Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐPS T2A.003 CHƯƠNG 3     SỰ TRÔNG THẤY BỐN ĐIỀM TƯỚNG
Như vậy, Thái tử Bồ tát Siddhattha ã lên ngôi vua trị vì vương quốc Kapilavatthu vào năm mười sáu tuổi. Năm hai mươi chín tuổi, sau khi thọ hưởng sự xa hoa và tiện nghi của vị Chuyển luân vương, ược hầu hạ bởi bốn chục ngàn cung nữ dẫn ầu là chánh hậu Yasodharā. Một hôm nọ, Ngài bỗng khởi lên ước muốn ược ngoạn cảnh vườn thượng uyển. Thế nên, Thái tử cho gọi người ánh xe ến và truyền lịnh: “ Này xa phu, hãy chuẩn bị xe! Ta sẽ viếng vườn thượng uyển.” “Thưa vâng,” người xa phu áp lại và i sửa soạn chiếc long xa thù thắng thích hợp với những nhân vật cao quý; ược trang trí bằng những vật trang sức và ược kéo bởi bốn con tuấn mã thuần trắng như trăng tròn hay như hoa sen kumuda và phi nhanh  như gió hoặc như Kim-xí-iểu (garuda), chúa của các loài chim. Khi ược xa phu cho biết rằng xe ã ược chuẩn bị sẵn sàng, Thái tử bước lên chiếc xe lộng lẫy như cung iện của chư thiên và i ến vườn thượng uyển trong ám diễu hành rất rầm rộ.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:5929

Các tên gọi khác

Như vậy, Thái tử Bồ tát Siddhattha ã lên ngôi vua trị vì vương quốc Kapilavatthu vào năm mười sáu tuổi. Năm hai mươi chín tuổi, sau khi thọ hưởng sự xa hoa và tiện nghi của vị Chuyển luân vương, ược hầu hạ bởi bốn chục ngàn cung nữ dẫn ầu là chánh hậu Yasodharā. Một hôm nọ, Ngài bỗng khởi lên ước muốn ược ngoạn cảnh vườn thượng uyển. Thế nên, Thái tử cho gọi người ánh xe ến và truyền lịnh: “ Này xa phu, hãy chuẩn bị xe! Ta sẽ viếng vườn thượng uyển.” “Thưa vâng,” người xa phu áp lại và i sửa soạn chiếc long xa thù thắng thích hợp với những nhân vật cao quý; ược trang trí bằng những vật trang sức và ược kéo bởi bốn con tuấn mã thuần trắng như trăng tròn hay như hoa sen kumuda và phi nhanh  như gió hoặc như Kim-xí-iểu (garuda), chúa của các loài chim. Khi ược xa phu cho biết rằng xe ã ược chuẩn bị sẵn sàng, Thái tử bước lên chiếc xe lộng lẫy như cung iện của chư thiên và i ến vườn thượng uyển trong ám diễu hành rất rầm rộ.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
ĐPS T2A.003 CHƯƠNG 3     SỰ TRÔNG THẤY BỐN ĐIỀM TƯỚNG

CHƯƠNG 3

    SỰ TRÔNG THẤY BỐN ĐIỀM TƯỚNG

Bồ tát ến vườn ngự uyển  

Như vậy, Thái tử Bồ tát Siddhattha ã lên ngôi vua trị vì vương quốc Kapilavatthu vào năm mười sáu tuổi. Năm hai mươi chín tuổi, sau khi thọ hưởng sự xa hoa và tiện nghi của vị Chuyển luân vương, ược hầu hạ bởi bốn chục ngàn cung nữ dẫn ầu là chánh hậu Yasodharā. Một hôm nọ, Ngài bỗng khởi lên ước muốn ược ngoạn cảnh vườn thượng uyển. Thế nên, Thái tử cho gọi người ánh xe ến và truyền lịnh: “ Này xa phu, hãy chuẩn bị xe! Ta sẽ viếng vườn thượng uyển.” “Thưa vâng,” người xa phu áp lại và i sửa soạn chiếc long xa thù thắng thích hợp với những nhân vật cao quý; ược trang trí bằng những vật trang sức và ược kéo bởi bốn con tuấn mã thuần trắng như trăng tròn hay như hoa sen kumuda và phi nhanh  như gió hoặc như Kim-xí-iểu (garuda), chúa của các loài chim. Khi ược xa phu cho biết rằng xe ã ược chuẩn bị sẵn sàng, Thái tử bước lên chiếc xe lộng lẫy như cung iện của chư thiên và i ến vườn thượng uyển trong ám diễu hành rất rầm rộ.

(1) Điềm báo một người già

        Khi Thái tử Bồ tát i ược một khoảng xa trên ường ến vườn thượng uyển, chư thiên bàn bạc với nhau: “ Thời gian ể Thái tử Siddhatta thành Phật ang ến gần. Chúng ta hãy cho Thái tử nhìn thấy các iềm tướng ể khiến vị ấy từ bỏ thế gian và trở thành Samôn.” Họ yêu cầu một vị thiên hóa hình một người già, tóc bạc, răng

 

rụng, lưng khòm và ang run rẫy chống gậy bước i. Hình ảnh một người già ược chư thiên tạo ra không ai có thể thấy ngoại trừ Thái tử và người ánh xe.

Khi nhìn thấy ông lão, Thái tử hỏi xa phu: “ Này xa phu, tóc của người àn ông kia không giống những người khác; tóc của ông ta trắng hết.  Thân của ông ta cũng không giống những người khác: không có răng, ít thịt, lưng khòm, lại ang run rẫy. Đó là người gì?” Xa phu áp lại: “ Tâu bệ hạ, ông ta ược gọi là người già.”

Trước kia, Thái tử chưa bao giờ nghe tiếng ‘người già’, lại càng không bao giờ trông thấy người như vậy. Ngài lại hỏi xa phu: “ Ta chưa bao giờ trông thấy người như vậy: tóc bạc, không có răng, gầy và ang run rẫy với lưng khòm. Tại sao có người già như vậy ?” Xa phu áp: “ Tâu bệ hạ, người không thể sống lâu hơn nữa thì ược gọi là người già (người già là người chỉ còn sống thêm một thời gian ngắn).”

Khi ấy Ngài lại hỏi: “ Này xa phu, thế là thế nào? Phải chăng ta cũng bị già ? Phải chăng ta cũng không thể khắc phục ược tuổi già?” Khi xa phu áp lại: “ Tâu bệ hạ, tất cả chúng ta bao gồm cả bệ hạ cũng như thần ây ều phải già; không ai có thể tránh khỏi tuổi già.” Thái tử bèn nói: “ Này xa phu, nếu tất cả loài người, không ai có thể tránh khỏi tuổi già thì ta ây chắc chắn cũng vậy, hãy quay trở về, ta không muốn ến vườn thượng uyển và vui chơi ở ó nữa. Hãy quay lại ngay bây giờ, ánh xe thẳng về hoàng cung.” “ Thưa vâng, tâu bệ hạ.” Xa phu áp lại và thay vì i tiếp ến vườn thượng uyển, cho xe quay trở về hoàng cung.

Sự ộng tâm của Thái tử 

Theo bản tánh của loài sư tử, khi bị trúng tên không tìm cách lấy ra cây tên, mà lao ến người thợ săn ã bắn cây tên và cũng là nguyên nhân ầu tiên  tạo ra sự thương tích cho nó. Chư Phật cũng không tìm cách oạn trừ kết quả, như cây tên, mà các Ngài dùng trí tuệ tìm kiếm nguyên nhân như con sư tử tìm kiếm người thợ săn thù ịch ã bắn cây tên. Do ó, chư Phật ược ví như những chúa tể sơn lâm. Vị xa phu chỉ giải thích bản chất già lão của thế gian theo khả năng hiểu biết của ông ta, nhưng Thái tử Bồ tát là người có chí nguyện thành Phật nên biết rõ bằng quán sát trí rằng sanh (jāti) là nguyên nhân ầu tiên của quá trình già (jarā). Sau khi trở về hoàng cung, Thái tử suy xét bằng kinh cảm trí (saṁvega). “ Ôi, sự sanh quả thật áng ghét. Sự sanh rõ ràng ối với ai, thì sự già cũng hiển nhiên ối với người ó.” Sau khi suy xét như vậy, Ngài trở nên buồn bã chán chường.

Vua Suddhodāna tăng cường thêm lính canh 

Vua Suddhodāna cho gọi xa phu ến và hỏi: “ Này xa phu, tại sao con trai của ta lại vội vã trở về mà không i tiếp ến vườn thượng uyển?” Xa phu áp lại: “ Tâu bệ hạ, Thái tử nhìn thấy một người già nên vị ấy mới vội vã quay về.” Vua Suddhodāna trầm ngâm suy nghĩ: “ Con trai của ta nên lên ngôi trị vì vương quốc này. Nó không ược từ bỏ thế gian và  trở thành Sa-môn. Sự tiên tri của các vị Bà-la-môn rằng thái tử sẽ xuất gia và trở thành Sa-môn phải ược chứng minh là sai. Này hỡi các triều thần, tại sao các ngươi phá hoại những kế hoạch của ta! Hãy nhanh chóng sắp xếp các cung hầu nhiều hơn trước; rồi hãy tăng thêm nữ hầu và vũ nữ vây quanh thái tử, khi thái tử thọ hưởng ngũ dục sẽ không còn nghĩ ến việc trở thành Sa-môn.” Khi nói vậy, ức vua truyền lịnh cho tăng cường thêm lính canh ở mỗi chốt canh, mỗi chốt canh cách nhau nửa do tuần, trong cả bốn hướng.

(Khi Thái tử ến vườn thượng uyển ể vui chơi, Ngài ược tháp tùng bởi những ội quân ông nửa do tuần; khi chiếc xe i ến chỗ mà nó ược ịnh trước thì tất cả lính hầu bị rớt lại phía sau, các vị Phạm thiên A-la-hán của cõi Ngũ tịnh cư (Suddhāvāsa) bằng năng lực thần thông ã hóa hình một người già ở ngay trước chiếc xe ể Thái tử và xa phu trông thấy. Các vị Phạm thiên A-la-hán của cõi Suddhāvāsa suy xét: “ Thái tử Bồ tát giờ ây ang bị ắm chìm trong vũng lầy ngũ dục như con voi chúa bị sa lầy. Chúng ta nên giúp vị ấy lấy lại chánh niệm”, và họ ã cho Thái tử trông thấy một người già. Những iềm tướng khác mà sẽ xuất hiện sau ó cũng nên ược hiểu theo cách như thế. Bài mô tả này ược trích dẫn từ Chú giải của bài kinh Mahāpadāna).

(2) Điềm báo một người bệnh

Bị vây hãm và mê ắm trong năm loại dục lạc mà ức vua Suddhodana, phụ vương của Thái tử ã cung cấp nhiều hơn trước, ngõ hầu ngăn cản việc Thái tử từ bỏ thế gian và xuất gia làm Sa-môn, Thái tử Siddhattha ngày êm vui hưởng khoái lạc và xa hoa trong cung vàng iện ngọc. Cảm giác chán chường về sự sanh và sự già dần dần nguôi ngoai.

Bốn tháng sống cuộc ời xa hoa như vậy trôi qua, Thái tử Bồ tát lại xuất cung ến vườn thượng uyển bằng xe ngựa như trước. Trên ường i, thái tử trông thấy một người bịnh do chư thiên hóa hiện lần thứ hai, người àn ông kia ang quằn quại au ớn vì bịnh tật, và không thể ngồi dậy hoặc nằm xuống trừ khi có người khác phụ giúp. Ông ta ang nằm trên chiếc giường bịnh bị dính ầy những vật dơ của chính ông. Nhân ó, Thái tử hỏi xa phu: “ Này xa phu, ôi mắt của người àn ông kia không giống như ôi mắt của những người khác, chúng yếu ớt và nhợt nhạt. Giọng nói của ông ta cũng không giống giọng nói của những người khác, ông liên tục kêu lên the thé khó chịu. Thân của ông ta cũng không giống như những người khác.  Nó trông tiều tuỵ và kiệt quệ. Người như vậy gọi là gì ?” Xa phu áp lại: “ Tâu bệ hạ, ông ta ược gọi là người bịnh.”

Vì Thái tử chưa bao giờ trông thấy hay nghe nói chữ ‘người bịnh’ nên Ngài lại hỏi xa phu rằng: “Này xa phu, ta chưa từng trông thấy một người nào như vậy, người mà muốn ngồi dậy, hay nằm xuống phải nhờ người khác phụ giúp; lại nằm lăn lộn trên những vật dơ của chính mình và mãi rên siết. Người bịnh có nghĩa là gì? Hãy giải thích về bản chất của người bịnh.” Xa phu áp lại: “ Tâu bệ hạ, người bịnh là người không biết liệu mình có bình phục hay không.” Thái tử lại hỏi: “ Này xa phu, làm sao có thể như thế ược ? Phải chăng ta cũng bị bịnh? Phải chăng ta cũng là người không thể tránh khỏi bệnh?” Khi xa phu áp lại: “ Tâu bệ hạ, tất cả chúng ta bao gồm cả bệ hạ cũng như thần ây ều phải bị bịnh. Không ai có thể tránh khỏi tướng bịnh.” Thái tử bèn nói: “ Này xa phu, nếu tất cả mọi người ai ai cũng không thể tránh khỏi tướng bịnh thì ta ây chắc chắn bị bịnh. Không ến vườn thượng uyển và vui chơi nữa. Hãy quay xe lại, ngay tại chỗ này, nơi nhìn thấy người bịnh, và ưa ta quay về hoàng cung.” “Thưa vâng, tâu bệ hạ.” Xa phu áp lại và thay vì cho xe i tiếp ến vườn thượng uyển, ã quay xe trở về hoàng cung.

Sự ộng tâm của Bồ tát

Như ã nói ở trên, mặc dầu xa phu chỉ giải thích bản chất au ớn, khó chịu và bức bách của bịnh trong thế gian (vyādhi), theo khả năng hiểu biết của vị ấy. Nhưng Thái tử, giống như vua của loài sư tử, Ngài là người có chí nguyện thành Phật nên qua sự quán xét biết rõ rằng sanh là nguyên nhân ầu tiên của bịnh và lão. Trở về hoàng cung, qua sự xúc ộng mạnh mẽ Ngài suy xét: “ Ôi, sự sanh quả thật áng ghét ! Sự sanh rõ ràng ối với người nào, thì sự già và lão cũng hiển nhiên ối với người ấy.” Sau khi suy xét như vậy Ngài trở nên buồn bã và chán nãn.

Vua Suddhodāna tăng cường thêm lính canh  

 Vua Suddhodāna cho gọi xa phu ến và cũng hỏi như trước. Khi xa phu áp lại: “ Tâu bệ hạ, Thái tử vội vã quay về vì vị ấy trông thấy một người bịnh.” Vua Suddhodāna lại suy nghĩ như trước và lại truyền lịnh tăng cường thêm lính gác ở mỗi khỏang cách ba gavuta khắp bốn hướng. Đức vua cũng chỉ ịnh thêm cung nữ và vũ nữ.

(3) Điềm báo một người chết  

Bị vây hãm và say ắm trong năm loại dục lạc do phụ vương Suddhodāna của Ngài sắp xếp ể ngăn cản việc Thái tử từ bỏ thế gian và trở thành vị Sa-môn, Thái tử Siddhattha lại tiếp tục thụ hưởng khoái lạc và xa hoa trong cung vàng iện ngọc. Ấn tượng ầy xúc ộng về bản chất áng ghét của sự sanh và già có phần nguôi ngoai và mờ nhạt.

Bốn tháng sống cuộc ời xa hoa như vậy trôi qua, Thái tử Bồ tát lại xuất cung i ến vườn thượng uyển bằng xe tuấn mã. Trên ường i, Thái tử Bồ tát trông thấy iềm tướng do chư thiên hóa hiện lần thứ ba, ó là một ám người và một chiếc kiệu khiêng áo quan ược trang trí bằng tấm vải nhiều màu. Nhân ó Thái tử hỏi xa phu: “ Này xa phu, tại sao tất cả những người này ứng chung quanh?” Xa phu áp lại: “ Tâu bệ hạ, những người này ang xúm quanh và sửa soạn chiếc kiệu khiêng áo quan vì có người vừa chết.” Vì Thái tử chưa từng trông thấy người chết hay nghe tiếng ‘ người chết’ nên truyền lịnh cho xa phu rằng: “ Này xa phu, hãy ưa ta ến chỗ người chết ang nằm nơi người ta xúm lại và sửa soạn chiếc kiệu khiêng áo quan.” Xa phu áp lại: “ Thưa vâng, tâu bệ hạ,” và ánh xe ến chỗ người chết ang nằm. Khi Thái tử trông thấy người chết, Ngài bèn hỏi: “ Này xa phu, người chết này có ặc tánh gì?” Xa phu áp lại: “ Tâu bệ hạ, khi một người ã chết thì tất cả quyến thuộc sẽ không bao giờ gặp lại người ấy, người ấy cũng không còn gặp lại quyến thuộc của mình.”

     Nhân ó, Thái tử hỏi thêm: “ Này xa phu, làm sao có thể như thế ược ?” Ta cũng phải chết như người kia chăng? Phải chăng Ta cũng là người không thể tránh khỏi cái chết? Phải chăng vào một ngày nào ó, cha, mẹ và quyến thuộc của Ta sẽ không còn trông thấy Ta? Một ngày nào ó Ta cũng sẽ không gặp họ?” Xa phu áp lại: “ Tâu bệ hạ, tất cả chúng ta bao gồm cả bệ hạ cũng như thần ây ều phải chết. Không ai có thể tránh khỏi cái chết. Điều chắc chắn là vào một ngày nào ó, cha, mẹ và quyến thuộc của bệ hạ sẽ không còn trông thấy bệ hạ và bệ hạ cũng sẽ không còn trông thấy họ nữa.” (Mẹ của Thái tử trong nội dung này ám chỉ di mẫu của Ngài là bà Mahāpajāpati Gotamī).

Nhân ó, Thái tử nói: “ Này xa phu, nếu tất cả mọi người, ai ai cũng không thể tránh khỏi sự chết thì Ta ây cũng phải chết, thế nên Ta không muốn ến vườn thượng uyển nữa và vui chơi nữa. Hãy cho xe quay lại, ngay tại chỗ mà nhìn thấy người chết và i thẳng về hoàng cung”. “ Thưa vâng, tâu bệ hạ.” Xa phu áp lại và thay vì ánh xe i tiếp ến vườn thượng uyển, bèn quay xe lại ngay và i thẳng về hoàng cung.

Sự ộng tâm của Bồ tát  

Như ã nói ở trên, mặc dầu xa phu chỉ giải thích về bản chất của sự chết theo khả năng hiểu biết của vị ấy, rằng khi một người ã chết thì quyến thuộc bị bỏ lại sẽ không bao giờ gặp lại người ấy, người chết cũng sẽ không bao giờ gặp lại quyến thuộc anh ta. Tuy nhiên Thái tử, như chúa của loài sư tử và là người có chí nguyện thành Phật, qua sự quán xét, Ngài biết rõ rằng sanh là nguyên nhân ầu tiên của ba tướng già, bịnh và chết mà Ngài ã trông thấy trước ó. Sau khi trở về hoàng cung, bằng kinh cảm trí, Ngài thấy rằng: “ Ôi, sự sanh quả thật áng ghét! Sự sanh rõ ràng ối với người nào thì với người ấy, già cũng hiển nhiên, bịnh cũng hiển nhiên và chết cũng hiển nhiên.” Sau khi suy xét như vậy, Ngài trở nên buồn bã và chán nản.

Vua Suddhodāna tăng cường thêm lính canh  

 Vua Suddhodāna lại gọi xa phu ến và hỏi anh ta như trước. Khi xa phu tâu lại: “ Tâu bệ hạ, Thái tử vội vã trở về vì vị ấy ã trông thấy một người chết.” Vua Suddhodāna cũng suy nghĩ như trước và truyền lịnh tăng cường thêm lính gác ở khắp bốn hướng, mỗi chỗ cách nhau một do tuần; vị ấy cũng chỉ ịnh thêm cung nữ và vũ nữ.

(4) Điềm báo một vị Sa-môn 

Bị vây hãm và say ắm trong năm loại dục dạc mà phụ vương Suddhodāna của thái tử cung cấp thêm ể ngăn cản việc ngài từ bỏ thế gian và trở thành vị Sa-môn, Thái tử Siddhattha lại tiếp tục sống hưởng thọ khoái lạc và vinh hoa trong cung vàng iện ngọc và ấn tượng gây xúc ộng về sanh, già, bịnh và chết có phần vơi giảm.

Bốn tháng sống cuộc ời xa hoa như vậy ã trôi qua, Thái tử Bồ tát lại xuất cung ến vườn thượng uyển bằng xe tuấn mã. Và trên ường i, ngài trông thấy iềm tướng do chư thiên hóa hiện lần thứ tư, ó là người àn ông sống cuộc ời của vị Sa-môn với râu tóc ược cạo nhẵn, mang chiếc y bằng vỏ cây. “ Này xa phu”, Thái tử nói “ Đầu của người àn ông này không giống ầu của những người khác, ầu ược cạo nhẵn và râu cũng ược cạo sạch. Y phục của người này cũng không giống như những người khác và ược nhuộm bằng vỏ cây. Người ấy ược gọi người gì?” Xa phu áp lại: “ Tâu bệ hạ, người ấy ược gọi là vị Sa-môn.”

Thái tử lại hỏi xa phu: “ Này xa phu, Sa-môn nghĩa là gì? Hãy giải thích cho ta nghe về ặc tánh của Sa-môn.” Xa phu áp lại: “ Tâu bệ hạ, Sa-môn là người hằng tâm niệm rằng iều tốt là thực hành mười thiện nghiệp (kuslakammapatha),  bắt ầu bằng bố thí (dāna), là người ã ra khỏi cuộc ời thế tục và mặc y phục nhuộm màu vỏ cây. Người ấy tâm niệm rằng iều tốt nhất là thực hành mười thiện nghiệp phù hợp với chánh pháp; thoát khỏi những nhiễm ô, hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh, xuất ly khỏi thế gian và mặc y phục nhuộm màu vỏ cây. Vị ấy tâm niệm rằng iều tốt nhất là tránh cư xử ác với các loài hữu tình, làm iều lợi ích cho chúng sanh, từ bỏ ời sống thế tục và mặc y phục nhuộm màu vỏ cây.”

(Ở ây, xa phu không có kiến thức về vị Sa-môn hay những ức tánh của vị ấy vì ó là thời kỳ trước khi Đức Phật và giáo pháp của Ngài xuất hiện nhưng vị ấy nói ược như vậy nhờ năng lực của chư thiên, rằng người kia là vị Sa-môn và giải thích về những ức tánh của vị Sa-môn. Đoạn này ược trích dẫn từ bộ Chú giải Buddhavaṃsa và Phụ chú giải Jinālaṅkāra).

(Những vị Bồ tát có thọ mạng lâu hơn thì trông thấy bốn iềm tướng lần lượt cách nhau một trăm năm. Tuy nhiên, trong trường hợp Bồ tát của chúng ta, Ngài xuất hiện trong thời kỳ có thọ mạng ngắn hơn nhiều, khoảng cách thời gian ể trông thấy mỗi iềm tướng chỉ cách nhau bốn tháng. Theo các vị Tụng sư của bộ Dīgha Nikāya thì Bồ tát trông thấy bốn iềm tướng trong một ngày – Chú giải Buddhavaṃsa).

Nhân ó, Bồ tát nói với xa phu: “ Người àn ông này thật sự cao quý và áng ngưỡng mộ vì ã xuất gia, tâm niệm rằng iều tốt nhất là thực hành mười thiện nghiệp theo úng với chánh pháp, trong sạch và thanh tịnh. Người àn ông ấy áng ngưỡng mộ và cao quý vì ã xuất gia với tâm luôn luôn khắc ghi iều tốt là không ối xử ác với các loài hữu tình và làm việc vì lợi ích của chúng sanh. Vị ấy thật áng ngưỡng mộ và cao quý, này xa phu, hãy ánh xe ến chỗ vị Samôn.” “Thưa vâng, tâu bệ hạ.” Xa phu áp lại và ánh xe ến chỗ vị Sa-môn. Khi ến ó, Thái tử hỏi vị Sa-môn, thật ra là do chư thiên hóa hiện: “Thưa ngài, ngài ang làm gì? Đầu của ngài không giống như ầu của những người khác; y phục của ngài cũng không giống như y phục của những người khác.” Khi vị Sa-môn áp lại: “ Tâu bệ hạ, bần ạo ược xem là một Sa-môn.” Thái tử lại hỏi thêm: “ Sa-môn nghĩa là gì?” Vị Sa-môn kia áp lại: “ Tâu bệ hạ, tôi là người ã ra i từ bỏ ời sống gia ình, sau khi cạo bỏ râu tóc và mặc y phục màu vỏ cây, và tâm niệm rằng iều tốt nhất là thực hành mười thiện nghiệp, bắt ầu bằng bố thí. Những thiện nghiệp ược biết qua bốn từ ặc biệt: Dhamma, vì ó là chánh pháp; Sama vì phù hợp với chánh pháp; Kusala vì trong sạch, và Puñña vì thanh tịnh về cả nhân lẫn quả; và cũng tâm niệm rằng iều tốt nhất là không ối xử ác với các loài hữu tình và làm iều em lại lợi lạc cho chúng sanh.” Nhân ó, Thái tử tỏ lời tán ồng: “ Ngài quả thật cao quý và áng ngưỡng mộ. Ngài ã ra i từ bỏ ời sống gia ình, ã cạo bỏ râu tóc, và mặc y phục nhuộm màu vỏ cây. Lại tâm niệm rằng iều tốt ẹp là thực hành mười thiện nghiệp có bốn tên gọi là Dhamma, Sama, KusalaPuñña; và cũng tâm niệm rằng iều tốt nhất là không ối xử ác với các loài hữu tình, làm iều lợi ích cho chúng sanh.”

 Ngày Thái tử xuất gia  

Trước khi xuất gia ra i từ bỏ ời sống gia ình, Thái tử bốn lần viếng thăm vườn thượng uyển. Trên ường ến vườn thượng uyển trên chiếc long xa tuấn mã vào ngày rằm tháng Āsaḷha (tháng 6-7 dương lịch) trong năm 96, theo lịch Mahā Era, Ngài nhìn thấy iềm tướng ầu tiên, ó là một người già. Khi nhìn thấy iềm tướng này, Ngài từ bỏ sự kiêu mạn về tuổi trẻ (yobhana māna).

Lần thứ hai, khi Thái tử ến vườn thượng uyển vào ngày rằm tháng Kattikā (tháng 10-11 dương lịch), Ngài nhìn thấy iềm tướng thứ hai trên ường i, ó là một người bịnh. Khi nhìn thấy iềm tướng này, Ngài từ bỏ ngã mạn khởi sanh từ sức khỏe sung mãn (ārogya māna).

Lần thứ ba, khi ến vườn thượng uyển vào ngày trăng tròn tháng Phagguna (tháng 2-3 dương lịch), Ngài nhìn thấy iềm tướng thứ ba trên ường, ó là một người chết. Khi nhìn thấy iềm tướng này, Ngài từ bỏ ngã mạn về mạng sống (jīvita māna).

Lại dịp khác, vào ngày rằm tháng Asaḷha trong năm 93, lịch Mahā Era, Thái tử ến vườn thượng uyển như trước. Ngài trông thấy trên ường i iềm tướng vị Sa-môn. Hình ảnh của iềm tướng này ánh thức trong Ngài sự ưa thích ời sống Sa-môn và phát nguyện : “ Ta sẽ trở thành vị Sa-môn trong chính ngày hôm nay,” Ngài i tiếp ến vườn thượng uyển cùng ngày hôm ấy.

 (Bộ Dhammasaṅganī của tạng Abhidhamma Piṭaka có bài về saṃvega (sự ộng tâm) trong chương Nikkhepa Kaṇḍa như sau:  Sự sợ hãi về sự sanh (jāti) hay trí tuệ thấy rằng sanh là mối nguy hiểm lớn áng sợ, ược gọi là jātibhaya; sự sợ hãi về tuổi già (jarā) hay trí tuệ thấy rằng già là mối nguy hiểm áng sợ, ược gọi là jarābhaya; sự sợ hãi về bịnh (vyādhi) hay trí tuệ thấy rằng bịnh là mối nguy hiểm lớn áng sợ, ược gọi là vyādhibhaya; và sự sợ hãi về sự chết (maraṇa) hay trí tuệ thấy rằng chết là mối nguy hiểm lớn áng sợ, ược gọi là maraṇabhaya. Nhóm bốn loại trí này ược gọi là saṃvega (sự ộng tâm hay kinh cảm trí).

(Trong bốn loại iềm tướng lớn này mà ã ược mô tả, ba loại iềm tướng ầu tiên ược gọi là kinh cảm trí tướng - saṃvega nimitta, là những iềm tướng làm khởi sanh cảm giác khẩn cấp của ạo tâm. Vì nếu sự sanh xảy ra thì iều chắc chắn không thể tránh khỏi là có hiện khởi sự già, bịnh và chết. Vì có sự sanh khởi của sự sanh, chắc chắn không thể tránh khỏi là có hiện khởi sự già, bịnh và chết. Không có sự thoát khỏi già, bệnh và chết vì người ta ã sanh ra. Với người nhìn vào những mối nguy hiểm này của các tướng là áng sợ, thô thiển và ầy kinh tởm, chúng hình thành nguyên nhân cho sự sợ hãi kinh hoàng và báo ộng về các mối nguy hiểm ấy).

(Điềm tướng cuối cùng, iềm tướng của một vị Sa-môn, là sự hiện khởi ể khuyến tấn sự thực hành pháp, là con ường thoát khỏi mối nguy hiểm già, bịnh và chết. Do ó, iềm tướng này ược gọi là padhāṇa nimitta – tinh cần tướng).

Sakka phái vị thiên Visukamma giúp Thái tử Bồ tát thay y 

Thái tử trải qua suốt ngày trong vườn thượng uyển, vui chơi và thọ hưởng nét tươi vui của nó. Sau khi tắm, vào lúc mặt trời bắt ầu lặn, Ngài ngồi một cách tao nhã trên tảng á kiết tường. Vào lúc ấy, Ngài có ý muốn thay y. Sakka, nhận biết ước muốn của Thái tử, truyền lịnh cho chư thiên Visukamma hóa ra làm người thợ cạo ể phục vụ Thái tử, ến giúp Ngài thay y với trang phục của chư thiên. ( Ở ây Bồ tát thay y phục của chư thiên ược hình dung trong sự dự oán).

Khi các nhạc sĩ ang trình tấu năm loại nhạc khí và những người khác thì múa và hát, và các vị Phạm thiên tán dương Ngài bằng những lời chúc tụng ngọt ngào: “ Cầu chúc bệ hạ ược thành công trọn vẹn, thoát khỏi mọi iều nguy hiểm và thù ịch; chúc bệ hạ ược hạnh phúc và luôn luôn chói sáng.” Thái tử trang phục với năm loại trang sức của chư thiên, bước lên chiếc long xa, ược trang trí bằng các loại trang sức quí báu, trở về hoàng cung.

Sự ra ời của Rāhula  

Vào thời iểm ó, vua Suddhodāna nghe tin rằng chánh hậu Yasodharā của Thái tử ã hạ sanh một bé trai. Đức vua cho người i thông báo với Thái tử về tin mừng này: “ Hãy em tin tốt lành ến con trai của ta.” Khi Thái tử Siddhattha nghe tin rằng một ứa bé trai ã ược sanh ra, vì ang nuôi dưỡng kinh cảm trí trong tâm, Ngài nhận xét: “ Asura Rāhu! Là người sẽ bắt giữ ta làm nô lệ ã ra ời. Một trói buộc lớn ã ra ời.”

Khi ức vua Suddhodāna hỏi: “ Con trai của ta ã nói gì ?”

Những người ưa tin kể lại với ức vua về những lời nhận xét của Thái tử Bồ tát, vua Suddhodāna liền ặt tên cho ứa cháu nội của vị ấy như vầy: “ Từ nay trở i, ứa cháu nội trai của ta sẽ ược gọi là hoàng tử Rāhula.”

Bài kệ hoan hỷ về sự an lạc của công chúa Kīsa Gotami, thuộc dòng họ Thích ca

Thái tử i vào kinh thành Kapilavatthu trên chiếc long xa, với sự uy nghi và rực rỡ cao tột, ược theo hầu với oàn tùy tùng ông úc. Nàng công chúa Kisā Gotamī, xinh ẹp và duyên dáng thuộc dòng dõi Thích ca quí tộc, nhìn thấy thân sắc (rūpakāya) của Thái tử khi nàng ang ứng ở lan can trên lâu ài của nàng, cảm thấy hoan hỷ nói lên cảm nghĩ của nàng như sau : 

Nibbutā nūna sā mātā. Nibbutā nūna so pitā

Nibbutā nūna sā nārī Yassā’yaṃ īdiso patī.

Hạnh phúc thay và an lạc thay tâm của người mẹ may mắn ã sanh ra một người con trai sở hữu sự rực rỡ như mặt trời ban mai, một người con trai phi thường tuấn tú, thông minh bậc nhất. Chỉ cần suy nghĩ hai ặc iểm - tài năng và vẻ ẹp của người con trai, thì sự mãn nguyện ầy vui sướng của bà qua mỗi ngày sẽ dẫn ến sự an lạc trong tâm.

Hạnh phúc và an lạc thay tâm của người cha may mắn, có ược người con trai như vậy, rực rỡ như mặt trời mới mọc, một người con trai phi thường thuộc dòng họ cao quý, tuấn tú và thông minh bậc nhất. Chỉ cần suy nghĩ nhiều về hai ặc iểm -  tài năng và sắc ẹp của người con trai thì sự mãn nguyện ầy vui sướng của ông ta qua mỗi ngày sẽ dẫn ến sự an lạc trong tâm.

Hạnh phúc và an lạc thay tâm của người phụ nữ may mắn, có ược người chồng như vậy, rực rỡ như mặt trời mới mọc, một người con trai phi thường thuộc dòng cao quý, tuấn tú và thông minh bậc nhất. Chỉ cần suy nghĩ nhiều về hai ặc iểm - tài năng và sắc ẹp của người chồng thì sự mãn nguyện ầy vui sướng của nàng qua mỗi ngày sẽ dẫn ến sự an lạc trong tâm.

(Khi dầu ược rót vào bình và khi ầy bình, dầu sẽ tràn ra. Dường thế ấy, khi một người nào ó cảm thấy rất hoan hỷ và mãn nguyện vì lý do này hay lý do khác, cảm giác hoan hỷ và thỏa mãn nói trên (pīti & somanassa) sẽ tựa như tràn ngập trong lòng. Cảm giác hoan hỷ và mãn nguyện tràn trề như vậy ược biểu lộ dưới dạng kệ (gāthā) hay văn xuôi (cuṇṇiya) ược gọi là udāna - cảm hứng kệ hay hoan hỉ kệ).

Khi nghe bài cảm hứng kệ của nàng công chúa Kisā Gotamī, dòng Thích ca, Thái tử suy nghĩ: “ Cô em họ này của ta, Kisā Gotamī, ã nói lên bài cảm hứng kệ có nội dung rằng hình ảnh của một nhân vật (attabhāva) như vậy sẽ em lại niềm vui sướng và tịnh lạc cho người mẹ, người cha và người vợ. Vậy iều gì mà khi diệt tắt sẽ em lại sự an lạc thực sự cho tâm ?”  Khi ấy Thái tử, người mà tâm ã xa lìa các phiền não (kilesa) khởi lên ý nghĩ như vầy: “ Sự an lạc thực sự chỉ có ược khi ngọn lửa ái dục (rāga) bị diệt tắt; sự an lạc thực sự chỉ có ược khi ngọn lửa của sân hận (dosa) bị diệt tắt;  sự an lạc thực sự chỉ có ược khi ngọn lửa của si mê (moha) bị diệt tắt; sự an lạc thực sự chỉ có ược khi các ngọn lửa phiền não như ngã mạn (māna), tà kiến (diṭṭhi), v.v... diệt tắt. Công chúa Kisā Gotamī ã nói những lời khả ái về pháp an lạc. Và ta, người ang tầm cầu Niết bàn, Thực tại Tối thượng - là sự diệt tắt thực sự tất cả khổ au. Ngay trong ngày hôm nay, ta sẽ từ bỏ thế gian bằng sự xuất gia và trở thành vị Sa-môn sống trong rừng ể tầm cầu Niết bàn, Thực tại Tối thượng.” Ý nghĩ xuất ly liên tục sanh khởi trong tâm của Thái tử nói rằng: “ Vòng chuỗi ngọc này là tiền công cho người thầy - công chúa Kisā Gotamī, vì ã nhắc nhở ta i tìm pháp diệt tắt, nibbuti.” Ngài cởi vòng chuỗi ngọc trị giá một lakh ra khỏi cổ và cho người em ến Kisā Gotamī. Công chúa vô cùng vui sướng, nghĩ rằng: “ Người anh họ của ta - Thái tử Siddhattha, ã cho ta món quà vì tâm của vị ấy chiếu cố ến ta.” Thái tử về cung iện nơi trú ngụ của ngài, nguy nga, xinh xắn và diệu kỳ cho cuộc sống ầy khoái lạc và nằm tựa trên chiếc long sàng. Lúc ngài nằm tựa như vậy thì tất cả nữ hầu và vũ nữ có diện mạo và nước da xinh ẹp như nữ thần và rành mạch nghệ thuật ờn ca, múa hát bèn quay quanh ngài, tay cầm năm loại nhạc khí và bắt ầu ánh àn, ca múa ể khiến thái tử thọ hưởng năm loại dục lạc. Nhưng vì tâm ghê tởm và chán ngấy những hoạt ộng làm nhen nhúm ngọn lửa phiền não, Ngài không còn vui thích trong những thú tiêu khiển ờn ca và múa hát nên thiếp i trong chốc lát.

Ngay khi Thái tử chợp ngủ, thì các nữ hầu và vũ nữ bèn suy nghĩ như vầy: “ Chúng ta múa hát và chơi nhạc giúp vui cho Thái tử nhưng ngài ã ngủ rồi. Tại sao chúng ta không tranh thủ nghỉ ngơi một lát?” và họ cũng lăn ra ngủ với những nhạc khí nằm ngổn ngang ây ó. Những ngọn èn dầu thơm ược thắp sáng bên trong cung iện tiếp tục tỏa sáng lung linh.

Sự xuất ly của Thái tử 

Khi thức dậy, Thái tử ngồi kiết già trên long sàng và nhìn quanh. Ngài thấy các vũ nữ ang nằm ngủ, một số thì nằm è lên các nhạc cụ của họ và nước dải chảy ra từ miệng, làm vấy bẩn hai má và thân thể của họ, một số thì nghiến răng trèo trẹo, kẻ thì ngáy khò khò, người thì mớ lảm nhảm, kẻ thì há miệng toang hoác, một số nằm trần truồng, số khác nằm tóc xõa rối bù. Tất cả hiện ra như một bãi tha ma ầy những thi thể nhờm gớm.

Trông thấy những sự biến ổi ầy ghê tởm và những sự thay hình ổi dạng trong các vũ nữ, Thái tử khởi tâm viễn ly các dục lạc càng nhiều hơn. Đây là cách mà sự viễn ly xảy ra:

  1. Apassadā-kāmā: ngũ dục em lại ít khoái lạc nhưng nhiều phiền khổ. Những lỗi lầm và khiếm khuyết của ngũ dục quả thực rất nhiều.
  2. Aṭṭhikankalūpamā-kāmā: ngũ dục giống như khúc xương khô. Khi con chó ói tìm thấy cục xương không còn chút thịt nào, nước dãi của nó nhỏ giọt. Nó gặm hết cục xương mà không thể làm cho nó thỏa mãn, nhưng cục xương còn mùi thơm, con chó không thể nhả ra. Con chó tiếp tục gặm cục xương từ chỗ này ến chỗ khác với mong mỏi ược thỏa mãn, nhưng con chó có thể i ến chỗ chết mà không tìm ược chút vị ngon nào trong cục xương. Dường thế ấy, tất cả chúng sanh, cả nam lẫn nữ, nắm níu vào ngũ dục như cục xương khô ấy, gồm có vàng, bạc, ất ai, tài sản, vợ con, v.v... cũng giống như con chó ói gầy ốm. Tuy họ có ược những vật dục này ể thọ hưởng trong thời gian dài với nhiều tham ái nhưng họ không bao giờ ược thỏa mãn. Họ luôn sống với mong mỏi to lớn là ược thỏa mãn và vui sướng. Bị thu hút và say mê bởi lòng tham muốn dục lạc ang khởi sanh trong họ, các loài hữu tình không thể xa lìa các dục lạc này, không hề có ý nghĩ từ bỏ thế gian ể tự giải thoát họ ra khỏi xiềng xích của các dục lạc; họ thích thú eo bám vào chúng, cuối cùng họ chết bên cạnh vợ con ( trong vất vả, cực nhọc lo toan các phận sự của ời sống gia ình). Do ó, năm loại vật dục rất giống như mẫu xương khô; chúng em lại nhiều phiền khổ và au ớn. Thật vậy, sự tham muốn dục lạc hoàn toàn không áng tin cậy và ầy những lỗi lầm khuyết iểm!
  3. Maṃsapesūpamā-kāmā: ngũ dục quả thật giống như mẫu thịt. Ví dụ: một con diều hâu bay i sau khi cuỗm ược miếng thịt; ngay tức thì ám diều hâu bám theo, vây quanh và tấn công nó dữ dội. Khi nào con diều hâu kia còn giữ miếng thịt thì nó còn liên tục bị tấn công và phải chịu nhiều au ớn; ngay khi nó buông thả miếng thịt thì nó liền vơi i au khổ. Đến lượt con chim khác chộp lấy miếng thịt và bay i, nó cũng bị rượt uổi và tấn công bởi những con chim khác. Như vậy, con chim nào cũng tìm cách chộp lấy miếng thịt và khi chộp ược rồi, chúng ều bị tấn công ến bầm dập. Cũng dường thế ấy, người eo níu theo ngũ dục giống như chộp lấy miếng thịt, cho ó là của ta, ‘tự ngã của ta’ thì gặp những nguy hiểm thường có như bị trấn lột, bị trộm cắp và bị những người ganh ghét phá hoại, hoặc bị gây phiền khổ mỗi khi có cơ hội. Nếu phải ối mặt với những loại kẻ thù này mà anh ta em hết khả năng ể phòng vệ thì anh ta rất có thể bị nguy hiểm tánh mạng dưới những hoàn cảnh bất lợi. Khi nào anh ta còn chấp giữ những vật dục này thì anh ta còn bị rình rập bởi tất cả các loại tai họa, bị nhốt trong cuộc sống ầy hạn chế. Chỉ khi nào từ bỏ tất cả chúng, người ấy mới có ược cơ hội sống trong an lạc. Do ó, năm loại dục lạc rất giống như miếng thịt - chúng em lại nhiều au khổ hơn. Quả thật vậy, những ham muốn về ngũ dục hoàn toàn không áng tin cậy và ầy những khiếm khuyết và lỗi lầm.
  4. Tiṇukkupamā-kāmā: ngũ dục quả thật giống như cây uốc rơm ang cháy. Khi một bó rơm lớn ược châm lửa và i ngược chiều gió, nó bắt ầu cháy từ trên xuống dưới, và chừng nào nó chưa ược quăng i thì nó vẫn còn ốt nóng các phần tứ chi của người cầm nó như ở tay và chân, v.v... Như vậy người kia có thể gặp phải cái chết hoặc phải chịu nhiều au ớn cho ến chết. Dường thế ấy, các vật dục, khi ược eo bám và chấp giữ bởi bàn tay ái dục như là ‘ cái của ta’. ‘tự ngã của ta’, thì chúng sẽ ốt cháy tất cả những ai vui thích với những vật sở hữu của họ bằng những ngọn lửa lo âu và hồi hộp vì phải gìn giữ chúng. Cho dù nâng niu gìn giữ ến mấy chăng nữa, qua quá trình vận hành tự nhiên của chúng, rồi ến lúc chúng cũng bị cướp i và trở thành vô nghĩa. Chúng sẽ phát triển thành ngọn lửa au khổ to lớn qua sự lo âu và buồn khổ. Đôi khi, những ngọn lửa ang bùng cháy này bốc cao thành những ngọn lửa của tử thần. Do ó, sở hữu những vật dục này, hữu tình lẫn vô tình như vợ con, ất ai và tài sản, v.v... cũng y như ôm lấy những ngọn lửa . Do ó, năm loại dục lạc rất giống như những bó cỏ khô ang bốc cháy, chúng em lại nhiều au ớn và buồn khổ. Thực vậy, những ham muốn dục lạc hoàn toàn không áng tin cậy và ầy lỗi lầm, khiếm khuyết.
  5. Aṅgārakasūpamā-kāmā: năm loại dục lạc quả thật giống như hố than hồng. Bị che phủ bởi lớp tro tàn không có khói hoặc lửa ngọn, hố than hồng trông ngụy trang như không có lửa. Nhưng bất cứ ai i xuống hố mà không nhận ra những dấu hiệu có lửa, sẽ bị cháy bỏng nặng nề hơn bị cháy sém bởi ngọn lửa. Thậm chí người kia có thể bị mất mạng. Tương tự vậy, năm loại dục lạc trông bên ngoài có vẻ khả ái, khả lạc và dường như không ốt nóng. Do sự  luyến ái và sở hữu những vật dục này, khi người ta i xuống hố lửa ngầm của các dục lạc, người ấy phải chịu nhiều thống khổ. Bị ốt cháy bởi những ngọn lửa thì ai cũng thấy, nhưng sự cháy nóng của nhiều loại vật ngầm như rễ cây v.v... bị vùi lấp trong lớp than hồng thì không rõ ràng, nhưng sức nóng của chúng thì dữ dội hơn sức nóng của lửa ngọn. Cũng vậy, những người i vào và chìm ắm trong hố than ngầm của các dục lạc, không bị ốt cháy bởi những ngọn lửa thấy ược rõ ràng mà bằng sức nóng ngầm cực mạnh. Nhiều loại vật cháy ngầm như gỗ, rễ cây v.v... bị vùi lấp trong hố than ngầm, chúng cháy âm ỉ, những người say ắm dục lạc cũng vậy, họ bị ốt cháy bên trong và chịu nhiều au khổ do bởi những ý nghĩ về dục lạc, do bởi những khó khăn vất vả trong việc sinh nhai và do bởi tất cả những hình thức lo toan trong việc bảo vệ và nuôi sống gia ình của họ.

Cõi dục này ầy dẫy các dục lạc giống như hầm lửa ngầm to lớn; dục lạc càng nhiều thì than hồng trong hố càng lớn hơn. Loài hữu tình trong thế gian này giống như những khúc củi, những rễ cây v.v... bị vùi lấp trong mớ than hồng ang cháy trong cái hố. Do ó, năm loại dục lạc rất giống như hố than hồng; chúng em lại nhiều au ớn và khổ lụy. Thật vậy, những ham muốn dục lạc không áng tin cậy, nhiều lỗi lầm và khiếm khuyết.

  1. Supinakūpamā-kāmā: năm loại dục lạc quả thật giống như giấc mộng. Một người trong khi ang ngủ, có thể nằm mơ thấy mình trở thành người giàu có, vị tỉnh trưởng (padesarājā) hay hoàng ế (ekarājā), tha hồ thọ hưởng bất cứ loại dục lạc nào mà ông ta thích và sống cuộc sống huy hoàng như vậy. Trong giấc mơ của ông ta, mọi thứ xem ra như có thật. Xem ra ời sống cao sang này không bao giờ chấm dứt, nhưng khi anh ta thình lình thức dậy thì anh ta thấy rằng mọi thứ không thể tìm lại ược, không thể nắm bắt ược và hoàn toàn vô nghĩa. Tương tự, nhân loại và chư thiên trong cõi dục ang chìm ắm trong những khoái lạc của chư thiên và trần thế do ái dục (taṇhā) dẫn ường, và bị mê muội bởi ái dục, ngã mạn (mānā) và tà kiến (diṭṭhi) cho rằng ời sống khoái lạc của họ là có thực, thường hằng và bền vững. Họ chỉ ang mê ó thôi. Trong cuộc ời ngắn ngủi của kiếp sống hiện tại, trong khi ang thọ hưởng dục lạc như giấc mơ ấy, người ta phải i qua kiếp sống khác, bỏ lại tất cả những dục lạc mà người ấy vẫn còn bám chấp mãnh liệt. Cũng như tất cả những vật dục mà người ta bắt gặp trong giấc mơ, chúng biến mất không dấu vết vào lúc người ấy thức dậy. Cũng vậy tất cả những vật dục mà người ta chấp thủ là ‘ta’, ‘của ta’, ‘tài sản của ta’, trong suốt thời gian ngắn ngủi của ời sống hiện tại, rốt cuộc chúng ều trở thành những thứ chẳng liên quan gì ến ta cả. Do ó, những dục lạc rất giống như trong giấc mơ; chúng có nhiều au ớn và khổ lụy. Quả thật vậy, những ham muốn dục lạc hoàn toàn không áng tin cậy, nhiều lỗi lầm và khiếm khuyết.
  2. Yācitakūpamā-kāmā: năm loại dục lạc quả thật giống như những vật vay mượn. Giả sử có những người không có những vật sở hữu làm của riêng phải thuê mướn những ồ trang sức như ngọc quí, vàng và bạc ể mang trong những dịp lễ hội. Họ mang những vật trang sức ấy như là của riêng họ với tất cả hạnh phúc, khi họ hoàn trả chúng hoặc khi bị các sở hữu chủ lấy lại; sau khi trả chúng cho người chủ sở hữu, họ cảm thấy buồn và thất vọng. Tương tự, khi những phước quá khứ cho quả lợi lạc qua sự thọ hưởng các dục lạc, họ có thể mê muội nghỉ rằng những iều lợi lạc như vậy sẽ kéo dài mãi mãi. Khi những vật dục này bị mất i hoặc bị tiêu hoại do

kết quả của những ác nghiệp trong quá khứ của họ, hoặc khi họ mạng chung, chúng trở thành những thứ không phải của mình. Thử nhìn vào cuộc sống của một người, ai cũng cho rằng mình là chủ nhân của các vật dục nào ó, nhưng cuối cùng cũng phải bỏ lại với hai bàn tay trắng. Do ó, năm loại vật dục rất giống như những vật vay mượn; chúng em lại nhiều au khổ và phiền lụy. Quả thật vậy, những ham muốn dục lạc hoàn toàn không áng tin cậy, nhiều lỗi lầm và khiếm khuyết!

  1. Rukkhaphalūpamā-kāmā: năm loại vật dục quả thật giống như cây có ầy trái. Ví dụ : trong một khu rừng gần một ngôi làng nọ, có một cây lớn ra trái trĩu cành. Một người àn ông nọ rảo i trong rừng tìm kiếm trái cây ể ăn, trông thấy cây kia và suy nghĩ: “ Cây này ầy những trái thơm ngon mà chẳng có một trái nào rụng xuống ất cả. Ta lại có tài leo cây. Bởi vậy ta sẽ leo lên cây và hái ăn cho thỏa thích. Ta cũng sẽ hái chúng và bỏ ầy các túi áo quần.” Với suy nghĩ như vậy, anh ta trèo lên cây, ăn trái và bỏ ầy các túi áo quần. Trong lúc ấy, một người àn ông thứ hai với cái rựa trong tay, cũng i vào rừng tìm kiếm trái cây ể ăn. Anh ta trông thấy cây ầy trái ấy và nghĩ rằng: “ Cây này ầy những trái ngọt. Không có trái nào trên mặt ất cả, mà ta thì không biết leo cây. Thế nên, ta sẽ ốn gốc cây và ăn trái cho thỏa thích. Ta cũng hái thêm một số và bỏ ầy các túi.” Rồi người àn ông ốn hạ cây. Người àn ông trước ã ở trên cây không thể nhanh chóng leo xuống trước khi người thứ hai ốn hạ cây; người này chắc chắn sẽ bị mất mạng nếu không thì cũng bị tàn tật.

Tương tự, một người giàu có ang thọ hưởng ngũ dục có thể bị một người àn ông khác ến ánh ập và trấn lột hết những vật dục của ông ta. Người àn ông giàu có bị ánh ập nặng nề có thể bị thương tích, tàn tật, thậm chí ến mất mạng do bởi những vật dục ấy. Nếu người ấy mạng chung mà còn mang ấn tượng sâu sắc hoặc luyến ái mãnh liệt với các vật dục ấy, thì ông ta sẽ gặp phải tất cả mọi hình thức au khổ như bị tái sanh vào các khổ cảnh. Do ó, năm loại dục lạc rất giống với cây có ầy trái. Chúng em lại nhiều au ớn và khổ luỵ. Quả thật vậy, những ham muốn dục lạc hoàn toàn không áng tin cậy, nhiều lỗi lầm và rủi ro.

(Hoặc) Năm loại dục lạc giống như trái ộc. Ví dụ có một trái ộc tên gọi kiṁpukka hay kiṁphala giống như trái xoài ngon tươi nhất, nhưng nó làm cho người ăn nó phải chịu au ớn khôn tả, thậm chí dẫn ến cái chết. Những người ăn loại trái kia chỉ vì màu sắc, mùi và vị của nó, phải quằn quại trong au ớn vì ruột bị vỡ ra, và cuối cùng chết trong au ớn như người ã uống thuốc rầy vậy. Tương tự vậy, năm loại dục lạc có lớp vỏ giả tạo ầy hấp dẫn làm mê muội những người không có con mắt trí tuệ mang ý nghĩ rằng chúng quả thật là những vật dục khả ái, khả lạc. Bị quyến rũ bởi lớp vỏ hào nhoáng, ầy hấp dẫn của chúng, những kẻ vui thích và chìm ắm  trong chúng sẽ bị chết ngạt dần dần trong những chất ộc bất thiện như tham, sân và si và sau khi nếm ủ mọi hình thức au ớn và khổ lụy do lo âu, buồn giận, v.v... cuối cùng họ i ến cái chết trong tuyệt vọng. Vì chất ộc của dục lạc vẫn còn eo bám trong tâm của họ, nên sau khi chết họ không ược tái sanh vào cảnh giới hạnh phúc, thay vào ó, họ còn lãnh chịu nhiều au khổ hơn do phải tái sanh trong các khổ cảnh như ịa ngục (apāya). Do ó, năm loại dục lạc rất giống như trái chín có ộc, chúng em lại nhiều au ớn và khổ lụy. Quả thật, những ham muốn dục lạc hoàn toàn không áng tin cậy, nhiều lỗi lầm và khiếm khuyết.

  1. Asisūnūpamā-kāmā: Năm loại dục lạc quả thật giống như tấm thớt chặt thịt. Ví dụ: chính trên tấm thớt những con thú và những con vật bị săn bắt như nai, v.v... bị giết chết, thịt của chúng bị lóc ra và thái thành từng miếng. Tấm thớt chặt thịt là nơi các loài hữu tình bị giết và bị lóc thịt. Tương tự thế ấy, năm loại dục lạc tiêu diệt tất cả chúng sanh vui say, ắm chìm trong chúng bằng sự mổ xẻ, cắt thái,

bởi con dao và chiếc búa ái dục của họ. Tất cả những ai tự kê cổ vào tấm thớt của dục lạc (những kẻ tham ái) thì không thể phát triển pháp xả bỏ (nekkhamma dhātu) ể i vào thế giới thênh thang và ại lộ Thiền quán ể bẻ cây dao ái dục và ập tan cây rìu tham luyến. Họ i ến cái chết trong kết cuộc ầy thê thảm. Do ó, năm loại dục lạc rất giống như tấm thớt chặt thịt. Chúng em lại nhiều au ớn và khổ lụy. Quả thật vậy, những ham muốn dục lạc hoàn toàn không áng tin cậy, nhiều lỗi lầm và khiếm khuyết!

  1. Sattisūlupamā-kāmā: Năm loại dục lạc giống như lưỡi kiếm hoặc lưỡi thương bén nhọn. Ví dụ: lưỡi của cây kiếm hay cây thương bén nhọn sẽ cắt sâu hoặc âm xuyên bất cứ vật gì chạm vào nó. Chúng chỉ là những khí giới ể giết và tiêu diệt kẻ thù, v.v... Năm loại dục lạc cũng vậy, chúng cũng bén nhọn như thế, cắt ứt và âm thủng bất cứ ai chìm ắm theo chúng. Ví dụ một người nào ó bị âm xuyên bởi cây kiếm hay cây thương của cảnh sắc (rūparammaṇa) giống như con cá bị cắn câu, người ấy không thể tự mình gỡ nó ra ngay, mà phải chịu au ớn theo nó. Bị âm thủng như vậy bởi cây kiếm hoặc cây thương của cảnh sắc, người ấy trở nên lãng quên không nhớ ến pháp hành giới (sīla), ịnh (simādhi) và tuệ (pañña) mà anh ta ã tu tập trước kia. Như vậy anh ta kết thúc trong sự sụp ổ. (ví dụ này cũng áp dụng cho cảnh thinh - saddārammaṇa, v.v...). Như vậy, năm cảnh dục giống như những lưỡi kiếm hoặc lưỡi thương sắc bén, chỉ là những khí giới giết hại và tiêu diệt chúng sanh. Tất cả chúng sanh nào chưa từ bỏ tham ái ối với các dục lạc, giống như những tù nhân, họ phải ở giữa những cây thương, cây kiếm bén nhọn của năm loại dục lạc ang hướng thẳng vào họ trong bất cứ kiếp sống nào mà họ sanh ra. Năm loại dục lạc này tự ộng bám chắc vào tất cả những chúng sanh nào chạm vào chúng mà không loại trừ bất cứ ai. Do ó, năm loại dục lạc rất giống như lưỡi kiếm hoặc lưỡi thương bén nhọn, chúng em lại nhiều au ớn và khổ lụy. Quả thật vậy, những tham muốn dục lạc hoàn toàn không áng tin cậy, nhiều lỗi lầm và khiếm khuyết!
  2. Sappasirūpamā-kāmā: Năm loại dục lạc quả thật giống như ầu của con rắn ộc. Đầu của con rắn ộc chứa chất ộc chết người, áng sợ và áng ghê tởm. Như ầu của con rắn ộc gây tai hại khôn tả cho tất cả những ai chạm vào nó, năm loại dục lạc cũng vậy, ghê tởm và áng sợ vì chúng chứa ầy chất ộc cực mạnh có thể sản sanh ra loại máu phiền não (kilesa) trong những người chạm vào chúng, hoặc bị cắn bởi chúng. Và cũng như ầu của con rắn ộc chỉ em lại tai hại mà không em lại lợi ích cho thế gian. Tương tự, năm loại dục lạc em lại tất cả những hình thức tai họa áng sợ cho mọi người trong thế gian. Năm loại dục lạc giống như người ụng vào hoặc giẫm lên ầu của con rắn ộc sẽ gặp phải tai họa to lớn. Do ó, năm loại dục lạc rất giống ầu của con rắn ộc, chúng em lại nhiều au ớn và khổ lụy. Quả thật vậy, những ham muốn dục lạc hoàn toàn không áng tin cậy, nhiều lỗi lầm và khiếm khuyết!

(Cách quán tưởng về các ngũ trần kể trên ược căn cứ vào bài kinh Potaliya Sutta của bộ Majjhimapaṇṇāsa Pāli).

“Cung iện nguy nga, tráng lệ này có thể sánh với cung iện Vejayanta của Đế thích, giờ nó quả thật giống như bãi tha ma. Ba cõi dục giới (kāma), sắc giới (rūpa) và vô sắc giới (arūpa) quả thật giống như ngôi nhà lớn ang bốc cháy dữ dội. Những chúng sanh này gồm có nhân loại, chư thiên và Phạm thiên, tất cả ều phải trải qua sự sanh, lão, bịnh, tử và sau khi chết phải thọ sanh trở lại, rồi lại già, bịnh và chết. Trong nhiều kiếp luân hồi vô số kể, chúng sanh phải chịu khổ au khôn tả. Tuy vậy, họ vẫn không biết con ường thoát khỏi sanh, già, bịnh và chết. Khi nào họ mới biết ược con ường ấy ?”

Khi quán xét như vậy và nhận ra tánh chất áng sợ của sanh, già, bịnh và chết, và thấy rằng các vật dục và tâm tham dục cũng như ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới em lại hạnh phúc và vui sướng nhỏ nhoi, nhưng nhiều au khổ và tội lỗi. Thái tử hoàn toàn từ bỏ vui thích và luyến ái năm loại dục lạc, rồi nói lên cảm nghĩ của Ngài như sau: 

            “Upaddutaṃ vata bho – Ôi, au ớn phiền não thay!”

             “Upassatthaṃ vata bho – Ôi, bức bách làm sao!”

Ngài khởi tâm mãnh liệt muốn từ bỏ thế gian và trở thành Samôn. Khi tự nghĩ: “Ngay hôm nay, ã ến lúc ể ta từ bỏ ời sống gia ình. Thái tử rời khỏi long sàng và i ến cửa lớn và hỏi rằng: “ Ai ở ây ?” Vị quan Channa ang ngủ, ầu gối lên ngạch cửa, bèn áp lại: “ Tâu Thái tử, thần là Channa.” Thái tử bèn truyền lịnh cho vị ấy: “Ta muốn từ bỏ thế gian ngày hôm nay. Đừng cho bất cứ ai biết, hãy i ngay và thắng yên cương vào con tuấn mã thần tốc Sindhi.” Quan Channa tuân lệnh áp lại: “ Thưa vâng, tâu Thái tử ” và khi mang theo những dụng cụ cần thiết ể thắng yên cương cho ngựa, vị ấy i ến chuồng ngựa. Trong ánh sáng lung linh của những ngọn èn dầu thơm, vị ấy trông thâý con tuấn mã Kaṇḍaka (Kiền trắc) - kẻ chiến thắng tất cả kẻ thù, ang ứng trên nền ất, dưới cái lọng có treo những chuỗi hoa lài. Vị ấy quyết ịnh: “ Ta sẽ sửa soạn cho con tuấn mã kiết tường Kaṇḍaka này ể ưa Thái tử i xuất gia trong êm nay.” Vị ấy thắng yên cương vào con tuấn mã Kaṇḍaka với ầy ủ những thứ cần thiết.

Khi ang ược thắng yên cương như vậy, Kaṇḍaka bỗng nhận ra rằng: “ Lần này ta ược thắng yên cương khá chắc. Những lần trước, khi ến vườn thượng uyển, người ta thắng yên cương không chắc như vậy. Đêm nay Thái tử chắc chắn sẽ cỡi trên mình ta ể i xuất gia trở thành Sa-môn.” Đầy vui sướng, Kiền trắc hí vang. Tiếng hí trong nỗi vui sướng của nó áng ra sẽ vang dội khắp thành Kapilavatthu, nhưng chư thiên ã làm cho không ai nghe ược tiếng hí của nó.

Trong khi vị quan Channa - người bạn ồng sanh của Thái tử ang i thắng yên cương cho ngựa Kiền trắc như vậy, thì Thái tử khởi lên ý nghĩ: “ Ta sẽ ến thăm ứa con mới chào ời của ta trước khi i xuất gia.” Ngài bèn i ến phòng hoàng hậu Yasodharā, và mở cửa phòng. Vào lúc ấy, căn phòng ược tỏa sáng lung linh bởi những ngọn èn dầu thơm; và hoàng hậu Yasodharā, mẹ của Rāhula, ang nằm ngủ trên chiếc giường rải hoa lài, ầu của ứa bé Rāhula tựa trên tay của bà.

Thái tử ứng ở ngưỡng cửa và trong khi nhìn, Ngài suy nghĩ: “ Nếu lấy bàn tay của hoàng hậu ra và ẵm ứa con, thì chắc chắn sẽ làm cho hoàng hậu thức giấc. Khi hoàng hậu thức giấc thì sẽ gây chướng ngại cho kế hoạch xuất gia mà Ta sắp thực hiện. Bây giờ không thể ược, Ta chưa thể gặp con. Đợi sau khi thành Phật rồi, ta sẽ về thăm con trai.” Sau khi suy nghĩ như vậy, Ngài i xuống khỏi cung iện, ến nơi con tuấn mã và nói với nó rằng:  “ Này Kiền trắc, người bạn ồng sanh của ta. Hãy giúp Ta êm nay. Sau khi chứng ắc Phật quả, Ta sẽ cứu vớt thế giới hữu tình chúng sanh bao gồm cả chư thiên, ra khỏi vòng luân hồi và ưa họ ến miền ất cao cả của Niết bàn.”

Rồi Thái tử lên lưng con tuấn mã Kiền trắc. Tuấn mã Kiền trắc dài mười tám hắc tay tính từ cổ và có chiều cao cân ối. Nó có sức mạnh to lớn cũng như tốc ộ nhanh. Toàn thân màu trắng như tuyết, tướng mạo của nó khả ái và duyên dáng như chiếc tù và mới ược ánh bóng. Ngồi trên lưng con ngựa Kiền trắc còn có Channa, cũng là một người bạn ồng sanh khác của Ngài, tay nắm chặt vào uôi của con ngựa, Bồ tát ra khỏi hoàng cung vào canh giữa của êm thuộc ngày thứ hai, tức ngày rằm tháng Āsāḷha năm 97, lịch Mahā Era, và ến tại cổng chính của kinh ô. (Khi Bồ tát ang cỡi trên lưng ngựa Kiền trắc như vậy và ra khỏi hoàng cung thì chư thiên ặt bàn tay của họ dưới móng của con ngựa, trong mỗi bước gõ của nó ể không ai nghe ược âm thanh từ các móng của nó).

Thái tử, vị quan Channa và tuấn mã Kaṇḍaka, mỗi nhân vật ều có dự tính riêng 

Chính trong thời gian ấy, nhà vua Suddhodāna ã thực hiện những dự phòng ể ngăn chặn Thái tử ra i bằng cách tăng cường củng cố ở hai bên cổng chính của kinh thành, mỗi bên chỉ có thể mở ra ược bằng sức mạnh của một ngàn quân binh. Đức vua suy nghĩ: “ Nếu ược bố trí như vậy thì con trai của ta sẽ không thể nào ra i bằng cổng chính của kinh thành mà không ai hay biết.”

Thái tử là người có sức mạnh to lớn; Ngài có sức mạnh tương ương với mười ngàn triệu người àn ông bậc trung (majjhima-

purisa). Do ó, Ngài tự nghĩ: “ Nếu cổng chính này không mở thì ta sẽ trốn thoát ngày hôm nay bằng sức mạnh của riêng Ta. Vẫn ngồi trên lưng của con tuấn mã Kaṇḍaka, Ta sẽ nắm chắc quan Channa ang cầm lấy uôi của con ngựa và kẹp con ngựa giữa hai ùi của Ta rồi nhảy qua bức tường thành cao mười tám hắc tay.” Vị quan Channa cũng tự nghĩ: “ Nếu cổng chính của kinh thành không mở thì ta sẽ ể Thái tử ngồi trên vai của ta, tay ta quặp lấy con ngựa Kiền trắc dưới nách bên phải và ghì chặt Ngài bằng bàn tay phải của ta, ta sẽ nhảy qua bức tường thành của kinh ô Kapilavatthu cao mười tám hắc tay và thoát i.” Tuấn mã Kiền trắc cũng tự nghĩ:“Nếu cổng chính của kinh thành không mở thì ta sẽ giữ cho Thái tử ngồi yên trên lưng của ta cùng với vị quan Channa ang giữ chắc uôi của ta, ta sẽ nhảy qua bức tường thành cao mười tám hắc tay của kinh thành Kapilavatthu và trốn thoát.”

Thể lực của Thái tử  

[Một con voi Kāḷāvaka có sức mạnh bằng sức mạnh của mười người àn ông bậc trung (majjhima-purisa). Một con voi Gaṅgeyya có sức mạnh bằng mười con voi Kāḷāvaka (hay 100 người bậc trung); một con voi Paṇḍara có sức mạnh bằng mười con voi Gaṅgeyya (hay 1000 người bậc trung); một con voi Tamba có sức mạnh bằng 10 con voi Paṇḍara (hay 10.000 người bậc trung); một con voi Piṅgala có sức mạnh bằng 10 con voi Tamha ( hay100.000 người bậc trung); một con voi Gandha có sức mạnh bằng 10 con voi Piṅgala (hay 1.000.000 người bậc trung), một con voi Maṅgala có sức mạnh bằng 10 con voi Gandha ( hay 10.000.000 người bậc trung); một con voi Hema có sức mạnh bằng 10 con voi Maṅgala ( hay100.000.000 người bậc trung); một con voi Uposatha có năng lực bằng mười con voi Hema (hay 1.000.000.000 người bậc trung); một con voi Chaddanta có sức mạnh bằng 10 con voi Uposatha (hay 10.000.000.000 người bậc trung). Bồ tát có sức mạnh bằng 10 con voi Chaddanta (hay 100.000.000.000 người bậc trung).] (Chú giải Aṅguttara)

Hành ộng ngăn cản của Ác ma Vasavattī 

Như vậy, ba nhân vật trên ều có ý ịnh giống nhau. Ngay cả cổng chính của kinh thành không mở, chắc chắn một trong ba nhân vật cũng sẽ hành ộng ể hoàn thành kế hoạch của Thái tử. Tuy nhiên do oai lực của những iều phước ã tích lũy của Thái tử, chư thiên canh gác cổng thành vô cùng hoan hỉ mở sẵn cổng thành ể Ngài i ra. Ngay khi Ngài cỡi ngựa ra khỏi cổng thành có vị quan Channa theo sau, thì Ác ma Vasavattī - kẻ luôn luôn chống lại và ngăn chặn sự giải thoát của chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử, i xuống cõi nhân loại từ cõi Tha hóa tự tại thiên (Paranimmitavasavattī Deva) trong chốc lát; ngay khi người lực sĩ vừa duỗi cánh tay ra, hay gấp lại cánh tay ược duỗi ra ã xuất hiện ngay trước mặt Thái tử. Mục ích của Ác ma là ngăn chặn việc Ngài từ bỏ thế gian bằng cách khéo léo lừa Ngài tin rằng sự ngăn cản như vậy là có lợi cho riêng Ngài. Khi ứng trong hư không, Ác ma nói rằng:

Mā nikkhama mahāvira ito te sattame dine

Dibbaṃ tu cakkaratanaṃ addhā pātu bhavisssati.

                                                         ( Chú giải Buddhavaṃsa)

Hỡi Thái tử Bồ tát kiên cường dũng mãnh, ừng xuất gia và trở thành Sa-môn ngay. Vào ngày thứ bảy kể từ hôm nay, xe báu của chư thiên dành cho Ngài sẽ xuất hiện.

Ác ma cũng ra sức làm nhụt chí Thái tử bằng cách nói với Ngài rằng: “Ngài sẽ trở thành vị Chuyển luân vương trị vì khắp bốn ại châu ược bao quanh bởi hai ngàn tiểu ảo. Hãy trở về, tâu bệ hạ.” Nhân ó, Thái tử Bồ tát hỏi: “Ngươi là ai, kẻ ang nói với ta và làm nhụt chí của ta?” Ác ma áp lại: “Tâu bệ hạ, tôi là Ma vương Vasavattī.” Rồi Bồ tát khẳng khái áp lại rằng:

Jānāmahaṁ mahārājā, mayhaṁ cakkassa sambhavaṁ            Anatthiko’ham rajjena, gaccha tvaṁ Māra mā idha.

“Này Ác ma ầy quyền lực, ta ã biết trước ngươi rằng xe báu chắc chắn sẽ phát sanh lên cho Ta. Về phần Ta, Ta không có chút ham muốn nào ược trở thành Chuyển luân vương, trị vì khắp bốn châu.

Bây giờ, này Ác ma, hãy i khỏi ây ngay, ừng ứng cản ường ta.”

Sakalaṃ dasasahassaṃ pi, lokadhātum’ahaṁ pana           Unnādetvā bhavissāmi, Buddho loke vināyako.

“Về phần ta, ta sẽ cố gắng trở thành một vị Phật ể tiếp ộ chúng sanh, những kẻ sẵn sàng nghe Giáo pháp (veneyya),  ến miền ất chiến thắng của Niết bàn, khiến cho mười ngàn thế giới phải quay cuồng và vang dội như bánh xe của người thợ gốm.”

Nhân ó, Ác ma e dọa Thái tử bằng những lời sau ây: “ Hỡi ông bạn Thái tử Siddhattha, hãy thường xuyên nhớ lấy những lời của ông. Từ giờ trở i, ta sẽ làm cho ông biết rõ ta là ai, bất cứ khi nào tâm của ông chứa ầy những ý nghĩ về dục lạc (kāmavitakka), những ý nghĩ nóng giận (vyāpādavitakka) hay những ý nghĩ ộc ác (vihiṁsāvitakka).” Và từ ó trở i, Ác ma luôn luôn theo dõi, chờ ợi các phiền não (kilesa) khởi sanh trong tâm của Thái tử. ( Ác ma theo sát Ngài như bóng theo hình suốt bảy năm trời với ý ịnh giết chết Ngài ngay tại chỗ mà các phiền não khởi sanh trong dòng tâm của Bồ tát). 

Sự hộ tống rầm rộ của chư thiên và Phạm thiên ến bờ sông Anomā 

Năm hai mươi chín tuổi, khi sắp nhận vinh quang và quyền lực của vị Chuyển luân vương, Ngài ã xem thường và vất bỏ chúng tựa như chúng là những bãi nước bọt. Nửa êm, vào ngày rằm tháng Āsaḷha khi chòm sao Āsaḷha và mặt trăng giao hội với nhau, năm 97, theo lịch Mahā Era, Ngài rời hoàng cung nguy nga như cung iện của vị Chuyển luân vương. Nhưng khi Ngài ang i như vậy, thì ước muốn quay lại nhìn kinh ô Kapilavatthu khởi sanh trong tâm.

Khi ý nghĩ ấy ã khởi sanh trong tâm của Thái tử, ngay chính chỗ mà ý nghĩ khởi sanh quay vòng như bánh xe của người thợ gốm tựa như quả ất ang nói với Ngài rằng: “Hỡi Bồ tát, con người cao quý, những việc phước của Ngài sẽ giúp ngài thỏa nguyện mà không cần phải quay lại ể nhìn bất cứ iều gì, cảnh mà Ngài muốn nhìn tự nó sẽ ở ngay trước mặt.” Như vậy Thái tử ã nhìn ngắm kinh ô Kapilavatthu từ chỗ Ngài ang ứng mà không cần quay lại. Chỗ con ngựa Kaṇḍala dừng lại ược ánh dấu bằng một bảo tháp ược xây dựng mang tên là Kaṇḍaka Nivattana. Rồi Ngài tiếp tục lên ường một cách oai vệ trên lưng của con tuấn mã Kaṇḍala. Dọc theo con ường Thái tử i qua, tất cả chư thiên và Phạm thiên rầm rộ tiễn ưa Ngài ở phía trước và sau, ở bên phải và trái, một số cầm sáu chục ngàn cây uốc ược thắp sáng (sáu trăm ngọn uốc cháy sáng, theo Chú giải bộ Budddhavaṃsa), những vị khác thì tôn kính Ngài bằng những tràng hoa thơm, bột chiên àn, phất trần bằng lông uôi của con bò Tây tạng, cờ và xí. Họ vừa i vừa hát những bản nhạc của chư thiên và chơi năm loại nhạc khí của chư thiên.

Đức Bồ tát cao quý, bậc ã ra i xuất gia trong oai nghi, ường bệ như vậy, ã i qua ba vương quốc Sākiya, Koliya và Malla chỉ trong một êm với quãng ường dài ba mươi do tuần, cuối cùng ến bờ sông Anomā.

(Chú thích: Con tuấn mã Kaṇḍala có tốc lực phi nhanh như gió, có thể chạy quanh ngọn núi Cakkavāla vào lúc sáng sớm và trở về úng giờ ăn trưa.  Tuy nhiên, iều ặc biệt cần chú ý là vào lúc ấy, những tràng hoa thơm ược rải xuống bởi chư thiên và Phạm thiên, rồng (nāga) và Kim-xí-iểu (garuda), v.v... từ trên không trung phủ trên mặt ất, cao ến ngang rốn của con ngựa và vì thế nó ã lê bước, ra sức vượt qua khối hoa dày ặc tựa như ang i qua vùng ất lầy lội và như vậy chỉ có thể i ược 30 do tuần trong một êm).

                                                 

                                  

                                KẾT THÚC CHƯƠNG 3 

 

                         SỰ TRÔNG THẤY BỐN ĐIỀM TƯỚNG

 

                                                    ]œ  

 

.

ĐPS T1A.001 Giới thiệu tác giả - dịch giả : -

ĐPS T1A.002 CHƯƠNG 1 KÍNH LỄ VÀ PHỤC NGUYỆN : -

ĐPS T1A.003 CHƯƠNG 2 SỰ XUẤT HIỆN HY HỮU CỦA MỘT VỊ PHẬT : -

ĐPS T1A.004 CHƯƠNG 3 BÀ-LA-MÔN SUMEDHA : -

ĐPS T1A.005 CHƯƠNG 4 SỰ XUẤT GIA CỦA SUMEDHA : -

ĐPS T1A.006 CHƯƠNG 5 SỰ THỌ KÝ : -

ĐPS T1A.007 CHƯƠNG 6 QUÁN XÉT VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT : -

ĐPS T1A.008 PHỤ CHÚ GIẢI ĐẠI PHẬT SỬ Cuốn I phần I : -

ĐPS T1B.001 CHƯƠNG 7 LINH TINH NHỮNG ĐIỂM CHÚ THÍCH VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT : -

ĐPS T1B.002 CHƯƠNG 8 MƯỜI TÁM BẤT KHẢ SỬ XỨ ABHABBAṬṬHĀNA : -

ĐPS T1B.003 CHƯƠNG 9 LỊCH SỬ 24 VỊ PHẬT TỔ : -

ĐPS T2A.001 CHƯƠNG 1 PHẬT BẢO : -

ĐPS T2A.002 CHƯƠNG 2 LỄ HẠ ĐIỀN : -

ĐPS T2A.003 CHƯƠNG 3     SỰ TRÔNG THẤY BỐN ĐIỀM TƯỚNG : -

ĐPS T2A.004 CHƯƠNG 4 SỰ CẮT TÓC VÀ TRỞ THÀNH SA-MÔN  : -

ĐPS T2A.005 CHƯƠNG 5 HỌC HỎI VÀ LUẬN BÀN VỚI ĀḶĀRA VÀ UDAKA : -

ĐPS T2A.006 CHƯƠNG 6 BỒ TÁT THỰC HÀNH PHÁP KHỔ HẠNH : -

ĐPS T2A.007 CHƯƠNG 7 SỰ CHỨNG ĐẮC PHẬT QUẢ  : -

ĐPS T2A.008 CHƯƠNG 8 ĐỨC PHẬT TRÚ NGỤ Ở BẢY CHỖ : -

ĐPS T2A.009 CHƯƠNG 9 ĐỨC PHẬT QUÁN XÉT TÁNH CHẤT CAO SIÊU CỦA PHÁP : -

ĐPS T2A.010 CHƯƠNG 10 CÂU CHUYỆN VỀ HAI VỊ THIÊN SĀTĀGIRA VÀ HEMAVATA (KINH HEMAVATA) : -

ĐPS T2A.011 CHƯƠNG 11 SỰ THUYẾT GIẢNG THANH TỊNH ĐẠO HÀNH : -

ĐPS T2A.012 CHƯƠNG 12 YASA, CON TRAI VỊ ĐẠI THƯƠNG NHÂN TRỞ THÀNH TỲ KHƯU : -

ĐPS T2A.013 CHƯƠNG 13 ĐỨC PHẬT PHÁI SÁU MƯƠI VỊ A-LA-HÁN ĐI TRUYỀN BÁ : -

ĐPS T2A.014 CHƯƠNG 14 SỰ GIÁO HOÁ BA ANH EM ẨN SĨ VÀ MỘT NGÀN ĐẠO SĨ : -

ĐPS T2A.015 CHƯƠNG 15 ĐỨC PHẬT VIẾNG THĂM KINH THÀNH RĀJAGAHA : -

ĐPS T2A.016 Phẩn giải thích bổ sung tập 2 : -

ĐPS T3A.001 : -

ĐPS T3A.002 CHƯƠNG 17 CHUYẾN ĐI CỦA ĐỨC PHẬT ĐẾN KAPILAVATTHU : -

ĐPS T3A.003 CHƯƠNG 18 NHỮNG CƠN MƯA ‘LÁ SEN’ RƠI XUỐNG HỘI CHÚNG : -

ĐPS T3A.004 CHƯƠNG 19 MỘT NGÀN VỊ HOÀNG TỬ THÍCH CA THỌ PHÉP XUẤT GIA TỪ ĐỨC THẾ TÔN : -

ĐPS T3A.005 CHƯƠNG 20 SỰ CHỨNG ĐẮC KHÁC NHAU CỦA SÁU VỊ HOÀNG TỬ : -

ĐPS T3A.006 CHƯƠNG 21 CÂU CHUYỆN VỀ SUMANA, NGƯỜI BÁN HOA CỦA THÀNH : -

ĐPS T3A.007 CHƯƠNG 22 SỰ THÀNH LẬP VESALI : -

ĐPS T3A.008 CHƯƠNG 23 ĐỨC THẾ TÔN NGỤ Ở VESALI - MÙA AN CƯ THỨ NĂM : -

ĐPS T3A.009 CHƯƠNG 24 ĐỨC PHẬT NGỰ Ở NGỌN NÚI MAKULA MÙA AN CƯ THỨ SÁU : -

ĐPS T3A.010 CHƯƠNG 25 HẠ THỨ BẢY VÀ SỰ THUYẾT GIẢNG ABHIDHAMMA TẠI CUNG TRỜI ĐAO LỢI (Tāvatiṃsa) : -

ĐPS T3A.011 CHƯƠNG 26 HẠ THỨ TÁM CỦA ĐỨC PHẬT TẠI THỊ TRẤN SUSUMARAGIRA : -

ĐPS T3A.012 CHƯƠNG 27 TRƯỞNG GIẢ GHOSAKA CỦA NƯỚC KOSAMBI : -

ĐPS T4A.001 CHƯƠNG 28 MÙA AN CƯ THỨ 10 CỦA ĐỨC PHẬT TẠI KHU RỪNG PĀLILEYYAKA : -

ĐPS T4A.002 CHƯƠNG 29 HẠ THỨ MƯỜI MỘT CỦA ĐỨC PHẬT TẠI LÀNG CỦA BÀ-LA-MÔN NĀḶA : -

ĐPS T4A.003 CHƯƠNG 30 HẠ THỨ MƯỜI HAI CỦA ĐỨC PHẬT TẠI THÀNH PHỐ VERAÑJĀ : -

ĐPS T4A.004 CHƯƠNG 31 TỲ KHƯU SUDINNA, CON TRAI CỦA THƯƠNG NHÂN KALANDA : -

ĐPS T4A.005 CHƯƠNG 32 HẠ THỨ MƯỜI BA CỦA ĐỨC PHẬT TẠI ĐỒI CALIKA : -

ĐPS T4A.006 CHƯƠNG 33 HẠ THỨ MƯỜI LĂM CỦA ĐỨC PHẬT TẠI KAPILAVATTHU : -

ĐPS T4A.007 CHƯƠNG 34 HẠ THỨ MƯỜI BẢY CỦA ĐỨC PHẬT TẠI VEḶUVANA : -

ĐPS T4A.008 CHƯƠNG 35 CÂU CHUYỆN VỀ MĀRA : -

ĐPS T4A.009 CHƯƠNG 36 CHIỀU CAO CỦA ĐỨC PHẬT ĐƯỢC ĐO BỞI MỘT BÀ-LA-MÔN : -

ĐPS T4A.010 CHƯƠNG 37 CÂU CHUYỆN VỀ VUA AJĀTASATTU : -

ĐPS T5A.001 CHƯƠNG 38 CHA MẸ BÀ-LA-MÔN CỦA ĐỨC PHẬT TRONG KIẾP QUÁ KHỨ : -

ĐPS T5A.002 CHƯƠNG 39 ĐẾ THÍCH SỞ VẤN : -

ĐPS T5A.003 CHƯƠNG 40 NHỮNG LỜI THUYẾT GIẢNG & SỰ VIÊN TỊCH BÁT NIẾT BÀN CỦA ĐỨC PHẬT : -

ĐPS T5A.004 CHƯƠNG 41 NHỮNG BÀI KỆ ĐỘNG TÂM : -

ĐPS T5A.005 CHƯƠNG 42 PHÁP BẢO – DHAMMA RATANA : -

ĐPS T6A.000 Giới thiệu qua chương 43 : -

ĐPS T6A.001 Câu chuyện về hai anh em: Mahākāla và Culakāla : -

ĐPS T6A.002 (2-3) HAI VỊ THƯỢNG THỦ THINH VĂN TRƯỞNG LÃO SĀRIPUTTA & TRƯỞNG LÃO MOGGALLĀNA : -

ĐPS T6A.003 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KASSAPA (Đại trưởng lão Ca-Diếp) : -

ĐPS T6A.004 ĐẠI TRƯỞNG LÃO ANURUDDHA : -

ĐPS T6A.005 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BHADDIYA : -

ĐPS T6A.006 ĐẠI TRƯỞNG LÃO AKUṆDAKA BHADDIYA : -

ĐPS T6A.007 ĐẠI TRƯỞNG LÃO PIṆḌOLA BHĀRADVĀJA : -

ĐPS T6A.008 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MANTĀNIPUTTA PUṆṆA : -

ĐPS T6A.009 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KACCĀYANA (Ca-chiên-diên) : -

ĐPS T6A.010 (11&12) HAI VỊ ĐẠI TRƯỞNG LÃO TÊN PANTHAKA : -

ĐPS T6A.011 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SUBHŪTI (TU BỒ ĐỀ) : -

ĐPS T6A.012 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KHADIRAVANIYA REVATA : -

ĐPS T6A.013 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KAṄKHĀ REVATA : -

ĐPS T6A.014 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KOḶIVISA : -

ĐPS T6A.015 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KUṬIKAṆṆA : -

ĐPS T6A.016 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SĪVALI : -

ĐPS T6A.017 ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAKKALI : -

ĐPS T6A.018 (20-21) ĐẠI TRƯỞNG LÃO RĀHULA & ĐẠI TRƯỞNG LÃO RAṬṬHAPĀLA : -

ĐPS T6A.019 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KUṆḌA DHĀNA : -

ĐPS T6A.020 ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAṄGĪSA : -

ĐPS T6A.021 ĐẠI TRƯỞNG LÃO UPASENA VAṄGANTAPUTTA : -

ĐPS T6A.022 ĐẠI TRƯỞNG LÃO DABBA : -

ĐPS T6A.023 ĐẠI TRƯỞNG LÃO PILINDAVACCHA : -

ĐPS T6A.024 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BĀHIYA DĀRUCĪRIYA : -

ĐPS T6A.025 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KUMĀRA KASSAPA : -

ĐPS T6A.026 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KOṬṬHIKA : -

ĐPS T6A.027 ĐẠI TRƯỞNG LÃO ĀNANDA : -

ĐPS T6A.028 ĐẠI TRƯỞNG LÃO URUVELA KASSAPA : -

ĐPS T6A.029 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KĀḶUDĀYĪ : -

ĐPS T6A.030 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BĀKULA : -

ĐPS T6A.031 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOBHITA : -

ĐPS T6A.032 ĐẠI TRƯỞNG LÃO UPĀLI : -

ĐPS T6A.033 ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDAKA : -

ĐPS T6A.034 ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDA : -

ĐPS T6A.035 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KAPPINA : -

ĐPS T6A.036 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SĀGATA : -

ĐPS T6A.037 ĐẠI TRƯỞNG LÃO RĀDHA : -

ĐPS T6A.038 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MOGHARĀJA : -

ĐPS T6A.039 BĀVARĪ VỊ THẦY BÀ LA MÔN ( tiếp theo) : -

ĐPS T6B.001 Chapter 44 LIfE HISTORIES Of BHIKKHUN¢ ARAHATS : -

ĐPS T6B.002 Chapter 45 THE LIfE STORIES Of MALE LAY DISCIPLES : -

ĐPS T6B.003 EPILOGUE : -

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications