Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐPS T2A.005 CHƯƠNG 5 HỌC HỎI VÀ LUẬN BÀN VỚI ĀḶĀRA VÀ UDAKA
Vua Bimbisāra - bậc trị vì cao quý của dân tộc xứ Magadha, sau khi ã nói chuyện và ưa ra lời thỉnh cầu ến Bồ tát, bèn trở về kinh ô Rājagaha, một kinh ô ược sáng lập bởi vị Chuyển luân vương danh tiếng Mahāgovinda, chúa tể của loài người và lãnh ạo của nhân loại, và những vị hoàng ế hùng mạnh khác. Đức Bồ tát - bậc có những ức tánh như  Meru (Tu-di-sơn), vua của các núi ồi, Ngài là vua của các vị Sa-môn, có uy nghi diện mạo hùng dũng như sư tử, chúa tể của muôn thú, cũng i vào nơi vắng vẻ của núi rừng ể tầm cầu Niết bàn, hạnh phúc tối thượng.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:5931

Các tên gọi khác

Vua Bimbisāra - bậc trị vì cao quý của dân tộc xứ Magadha, sau khi ã nói chuyện và ưa ra lời thỉnh cầu ến Bồ tát, bèn trở về kinh ô Rājagaha, một kinh ô ược sáng lập bởi vị Chuyển luân vương danh tiếng Mahāgovinda, chúa tể của loài người và lãnh ạo của nhân loại, và những vị hoàng ế hùng mạnh khác. Đức Bồ tát - bậc có những ức tánh như  Meru (Tu-di-sơn), vua của các núi ồi, Ngài là vua của các vị Sa-môn, có uy nghi diện mạo hùng dũng như sư tử, chúa tể của muôn thú, cũng i vào nơi vắng vẻ của núi rừng ể tầm cầu Niết bàn, hạnh phúc tối thượng.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
ĐPS T2A.005 CHƯƠNG 5 HỌC HỎI VÀ LUẬN BÀN VỚI ĀḶĀRA VÀ UDAKA

CHƯƠNG 5

HỌC HỎI VÀ LUẬN BÀN VỚI ĀḶĀRA VÀ UDAKA

Bồ tát thọ giáo và àm ạo với hai vị giáo chủ Āḷāra và Udaka, sau ó chứng ắc bát thiền.

 

Attha rājagahaṁ vararājagahaṁ nararājavare nagaraṁ tu gate girirājavaro munirājavaro migirājagato sugato pi gato.

Vua Bimbisāra - bậc trị vì cao quý của dân tộc xứ Magadha, sau khi ã nói chuyện và ưa ra lời thỉnh cầu ến Bồ tát, bèn trở về kinh ô Rājagaha, một kinh ô ược sáng lập bởi vị Chuyển luân vương danh tiếng Mahāgovinda, chúa tể của loài người và lãnh ạo của nhân loại, và những vị hoàng ế hùng mạnh khác. Đức Bồ tát - bậc có những ức tánh như  Meru (Tu-di-sơn), vua của các núi ồi, Ngài là vua của các vị Sa-môn, có uy nghi diện mạo hùng dũng như sư tử, chúa tể của muôn thú, cũng i vào nơi vắng vẻ của núi rừng ể tầm cầu Niết bàn, hạnh phúc tối thượng.

Theo úng với bài kệ này ở trong bộ Chú giải Buddhavaṃsa và bộ Phụ chú giải Jinālaṅkāra, khi vị minh quân Bimbisāra trở về kinh ô Rājagaha, thì Bồ tát lên ường tầm cầu Niết bàn, ược gọi là Santivara (An lạc tối thượng). Trên ường i, Ngài ến chỗ của vị ại giáo chủ, tên là Āḷāra, thuộc thị tộc Kālāma.

(Vì những cuộc gặp gỡ giữa Bồ tát và hai vị giáo chủ Āḷāra và Udaka ược trình bày chi tiết trong bộ kinh Pāḷi, các bộ chú giải như Buddhavaṃsa và Jātaka chỉ ề cập một cách tóm tắt. Nhưng vì các ộc giả khó tiếp cận với bộ kinh như vậy nên chương nói về sự kiện này sẽ ược trình bày khá chi tiết hơn trong bộ Phật sử này. 

Liên quan ến iều này, người ta có thể hỏi: “ Tại sao Bồ tát ến Āḷāra và Udaka mà không ến các ngoại ạo sư nổi tiếng khác như Pūraṇa Kassapa và những vị khác?” Lý do là ường lối thực hành của các vị ngoại ạo sư là những ường lối không có thực chất. Suốt chín mươi mốt ại kiếp, Bồ tát ã từng thực hành theo ường lối của họ chỉ ể tìm hiểu xem chúng có giá trị thực hay không. Từ những kinh nghiệm cá nhân, Ngài ã biết rõ rằng chúng không có giá trị thực. Vì vậy Ngài không i ến những ngoại ạo sư này mà chỉ i ến vị ạo sư nổi tiếng Āḷāra, là vị giáo chủ có rất nhiều ồ ệ).

Khi gặp giáo chủ Āḷāra, Ngài nói lời thỉnh cầu như sau: “ Thưa hiền hữu, người của thị tộc Kālāma, tôi muốn sống cuộc ời phạm hạnh trong ường lối tu tập của hiền hữu.” Āḷāra chấp thuận và nói lời sách tấn một cách chân thành: “ Hỡi người bạn cao quý, hãy ở lại trong hệ thống tu hành này của chúng tôi! Đó là hệ thống tu tập giúp người thực hành sáng trí, nhanh chóng giác ngộ quan iểm của bậc ạo sư và trú trong an lạc.” 

Được sự chấp thuận của giáo chủ Āḷāra, Bồ tát lập tức nghiên cứu học hỏi giáo pháp mới mẻ này. Là người có trí tuệ thông minh siêu việt, Bồ tát dễ dàng học giáo lý và cả pháp hành của Āḷāra. Những gì ông thầy vừa nói ra thì Bồ tát ã ạt ến trình ộ hiểu biết ể có thể nói rằng: “ Tôi ã hiểu rồi! Tôi ã thấy con ường thực hành rồi!” và vị giáo chủ cùng với các ệ tử của vị ấy cũng công nhận lời tuyên bố của Ngài.

Khi suy xét về con ường mà Āḷāra ã nói dựa vào pháp hành dẫn ến chứng ngộ tầng thiền Vô sở hữu xứ (ākiñcaññāyatana jhāna), Ngài nhận ra rằng: “ Xem ra không phải giáo chủ Āḷāra chỉ học thuộc lòng dựa vào ức tin và không có trí tuệ tự thân mà biết ược lối thực hành dẫn ến tầng thiền Vô sở hữu xứ. Đúng ra, vị giáo chủ này là người tự thân ạt ược bảy tầng thiền này.” Vì thế Ngài lại i ến vị giáo chủ và hỏi vị ấy một cách thẳng thắng: “ Hỡi người bạn thuộc dòng họ Kāḷāma, bạn hãy nói sự tự thân giác ngộ giáo lý của bạn ã ến mức ộ nào?” Vì Āḷāra ã tự thân giác ngộ nó nên ã trả lời theo cách của những người có trí tuệ thực chứng ( không phải sự hiểu biết về lý thuyết) bằng cách trình bày ầy ủ bảy pháp chứng cho ến tầng thiền Vô sở hữu xứ (ākiñcaññāyatana jhāna).

Nhân ó, Bồ tát khởi lên ý nghĩ như vầy: “ Không chỉ giáo chủ Āḷāra có ủ niềm tin vững chắc ể chứng ạt các tầng thiền, ta cũng có niềm tin vững chắc ể chứng ạt các tầng thiền. Không chỉ vị ấy tinh tấn, chánh niệm, ịnh và trí tuệ ủ mạnh ể ắc ịnh, ta cũng có tinh tấn, niệm, ịnh và tuệ ủ mạnh ể ắc ịnh. Āḷāra nói rằng vị ấy ã tự thân chứng ngộ bảy pháp chứng cho ến Vô sở hữu xứ ịnh (ākiñcaññāyatana) kèm theo thắng trí (abhiññā), và trú an lạc trong ó. Thật tốt thay nếu ta cũng cố gắng ể chứng ngộ bảy tầng thiền giống như vị ấy.” Với quyết ịnh này, Ngài tinh tấn thực hành pháp thiền ề mục Kasiṇa, và chỉ trong hai hoặc ba ngày, Ngài ã tự mình chứng ngộ bảy tầng thiền ến Vô sở hữu xứ ịnh (ākiñcaññāyatana)  và trú an lạc trong ó.

Bồ tát i ến giáo chủ Āḷāra và hỏi rằng: “ Này bạn Āḷāra, có phải bạn nói rằng qua lối thực hành bấy nhiêu ây mà bạn ã tự mình giác ngộ bảy tầng thiền này cùng với những thắng trí (abhiññā), và trú an lạc ở trong ó?” Khi Āḷāra áp lại bằng sự khẳng ịnh, Bồ tát cũng báo cho vị ấy biết như vầy: “ Này bạn, qua ường lối thực hành bấy nhiêu ây, tôi cũng ã tự mình giác ngộ bảy tầng thiền ến Vô sở hữu xứ ịnh và trú an lạc ở trong ó.” Là người cao quý ã thoát khỏi các phiền não ganh tỵ (issā) và ích kỷ (micchariya) nên giáo chủ Āḷāra hoan hỉ nói lời chúc mừng: “ Chúng tôi ã tận mắt chứng kiến một Samôn ồng ạo có trí tuệ nhạy bén như hiền hữu. Điều ó quả thật là ại lợi cho chúng tôi!”

 

Issābhibhūta lokamhi  Āḷāro yo anissukī vaṇṇavādī sudhīrassa  aho uḷārachandata. “Tư tưởng bất thiện thống trị thế gian rộng lớn này là tâm ganh tỵ (issā) - cảm nghĩ ố kỵ với lợi lạc và may mắn của kẻ khác. Āḷāra, vị ạo sư là nhân vật thật sự cao quý, tâm không chút ố kỵ, ã cởi mở nói những lời tán dương Bồ tát - Bậc có trí tuệ vô song, mẫn tiệp và nhạy bén. Là người có tánh trung thực và ước vọng áng kính nể như giáo chủ Āḷāra, bậc có trí tuệ hoàn thiện, quả thật là con người gương mẫu áng ược vỗ tay khen ngợi.”

Giáo chủ Āḷāra ề nghị trao tặng phân nửa số ệ tử ến Bồ tát 

Giáo chủ Āḷāra không chỉ nói lời tán dương Bồ tát, vì vị ấy là người không ganh tỵ và ích kỷ, vị ấy còn nói thêm rằng: “ Hỡi con người cao cả, iều gì mà tôi tự thân ã giác ngộ bằng thắng trí (abhiññā) và ã giảng dạy, thì bạn cũng tự thân giác ngộ bằng thắng trí (abhiññā)! Điều gì bạn ã tự thân giác ngộ bằng thắng trí, tôi cũng tự thân giác ngộ bằng thắng trí và giảng dạy. Như vậy, giáo lý mà tôi ã thấy rõ, bậc cao cả như bạn cũng ã thấy rõ. Giáo lý mà bậc cao cả như bạn ã thấy rõ, tôi cũng ã thấy rõ. Như vậy, bạn giống như tôi, và tôi cũng giống như bạn. Này bạn, cả hai chúng ta hãy hòa hợp với nhau mà lãnh ạo giáo phái có nhiều môn ồ này.” Rồi Āḷāra ra hiệu tập họp ồ ệ và nói rằng: “ Này các ệ tử, ta ã chứng ạt bảy tầng thiền, con người cao cả này cũng ã chứng ạt y như ta. Vậy các ệ tử nên học hỏi dưới sự chỉ dẫn của bậc cao cả này, các ệ tử nên học hỏi dưới sự chỉ dạy của ta.” Khi nói vậy, giáo chủ Āḷāra bàn giao nửa số ệ tử cho Bồ tát.

Giáo chủ Ālāra không chỉ chia ều số ệ tử của vị ấy mà còn gởi ến Bồ tát những người nam nữ hộ ộ của vị ấy mang ến những bông hoa và vật thơm và bảo họ rằng: “ Hãy ến làm lễ bậc cao quý!” Nghe theo lời căn dặn của ạo sư, những người nam nữ hộ ộ trước hết ến ảnh lễ và cúng dường Bồ tát, rồi sau ó cúng dường ến ạo sư của họ bằng những bông hoa và vật thơm còn lại. Khi họ ến dâng cúng những sàng tọa ắc giá, họ cũng ược khuyên bảo nên dâng cúng ến Bồ tát trước và giáo chủ hoan hỉ nhận số còn lại với tâm rất cao thượng. Āḷāra ã ối xử với Bồ tát, vốn là ệ tử của vị ấy trong thời bấy giờ bằng sự kính trọng và ngưỡng mộ dù vị ấy ở ịa vị của một ạo sư.

Bồ tát rời bỏ giáo chủ Āḷāra vì nhận ra những iều khiếm khuyết trong các thiền chứng hiệp thế 

Vì Bồ tát ã từng chứng ắc bảy tầng thiền hiệp thế trong những kiếp quá khứ và là người có tri kiến nên sau khi nỗ lực cố gắng và chứng ắc, Bồ tát liền suy xét về bản chất, viễn cảnh của những pháp chứng này và những lợi ích của chúng trong kiếp sau. Ngài bắt ầu nhận biết thấu áo bản chất và viễn cảnh của bảy pháp chứng kể trên ến tầng thiền Vô sở hữu xứ (ākiñcaññāyatana jhāna) trong kiếp hiện tại và sự tái sanh của Ngài sẽ xảy ra trong cõi Vô sở hữu xứ thiên ở kiếp sau. Nhân ó, Bồ tát kết luận rằng bảy tầng thiền hiệp thế này còn nằm trong vòng luân hồi khổ (vaṭṭa dukkha), Ngài cũng quán xét sâu sắc như vầy: “ Nhóm thiền chứng này không thể dẫn ến yểm ly luân hồi khổ, sự viễn ly, chấm dứt các phiền não như tham (rāga), v.v… chấm dứt tất cả những phiền não, liễu tri tất cả các pháp cần liễu tri, thành ạt bốn ạo tuệ, giác ngộ Niết bàn. Thực ra, bảy pháp chứng này chỉ cho kết quả cao nhất ở cõi Phạm thiên Vô sở hữu xứ; nơi ó thọ mạng của chúng sanh là sáu chục ngàn ại kiếp, nhưng chúng không tạo ra lợi ích nào cao hơn thế. Cõi Phạm thiên cao nhất của thiền Vô sở hữu xứ mà kết quả của tầng thiền ấy cũng chỉ là cõi không thoát ra ược các iều khổ về sanh, già và chết. Thực ra, ó chỉ là cõi bị vây hãm bởi những cạm bẫy của tử thần.”

Như người ang ói bụng cồn cào, ầu tiên ăn một cách khoái khẩu ĩa thức ăn thượng vị, nhưng sau ó, anh ta chán và cảm thấy ngán vì sự rối loạn của mật hoặc àm hoặc do nhận ra con ruồi rơi vào ĩa thức ăn và từ bỏ nó, không còn muốn ăn thêm một miếng nào. Bồ tát cũng vậy, sau khi nỗ lực cố gắng và thành ạt bảy thiền chứng trong hai hoặc ba ngày mà không gặp khó khăn gì, Ngài trú và thọ hưởng an lạc trong các thiền chứng  ấy. Nhưng từ lúc Ngài thấy rõ các khuyết iểm trong ó, như thấy chúng vẫn còn ở trong luân hồi khổ, v.v… Ngài không còn ưa thích trong việc xuất nhập trong bảy tầng thiền ấy, ngay cả bằng một trong năm pháp tự tại. Ngài quyết ịnh từ bỏ các thiền chứng bằng cách nói nhiều lần: “ Bảy thiền chứng này chẳng hữu dụng chút nào! Bảy thiền chứng này chẳng hữu dụng chút nào!” Vì ã nhàm chán chúng, nên Ngài rời bỏ giáo chủ Āḷāra.

Bồ tát ến gặp giáo chủ Udaka và sự nỗ lực của Ngài ể chứng ạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasaññā-nāsaññāyatana jhāna)

      Sau khi rời bỏ giáo chủ Āḷāra, và ước muốn tầm cầu hạnh phúc Niết bàn - sự tịch tịnh tối thượng (santivara), Ngài i mãi ến khi gặp giáo chủ của một giáo phái khác - Udaka là con trai của Rāma. Do ó, Ngài xin thọ giáo với giáo chủ Udaka: “ Này hiền hữu, tôi muốn sống cuộc ời phạm hạnh trong giáo lý này của hiền hữu.” Giáo chủ Udaka, con trai của Rāma, nói lời ồng ý: “ Này bạn, hãy ở lại ây trong hệ thống giáo lý này của chúng tôi! Nếu những người có trí tinh tấn thực hành giáo lý của chúng tôi thì trong một thời gian ngắn sẽ giúp họ có thể giác ngộ giáo lý của bậc ạo sư và sống hạnh phúc.” Bồ tát không mất nhiều thời gian ể học giáo lý và ường lối thực hành của giáo chủ Udaka. Cũng như với Āḷāra, giáo chủ của giáo phái trước, Bồ tát vốn có tri kiến nên học giáo lý và phương pháp thực hành một cách dễ dàng. Những gì ông thầy chỉ cần nói ra bằng việc khẽ nhích môi, Bồ tát ã ạt ến trình ộ có thể nói rằng: “ Tôi ã hiểu rồi!” Thực vậy, Ngài công bố: “ Tôi ã hiểu! Tôi ã hiểu!” và ược giáo chủ Udaka cùng ệ tử của vị ấy công nhận như vậy.

Khi suy xét cách mà Udaka ã giảng giải theo phương pháp truyền thống của họ (phương pháp mà giáo chủ Udaka thọ giáo từ người cha của vị ấy là Rāma) về ường lối thực hành dẫn ến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ịnh (Nevasaññā-nāsaññāyatana jhāna), Bồ tát hiểu rằng: “ Xem ra Rāma, người cha quá cố của Udaka, không chỉ học thuộc lòng, tin những gì người khác nói về ường lối thực hành dẫn ến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ịnh (Nevasaññā-nāsaññāyatana jhāna). Thực ra, ạo sư Rāma, cha của Udaka, chắc chắn là người ã tự thân thành tựu  và giác ngộ tám tầng thiền hiệp thế.

(Vào thời iểm giáo chủ Udaka àm ạo với Bồ tát thì vị ấy chưa thành ạt tám thiền chứng. Khi ó vị ấy chỉ nói với Bồ tát những gì mà người cha Rāma ã truyền dạy cho vị ấy. Khi Bồ tát hiểu ược giáo lý và ã chứng ngộ, trong hai hay ba ngày, từ tám tầng thiền ến tầng thiền cao nhất là Phi tưởng phi phi tưởng xứ ịnh (Nevasaññānāsaññāyatana jhāna), thì Ngài rời bỏ Udaka và hội chúng của vị ấy. Chỉ khi Bồ tát ra i thì Udaka mới giựt mình kinh cảm (saṁvega) và vận dụng hết khả năng tinh tấn ể chứng ạt các tầng thiền. Là người ã từng có kinh nghiệm về thiền ịnh trong những kiếp quá khứ, vị ấy ã giác ngộ ược các tầng thiền ến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ịnh (Nevasaññā-nāsaññāyatana jhāna). Bài mô tả trực tiếp về iều này ược nêu ra trong bộ Mūlapaṇṇasa Ṭīkā, cuốn II. Bài trình bày ở ây nói về sự xuy xét của Bồ tát liên quan ến phụ thân Rāma của Udaka và sự thắc mắc của Ngài riêng về ại giáo chủ Rāma trong cuộc àm ạo với Udaka).

Bồ tát ến giáo chủ Udaka và hỏi vị ấy: “ Này hiền hữu, ạo sư Rāma ã nói rằng vị ấy ã tự thân trú giác ngộ giáo lý của vị ấy ến mức ộ nào?” Udaka áp lại rằng phụ thân Rāma của vị ấy ã trú giác ngộ ến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ịnh (Nevasaññā-nāsaññāyatana jhāna). Bồ tát khởi lên ý nghĩ: “ Đạo sư Rāma, cha của Udaka, có niềm tin vững chắc ể chứng ạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ ịnh (Nevasaññā-nāsaññāyatana jhāna), ta cũng có niềm tin như vậy dẫn ến tầng thiền ấy. Không chỉ vị ấy có tinh tấn, chánh niệm, ịnh và tuệ ủ mạnh ể ạt ến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ịnh (Nevasaññānāsaññāyatana jhāna), ta ây cũng có tinh tấn, niệm, ịnh và tuệ ủ mạnh ể ạt ến tầng thiền ấy. Cha của Udaka, ạo sư Rāma, nói rằng vị ấy ã tự thân giác ngộ tám tầng thiền hiệp thế ến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ịnh (Nevasaññā-nāsaññāyatana jhāna) bằng thắng trí (abhiññā) và an trú an lạc trong ó. Thật tốt thay nếu ta cũng phấn ấu ể giác ngộ như vị ấy chứng tám tầng thiền hiệp thế.” Với ý ịnh này, Bồ tát ã tinh tấn thực hành pháp thiền ề mục Kasiṇa, và trong hai hoặc ba ngày, Ngài ã tự thân giác ngộ giống như cha của Udaka, ạo sư Rāma, từ tám thiền chứng hiệp thế ến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ịnh (Nevasaññā-nāsaññāyatana jhāna), và trú an lạc trong ó.

Bồ tát ến giáo chủ Udaka và nói rằng: “ Này hiền giả, phải chăng ạo sư Rāma, cha của hiền giả ã nói rằng qua ường lối thực hành bấy nhiêu ây ông ã giác ngộ tám tầng thiền bằng thắng trí và trú an lạc trong ó?” Khi Udaka áp lại bằng sự khẳng ịnh, Bồ tát nói cho vị ấy biết như sau: “ Này hiền giả, qua sự thực hành bấy nhiêu ây, ta cũng vậy, ã tự mình giác ngộ bằng thắng trí tám thiền chứng và trú an lạc trong ó.” Giáo chủ Udaka giống như Āḷāra - là người ã nhiếp phục hai pháp ô nhiễm là ganh tỵ và bỏn xẻn nên ã nói lời tùy hỉ như vầy: “ Chúng tôi ã tận mắt chứng kiến một người bạn ồng tu, có trí tuệ nhạy bén như hiền giả. Đó là ại lợi cho chúng tôi, thưa hiền giả.”

Giáo chủ Udaka tôn vinh Bồ tát bằng cách giao phó toàn thể giáo phái ến Ngài và tôn Ngài làm ạo sư 

Là người không còn hai pháp cấu uế là ganh tỵ và bỏn xẻn, giáo chủ Udaka nói những lời tán dương Bồ tát, vị ấy nói thêm rằng: “ Hỡi con người cao cả, iều gì mà cha của tôi - ạo sư Rāma ã tự thân giác ngộ bằng thắng trí và giảng dạy, thì bậc cao cả như Ngài cũng ã tự thân giác ngộ bằng thắng trí. Điều gì mà bậc cao cả như Ngài ã tự thân giác ngộ bằng thắng trí, thì cha của tôi - ạo sư Rāma cũng ã tự thân giác ngộ bằng thắng trí và giảng dạy như vậy. Giáo lý mà cha tôi liễu ngộ như thế nào, thì bậc cao cả như Ngài cũng liễu ngộ như thế. Giáo lý mà bậc cao cả như Ngài liễu ngộ như thế nào thì ạo sư Rāma - cha tôi cũng liễu ngộ như thế ấy. Như vậy, Ngài giống như cha tôi và cha tôi cũng giống như Ngài. Nào, thưa hiền giả, xin hãy lãnh ạo giáo phái to lớn này.” Khi nói vậy, vị ấy bàn giao toàn thể giáo phái ến Bồ tát. Như vậy Udaka ã tôn Bồ tát, người bạn tinh thần và là Sa-môn ồng tu của vị ấy, lên ịa vị ạo sư của chính vị ấy.

Như vậy, giáo chủ Udaka không chỉ giao phó toàn thể giáo phái ến Bồ tát, vị ấy còn tôn vinh Ngài bằng sự tôn kính giống như giáo chủ Āḷāra ã làm.

Bồ tát rời bỏ giáo chủ Udaka vì nhận thấy những khiếm khuyết trong các tầng thiền hiệp thế  

Sau khi ã cố gắng và thành ạt tám thiền chứng hiệp thế, do ã từng trải qua các tầng thiền chứng trong những kiếp quá khứ và có trí tuệ cao siêu, Bồ tát quán ngay về bản chất và các viễn cảnh của tám thiền chứng ến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ịnh trong kiếp hiện tại và những kết quả mà sẽ phát sanh trong kiếp tương lai, rồi Ngài thông suốt ược bản chất và viễn cảnh của các thiền chứng này ến Phi tưởng phi phi tưởng xứ ịnh trong kiếp hiện tại và sự tái sanh của Ngài mà sẽ xảy ra ở cõi Phạm thiên Phi tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasaññā-nāsaññāyatana jhāna) trong kiếp sau. Do ó, Ngài kết luận rằng tám tầng thiền hiệp thế này còn nằm trong cái vòng au khổ, Ngài cũng quán xét sâu xa như vầy: “ Nhóm thiền chứng này không thể dẫn ến nhàm chán khổ luân hồi, xuất ly, chấm dứt những phiền não như tham (rāga) v.v... oạn diệt tất cả phiền não, giác ngộ tất cả những gì cần giác ngộ, hoạch ắc tứ ạo tuệ và giác ngộ Niết bàn. Thực vậy, tám thiền chứng này cho kết quả cao nhất là sự tái sanh vào cõi Phạm thiên Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nơi chúng sanh sống lâu ến tám mươi bốn ngàn ại kiếp, nhưng chúng không thể cho lợi ích nào cao hơn thế. Cõi Phạm thiên Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng chỉ là cõi không thoát ra khỏi các hiểm họa sanh, già và chết. Thực ra, ó là cõi ã bị vây hãm bởi những chiếc bẫy của tử thần.”

Như người ang ói bụng cồn cào, ầu tiên ăn một cách khoái khẩu ĩa thức ăn thượng vị. Nhưng sau khi no bụng thì cảm thấy ngán vì sự rối loạn của mật hoặc àm hoặc do khám phá có con ruồi rơi vào ĩa thức ăn, vị này từ bỏ nó, không còn muốn ăn thêm một miếng nào nữa. Bồ tát cũng vậy, sau khi cố gắng và thành ạt tám thiền chứng trong hai hoặc ba ngày mà không gặp khó khăn gì, ầu tiên Ngài trú và thọ hưởng an lạc trong các thiền chứng ấy; nhưng từ lúc Ngài thấy các khuyết iểm trong ó, như thấy chúng vẫn còn  ở trong luân hồi khổ, v.v... Ngài không còn ưa thích vào việc xuất nhập tám thiền chứng ấy ngay cả bằng một trong năm pháp tự tại. Ngài quyết ịnh từ bỏ các thiền chứng này, nói rằng: “Tám thiền chứng này chẳng hữu dụng chút nào! Tám thiền chứng này chẳng hữu dụng chút nào! Và vì nhàm chán chúng nên Ngài rời bỏ giáo chủ Udaka.

                                 KẾT THÚC CHƯƠNG 5

 

            HỌC HỎI VÀ LUẬN BÀN VỚI ĀḶĀRA VÀ UDAKA

]œ

.

ĐPS T1A.001 Giới thiệu tác giả - dịch giả : -

ĐPS T1A.002 CHƯƠNG 1 KÍNH LỄ VÀ PHỤC NGUYỆN : -

ĐPS T1A.003 CHƯƠNG 2 SỰ XUẤT HIỆN HY HỮU CỦA MỘT VỊ PHẬT : -

ĐPS T1A.004 CHƯƠNG 3 BÀ-LA-MÔN SUMEDHA : -

ĐPS T1A.005 CHƯƠNG 4 SỰ XUẤT GIA CỦA SUMEDHA : -

ĐPS T1A.006 CHƯƠNG 5 SỰ THỌ KÝ : -

ĐPS T1A.007 CHƯƠNG 6 QUÁN XÉT VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT : -

ĐPS T1A.008 PHỤ CHÚ GIẢI ĐẠI PHẬT SỬ Cuốn I phần I : -

ĐPS T1B.001 CHƯƠNG 7 LINH TINH NHỮNG ĐIỂM CHÚ THÍCH VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT : -

ĐPS T1B.002 CHƯƠNG 8 MƯỜI TÁM BẤT KHẢ SỬ XỨ ABHABBAṬṬHĀNA : -

ĐPS T1B.003 CHƯƠNG 9 LỊCH SỬ 24 VỊ PHẬT TỔ : -

ĐPS T2A.001 CHƯƠNG 1 PHẬT BẢO : -

ĐPS T2A.002 CHƯƠNG 2 LỄ HẠ ĐIỀN : -

ĐPS T2A.003 CHƯƠNG 3     SỰ TRÔNG THẤY BỐN ĐIỀM TƯỚNG : -

ĐPS T2A.004 CHƯƠNG 4 SỰ CẮT TÓC VÀ TRỞ THÀNH SA-MÔN  : -

ĐPS T2A.005 CHƯƠNG 5 HỌC HỎI VÀ LUẬN BÀN VỚI ĀḶĀRA VÀ UDAKA : -

ĐPS T2A.006 CHƯƠNG 6 BỒ TÁT THỰC HÀNH PHÁP KHỔ HẠNH : -

ĐPS T2A.007 CHƯƠNG 7 SỰ CHỨNG ĐẮC PHẬT QUẢ  : -

ĐPS T2A.008 CHƯƠNG 8 ĐỨC PHẬT TRÚ NGỤ Ở BẢY CHỖ : -

ĐPS T2A.009 CHƯƠNG 9 ĐỨC PHẬT QUÁN XÉT TÁNH CHẤT CAO SIÊU CỦA PHÁP : -

ĐPS T2A.010 CHƯƠNG 10 CÂU CHUYỆN VỀ HAI VỊ THIÊN SĀTĀGIRA VÀ HEMAVATA (KINH HEMAVATA) : -

ĐPS T2A.011 CHƯƠNG 11 SỰ THUYẾT GIẢNG THANH TỊNH ĐẠO HÀNH : -

ĐPS T2A.012 CHƯƠNG 12 YASA, CON TRAI VỊ ĐẠI THƯƠNG NHÂN TRỞ THÀNH TỲ KHƯU : -

ĐPS T2A.013 CHƯƠNG 13 ĐỨC PHẬT PHÁI SÁU MƯƠI VỊ A-LA-HÁN ĐI TRUYỀN BÁ : -

ĐPS T2A.014 CHƯƠNG 14 SỰ GIÁO HOÁ BA ANH EM ẨN SĨ VÀ MỘT NGÀN ĐẠO SĨ : -

ĐPS T2A.015 CHƯƠNG 15 ĐỨC PHẬT VIẾNG THĂM KINH THÀNH RĀJAGAHA : -

ĐPS T2A.016 Phẩn giải thích bổ sung tập 2 : -

ĐPS T3A.001 : -

ĐPS T3A.002 CHƯƠNG 17 CHUYẾN ĐI CỦA ĐỨC PHẬT ĐẾN KAPILAVATTHU : -

ĐPS T3A.003 CHƯƠNG 18 NHỮNG CƠN MƯA ‘LÁ SEN’ RƠI XUỐNG HỘI CHÚNG : -

ĐPS T3A.004 CHƯƠNG 19 MỘT NGÀN VỊ HOÀNG TỬ THÍCH CA THỌ PHÉP XUẤT GIA TỪ ĐỨC THẾ TÔN : -

ĐPS T3A.005 CHƯƠNG 20 SỰ CHỨNG ĐẮC KHÁC NHAU CỦA SÁU VỊ HOÀNG TỬ : -

ĐPS T3A.006 CHƯƠNG 21 CÂU CHUYỆN VỀ SUMANA, NGƯỜI BÁN HOA CỦA THÀNH : -

ĐPS T3A.007 CHƯƠNG 22 SỰ THÀNH LẬP VESALI : -

ĐPS T3A.008 CHƯƠNG 23 ĐỨC THẾ TÔN NGỤ Ở VESALI - MÙA AN CƯ THỨ NĂM : -

ĐPS T3A.009 CHƯƠNG 24 ĐỨC PHẬT NGỰ Ở NGỌN NÚI MAKULA MÙA AN CƯ THỨ SÁU : -

ĐPS T3A.010 CHƯƠNG 25 HẠ THỨ BẢY VÀ SỰ THUYẾT GIẢNG ABHIDHAMMA TẠI CUNG TRỜI ĐAO LỢI (Tāvatiṃsa) : -

ĐPS T3A.011 CHƯƠNG 26 HẠ THỨ TÁM CỦA ĐỨC PHẬT TẠI THỊ TRẤN SUSUMARAGIRA : -

ĐPS T3A.012 CHƯƠNG 27 TRƯỞNG GIẢ GHOSAKA CỦA NƯỚC KOSAMBI : -

ĐPS T4A.001 CHƯƠNG 28 MÙA AN CƯ THỨ 10 CỦA ĐỨC PHẬT TẠI KHU RỪNG PĀLILEYYAKA : -

ĐPS T4A.002 CHƯƠNG 29 HẠ THỨ MƯỜI MỘT CỦA ĐỨC PHẬT TẠI LÀNG CỦA BÀ-LA-MÔN NĀḶA : -

ĐPS T4A.003 CHƯƠNG 30 HẠ THỨ MƯỜI HAI CỦA ĐỨC PHẬT TẠI THÀNH PHỐ VERAÑJĀ : -

ĐPS T4A.004 CHƯƠNG 31 TỲ KHƯU SUDINNA, CON TRAI CỦA THƯƠNG NHÂN KALANDA : -

ĐPS T4A.005 CHƯƠNG 32 HẠ THỨ MƯỜI BA CỦA ĐỨC PHẬT TẠI ĐỒI CALIKA : -

ĐPS T4A.006 CHƯƠNG 33 HẠ THỨ MƯỜI LĂM CỦA ĐỨC PHẬT TẠI KAPILAVATTHU : -

ĐPS T4A.007 CHƯƠNG 34 HẠ THỨ MƯỜI BẢY CỦA ĐỨC PHẬT TẠI VEḶUVANA : -

ĐPS T4A.008 CHƯƠNG 35 CÂU CHUYỆN VỀ MĀRA : -

ĐPS T4A.009 CHƯƠNG 36 CHIỀU CAO CỦA ĐỨC PHẬT ĐƯỢC ĐO BỞI MỘT BÀ-LA-MÔN : -

ĐPS T4A.010 CHƯƠNG 37 CÂU CHUYỆN VỀ VUA AJĀTASATTU : -

ĐPS T5A.001 CHƯƠNG 38 CHA MẸ BÀ-LA-MÔN CỦA ĐỨC PHẬT TRONG KIẾP QUÁ KHỨ : -

ĐPS T5A.002 CHƯƠNG 39 ĐẾ THÍCH SỞ VẤN : -

ĐPS T5A.003 CHƯƠNG 40 NHỮNG LỜI THUYẾT GIẢNG & SỰ VIÊN TỊCH BÁT NIẾT BÀN CỦA ĐỨC PHẬT : -

ĐPS T5A.004 CHƯƠNG 41 NHỮNG BÀI KỆ ĐỘNG TÂM : -

ĐPS T5A.005 CHƯƠNG 42 PHÁP BẢO – DHAMMA RATANA : -

ĐPS T6A.000 Giới thiệu qua chương 43 : -

ĐPS T6A.001 Câu chuyện về hai anh em: Mahākāla và Culakāla : -

ĐPS T6A.002 (2-3) HAI VỊ THƯỢNG THỦ THINH VĂN TRƯỞNG LÃO SĀRIPUTTA & TRƯỞNG LÃO MOGGALLĀNA : -

ĐPS T6A.003 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KASSAPA (Đại trưởng lão Ca-Diếp) : -

ĐPS T6A.004 ĐẠI TRƯỞNG LÃO ANURUDDHA : -

ĐPS T6A.005 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BHADDIYA : -

ĐPS T6A.006 ĐẠI TRƯỞNG LÃO AKUṆDAKA BHADDIYA : -

ĐPS T6A.007 ĐẠI TRƯỞNG LÃO PIṆḌOLA BHĀRADVĀJA : -

ĐPS T6A.008 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MANTĀNIPUTTA PUṆṆA : -

ĐPS T6A.009 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KACCĀYANA (Ca-chiên-diên) : -

ĐPS T6A.010 (11&12) HAI VỊ ĐẠI TRƯỞNG LÃO TÊN PANTHAKA : -

ĐPS T6A.011 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SUBHŪTI (TU BỒ ĐỀ) : -

ĐPS T6A.012 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KHADIRAVANIYA REVATA : -

ĐPS T6A.013 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KAṄKHĀ REVATA : -

ĐPS T6A.014 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KOḶIVISA : -

ĐPS T6A.015 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KUṬIKAṆṆA : -

ĐPS T6A.016 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SĪVALI : -

ĐPS T6A.017 ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAKKALI : -

ĐPS T6A.018 (20-21) ĐẠI TRƯỞNG LÃO RĀHULA & ĐẠI TRƯỞNG LÃO RAṬṬHAPĀLA : -

ĐPS T6A.019 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KUṆḌA DHĀNA : -

ĐPS T6A.020 ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAṄGĪSA : -

ĐPS T6A.021 ĐẠI TRƯỞNG LÃO UPASENA VAṄGANTAPUTTA : -

ĐPS T6A.022 ĐẠI TRƯỞNG LÃO DABBA : -

ĐPS T6A.023 ĐẠI TRƯỞNG LÃO PILINDAVACCHA : -

ĐPS T6A.024 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BĀHIYA DĀRUCĪRIYA : -

ĐPS T6A.025 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KUMĀRA KASSAPA : -

ĐPS T6A.026 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KOṬṬHIKA : -

ĐPS T6A.027 ĐẠI TRƯỞNG LÃO ĀNANDA : -

ĐPS T6A.028 ĐẠI TRƯỞNG LÃO URUVELA KASSAPA : -

ĐPS T6A.029 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KĀḶUDĀYĪ : -

ĐPS T6A.030 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BĀKULA : -

ĐPS T6A.031 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOBHITA : -

ĐPS T6A.032 ĐẠI TRƯỞNG LÃO UPĀLI : -

ĐPS T6A.033 ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDAKA : -

ĐPS T6A.034 ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDA : -

ĐPS T6A.035 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KAPPINA : -

ĐPS T6A.036 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SĀGATA : -

ĐPS T6A.037 ĐẠI TRƯỞNG LÃO RĀDHA : -

ĐPS T6A.038 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MOGHARĀJA : -

ĐPS T6A.039 BĀVARĪ VỊ THẦY BÀ LA MÔN ( tiếp theo) : -

ĐPS T6B.001 Chapter 44 LIfE HISTORIES Of BHIKKHUN¢ ARAHATS : -

ĐPS T6B.002 Chapter 45 THE LIfE STORIES Of MALE LAY DISCIPLES : -

ĐPS T6B.003 EPILOGUE : -

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications