Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tìm kiếm nhanh
Table 1
Tên Nội dung Vua chúa Edit
1.

Kinh đô: Rājagaha

Đức Phật Gautama , người sáng lập ra Phật giáo , đã sống phần lớn cuộc đời mình ở vương quốc Magadha. Ngài đã đạt được giác ngộ ở Bodh Gaya , đã thuyết giảng lần đầu tiên ở Sarnath và hội đồng Phật giáo đầu tiên được tổ chức ở Rajgriha . [15]

Mahabharata của Ấn Độ giáo gọi Brihadratha là người cai trị đầu tiên của Magadha. Ripunjaya, vị vua cuối cùng của triều đại Brihadratha, đã bị bộ trưởng Pulika giết chết, người đã lập con trai mình là Pradyota làm vua mới. Triều đại Pradyota được kế vị bởi triều đại Haryanka do Bimbisara sáng lập . Bimbisara đã lãnh đạo một chính sách tích cực và mở rộng, chinh phục Vương quốc Anga ở nơi hiện là Tây Bengal . Vua Bimbisara đã bị con trai mình là Ajatashatru giết chết . Pasenadi , vua của Kosala lân cận và là anh rể của Bimbisara, đã nhanh chóng chiếm lại tỉnh Kashi.

Địa danh :
|| + || + || + || + || + || + + + + + + + + + +
Vua Bimbisara. Kế nhiệm vua Ajatashatru
2.

Kosala , đôi khi được gọi là Uttara Kosala ( nghĩa đen là Kosala phương Bắc ' ) là một trong những Mahajanapadas của Ấn Độ cổ đại . [2] [3] Nó nổi lên như một quốc gia nhỏ trong thời kỳ Hậu Vệ Đà [4] [5] và trở thành (cùng với Magadha ) một trong những quốc gia sớm nhất chuyển đổi từ một xã hội dựa trên dòng dõi sang chế độ quân chủ . [6] Đến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên , nó đã hợp nhất thành một trong bốn cường quốc của miền bắc Ấn Độ cổ đại, cùng với Magadha , Vatsa và Avanti . [2] [7]

Kosala thuộc về nền văn hóa Đồ đánh bóng đen phía Bắc (khoảng 700–300 BCE) [1] và có sự khác biệt về mặt văn hóa với nền văn hóa Đồ sơn màu xám của vùng Kuru - Panchala lân cận , sau sự phát triển độc lập theo hướng đô thị hóa và sử dụng sắt . [8] Sự hiện diện của dòng dõi Ikshvaku — được mô tả là một raja trong Ṛgveda và một anh hùng cổ xưa trong Atharvaveda [9] — mà Rama , Mahavira và Đức Phật đều được cho là thuộc về — đã đặc trưng cho vương quốc Kosalan. [10] [11]

Kinh đô :

Địa danh :
+ || + || + + + + + +
Vua Pasenadi, tiếp theo là Vidudabha
3.

 

Người Shakya sống ở Terai — một khu vực phía nam chân núi Himalaya  phía bắc đồng bằng Ấn-Hằng với những người hàng xóm ở phía tây và phía nam là vương quốc Kosala , những người hàng xóm ở phía đông bên kia sông Rohni là bộ tộc Koliya có liên quan , trong khi ở phía đông bắc, họ giáp với người Mallakas của Kushinagar . Về phía bắc, lãnh thổ của người Shakya trải dài vào dãy Himalaya cho đến các vùng rừng núi, tạo thành biên giới phía bắc của họ. [2]

Thủ đô của người Shakya là thành phố Kapilavastu . [2] [4]

Kinh đô :

Địa danh :
|| + || + || + || + || + || + + + + + + + + + +
vua Tịnh Phạn (Śuddhodana). Kế nhiệm Mahānāma ( họ Shakya)
4.

Koliya (tiếng Phạn: कोलीय, Koliyā; phiênn âm tiếng PaliKoḷiyachữ Hán: 拘利; phiên âm Hán Việt: Câu-lợi, Câu-lị) là một thị tộc Ấn Độ cổ đại trong thời Phật tại thế. Thị tộc này được cho là thuộc giai cấp Kshatriya (Sát-đế-lị), hậu duệ của thị tộc Adicca (Iksvaku) trong triều đại Thái Dương, tương tự thị tộc Shakya. Các thành viên của cả hai thị tộc đều rất tự hào về tính thuần chủng của dòng máu hoàng gia và đã duy trì truyền thống hôn nhân giữa 2 thị tộc trong nhiều thế hệ. Như tông chủ của tộc Shakya Suddhodana cưới 2 chị em Mahamaya và Mahaprajapati, con gái của tông chủ thị tộc Koliya là Anjana. Trong khi đó, con trai của Anjana, người kế vị tông chủ tộc Koliya, là Suppabuddha cưới em gái của Suddhodana là Pamita. Ở thế hệ kế tiếp, con trai của Suddhodana là Siddhartha cưới con gái của Suppabuddha là Yashodhara. Mặc dù có liên hệ hôn nhân gần gũi, nhưng xung đột giữa 2 thị tộc này vẫn thỉnh thoảng bùng phát.

Kinh đô :

Địa danh :
|| + || + || + || + || + || + + + + + + + + + +
Vua Thiện Giác .
5.

(Kinh đô: Bārānasī)

Khi con gái của Mahākosala là Kosalādevi kết hôn với vua Bimbisāra của Magadha , hiện tại cô được tặng một ngôi làng ở Kāśī, nơi tạo ra doanh thu một trăm nghìn tiền tắm và nước hoa, trong khi phần còn lại của vương quốc Kāśī trước đây vẫn là một phần của vương quốc Kosala do cai trị. Con trai của Mahākosala là Pasenadi . [6]

Sau vụ ám sát Bimbisāra và việc con trai ông là Ajātaśatru cướp ngôi vua Magadha , Pasenadi đã thu hồi quyền cai trị ngôi làng ở Kāśī của mình, sau đó một cuộc chiến giữa Kosala và Magadha nổ ra và kết thúc khi Pasenadi bắt được Ajātasatru, gả con gái mình là Vajirā cho ông ta, người mà ông đã tặng ngôi làng ở Kāśī, và khôi phục ngai vàng cho ông ta. [7]

Kāśī sau đó trở thành một phần của đế chế Magadha khi Ajātasattu đánh bại chính con trai cướp ngôi của Pasenadi, Viḍūḍabha , và sáp nhập Kosala

Kasi thời Đức Phật nó thuộc quyền cai trị của vua Kosala ( bố của vua Ba Tư Nặc) , đem tặng 1 phần cho con rể là vua Bình Sa ( quà cưới với hoàng hậu Videhi)

Kinh đô :

Vua Mahākosala . Vua BimBisara . Vua Pasenadi . Vua A Xà Thế
6.

Kinh đô: Vesāli và Mithilā

Khu vực mà bộ tộc Bạt-kỳ phân bố là phía bắc sông Hằng và phía nam dãy núi Himalaya. Các bộ tộc Liche, Mara, Koli và Shakya đều là một nhánh của tộc Bạt-kỳ.[6]

Trong các kinh A-hàm có ghi rằng vua xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) là A-xà-thế muốn thôn tính xứ Bạt-kỳ, từng sai đại thần đến hỏi với Đức Phật về việc chinh phạt.[4][7][8] Thực hư câu chuyện là chưa thể xác định, nhưng kết quả A-xà-thế đã thành công trong việc thôn tính tiểu quốc Bạt-kỳ. Kinh văn Kỳ Na giáo chép rằng A-xà-thế đã chuyển bại thành thắng khi sử dụng máy bắn đá và công cụ hãm thành, sau đó thôn tính cả xứ Bạt-kỳ.[9][10]

Sau khi tiểu quốc Bạt-kỳ sụp đổ, bộ tộc Bạt-kỳ vẫn tồn tại. Trong kinh điển Phật giáo có ghi lại rằng một trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt, Tỳ kheo Da-xá, một trưởng lão của tiểu quốc Matura ở miền tây Ấn Độ, đã đến thành Tỳ-xá-ly ở miền đông, và thấy các nhà sư Bạt-kỳ địa phương đang xin tiền từ người dân vào ngày bố-tát.[11] Ngài tuyên bố điều này là bất hợp pháp, do đó đã gây nên mâu thuẫn với các nhà sư địa phương, dẫn đến việc ngài bị trục xuất. Tỳ kheo Da-xá trở về miền Tây và thỉnh các đại sư khác đến Tỳ-xá-ly để phân xử. Các tỳ kheo Bạt-kỳ cũng tập hợp để tranh luận giới luật với các trưởng lão miền Tây. Kết quả là kỳ kết tập thứ hai được tổ chức với tự tham dự của 700 người, và cho ra kết luận về Mười điều phi Pháp.

Kinh đô : + +

Địa danh :
|| + || + || + || + || + || + + + + + + + + + +
Bộ tốc Licchavis
7.

Avanti , là một Mahajanapada cổ đại của Ấn Độ Great Janapada ), gần tương ứng với vùng Malwa ngày nay . Theo kinh điển Phật giáo , Anguttara Nikaya , Avanti là một trong solasa mahajanapadas (mười sáu cõi lớn) của thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Janapada được Vindhyas chia thành hai phần , phần phía bắc có thủ đô tại Ujjayini và phần phía nam có trung tâm tại Mahishmati . [1] [2]

Avantis, những người cổ xưa thuộc vương quốc này, được mô tả là mahavala (rất mạnh mẽ) trong Udyoga Parva (19.24) của Mahabharata . [3] Theo Vishnu Purana (II.3), Bhagavata Purana (XII.I.36) và Brahma Purana (XIX.17), Avantis được liên kết với Malava , Saurashtras , Abhiras / Yadavas , Suras, Karushas và Arbudas và được mô tả là cư trú dọc theo dãy núi Pariyatra (hoặc Paripatra ) [4] [5] (một nhánh phía tây của Vindhyas).

Địa danh :
|| + || + || + || + || + || + + + + + + + + + +
8.

“Ở Kuru”: Kuru là tên một quận hạt hay một xứ nhỏ ở Ấn Ðộ. Theo tiếng Paa.li thì Kuru phải viết ở thể số nhiều. Nguyên thủy “Kuru” là tên của những người đầu tiên đến trú ngụ ở xứ này. Về sau tên này được dùng để chỉ cho một xứ thì thể số nhiều cũng vẫn được giữ nguyên. Bởi vậy, mặc dầu chỉ có một quận hạt nhưng chữ Paa.li đòi hỏi phải ở thể số nhiều, do đó tiếng Paa.li viết là “Kurusu” (số nhiều của chữ Kuru).

“Ở trong xứ Kuru có một thị trấn tên là Kammasadamma”: Sở dĩ thị trấn có tên là Kammasadamma bởi vì nơi đây vị vua ăn thịt người có tên là Kammasapada (chân có đốm) được thuần hóa trở thành một vị vua lương thiện. Một số người thích viết là Kammaasa-dhamma, giải thích rằng thị trấn này được gọi tên như vậy do dân Kuru có truyền thống thực hành giáo pháp (dhamma) một cách tốt đẹp (kammaasa).

Xứ Kuru được tìm thấy gần New Delhi, Ấn độ. Xứ này tiếng Sanskrit gọi là Indraprasttha. Tại sao Ðức Phật dạy kinh Tứ Niệm Xứ cho người Kuru? Phải chăng đây là việc tình cờ? Chú giải cho biết không phải như vậy. Kuru là một xứ có khí hậu tuyệt hảo, không quá nóng cũng không quá lạnh, và người Kuru sống thoải mái với thực phẩm sung túc của mình. Nhờ có được những tiện nghi vật chất và điều kiện thuận tiện nên dân xứ này cả tinh thần lẫn vật chất luôn luôn an lạc hạnh phúc. Nhờ thân tâm khỏe mạnh nên sức mạnh trí tuệ trưởng thành để có thể hấp thụ những lời dạy thâm sâu về phương pháp thực hành chánh niệm của đức Phật. Ðây là lý do tại sao Ðức Phật đã dạy kinh Tứ Niệm Xứ cho dân chúng ở đây.

Địa danh :
|| + || + || + || + || + || + + + + + + + + + +
9. Địa danh :
|| + || + || + || + || + || + + + + + + + + + +
10. Vamsa Địa danh :
|| + || + || + || + || + || + + + + + + + + + +
Vua Udena)
11. Địa danh :
|| + || + || + || + || + || + + + + + + + + + +
12. Địa danh :
|| + || + || + || + || + || + + + + + + + + + +
13. Aṅgā (Kinh đô: Campā)
14. Cetī (Kinh đô: Sotthivatī)
15. Macchā (Kinh đô: Virāñanagara; Vua Virāña) Vua Virāña
16. Sūrasenā (Kinh đô: Mathurā)
17. Assakā (Kinh đô: Potana)
18. Gandhārā (Kinh đô: Takkasilā)
19. Kambojā

Trong thời Đức Phật còn tại thế, Ấn Độ có 16 quốc gia quan trọng (Mahājanapadā), đa số theo chế độ quân chủ, nhưng cũng có vài quốc gia theo chế độ cộng hòa (republic).

 

 

Trong Tăng chi bộ, có 2 bài kinh (AN 3.70; AN 8.42) đề cập đến 16 quốc gia: Aṅgā, Magadhā, Kāsī, Kosalā, Vajjī, Mallā, Cetī, Vamsā, (Vaṅgā), Kurū, Pañcālā, Macchā, Sūrasenā, Assakā, Avantī, Gandhārā, Kambojā. Về sau này, bộ Đại Sử (Mahāvastu) cũng đề cập 16 quốc gia nhưng thay thế 2 nước Gandhārā và Kambojā bằng 2 tên khác: Sivi và Dasāma.
Đôi khi chúng ta cũng thấy danh sách các nước này trong vài bài kinh khác, chẳng hạn kinh Xà-ni-sa (Trường bộ, DN 18), trong đó chỉ liệt kê 10 nước: Kāsī, Kosalā, Vajjī, Mallā, Cetī, Vamsā, Kurū, Pañcālā, Macchā (Majjhā), Sūrasenā.
Các bộ tộc Thích-ca (Sākiya) và Koliya không thấy đề cập trong các danh sách trên, có lẽ vì chỉ là các nước nhỏ.
Dưới đây là danh sách các quốc gia thời Đức Phật, kinh đô và tên các vị vua:
Hai quốc gia quan trọng nhất:

 

·    Magadhā (Kinh đô: Rājagaha; Vua Bimbisāra, tiếp theo là Ajātasattu)
·    Kosalā (Kinh đô: Sāvatthī; Vua Pasenadi, tiếp theo là Vidudabha)

 

 

Các quốc gia khác:

 

·    Aṅgā (Kinh đô: Campā)
·    Kāsī (Kinh đô: Bārānasī)
·    Vajjī (Cộng hòa, Kinh đô: Vesāli và Mithilā)
·    Mallā (Cộng hòa, Kinh đô: Pāvā và Kusinārā)
·    Sākiyā (Cộng hòa, Kinh đô: Kapilavatthu),
·    Koliyā (Cộng hòa, Kinh đô: Rāmagāma và Devadaha)
·    Vamsā (Kinh đô: Kosambī, Vua Udena)
·    Cetī (Kinh đô: Sotthivatī)
·    Kurū (Kinh đô: Indapatta)
·    Pañcālā (Kinh đô: Kampilla)
·    Macchā (Kinh đô: Virāñanagara; Vua Virāña)
·    Sūrasenā (Kinh đô: Mathurā)
·    Assakā (Kinh đô: Potana)
·    Avantī (Kinh đô: Ujjenī ở phía Bắc, Māhissatī ở phía Bắc; Vua Vessabhū)
·    Gandhārā (Kinh đô: Takkasilā)
·    Kambojā

 

* Một điều thú vị ở đây là khi Phật giáo và văn hóa Ấn Độ truyền đến vùng đất miền nam Việt Nam, Campā (tên kinh đô của xứ Aṅgā) được dùng làm tên cho dân tộc Chăm (Champa), và Kambojā được dùng làm tên cho quốc gia trong vùng hồ Tonle Sap, ngày nay được biết với tên Cambodia.

 

Nguồn: Budsas

 

https://vedepphatphap.vn/cac-quoc-gia-thoi-duc-phat.html

 

 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ...
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications