì ứa bé dễ bị hếch mũi bởi vú của nàng ta è vào mũi của ứa bé khi ứa bé ang bú.
  6. Người nữ có nước da quá sậm không ược chỉ ịnh làm vú nuôi, vì sữa của nàng ta rất lạnh và không thích hợp cho ứa bé về lâu dài.
  7. Người nữ có nước da quá trắng không ược chỉ ịnh làm vú nuôi, vì sữa của nàng quá ấm và không thích hợp cho ứa bé về lâu dài.
  8. Người nữ bị bịnh ho không ược chỉ ịnh làm vú nuôi, vì sữa của nàng chua và không thích hợp cho ứa bé.
  9. Người nữ bị bịnh phổi không ược chỉ ịnh làm vú nuôi, vì sữa của nàng có vị hăng và ắng và không thích hợp cho ứa bé.

Những người àn bà như vậy không ược chỉ ịnh làm vú nuôi, chỉ những người àn bà không mắc phải mọi iều khiếm khuyết (về thân) mới ược chỉ ịnh làm vú nuôi.

Di mẫu Mahāpajāpati Gotamī nuôi dưỡng Thái tử 

Tuy những người hầu ã ược tuyển chọn và chỉ ịnh làm công việc chăm sóc Bồ tát theo cách kể trên, iều ặc biệt là Ngài có người dì, kế mẫu Mahāpajāpati Gotamī thường xuyên chăm sóc như một người mẹ thật sự.

 Giải thích : Sau khi hoàng hậu Mahāmāyā mạng chung, vua Suddhodāna phong dì của Bồ tát - Mahāpajāpati Gotamī lên ịa vị chánh hậu. Hai hoặc ba ngày sau khi Bồ tát ản sanh, bà Mahāpajāpati Gotamī cũng hạ sanh hoàng tử Nanda. Bà giao ứa con ruột của bà là hoàng tử Nanda cho các vú nuôi chăm sóc (khi ấy hoàng tử Nanda chỉ ược ba hoặc bốn ngày tuổi) và bà thế vào ịa vị người mẹ ể nuôi dưỡng Bồ tát. Như vậy Bồ tát thường xuyên ở trong vòng tay chăm sóc của người dì ruột (và cũng là kế mẫu) (Trích dẫn từ bài kinh Dakkhiṇāvibhaṅga trong bộ Chú giải Uparipaṇṇāsa).

Như vậy, thái tử Bồ tát Siddhattha lớn lên dưới sự chăm sóc của kẻ hầu người hạ trong cung vàng iện ngọc.   

                        KẾT THÚC CHƯƠNG 1                                 PHẬT BẢO  

]œ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

.

ĐPS T1A.001 Giới thiệu tác giả - dịch giả : -

ĐPS T1A.002 CHƯƠNG 1 KÍNH LỄ VÀ PHỤC NGUYỆN : -

ĐPS T1A.003 CHƯƠNG 2 SỰ XUẤT HIỆN HY HỮU CỦA MỘT VỊ PHẬT : -

ĐPS T1A.004 CHƯƠNG 3 BÀ-LA-MÔN SUMEDHA : -

ĐPS T1A.005 CHƯƠNG 4 SỰ XUẤT GIA CỦA SUMEDHA : -

ĐPS T1A.006 CHƯƠNG 5 SỰ THỌ KÝ : -

ĐPS T1A.007 CHƯƠNG 6 QUÁN XÉT VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT : -

ĐPS T1A.008 PHỤ CHÚ GIẢI ĐẠI PHẬT SỬ Cuốn I phần I : -

ĐPS T1B.001 CHƯƠNG 7 LINH TINH NHỮNG ĐIỂM CHÚ THÍCH VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT : -

ĐPS T1B.002 CHƯƠNG 8 MƯỜI TÁM BẤT KHẢ SỬ XỨ ABHABBAṬṬHĀNA : -

ĐPS T1B.003 CHƯƠNG 9 LỊCH SỬ 24 VỊ PHẬT TỔ : -

ĐPS T2A.001 CHƯƠNG 1 PHẬT BẢO : -

ĐPS T2A.002 CHƯƠNG 2 LỄ HẠ ĐIỀN : -

ĐPS T2A.003 CHƯƠNG 3     SỰ TRÔNG THẤY BỐN ĐIỀM TƯỚNG : -

ĐPS T2A.004 CHƯƠNG 4 SỰ CẮT TÓC VÀ TRỞ THÀNH SA-MÔN  : -

ĐPS T2A.005 CHƯƠNG 5 HỌC HỎI VÀ LUẬN BÀN VỚI ĀḶĀRA VÀ UDAKA : -

ĐPS T2A.006 CHƯƠNG 6 BỒ TÁT THỰC HÀNH PHÁP KHỔ HẠNH : -

ĐPS T2A.007 CHƯƠNG 7 SỰ CHỨNG ĐẮC PHẬT QUẢ  : -

ĐPS T2A.008 CHƯƠNG 8 ĐỨC PHẬT TRÚ NGỤ Ở BẢY CHỖ : -

ĐPS T2A.009 CHƯƠNG 9 ĐỨC PHẬT QUÁN XÉT TÁNH CHẤT CAO SIÊU CỦA PHÁP : -

ĐPS T2A.010 CHƯƠNG 10 CÂU CHUYỆN VỀ HAI VỊ THIÊN SĀTĀGIRA VÀ HEMAVATA (KINH HEMAVATA) : -

ĐPS T2A.011 CHƯƠNG 11 SỰ THUYẾT GIẢNG THANH TỊNH ĐẠO HÀNH : -

ĐPS T2A.012 CHƯƠNG 12 YASA, CON TRAI VỊ ĐẠI THƯƠNG NHÂN TRỞ THÀNH TỲ KHƯU : -

ĐPS T2A.013 CHƯƠNG 13 ĐỨC PHẬT PHÁI SÁU MƯƠI VỊ A-LA-HÁN ĐI TRUYỀN BÁ : -

ĐPS T2A.014 CHƯƠNG 14 SỰ GIÁO HOÁ BA ANH EM ẨN SĨ VÀ MỘT NGÀN ĐẠO SĨ : -

ĐPS T2A.015 CHƯƠNG 15 ĐỨC PHẬT VIẾNG THĂM KINH THÀNH RĀJAGAHA : -

ĐPS T2A.016 Phẩn giải thích bổ sung tập 2 : -

ĐPS T3A.001 : -

ĐPS T3A.002 CHƯƠNG 17 CHUYẾN ĐI CỦA ĐỨC PHẬT ĐẾN KAPILAVATTHU : -

ĐPS T3A.003 CHƯƠNG 18 NHỮNG CƠN MƯA ‘LÁ SEN’ RƠI XUỐNG HỘI CHÚNG : -

ĐPS T3A.004 CHƯƠNG 19 MỘT NGÀN VỊ HOÀNG TỬ THÍCH CA THỌ PHÉP XUẤT GIA TỪ ĐỨC THẾ TÔN : -

ĐPS T3A.005 CHƯƠNG 20 SỰ CHỨNG ĐẮC KHÁC NHAU CỦA SÁU VỊ HOÀNG TỬ : -

ĐPS T3A.006 CHƯƠNG 21 CÂU CHUYỆN VỀ SUMANA, NGƯỜI BÁN HOA CỦA THÀNH : -

ĐPS T3A.007 CHƯƠNG 22 SỰ THÀNH LẬP VESALI : -

ĐPS T3A.008 CHƯƠNG 23 ĐỨC THẾ TÔN NGỤ Ở VESALI - MÙA AN CƯ THỨ NĂM : -

ĐPS T3A.009 CHƯƠNG 24 ĐỨC PHẬT NGỰ Ở NGỌN NÚI MAKULA MÙA AN CƯ THỨ SÁU : -

ĐPS T3A.010 CHƯƠNG 25 HẠ THỨ BẢY VÀ SỰ THUYẾT GIẢNG ABHIDHAMMA TẠI CUNG TRỜI ĐAO LỢI (Tāvatiṃsa) : -

ĐPS T3A.011 CHƯƠNG 26 HẠ THỨ TÁM CỦA ĐỨC PHẬT TẠI THỊ TRẤN SUSUMARAGIRA : -

ĐPS T3A.012 CHƯƠNG 27 TRƯỞNG GIẢ GHOSAKA CỦA NƯỚC KOSAMBI : -

ĐPS T4A.001 CHƯƠNG 28 MÙA AN CƯ THỨ 10 CỦA ĐỨC PHẬT TẠI KHU RỪNG PĀLILEYYAKA : -

ĐPS T4A.002 CHƯƠNG 29 HẠ THỨ MƯỜI MỘT CỦA ĐỨC PHẬT TẠI LÀNG CỦA BÀ-LA-MÔN NĀḶA : -

ĐPS T4A.003 CHƯƠNG 30 HẠ THỨ MƯỜI HAI CỦA ĐỨC PHẬT TẠI THÀNH PHỐ VERAÑJĀ : -

ĐPS T4A.004 CHƯƠNG 31 TỲ KHƯU SUDINNA, CON TRAI CỦA THƯƠNG NHÂN KALANDA : -

ĐPS T4A.005 CHƯƠNG 32 HẠ THỨ MƯỜI BA CỦA ĐỨC PHẬT TẠI ĐỒI CALIKA : -

ĐPS T4A.006 CHƯƠNG 33 HẠ THỨ MƯỜI LĂM CỦA ĐỨC PHẬT TẠI KAPILAVATTHU : -

ĐPS T4A.007 CHƯƠNG 34 HẠ THỨ MƯỜI BẢY CỦA ĐỨC PHẬT TẠI VEḶUVANA : -

ĐPS T4A.008 CHƯƠNG 35 CÂU CHUYỆN VỀ MĀRA : -

ĐPS T4A.009 CHƯƠNG 36 CHIỀU CAO CỦA ĐỨC PHẬT ĐƯỢC ĐO BỞI MỘT BÀ-LA-MÔN : -

ĐPS T4A.010 CHƯƠNG 37 CÂU CHUYỆN VỀ VUA AJĀTASATTU : -

ĐPS T5A.001 CHƯƠNG 38 CHA MẸ BÀ-LA-MÔN CỦA ĐỨC PHẬT TRONG KIẾP QUÁ KHỨ : -

ĐPS T5A.002 CHƯƠNG 39 ĐẾ THÍCH SỞ VẤN : -

ĐPS T5A.003 CHƯƠNG 40 NHỮNG LỜI THUYẾT GIẢNG & SỰ VIÊN TỊCH BÁT NIẾT BÀN CỦA ĐỨC PHẬT : -

ĐPS T5A.004 CHƯƠNG 41 NHỮNG BÀI KỆ ĐỘNG TÂM : -

ĐPS T5A.005 CHƯƠNG 42 PHÁP BẢO – DHAMMA RATANA : -

ĐPS T6A.000 Giới thiệu qua chương 43 : -

ĐPS T6A.001 Câu chuyện về hai anh em: Mahākāla và Culakāla : -

ĐPS T6A.002 (2-3) HAI VỊ THƯỢNG THỦ THINH VĂN TRƯỞNG LÃO SĀRIPUTTA & TRƯỞNG LÃO MOGGALLĀNA : -

ĐPS T6A.003 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KASSAPA (Đại trưởng lão Ca-Diếp) : -

ĐPS T6A.004 ĐẠI TRƯỞNG LÃO ANURUDDHA : -

ĐPS T6A.005 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BHADDIYA : -

ĐPS T6A.006 ĐẠI TRƯỞNG LÃO AKUṆDAKA BHADDIYA : -

ĐPS T6A.007 ĐẠI TRƯỞNG LÃO PIṆḌOLA BHĀRADVĀJA : -

ĐPS T6A.008 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MANTĀNIPUTTA PUṆṆA : -

ĐPS T6A.009 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KACCĀYANA (Ca-chiên-diên) : -

ĐPS T6A.010 (11&12) HAI VỊ ĐẠI TRƯỞNG LÃO TÊN PANTHAKA : -

ĐPS T6A.011 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SUBHŪTI (TU BỒ ĐỀ) : -

ĐPS T6A.012 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KHADIRAVANIYA REVATA : -

ĐPS T6A.013 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KAṄKHĀ REVATA : -

ĐPS T6A.014 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KOḶIVISA : -

ĐPS T6A.015 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KUṬIKAṆṆA : -

ĐPS T6A.016 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SĪVALI : -

ĐPS T6A.017 ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAKKALI : -

ĐPS T6A.018 (20-21) ĐẠI TRƯỞNG LÃO RĀHULA & ĐẠI TRƯỞNG LÃO RAṬṬHAPĀLA : -

ĐPS T6A.019 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KUṆḌA DHĀNA : -

ĐPS T6A.020 ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAṄGĪSA : -

ĐPS T6A.021 ĐẠI TRƯỞNG LÃO UPASENA VAṄGANTAPUTTA : -

ĐPS T6A.022 ĐẠI TRƯỞNG LÃO DABBA : -

ĐPS T6A.023 ĐẠI TRƯỞNG LÃO PILINDAVACCHA : -

ĐPS T6A.024 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BĀHIYA DĀRUCĪRIYA : -

ĐPS T6A.025 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KUMĀRA KASSAPA : -

ĐPS T6A.026 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KOṬṬHIKA : -

ĐPS T6A.027 ĐẠI TRƯỞNG LÃO ĀNANDA : -

ĐPS T6A.028 ĐẠI TRƯỞNG LÃO URUVELA KASSAPA : -

ĐPS T6A.029 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KĀḶUDĀYĪ : -

ĐPS T6A.030 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BĀKULA : -

ĐPS T6A.031 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOBHITA : -

ĐPS T6A.032 ĐẠI TRƯỞNG LÃO UPĀLI : -

ĐPS T6A.033 ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDAKA : -

ĐPS T6A.034 ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDA : -

ĐPS T6A.035 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KAPPINA : -

ĐPS T6A.036 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SĀGATA : -

ĐPS T6A.037 ĐẠI TRƯỞNG LÃO RĀDHA : -

ĐPS T6A.038 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MOGHARĀJA : -

ĐPS T6A.039 BĀVARĪ VỊ THẦY BÀ LA MÔN ( tiếp theo) : -

ĐPS T6B.001 Chapter 44 LIfE HISTORIES Of BHIKKHUN¢ ARAHATS : -

ĐPS T6B.002 Chapter 45 THE LIfE STORIES Of MALE LAY DISCIPLES : -

ĐPS T6B.003 EPILOGUE : -

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications