Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐPS T1A.006 CHƯƠNG 5 SỰ THỌ KÝ
Trong thời gian ẩn sĩ Sumedha thành tựu các pháp hành của vị Sa- môn đúng với truyền thống thực hành của những vị ẩn sĩ cao quý và đã đắc Bát thiền Ngũ thông, thì trong thế gian Đức Phật Nhiên Đăng (Dīpaṅkara) xuất hiện. Ba mươi hai biến cố kỳ diệu như sự rung chuyển của mười ngàn thế giới xảy ra trong bốn trường hợp liên quan đến sự xuất hiện của Đức Phật Nhiên Đăng, đó là: nhập thai, đản sanh, thành đạo và lúc Đức Phật thuyết giảng bài pháp đầu tiên. Nhưng đạo sĩ Sumedha không hay biết những biến cố kỳ diệu này vì vị ấy mãi trú trong sự an lạc của các tầng thiền.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:5921

Các tên gọi khác

Trong thời gian ẩn sĩ Sumedha thành tựu các pháp hành của vị Sa- môn đúng với truyền thống thực hành của những vị ẩn sĩ cao quý và đã đắc Bát thiền Ngũ thông, thì trong thế gian Đức Phật Nhiên Đăng (Dīpaṅkara) xuất hiện. Ba mươi hai biến cố kỳ diệu như sự rung chuyển của mười ngàn thế giới xảy ra trong bốn trường hợp liên quan đến sự xuất hiện của Đức Phật Nhiên Đăng, đó là: nhập thai, đản sanh, thành đạo và lúc Đức Phật thuyết giảng bài pháp đầu tiên. Nhưng đạo sĩ Sumedha không hay biết những biến cố kỳ diệu này vì vị ấy mãi trú trong sự an lạc của các tầng thiền.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
ĐPS T1A.006 CHƯƠNG 5 SỰ THỌ KÝ

CHƯƠNG 5

SỰ THỌ KÝ

 

Trong thời gian ẩn sĩ Sumedha thành tựu các pháp hành của vị Sa- môn đúng với truyền thống thực hành của những vị ẩn sĩ cao quý và đã đắc Bát thiền Ngũ thông, thì trong thế gian Đức Phật Nhiên Đăng (Dīpaṅkara) xuất hiện. Ba mươi hai biến cố kỳ diệu như sự rung chuyển của mười ngàn thế giới xảy ra trong bốn trường hợp liên quan đến sự xuất hiện của Đức Phật Nhiên Đăng, đó là: nhập thai, đản sanh, thành đạo và lúc Đức Phật thuyết giảng bài pháp đầu tiên. Nhưng đạo sĩ Sumedha không hay biết những biến cố kỳ diệu này vì vị ấy mãi trú
trong sự an lạc của các tầng thiền.

Sau khi thành đạo, Đức Phật Nhiên Đăng thuyết giảng bài pháp đầu tiên đến một trăm ngàn koti (1 koti = 10 triệu) chư thiên và nhân loại tại Sunandarama. Sau đó, Ngài bắt đầu cuộc hành trình diệt trừ phiền não cho chúng sanh bằng cách rưới lên họ dòng nước thanh tịnh của chánh pháp, như trận mưa lớn đổ xuống khắp bốn châu lục.

Rồi cùng với bốn trăm ngàn vị A-la-hán, Ngài đi đến thành phố Rammavati và ngụ tại tịnh xá Sudassana. Trong lúc đó, Sumedha đang thọ hưởng sự an lạc của các tầng thiền ở trong rừng và hoàn toàn không hay biết về sự xuất hiện của Đức Phật Nhiên Đăng trong thế gian.

Nghe tin Đức Phật đã đến tại tịnh xá Sudassana, sau khi ăn sáng dân cư thành Rammavatī mang những vật thí thượng hạng làm thuốc trị bịnh như bơ, sữa v.v... cũng như các hương liệu và hoa và đến yết kiến Đức Phật.

Sau khi đảnh lễ Đức Phật và cúng dường đến Ngài các loại hương hoa, họ ngồi xuống ở chỗ phải lẽ và lắng nghe bài pháp khả ái nhất của Ngài. Cuối thời pháp, họ thỉnh Đức Phật và chúng Tăng thọ thực vào ngày mai, sau khi nhiễu ba vòng quanh Ngài để tỏ sự tôn kính, họ rời tịnh xá và trở về nhà.

Những công việc sửa soạn chu đáo đón tiếp
          Đức Phật và chúng Tăng

Ngày hôm sau, dân cư thành Rammāvati đã sửa soạn chu đáo cuộc lễ bố thí vật thực vĩ đại và vô song (asadisa-mahādāna). Một cái rạp
lớn được dựng lên, những hoa sen màu xanh thanh khiết và mềm mại
được rải đầy trong rạp; không trung ngào ngạt bốn mùi hương. Những
loại hoa được làm từ những miếng bánh tráng nhỏ cũng được rải khắp

nơi. Những cái chum nước mát có lá chuối đậy bên trên được đặt ở
bốn góc rạp. Một cái lọng có đính những hoa sao bằng vàng, bạc và
ngọc được gắn vào giữa trần của cái rạp. Hoa thơm và châu báu giống
như những bông hoa được kết thành tràng treo ngang, thả dọc khắp
nơi. Khi sự trang hoàng, sắp đặt cho giả ốc đã hoàn tất, dân cư bắt đầu
quét dọn thành phố sạch sẽ và ngăn nắp. Ở hai bên đường chính, họ
đặt những chum nước, những cây chuối có buồng, cờ xí được treo lên,
những tấm màng có trang trí hoa văn được giăng lên ở những nơi
thích hợp.

Khi những công việc sửa soạn cần thiết đã được thực hiện trong
thành phố, dân chúng kéo nhau đi đắp đường để Đức Phật đi vào
thành phố. Họ lấy đất lấp vào những ổ gà và chỗ lở do những cơn lụt
để lại và san bằng chỗ đất gồ ghề, bùn lầy. Họ rải cát trắng như ngọc

trai lên con đường, rải những hột nổ đủ màu và trồng những cây chuối
có buồng dọc theo con đường. Như vậy dân cư thành Rammavati đã

làm tất cả những công việc sửa soạn và sắp xếp cho cuộc lễ bố thí vật
thực.

Lúc bấy giờ, ẩn sĩ Sumedha rời ẩn xá bay xuyên qua không trung,
trông thấy dân cư thành Rammavati đang hoan hỷ đắp đất và trang
hoàng đường sá. Muốn biết chuyện gì đang xảy ra ở bên dưới, đạo sĩ
tò mò đáp xuống và đứng ở chỗ thích hợp cho dân chúng nhìn thấy.
Rồi đạo sĩ cất tiếng hỏi:

“Các vị đang đắp đường một cách vui vẻ và hăng say. Vì lợi ích của ai mà các vị đắp đường vậy?”
Dân chúng bèn trả lời:

“Thưa Ngài Sumedha: Thế gian này đã xuất hiện Đức Phật Nhiên
Đăng, bậc đã chiến thắng năm đạo binh của ác ma, và cũng là bậc Tối
thượng trong thế gian. Chúng tôi đang đắp đường vì chuyến du hành
của Đức Phật ấy.”

(Từ câu chuyện này, chúng ta thấy rằng Đức Phật Nhiên Đăng chỉ
xuất hiện sau khi đạo sĩ Sumedha đã chứng đắc Bát thiền Ngũ thông.
Đạo sĩ Sumedha hoàn toàn không hay biết về sự nhập thai, đản sanh,

thành đạo và Chuyển pháp luân của Đức Phật Nhiên Đăng vì vị ấy chỉ
đi lại trong rừng hoặc bay trên không trung, mãi trú trong sự an lạc
của định và thần thông, không quan tâm chuyện gì xảy ra trong thế

gian. Chỉ khi vị ấy đang bay xuyên qua không trung, trông thấy dân
chúng thành Rammavati đang sửa đường và quét dọn, vị ấy mới đáp
xuống và hỏi chuyện gì đang xảy ra. Điều này cho thấy rằng, lúc bấy
giờ đạo sĩ Sumedha cũng đã vài chục ngàn tuổi vì tuổi thọ của con
người trong thời Đức Phật Nhiên đăng là một trăm ngàn tuổi).

Sumedha tham dự vào công việc đắp đường

Sumedha rất hoan hỷ khi nghe tiếng “Phật” được thốt ra từ dân
chúng thành Rammavati. Vị ấy tràn đầy hạnh phúc và luôn miệng thốt
lên tiếng “Phật, Phật” do sự vui sướng đang tràn ngập trong toàn thân
tâm của vị ấy.

Đứng ở vị trí đáp xuống, Sumedha đầy hạnh phúc và niềm tịnh tín, bèn suy nghĩ như vầy: “Ta sẽ gieo những hạt giống phước thù thắng vào mảnh đất mầu mỡ, tức là Đức Phật Nhiên Đăng, để trau dồi những thiện nghiệp. Quả thật, rất hiếm hoi và khó khăn được chứng kiến giây phút hạnh phúc là sự xuất hiện của Đức Phật. Giây phút hạnh phúc ấy giờ đây đã đến với ta. Đừng dể duôi bỏ qua.”

Sau khi đã suy nghĩ như vậy, vị ấy hỏi dân chúng rằng:

“Thưa quý vị, nếu quý vị đang làm đường để Đức Phật đi qua, xin hãy nhường cho tôi một đoạn đường. Tôi cũng muốn tham dự vào công việc sửa đường của quý vị”.

Dân chúng đáp lại:“Lành thay!”

Vì họ tin rằng đạo sĩ Sumedha có đại thần thông lực, nên họ chỉ cho vị ấy một khoảng đất lớn, lầy lội, rất gồ ghề và khó đắp vá. Khi giao đoạn đường ấy cho đạo sĩ, họ nói rằng:

“Ngài có lẽ sẽ đắp vá và trang hoàng đoạn đường này thật tốt.”

Rồi Sumedha, với tâm đầy vui sướng khi tưởng niệm đến các ân đức của Phật, quyết định rằng: “Ta có thể đắp vá con đường này bằng thần thông của ta để nó trông khả ái hơn. Nhưng nếu ta làm như vậy thì dân chúng quanh ta sẽ không đánh giá cao về nó (vì nó được làm rất dễ dàng trong tích tắc). Hôm nay ta sẽ làm công việc này bằng chính sức lao động của mình”. Sau khi đã quyết định như vậy, vị ấy lấy đất từ xa đến lấp vào những vũng lầy.

Đức Phật Dīpaṅkarā đi đến

Trước khi đạo sĩ Sumedha làm xong công việc được chỉ định thì Đức Phật Nhiên Đăng đi đến với bốn trăm ngàn vị A-la-hán - tất cả đều có lục thông, đã sạch hết phiền não và tám pháp thế gian không thể nào làm lay chuyển tâm các Ngài.

Khi Đức Phật Nhiên Đăng đến cùng với bốn trăm ngàn vị A-la-hán,
thì chư thiên và nhân loại cung kính đón các Ngài bằng tiếng của các

loại trống. Họ cũng bày tỏ niềm vui bằng cách hát lên những bài hát hoan hỷ để đón chào và tôn vinh Đức Phật.

Lúc bấy giờ, tất cả nhân loại đều trông thấy chư thiên và chư thiên
cũng trông thấy nhân loại. Tất cả những chúng sanh này, chư thiên và
nhân loại, một số chấp tay cung kính, còn số khác thì tấu lên nhiều
loại nhạc cụ.

Chư thiên đi theo ở trên không trung tung rải khắp nơi những bông
hoa của chư thiên như hoa Mạn-đà-la, hoa sen, hoa kovilāsa để tôn
kính Đức Phật. Ở dưới mặt đất, nhân loại cũng làm như thế, họ tung
rải các loại hoa như campā, sarala, mucalinda, nāga, punnāga
ketakī.

Đạo sĩ Sumedha nhìn không chớp mắt kim thân của Đức Phật - rực
rỡ với ba mươi hai hảo tướng của bậc đại trượng phu và tám mươi
tướng phụ. Vị ấy chứng kiến kim thân chói sáng của Đức Phật, giống
như một khối vàng ròng, với hào quang chói sáng quanh Ngài và hào
quang sáu màu phát ra từ thân Ngài, phóng đi như tia chớp ngang bầu
trời xanh biếc.

Rồi đạo sĩ quyết định như vầy: “Hôm nay ta nên dứt bỏ thân mạng
của ta trước Đức Phật. Đừng để Ngài giẫm lên bùn một cách bất tiện.

Hãy để Đức Phật và bốn trăm ngàn vị A-la-hán đệ tử của Ngài giẫm
lên lưng của ta và bước đi, tựa như đi trên một chiếc cầu màu hồng
ngọc. Lấy thân ta làm chiếc cầu để Đức Phật và các vị La-hán bước
qua, việc này sẽ đem lại cho ta lợi ích và hạnh phúc lâu dài.

Sau khi đã quyết định như vậy, vị ấy buông xả chân tóc búi, trải ra tấm thảm bằng da beo và chiếc y vải bố lên vũng nước và nằm sấp xuống trên chúng, trông như chiếc cầu gỗ có màu hồng ngọc.

Đạo sĩ Sumedha phát nguyện thành bậc Chánh đẳng Chánh giác

Sau khi đã trải mình trên vũng lầy như thế, đạo sĩ Sumedha đã phát khởi chí nguyện thành Phật như vầy:

 

“Nếu muốn, chính ngày hôm nay ta có thể trở thành một vị La-hán
sạch hết lậu hoặc và các pháp ô nhiễm trong tâm cũng được đoạn trừ.

Nhưng giác ngộ đạo quả A-la-hán và Niết bàn như một vị La-hán tầm
thường trong giáo pháp của Đức Phật Nhiên Đăng thì có ích gì cho ta?
Ta phải cố gắng hết sức để chứng đắc đạo quả Vô thượng Chánh đẳng
giác.”

“Giải thoát luân hồi cho riêng mình thì thật ích kỷ trong khi ta là
bậc thượng nhân, hiểu biết đầy đủ về trí tuệ xuất chúng, niềm tin và sự
tinh tấn. Ta sẽ cố gắng để chứng đắc đạo quả Phật Chánh đẳng giác và
giải thoát tất cả chúng sanh luôn cả chư thiên ra khỏi biển khổ luân
hồi.

Sau khi thành đạt đạo quả Vô thượng Chánh đẳng giác do quả phước vô song này, từ hành động đem thân mình trải dài trên bùn để làm cầu cho Đức Phật Nhiên Đăng đi qua, ta sẽ cứu độ vô số chúng sanh ra khỏi biển luân hồi.

Sau khi vượt qua dòng sông luân hồi, bỏ lại ba cõi, trước hết ta sẽ tự mình bước lên chiếc bè Bát chánh đạo và đi cứu vớt tất cả chúng sanh bao gồm chư thiên.”

Như vậy tâm của vị ấy hướng đến việc trở thành một vị Phật.

Sumittā là Yasodharā tương lai

Khi Sumedha đang lập nguyện thành Phật thì một thiếu nữ Bà-la-
môn tên là Sumittā, đi đến hòa nhập với đoàn người đang vây quanh
Đức Phật. Nàng mang theo tám hoa sen để cúng dường Đức Phật. Khi nàng đi vào đám người và ngay lúc nàng nhìn thấy Sumedha thì một tình cảm mãnh liệt với vị ấy đột nhiên khởi sanh trong nàng. Nàng muốn dâng cúng cho vị ấy một vật thí nào đó, nhưng chẳng có gì ngoài tám bông sen, nên nàng nói với vị ấy rằng:

“Kính thưa đạo sĩ, con cúng dường Ngài năm hoa sen để Ngài cúng
dường lên Đức Phật. Ba cánh hoa còn lại là phần con, con sẽ dâng lên

Ngài.”

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                  71

Rồi nàng trao năm hoa sen cho đạo sĩ Sumedha và bày tỏ ước muốn
rằng:

“Thưa ẩn sĩ, trải qua suốt thời gian dài thực hành viên mãn Ba-la-
mật của Ngài để thành đạt đạo quả Phật. Con nguyện sẽ làm người cộng tác trong cuộc đời của Ngài.”

Sumedha nhận lấy những hoa sen từ thiếu nữ Sumittā và giữa đám đông, vị ấy dâng cúng đến Đức Phật Nhiên Đăng đang trước mặt vị ấy, xong vị ấy phát nguyện thành bậc Chánh đẳng giác.

Đức Phật quan sát cảnh xảy ra giữa Sumedha và Sumittā, Ngài tiên tri giữa đại chúng như sau:

“Này Sumedha, cô gái Sumittā này sẽ là người tham dự vào cuộc
đời của ngươi, trợ giúp ngươi bằng hành động và sự nhiệt tình không
kém gì ngươi để giúp ngươi thành đạt Phật quả. Nàng sẽ khiến ngươi

hoan hỷ trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm của nàng. Tương lai
nàng sẽ có dáng vẻ yêu kiều, khả ái, có giọng nói ngọt ngào và tính
tình vui vẻ. Trong thời kỳ giáo pháp của ngươi, khi ngươi là một vị

Phật trong kiếp cuối cùng, nàng sẽ trở thành nữ đệ tử nhận lãnh di sản
tinh thần của ngươi, là đạo quả A-la-hán cùng với sáu Thắng trí.

Lời tiên tri

Như đã nêu ra dưới nhan đề “Quán niệm về sự xuất hiện hy hữu
của một vị Phật”, không ai trong đám đông mà không phát nguyện

thành Phật khi trông thấy oai lực vĩ đại của một vị Phật. Dù họ phát
nguyện thành Phật nhưng không ai trong họ có đặc tánh thành Phật.
Tuy nhiên, không giống như đại chúng, Sumedha có đủ tất cả những
nhân tố cần thiết để chứng đắc Phật quả. Thực vậy, vị ấy có khuynh
hướng thành Phật vì có tám yếu tố cần thiết để được thọ ký. Tám yếu
tố này là: (1) làm người thực sự, (2) người nam, (3) có tất cả những
điều kiện cần thiết để giác ngộ đạo quả A-la-hán, (4) gặp được Đức

Phật đang tại tiền, (5) làm một vị Sa-môn có niềm tin vào định luật
Nghiệp báo, (6) đã chứng đắc Bát thiền Ngũ thông, (7) sẵn sàng hiến
thân mạng của mình vì lợi ích của một vị Phật. Nếu Đức Phật và bốn

trăm ngàn vị A-la-hán đi lên lưng của đạo sĩ Sumedha khi vị ấy đang nằm sấp, tựa như các Ngài đang đi trên chiếc cầu thì ắt vị ấy sẽ không còn sống. Biết rõ điều này, nhưng Sumedha sẵn sàng phục vụ đến Đức Phật mà không do dự và không nản lòng. Sự thực hành như vậy được gọi là Tăng thượng tác thiện (adhikārakusala) và (8) có nguyện vọng thành Phật rất mạnh mẽ. Vì đạo quả Phật, cho dù toàn thể thế giới được rải đầy than hồng nóng đỏ và cắm đầy gươm đao bén nhọn, vị ấy sẽ không nhụt chí mà vẫn bước lên chúng.

Biết rằng Sumedha có đủ những đặc tánh cần thiết ấy, Đức Phật
Nhiên Đăng đích thân đi đến Sumedha và khi đứng ở phía đầu của vị
ấy, Ngài vận dụng thần thông nhìn về tương lai để xem Sumedha,
người đang nằm trên bùn với ý chí thành Phật, liệu có thành tựu ước
nguyện không. Rồi Đức Phật Nhiên Đăng thấy tất cả tương lai của đạo
sĩ Sumedha như vầy: “Sau bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp
kể từ hôm nay, Sumedha sẽ trở thành một vị Phật tên là Gotama.” Đức
Phật nói lên lời tiên tri bằng chín câu kệ bắt đầu bằng những chữ:
Passātha imaṃ tāpasaṃ jatilaṃ uggatāpanaṃ.”

(1) Này các tỳ khưu, hãy nhìn vị đạo sĩ tóc búi này đang thực hành các
      pháp khổ hạnh nghiêm ngặt! Vị ẩn sĩ Sumedha này sẽ trở thành

một đấng Giác ngộ giữa chư thiên, Phạm thiên và nhân loại sau vô
số đại kiếp, chính xác là bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp
kể từ bây giờ.

(2) Trước ngưỡng cửa đạo quả Phật của vị ấy, Sumedha sẽ từ bỏ thế
    
gian, bỏ lại kinh thành Kapilavatthu xa hoa, lộng lẫy. Rồi vị ấy sẽ

chuyên  tâm  hành  thiền  và  thực  hành  những  pháp  khổ  hạnh (dukkaracariyā).

(3) Trong khi đang ngụ dưới cội cây Ajapāla, vị ấy sẽ thọ lãnh lễ vật
    
cúng dường bằng món cơm sữa và đi đến sông Ni-liên-thiền

(Neraṇjarā)

(4) Khi sắp chứng đắc Phật quả, vị ấy sẽ độ món cơm sữa ở trên bờ
    
sông và đi đến cây Bồ-đề bằng lối đi được chư thiên khéo chuẩn

bị.

(5) Khi vị ấy đến cây Bồ đề - nơi giác ngộ, vị ấy đi quanh cây theo
     
chiều kim đồng hồ. Vị ấy sẽ đi từ hướng Nam sang hướng Tây, từ

hướng Tây sang Bắc và từ Bắc sang Đông. Sau khi đã an vị dưới
cội cây bồ đề, vị ấy chứng đắc tuệ quán, thông đạt Tứ Diệu Đế và
trở thành vị Chánh Biến Tri, vô song, danh tiếng vang lừng.

(6) Mẹ của vị Phật này có tên là Māyā Devī, cha là Suddhodana. Vị
     
Phật này có tên Gotama.

(7) Hai vị Tối thượng Thinh văn của vị ấy sẽ là Kolita và Upatissa -
     
bậc thoát khỏi các lậu hoặc (āsava) và tham ái (rāga), có tâm

thanh tịnh và định thâm sâu. Vị tỳ khưu có tên Ānanda, sẽ là thị giả của vị Phật này.

(8) Hai trưởng lão ni Khemā và Uppalavannā, là những bậc thoát khỏi
     lậu hoặc và tham ái, có tâm vắng lặng và định thâm sâu, sẽ trở

thành hai nữ Tối thượng Thinh văn.

(9) Citta và Hatthālavaka là hai vị cận sự nam Tối thắng hầu hạ Đức
     
Phật. Tương tự, Uttarā và Nandamātā là hai cận sự nữ Tối thắng.

Sự tung hô của chư thiên và nhân loại

Nghe lời tiên tri của Đức Phật Nhiên Đăng, bậc Vô song trong tam giới, chư thiên và nhân loại vui mừng tung hô: “Ẩn sĩ Sumedha đã được tiên tri là hạt giống của Đức Phật đương lai.” Và họ vỗ tay reo mừng. Chư thiên và Phạm thiên đến từ mười ngàn thế giới cùng với nhân loại đều đưa tay lên để tỏ sự tôn kính.

Họ cũng bày tỏ ước muốn của họ bằng những lời cầu nguyện:

“Cho dù bây giờ chúng tôi không thực hành được giáo pháp của
Đức Phật Nhiên Đăng, bậc Thế Tôn, chúng tôi cũng sẽ gặp vị ẩn sĩ

 

cao quý này mà tương lai là vị Phật. Lúc ấy chúng tôi có thể phấn đấu thành đạt trí tuệ bậc cao trong giáo pháp.

“Ví dụ có những người cố gắng vượt qua con sông, nhưng không
thể đến bờ bên kia vì họ bị dòng nước cuốn đi. Tuy nhiên họ sẽ tìm
cách bám vào một chỗ đáp nào đó dưới con sông và từ đó vượt qua

đến bờ bên kia.

“Dường thế ấy, dù chúng ta vẫn chưa thể thực hành giáo pháp của
Đức Phật Nhiên Đăng nhưng chúng ta sẽ gặp ẩn sĩ Sumedha đã được

thọ ký thành Phật trong tương lai và khi ấy chúng ta sẽ chứng đắc Đạo
Quả.

Đức Phật Dīpaṅkarā tiếp tục đi đến thành Rammavatī

Đức Phật Nhiên Đăng, bậc xứng đáng thọ lãnh vật thí từ phương xa đem đến (Āhuneyyo), bậc Thế gian giải thông suốt tam giới (lokavidū). Sau khi đã thọ ký cho đạo sĩ Sumedha và tôn vinh vị ấy bằng tám nắm hoa, Ngài bước đi với bàn chân phải đặt bên cạnh Sumedha.

Từ chỗ Đức Phật nói lời tiên tri, bốn trăm ngàn vị La-hán cũng
bước đi, hướng đạo sĩ Sumedha bên phải của các Ngài (sau khi tôn
vinh vị ấy bằng hương hoa). Nhân loại, rồng và các nhạc sĩ chư thiên
cũng rời đi sau khi đảnh lễ đạo sĩ Sumedha và cúng dường vị ấy bằng
hoa và bột thơm.

Giữa những hương hoa tôn vinh được tưới xuống đạo sĩ Sumedha
do chư thiên và dân chúng thành Rammavati, Đức Phật Nhiên Đăng

với bốn trăm ngàn vị A-la-hán tháp tùng, tiếp tục theo con đường đầy
cờ xí và hoa để vào thành phố. Đức Phật ngồi vào chỗ đã được sửa
soạn dành cho Ngài. Sau khi an tọa, Ngài như mặt trời ban mai mới
mọc trên đỉnh núi Yugandhara; giống như những tia nắng ban mai làm
cho những đóa sen bừng nở, Đức Phật phóng ra những tia sáng giác
ngộ làm cho những người sắp giải thoát có trí thông đạt Tứ Diệu Đế.
Bốn trăm ngàn vị La-hán cũng ngồi vào đúng vị trí của họ. Khi ấy dân

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                  75

cư thành Rammavati tiến hành lễ bố thí vật thực vô song đến Đức Phật và chúng đệ tử tỳ khưu của Ngài.

Niềm vui sướng và mãn nguyện của Sumedha

Khi Đức Phật Nhiên Đăng, bậc chúa tể của tam giới, và bốn trăm ngàn vị A-la-hán đi khuất tầm nhìn, đạo sĩ Sumedha từ chỗ nằm đứng dậy lòng vui sướng và đầy hỷ lạc, hân hoan và thỏa mãn, vị ấy ngồi kiết già trên đống hoa khổng lồ do chư thiên và nhân loại tung rải cúng dường, rồi suy xét:

“Ta đã thành tựu Bát thiền và chứng đắc Năm pháp thần thông. Khắp mười ngàn thế giới, không có vị đạo sĩ nào sánh bằng ta, ta thấy không ai ngang bằng ta về các pháp thần thông.”

Suy tưởng như vậy, vị ấy ngồi thọ hưởng niềm vui sướng và thỏa mãn tột độ.

Chư thiên công bố về 32 hiện tượng lúc thọ ký

Khi Sumedha đang ngồi kiết già như vậy, đầy hạnh phúc trong sự hồi tưởng về những lời tiên tri của Đức Phật Nhiên Đăng và đang có cảm giác tựa hồ như vị ấy đã có viên bảo ngọc là đạo quả Phật trong tay, thì chư thiên và Phạm thiên từ mười ngàn thế giới đi đến và công bố bằng âm thanh vang dội:

1. Thưa Ngài Sumedha, 32 hiện tượng của sự tiên tri giờ đây đã xảy
   
ra. Những hiện tượng này cũng đã xảy ra đối với chư vị Bồ-tát

trong quá khứ, khi họ được thọ ký và đang ngồi kiết già y như Ngài bây giờ. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

2. Thưa Ngài Sumedha, khi chư vị Bồ-tát quá khứ được thọ ký, thì
   
thời tiết không nóng quá cũng không lạnh quá. Hai hiện tượng này

đã được thấy rõ ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

3. Thưa Ngài Sumedha, khi chư vị Bồ-tát quá khứ được thọ ký thì có
    sự tĩnh lặng hoàn toàn và tuyệt đối không có sự náo động khắp

 

mười ngàn thế giới. Hai hiện tượng này đã được thấy rõ ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

4. Thưa Ngài Sumedha, khi chư vị Bồ-tát quá khứ được thọ ký thì
   
không có những cơn gió mạnh dấy lên, những con sông cũng ngưng

chảy. Hai hiện tượng này đã được thấy rõ ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

5. Thưa Ngài Sumedha, khi chư vị Bồ-tát quá khứ được thọ ký thì tất
    cả bông hoa trên đất và bông hoa dưới nước đều đồng loạt nở hoa.

Hiện tượng này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

6. Thưa Ngài Sumedha, khi chư vị Bồ-tát quá khứ được thọ ký thì tất
    cả cây leo và những cây khác đồng loạt ra trái. Hiện tượng này đã

xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối
chuyển.

7. Thưa Ngài Sumedha, khi chư vị Bồ-tát quá khứ được thọ ký thì tất
    cả châu báu ở trên trời và dưới đất đều phát sáng. Hiện tượng này

đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối
chuyển.

8.  Thưa Ngài Sumedha, khi chư vị Bồ-tát quá khứ được thọ ký thì
    
những tiếng nhạc trên trời cũng như dưới đất đều được nghe thấy.

Những nhạc cụ ấy tự phát ra tiếng mà không cần chư thiên hay nhân loại tấu lên. Hiện tượng này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

9.  Thưa Ngài Sumedha, khi chư vị Bồ-tát quá khứ được thọ ký thì
    
những đóa hoa lạ tuyệt đẹp từ trên trời rơi xuống như mưa. Hiện

tượng này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

10. Thưa Ngài Sumedha, khi chư vị Bồ-tát quá khứ được thọ ký thì đại
     dương quay cuồng và mười ngàn thế giới rung chuyển. Có những

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                  77

tiếng gầm to lớn do hai hiện tượng này gây nên. Hiện tượng này đã
xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối
chuyển.

11. Thưa Ngài Sumedha, khi chư vị Bồ-tát quá khứ  được thọ ký thì
    
các ngọn lửa địa ngục khắp mười ngàn thế giới đều tắt lịm. Hiện

tượng này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

12. Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được thọ
     ký, mặt trời hoàn toàn sáng rực, tất cả những vì sao và tinh tú đều

có thể được thấy rõ suốt ngày. Hiện tượng này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

13. Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được thọ
     ký, nước từ dưới đất phun lên mà không cần có mưa. Hiện tượng

này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

14. Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị bồ tát quá khứ được thọ

ký, tinh tú và các thiên thể chiếu sáng rực rỡ. Sao Visākha xuất hiện cùng với trăng tròn. Hiện tượng này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

15. Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được

thọ ký, các loài rắn, loài cầy và những loài thú sống trong hang, những loài chồn cáo và các loài thú sống trong núi đều ra khỏi chỗ ở của chúng. Hiện tượng này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

16. Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được

thọ ký, không có dấu hiệu bực bội trong tâm của chúng sanh hữu
tình và tất cả đều hài lòng với những gì chúng có. Hiện tượng
này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không
thối chuyển.

 

17.   Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được

thọ ký, tất cả chúng sanh hữu tình đều hết bịnh và không đói khát. Hiện tượng này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

18.   Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được

thọ ký, chúng sanh không tham luyến dục trần, không sân hận và đần độn si mê. Hiện tượng này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

19.     Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được

thọ ký, tất cả chúng sanh không có sự sợ hãi. Hiện tượng này đã
xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối
chuyển.

20.   Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được

thọ ký, không gian trong lành, không bụi bặm, không sương khói. Hiện tượng này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

21.   Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được

thọ ký, không gian không có những mùi khó chịu và hoàn toàn
ngập tràn hương thơm của chư thiên. Hiện tượng này đã xảy ra
ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

22.   Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được

thọ ký, chư thiên và Phạm thiên (ngoại trừ những vị Phạm thiên
vô sắc) đều được mọi người trông thấy. Hiện tượng này đã xảy ra
ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

23.    Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được

thọ ký, tất cả mọi cõi khổ đều hiện rõ. Hiện tượng này đã xảy ra
ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

24.   Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được

thọ ký, tất cả vách tường, cửa và ngay cả các ngọn núi đều luôn
mở rộng, không có vật chắn. Ngày hôm nay tất cả vách tường,

 

cửa nẻo và núi non như khoảng không thông suốt. Hiện tượng
này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không
thối chuyển.

25.   Thưa Ngài Sumedha, vào ngày mà chư vị Bồ-tát quá khứ được
       
thọ ký, không có sự mạng chung hay thọ sanh của chúng sanh.

Hiện tượng này đã xảy ra ngày hôm nay. Như vậy Ngài sẽ thành Phật không thối chuyển.

Những lời sách tấn của chư thiên và Phạm thiên

Chư thiên và Phạm thiên đến từ mười ngàn thế giới đã nói lời tán dương và sách tấn Sumedha như vầy:

“Thưa Ngài Sumedha cao quý, hãy nỗ lực và cố gắng không ngừng! Đừng thối chuyển. Hãy tiến tới bằng sự tinh tấn của Ngài. Chúng tôi biết chắc rằng Ngài sẽ thành Phật.”

 

 

KẾT THÚC CHƯƠNG 5

SỰ THỌ KÝ



.

ĐPS T1A.001 Giới thiệu tác giả - dịch giả : -

ĐPS T1A.002 CHƯƠNG 1 KÍNH LỄ VÀ PHỤC NGUYỆN : -

ĐPS T1A.003 CHƯƠNG 2 SỰ XUẤT HIỆN HY HỮU CỦA MỘT VỊ PHẬT : -

ĐPS T1A.004 CHƯƠNG 3 BÀ-LA-MÔN SUMEDHA : -

ĐPS T1A.005 CHƯƠNG 4 SỰ XUẤT GIA CỦA SUMEDHA : -

ĐPS T1A.006 CHƯƠNG 5 SỰ THỌ KÝ : -

ĐPS T1A.007 CHƯƠNG 6 QUÁN XÉT VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT : -

ĐPS T1A.008 PHỤ CHÚ GIẢI ĐẠI PHẬT SỬ Cuốn I phần I : -

ĐPS T1B.001 CHƯƠNG 7 LINH TINH NHỮNG ĐIỂM CHÚ THÍCH VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT : -

ĐPS T1B.002 CHƯƠNG 8 MƯỜI TÁM BẤT KHẢ SỬ XỨ ABHABBAṬṬHĀNA : -

ĐPS T1B.003 CHƯƠNG 9 LỊCH SỬ 24 VỊ PHẬT TỔ : -

ĐPS T2A.001 CHƯƠNG 1 PHẬT BẢO : -

ĐPS T2A.002 CHƯƠNG 2 LỄ HẠ ĐIỀN : -

ĐPS T2A.003 CHƯƠNG 3     SỰ TRÔNG THẤY BỐN ĐIỀM TƯỚNG : -

ĐPS T2A.004 CHƯƠNG 4 SỰ CẮT TÓC VÀ TRỞ THÀNH SA-MÔN  : -

ĐPS T2A.005 CHƯƠNG 5 HỌC HỎI VÀ LUẬN BÀN VỚI ĀḶĀRA VÀ UDAKA : -

ĐPS T2A.006 CHƯƠNG 6 BỒ TÁT THỰC HÀNH PHÁP KHỔ HẠNH : -

ĐPS T2A.007 CHƯƠNG 7 SỰ CHỨNG ĐẮC PHẬT QUẢ  : -

ĐPS T2A.008 CHƯƠNG 8 ĐỨC PHẬT TRÚ NGỤ Ở BẢY CHỖ : -

ĐPS T2A.009 CHƯƠNG 9 ĐỨC PHẬT QUÁN XÉT TÁNH CHẤT CAO SIÊU CỦA PHÁP : -

ĐPS T2A.010 CHƯƠNG 10 CÂU CHUYỆN VỀ HAI VỊ THIÊN SĀTĀGIRA VÀ HEMAVATA (KINH HEMAVATA) : -

ĐPS T2A.011 CHƯƠNG 11 SỰ THUYẾT GIẢNG THANH TỊNH ĐẠO HÀNH : -

ĐPS T2A.012 CHƯƠNG 12 YASA, CON TRAI VỊ ĐẠI THƯƠNG NHÂN TRỞ THÀNH TỲ KHƯU : -

ĐPS T2A.013 CHƯƠNG 13 ĐỨC PHẬT PHÁI SÁU MƯƠI VỊ A-LA-HÁN ĐI TRUYỀN BÁ : -

ĐPS T2A.014 CHƯƠNG 14 SỰ GIÁO HOÁ BA ANH EM ẨN SĨ VÀ MỘT NGÀN ĐẠO SĨ : -

ĐPS T2A.015 CHƯƠNG 15 ĐỨC PHẬT VIẾNG THĂM KINH THÀNH RĀJAGAHA : -

ĐPS T2A.016 Phẩn giải thích bổ sung tập 2 : -

ĐPS T3A.001 : -

ĐPS T3A.002 CHƯƠNG 17 CHUYẾN ĐI CỦA ĐỨC PHẬT ĐẾN KAPILAVATTHU : -

ĐPS T3A.003 CHƯƠNG 18 NHỮNG CƠN MƯA ‘LÁ SEN’ RƠI XUỐNG HỘI CHÚNG : -

ĐPS T3A.004 CHƯƠNG 19 MỘT NGÀN VỊ HOÀNG TỬ THÍCH CA THỌ PHÉP XUẤT GIA TỪ ĐỨC THẾ TÔN : -

ĐPS T3A.005 CHƯƠNG 20 SỰ CHỨNG ĐẮC KHÁC NHAU CỦA SÁU VỊ HOÀNG TỬ : -

ĐPS T3A.006 CHƯƠNG 21 CÂU CHUYỆN VỀ SUMANA, NGƯỜI BÁN HOA CỦA THÀNH : -

ĐPS T3A.007 CHƯƠNG 22 SỰ THÀNH LẬP VESALI : -

ĐPS T3A.008 CHƯƠNG 23 ĐỨC THẾ TÔN NGỤ Ở VESALI - MÙA AN CƯ THỨ NĂM : -

ĐPS T3A.009 CHƯƠNG 24 ĐỨC PHẬT NGỰ Ở NGỌN NÚI MAKULA MÙA AN CƯ THỨ SÁU : -

ĐPS T3A.010 CHƯƠNG 25 HẠ THỨ BẢY VÀ SỰ THUYẾT GIẢNG ABHIDHAMMA TẠI CUNG TRỜI ĐAO LỢI (Tāvatiṃsa) : -

ĐPS T3A.011 CHƯƠNG 26 HẠ THỨ TÁM CỦA ĐỨC PHẬT TẠI THỊ TRẤN SUSUMARAGIRA : -

ĐPS T3A.012 CHƯƠNG 27 TRƯỞNG GIẢ GHOSAKA CỦA NƯỚC KOSAMBI : -

ĐPS T4A.001 CHƯƠNG 28 MÙA AN CƯ THỨ 10 CỦA ĐỨC PHẬT TẠI KHU RỪNG PĀLILEYYAKA : -

ĐPS T4A.002 CHƯƠNG 29 HẠ THỨ MƯỜI MỘT CỦA ĐỨC PHẬT TẠI LÀNG CỦA BÀ-LA-MÔN NĀḶA : -

ĐPS T4A.003 CHƯƠNG 30 HẠ THỨ MƯỜI HAI CỦA ĐỨC PHẬT TẠI THÀNH PHỐ VERAÑJĀ : -

ĐPS T4A.004 CHƯƠNG 31 TỲ KHƯU SUDINNA, CON TRAI CỦA THƯƠNG NHÂN KALANDA : -

ĐPS T4A.005 CHƯƠNG 32 HẠ THỨ MƯỜI BA CỦA ĐỨC PHẬT TẠI ĐỒI CALIKA : -

ĐPS T4A.006 CHƯƠNG 33 HẠ THỨ MƯỜI LĂM CỦA ĐỨC PHẬT TẠI KAPILAVATTHU : -

ĐPS T4A.007 CHƯƠNG 34 HẠ THỨ MƯỜI BẢY CỦA ĐỨC PHẬT TẠI VEḶUVANA : -

ĐPS T4A.008 CHƯƠNG 35 CÂU CHUYỆN VỀ MĀRA : -

ĐPS T4A.009 CHƯƠNG 36 CHIỀU CAO CỦA ĐỨC PHẬT ĐƯỢC ĐO BỞI MỘT BÀ-LA-MÔN : -

ĐPS T4A.010 CHƯƠNG 37 CÂU CHUYỆN VỀ VUA AJĀTASATTU : -

ĐPS T5A.001 CHƯƠNG 38 CHA MẸ BÀ-LA-MÔN CỦA ĐỨC PHẬT TRONG KIẾP QUÁ KHỨ : -

ĐPS T5A.002 CHƯƠNG 39 ĐẾ THÍCH SỞ VẤN : -

ĐPS T5A.003 CHƯƠNG 40 NHỮNG LỜI THUYẾT GIẢNG & SỰ VIÊN TỊCH BÁT NIẾT BÀN CỦA ĐỨC PHẬT : -

ĐPS T5A.004 CHƯƠNG 41 NHỮNG BÀI KỆ ĐỘNG TÂM : -

ĐPS T5A.005 CHƯƠNG 42 PHÁP BẢO – DHAMMA RATANA : -

ĐPS T6A.000 Giới thiệu qua chương 43 : -

ĐPS T6A.001 Câu chuyện về hai anh em: Mahākāla và Culakāla : -

ĐPS T6A.002 (2-3) HAI VỊ THƯỢNG THỦ THINH VĂN TRƯỞNG LÃO SĀRIPUTTA & TRƯỞNG LÃO MOGGALLĀNA : -

ĐPS T6A.003 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KASSAPA (Đại trưởng lão Ca-Diếp) : -

ĐPS T6A.004 ĐẠI TRƯỞNG LÃO ANURUDDHA : -

ĐPS T6A.005 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BHADDIYA : -

ĐPS T6A.006 ĐẠI TRƯỞNG LÃO AKUṆDAKA BHADDIYA : -

ĐPS T6A.007 ĐẠI TRƯỞNG LÃO PIṆḌOLA BHĀRADVĀJA : -

ĐPS T6A.008 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MANTĀNIPUTTA PUṆṆA : -

ĐPS T6A.009 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KACCĀYANA (Ca-chiên-diên) : -

ĐPS T6A.010 (11&12) HAI VỊ ĐẠI TRƯỞNG LÃO TÊN PANTHAKA : -

ĐPS T6A.011 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SUBHŪTI (TU BỒ ĐỀ) : -

ĐPS T6A.012 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KHADIRAVANIYA REVATA : -

ĐPS T6A.013 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KAṄKHĀ REVATA : -

ĐPS T6A.014 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KOḶIVISA : -

ĐPS T6A.015 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KUṬIKAṆṆA : -

ĐPS T6A.016 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SĪVALI : -

ĐPS T6A.017 ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAKKALI : -

ĐPS T6A.018 (20-21) ĐẠI TRƯỞNG LÃO RĀHULA & ĐẠI TRƯỞNG LÃO RAṬṬHAPĀLA : -

ĐPS T6A.019 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KUṆḌA DHĀNA : -

ĐPS T6A.020 ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAṄGĪSA : -

ĐPS T6A.021 ĐẠI TRƯỞNG LÃO UPASENA VAṄGANTAPUTTA : -

ĐPS T6A.022 ĐẠI TRƯỞNG LÃO DABBA : -

ĐPS T6A.023 ĐẠI TRƯỞNG LÃO PILINDAVACCHA : -

ĐPS T6A.024 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BĀHIYA DĀRUCĪRIYA : -

ĐPS T6A.025 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KUMĀRA KASSAPA : -

ĐPS T6A.026 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KOṬṬHIKA : -

ĐPS T6A.027 ĐẠI TRƯỞNG LÃO ĀNANDA : -

ĐPS T6A.028 ĐẠI TRƯỞNG LÃO URUVELA KASSAPA : -

ĐPS T6A.029 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KĀḶUDĀYĪ : -

ĐPS T6A.030 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BĀKULA : -

ĐPS T6A.031 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOBHITA : -

ĐPS T6A.032 ĐẠI TRƯỞNG LÃO UPĀLI : -

ĐPS T6A.033 ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDAKA : -

ĐPS T6A.034 ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDA : -

ĐPS T6A.035 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KAPPINA : -

ĐPS T6A.036 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SĀGATA : -

ĐPS T6A.037 ĐẠI TRƯỞNG LÃO RĀDHA : -

ĐPS T6A.038 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MOGHARĀJA : -

ĐPS T6A.039 BĀVARĪ VỊ THẦY BÀ LA MÔN ( tiếp theo) : -

ĐPS T6B.001 Chapter 44 LIfE HISTORIES Of BHIKKHUN¢ ARAHATS : -

ĐPS T6B.002 Chapter 45 THE LIfE STORIES Of MALE LAY DISCIPLES : -

ĐPS T6B.003 EPILOGUE : -

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications