Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐPS T1A.007 CHƯƠNG 6 QUÁN XÉT VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT
Bồ-tát Sumedha hoan hỷ với những lời thọ ký của Đức Phật Nhiên Đăng và những lời sách tấn của chư thiên và Phạm thiên, đã suy xét như vầy sau khi chư thiên và Phạm thiên ra đi: “Chư Phật không bao giờ nói hai lời hoặc nói lời vô ích. Lời nói của các Ngài không bao giờ sai sự thật. Chắc chắn ta sẽ thành Phật.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:5922

Các tên gọi khác

Bồ-tát Sumedha hoan hỷ với những lời thọ ký của Đức Phật Nhiên Đăng và những lời sách tấn của chư thiên và Phạm thiên, đã suy xét như vầy sau khi chư thiên và Phạm thiên ra đi: “Chư Phật không bao giờ nói hai lời hoặc nói lời vô ích. Lời nói của các Ngài không bao giờ sai sự thật. Chắc chắn ta sẽ thành Phật.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
ĐPS T1A.007 CHƯƠNG 6 QUÁN XÉT VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT

CHƯƠNG 6

QUÁN XÉT VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT

 

Bồ-tát Sumedha hoan hỷ với những lời thọ ký của Đức Phật Nhiên Đăng và những lời sách tấn của chư thiên và Phạm thiên, đã suy xét như vầy sau khi chư thiên và Phạm thiên ra đi:

“Chư Phật không bao giờ nói hai lời hoặc nói lời vô ích. Lời nói
của các Ngài không bao giờ sai sự thật. Chắc chắn ta sẽ thành Phật.

“Như cục đá được ném lên không, chắc chắn sẽ rơi xuống đất. Cũng vậy, lời của chư Phật luôn luôn đúng sự thật, không bao giờ sai chạy. Chắc chắn ta sẽ thành Phật.

“Lại nữa, tất cả chúng sanh đang sống đều phải chết. Cũng vậy, lời của chư Phật luôn luôn đúng sự thật, không bao giờ sai chạy. Chắc chắn ta sẽ thành Phật.

“Lại nữa, khi đêm tàn thì mặt trời chắc chắn sẽ mọc lên. Cũng vậy, lời của chư Phật luôn luôn đúng sự thật, không bao giờ sai chạy. Chắc chắn ta sẽ thành Phật.

“Lại nữa, con sư tử chắc chắn gầm lên khi ra khỏi hang. Cũng vậy, lời của chư Phật luôn luôn đúng với sự thật, không bao giờ sai chạy. Chắc chắn ta sẽ thành Phật.

“Lại nữa, sự sanh chắc chắn theo sau sự thọ sanh. Cũng vậy, lời của chư Phật luôn luôn đúng với sự thật, không bao giờ sai chạy. Chắc chắn ta sẽ thành Phật.”

 

Sau khi suy xét những ví dụ so sánh này, Sumedha tin chắc rằng vị ấy sẽ chứng đắc Phật quả theo đúng lời tiên tri của Đức Phật Nhiên Đăng. Và vị ấy tự nghĩ:

“Được, ta sẽ tìm kiếm kỹ lưỡng trong pháp giới (liên quan đến 3
cõi) ở khắp mười phương về những pháp dẫn đến sự chứng đắc Phật
quả.”

Như vậy vị ấy đã suy nghĩ và tra xét những pháp dẫn đến sự chứng đắc Phật quả (Buddhakara Dhamma).

(a) Bố thí Ba-la-mật

Trong khi Sumedha đang trầm ngâm tra xét các pháp để thành Phật, vị ấy khám phá pháp đầu tiên là pháp Bố thí Ba-la-mật. Đó là pháp mà chư vị Bồ-tát quá khứ luôn thực hành và nó giống như đại lộ dẫn đến vương quốc Phật quả.

Rồi vị ấy tự nhắc nhở mình như vầy: “Này Sumedha, nếu ngươi muốn chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí thì trước tiên ngươi nên thường xuyên an trú trong pháp Bố thí Ba-la-mật và nỗ lực thực hành viên mãn pháp ấy.”

Vị ấy tiếp tục sách tấn mình như vầy: “Khi một cái bình đựng đầy nước bị lật úp thì nó sẽ đổ hết nước không sót một giọt nào. Cũng vậy, này Sumedha, ngươi nên bố thí đến tất cả mọi người từ hạ lưu, trung lưu đến thượng lưu mà không giữ lại gì cho mình.”

(b) Giới Ba-la-mật

Sau khi đã tìm ra và quán xét về Bố thí Ba-la-mật. vị ấy tiếp tục suy quán như vầy: “Chỉ Bố thí Ba-la-mật thì không thể hình thành những yếu tố thành Phật. Chắc phải có những yếu tố khác để làm chín muồi đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí. Ta sẽ xét chúng.”

Khi vị ấy đã tra xét như vậy, vị ấy khám phá ra Giới là pháp Ba-la-
mật thứ hai mà chư Bồ-tát quá khứ đã luôn tu tập và thực hành viên
mãn.

 

Vị ấy tự sách tấn mình như vầy: “Này Sumedha, nếu ngươi muốn chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí, thì ngươi nên thường xuyên an trú trong Giới Ba-la-mật và cố gắng thành công trong việc thực hành viên mãn Giới Ba-la-mật.”

Vị ấy tiếp tục sách tấn mình: “Con bò Tây Tạng dám liều thân
mạng để bảo vệ cái đuôi của nó. Nếu cái đuôi vướng vào vật gì thì
trong khi tháo gở nó, con bò thà chết chứ không làm tổn thương cái
đuôi. Cũng vậy, này Sumedha, ngươi nên thọ trì giới trong bốn tịnh

xứ,   đó   là:    (1)   Patimokhasaṃvara,      (2)   Indriyasaṃvara,                                         (3)

Ajivaparisuddhi, và (4) Paccayasannissita. Chúng làm nền tảng cho
các việc phước. Như con bò Tây Tạng dám liều thân mạng để bảo vệ
cái đuôi của nó, ngươi cũng nên thường xuyên bảo vệ giới của mình.”

(c) Xuất ly Ba-la-mật

Sau khi khám phá và suy xét về Giới Ba-la-mật, vị ấy tiếp tục quán
xét như vầy: “Riêng hai pháp Ba-la-mật này không thể hình thành
những yếu tố thành Phật. Chắc phải có những yếu tố khác nữa để làm
chín muồi đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí. Ta sẽ tra xét chúng.”

Khi vị ấy tra xét như vậy, vị ấy khám phá ra Xuất ly là Ba-la-mật
thứ ba mà chư Bồ-tát quá khứ đã luôn luôn tu tập và thực hành viên

mãn.

Rồi vị ấy tự sách tấn mình: “Này Sumedha, nếu ngươi muốn chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí, ngươi nên thường xuyên an trú trong Xuất gia Ba-la-mật và cố gắng thành công trong việc thực hành pháp Xuất ly Ba-la-mật.”

Vị ấy tự sách tấn mình: “Một người bị giam tù trong thời gian lâu dài và luôn luôn chịu cực hình, chỉ tìm cơ hội trốn thoát. Cũng vậy này Sumedha, ngươi nên xem tất cả mọi kiếp sống trong ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới là ngục tù và phải tìm cách xuất ly để thoát khỏi những kiếp sống này”.

(d) Trí tuệ Ba-la-mật

 

Sau khi khám phá và suy xét pháp Xuất ly Ba-la-mật, vị ấy tiếp tục quán xét như vầy: “Riêng ba pháp này không thể hình thành những yếu tố thành Phật. Chắc phải có những yếu tố khác nữa để làm chín muồi đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí. Ta sẽ tra xét chúng.”

Khi tra xét như vậy, vị ấy khám phá Trí tuệ là Ba-la-mật thứ tư mà chư vị Bồ-tát quá khứ đã luôn luôn tu tập và thực hành viên mãn.

Rồi vị ấy tự sách tấn mình như vầy: “Này Sumedha, ngươi muốn chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí, ngươi phải thường xuyên an trú trong Trí tuệ Ba-la-mật và cố gắng thành công trong việc thực hành trí tuệ Ba-la-mật.”

Vị ấy tiếp tục sách tấn mình: “Một vị tỳ khưu trên đường đi khất
thực, nhận đủ vật thực nhờ khất thực từng nhà, dù họ là hạ lưu, trung
lưu hay thượng lưu. Cũng vậy, này Sumedha, ngươi phải luôn đi đến

những người đa trí, bất kể chiều sâu trí tuệ của họ là bao nhiêu, và hỏi
họ những sự kiện và tất cả vấn đề cần thiết bằng cách nêu những câu
hỏi như: Thưa Ngài, điều gì là phước? Điều gì không phải là phước?

Điều gì là tội? Điều gì không phải là tội? v.v… Ngươi nên nỗ lực để
thành tựu viên mãn pháp Trí tuệ Ba-la-mật. Khi ngươi được thành tựu
như vậy rồi, ngươi sẽ chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí.”

(e) Tinh tấn Ba-la-mật

Sau khi khám phá và suy xét về pháp Trí tuệ Ba-la-mật, vị ấy tiếp
tục quán xét như vầy: “Riêng bốn pháp này không thể hình thành
những yếu tố thành Phật. Chắc chắn phải có những yếu tố khác nữa
mới đủ để làm chín muồi đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí. Ta sẽ tra xét
chúng.”

Khi tra xét như vậy, vị ấy khám phá Tinh tấn là Ba-la-mật thứ năm mà chư Bồ-tát quá khứ luôn luôn tu tập và thực hành viên mãn.

Rồi vị ấy tự sách tấn mình như vầy: “Này Sumedha, nếu ngươi
muốn chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí thì ngươi phải thường

 

xuyên an trú trong pháp Tinh tấn Ba-la-mật và cố gắng thành công trong việc thực hành Tinh tấn Ba-la-mật.”

Vị ấy tiếp tục sách tấn mình: “Khi đi, đứng hoặc khi ẩn núp thì con
sư tử, chúa tể của muôn thú luôn luôn có sự tinh tấn không thối
chuyển trong các tư thế rùng mình, đứng, đi và luôn luôn cảnh giác.
Cũng vậy, này Sumedha, ngươi phải thường xuyên làm khơi dậy tinh
tấn của ngươi trong tất cả mọi kiếp sống. Khi ngươi đã thành tựu viên
mãn Tinh tấn Ba-la-mật, ngươi sẽ chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất
thiết trí.”

(f) Nhẫn nại Ba-la-mật

Sau khi khám phá và suy xét về pháp Tinh tấn Ba-la-mật, vị ấy tiếp
tục quán xét như vầy: “Riêng năm pháp Ba-la-mật này không thể hình

thành những yếu tố thành Phật. Chắc phải có những yếu tố khác mới
đủ làm chín muồi đạo quả Phật và Nhất thiết trí. Ta sẽ tra xét chúng.”

Rồi vị ấy tự sách tấn mình như vầy: “Này Sumedha, nếu ngươi
muốn chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí, ngươi phải thường

xuyên an trú trong Nhẫn nại Ba-la-mật một cách bền bỉ, không thối
chuyển, chứ không phải khi khoan dung độ lượng, khi không; hoặc
đối với một số người thì nhẫn nại, còn số khác thì không. Nếu ngươi
có thể thực hành như vậy thì ngươi có thể chứng đắc đạo quả Tuệ và
Nhất thiết trí.”

Vị ấy tiếp tục sách tấn mình: “Quả đất này chẳng hề tỏ dấu hiệu
thương hay ghét đối với tất cả những thứ được vứt bỏ lên nó, dầu sạch
hay dơ, tốt đẹp hay hôi thối. Cũng vậy này Sumedha, ngươi nên nhẫn
nại đối với tất cả những hành động được cư xử với ngươi dù đó là sự
khen ngợi, tôn xưng hoặc chỉ trích, khinh miệt. Khi ngươi thực hành
viên mãn Ba-la-mật này rồi, ngươi sẽ chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất
thiết trí.”

(g) Chân thật Ba-la-mật

 

Sau khi khám phá và suy xét về pháp Nhẫn nại Ba-la-mật, vị ấy tiếp
tục quán xét như vầy: “Riêng sáu pháp Ba-la-mật không thể hình
thành những yếu tố thành Phật. Chắc chắn phải có những yếu tố khác
mới đủ để làm chín muồi đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí. Ta sẽ tra xét
chúng.”

Khi tra xét như vậy, vị ấy khám phá ra Chân thật, là Ba-la-mật thứ
bảy mà chư Bồ-tát quá khứ luôn luôn tu tập và thực hành viên mãn.

Rồi vị ấy tự sách tấn mình như vầy: “Này Sumedha, nếu ngươi muốn chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí thì ngươi phải thường xuyên an trú trong Chân thật Ba-la-mật, tức là chỉ nói lời chân thật và không nói nước đôi - thật thật hư hư. Nếu ngươi thực hành viên mãn Chân thật Ba-la-mật này bằng cách chỉ nói lời chân thật thì ngươi sẽ chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí.

Vị ấy tiếp tục sách tấn mình: “Ngôi sao  mai là ngôi sao dẫn đường, luôn luôn đi đúng quỹ đạo của nó, không bao giờ đi lệch ra khỏi quỹ đạo dù thời tiết thế nào chăng nữa, mưa hay nắng. Cũng vậy, này Sumedha, ngươi không nên đi lệch ra ngoài con đường chân thật. Con đường này gồm tám phần, tức là:

1. Những điều ngươi thấy.

2. Những điều ngươi nghe.

3. Những điều ngươi cảm giác (ngửi, nếm, đụng chạm.)

4. Những điều ngươi biết.

5. Những điều ngươi không thấy.

6. Những điều ngươi không nghe.

7. Những điều ngươi không cảm giác.

8. Những điều ngươi không biết.

Khi ngươi thực hành viên mãn Chân thật Ba-la-mật này rồi, ngươi sẽ chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí.

 

(h) Quyết định Ba-la-mật

Sau khi khám phá và tra xét pháp Chân thật Ba-la-mật, vị ấy tiếp
tục xét như vầy: “Riêng bảy pháp này không thể hình thành những yếu
tố thành Phật. Chắc chắn phải có những yếu tố khác nữa mới đủ để
làm chín muồi đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí. Ta sẽ tra xét chúng.”

Khi tra xét như vậy, vị ấy khám phá ra Quyết định là Ba-la-mật thứ tám mà chư Bồ-tát quá khứ luôn luôn tu tập và thực hành viên mãn. Rồi vị ấy tự sách tấn mình như vầy:

“Này Sumedha, nếu ngươi muốn chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất
thiết trí, ngươi phải thường xuyên an trú trong quyết định Ba-la-mật.
Khi ngươi đã thực hành viên mãn một cách vững chắc không dao
động Quyết định Ba-la-mật này rồi, ngươi sẽ chứng đắc đạo quả Tuệ
và Nhất thiết trí.”

Vị ấy tiếp tục sách tấn mình: “Một ngọn núi đá to lớn nằm ở vùng
đất cứng, không thể bị những cơn cuồng phong làm lung lay. Cũng
vậy, này Sumedha, những việc phước mà ngươi đã quyết định làm thì
phải luôn thực hiện, không được bỏ qua. Khi ngươi đã thực hành viên
mãn Quyết định Ba-la-mật này rồi, ngươi sẽ chứng đắc đạo quả Tuệ
và Nhất thiết trí.”

(i) Tâm từ Ba-la-mật

Sau khi khám phá và suy xét về pháp Quyết định Ba-la-mật, vị ấy
tiếp tục quán xét như vầy: “Riêng tám pháp này không thể hình thành
những yếu tố thành Phật. Chắc chắn phải có những yếu tố khác nữa
mới đủ để làm chín muồi đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí. Ta sẽ tra xét
chúng.”

Khi tra xét như vậy, vị ấy khám phá ra Tâm từ là Ba-la-mật thứ
chín mà chư Bồ-tát quá khứ đã luôn luôn tu tập và thực hành viên
mãn.

Khi vị ấy tự sách tấn mình: “Này Sumedha, nếu ngươi muốn chứng
đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí, ngươi phải thường xuyên an trú

 

88                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

trong Tâm từ Ba-la-mật và phải cố gắng trau dồi, thực hành pháp thiền về từ ái theo phương pháp vượt trội nhất.

Vị ấy tiếp tục sách tấn mình: “Nước thường đem lại sự mát mẻ cho
những người tắm rửa, không phân biệt kẻ ác người thiện. Này
Sumedha, ngươi phải phát triển thiện ý đồng đều đến những người có
ý tốt và cả  người có ý không tốt đối với ngươi. Khi ngươi đã thực
hành viên mãn Tâm từ Ba-la-mật này rồi, ngươi sẽ chứng đắc đạo quả
Tuệ và Nhất thiết trí.”

(j) Hành xả Ba-la-mật

Sau khi khám phá và suy xét về pháp Tâm từ Ba-la-mật, vị ấy tiếp
tục quán xét như vầy: “Riêng chín pháp này không thể hình thành
những yếu tố thành Phật. Chắc chắn phải có những yếu tố khác nữa
mới đủ để làm chín muồi đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí. Ta sẽ tra xét
chúng.”

Khi tra xét như vậy, vị ấy khám phá ra Hành xả là Ba-la-mật thứ
mười mà chư Bồ-tát quá khứ luôn luôn tu tập và thực hành viên mãn.

Rồi vị ấy tự sách tấn mình: “Này Sumedha, hai quả cân giữ thăng bằng không nghiêng về bên nào. Cũng vậy nếu ngươi giữ tâm quân bình, trầm tĩnh khi đối mặt với hạnh phúc và đau khổ, ngươi sẽ chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí.

Vị ấy tiếp tục sách tấn mình: “Này Sumedha, đại địa này không tỏ dấu hiệu thương ghét đối với tất cả những vật được quăng bỏ trên nó dầu sạch sẽ hoặc hôi thối. Cũng vậy, này Sumedha, ngươi phải luôn luôn giữ tâm quân bình, không bị tác động bởi thương và ghét. Khi ngươi đã thực hành viên mãn Hành xả Ba-la-mật này rồi, ngươi sẽ chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí.

Đại địa chấn động sau những dòng tâm suy xét về các pháp Ba-la-
                                 mật của đạo sĩ Sumedha

Sau khi đã suy xét về Hành xả Ba-la-mật để làm chín muồi chứng
đạo quả Tuệ và Nhất thiết trí, và đắc thành Phật mà một vị Bồ-tát phải

 

thực hành viên mãn, chính xác là mười pháp này. Ngoài những pháp
Ba-la-mật này, không còn pháp Ba-la-mật nào khác. Và mười pháp
Ba-la-mật này là những pháp cần thiết để chứng đắc đạo quả Phật,
chúng không tồn tại ở ngoài ta, không ở trên trời hay dưới đất, chúng
cũng không ở hướng đông hay bất cứ hướng nào khác. Thật ra, chúng

ở trong tâm ta. Khi đã suy nghĩ như vậy, vị ấy hối thúc mình: “Này
Sumedha, hãy thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật này, là những
pháp thù thắng dẫn đến đạo quả Phật. Đừng thối chuyển.”

Rồi vị ấy xem xét lại mười pháp Ba-la-mật theo thứ tự xuôi: Bố thí,
Trì giới, Xuất ly, Trí tuệ, Tinh tấn, Nhẫn nại, Chân thật, Quyết định,
Tâm từ và Hành xả. Rồi vị ấy quán ngược lại như vầy: Hành xả, Tâm
từ, Quyết định, Chân thật, Nhẫn nại, Tinh tấn, Trí tuệ, Xuất ly, Trì
giới và Bố thí. Sau đó vị ấy quán xuôi từng nhóm hai pháp bắt đầu từ
hai pháp giữa: Tinh tấn và Nhẫn nại - Trí tuệ và Chân thật - Xuất ly và
Quyết định - Trì giới và Tâm từ - Bố thí và Hành xả. Rồi vị ấy quán
lại chúng bắt đầu bằng hai pháp đầu và cuối: Bố thí và Hành xả - Trì
giới và Tâm từ - Xuất ly và Quyết định - Trí tuệ và Chân thật - Tinh
tấn và Nhẫn nại. Như vậy vị ấy đã quán mười pháp Ba-la-mật kỹ
lưỡng như cái máy ép dầu nghiền nát những hạt dầu để sản xuất ra
dầu.

Vị ấy đã quán tất cả những vấn đề liên quan đến các pháp Ba-la-
mật cần thiết cho việc chứng đắc Phật quả: Dứt bỏ những thứ ngoài thân là sự thực hành Ba-la-mật bình thường (pāramī). Dứt bỏ tứ chi là sự thực hành Ba-la-mật bậc cao (Upa-pāramī). Dứt bỏ mạng sống là sự thực hành Ba-la-mật tối cao (Paramattha-pāramī).

Do năng lực được tạo ra bởi sự tra xét về mười pháp Ba-la-mật với
đầy đủ các đặc tánh và phận sự của chúng, đại địa trong mười ngàn
thế giới nghiêng về bên phải và bên trái, tới trước và ra sau, nhào
xuống và trồi lên, và nó đã chao động dữ dội theo những cách này. Nó
cũng tạo ra những âm thanh vang dội, những tiếng đùng đùng dậy đất
vang trời. Như cái máy ép mía được quay bởi những người thợ hoặc

 

90                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

như bánh xe quay của cái máy ép dầu, đại địa này đã quay cuồng chấn
động.

Như đã trình bày ở phần sau chương nói về Sumedha, sau khi công
bố lời tiên tri đến đạo sĩ Sumedha, Đức Phật Nhiên Đăng đi vào thành

phố Rammavatī và đến với dân cư đã thỉnh Ngài thọ thực. Khi Đức
Phật đang thọ thực, thì Sumedha đang quán xét lần lượt mười pháp
Ba-la-mật và đại địa chấn động sau khi vị ấy vừa quán xong. Do quả
đất chấn động dữ dội, khiến tất cả dân chúng đang hầu hạ bữa thọ thực
đến Đức Phật không thể đứng vững. Như những cây Sa-la to lớn bị
quất ngã bởi những cơn đại hồng phong từ núi Yugandhara đổ xuống,
họ ngã xuống đất trong trạng thái bàng hoàng và choáng váng.

Tại chỗ để vật thực cúng dường, hằng ngàn cái nồi đựng vật thực
và hằng trăm chum nước đã va đập nhau và bị vỡ ra thành từng mảnh.

Bị dao động mạnh, sợ hãi và hốt hoảng, dân chúng cùng nhau đi đến Đức Phật Nhiên Đăng và bạch rằng: “Kính bạch Đức Thế Tôn, bậc có năm con mắt trí tuệ, hiện tượng này là điềm tốt hay xấu? Một thảm họa đã đến với tất cả chúng con. Cầu xin Đức Thế Tôn diệt trừ mọi sợ hãi cho chúng con!”

Khi ấy Đức Thế Tôn đáp rằng: “Đừng sợ hãi về sự chấn động do
đại địa gây nên. Đừng lo sợ gì cả. Chẳng có gì phải sợ hãi. Ngày hôm
nay Ta đã tiên tri cho Sumedha rằng trong tương lai vị ấy sẽ thành Bậc
Chánh Đẳng giác trong thế gian. Vị ấy đã quán xét về mười pháp Ba-
la-mật mà chư Phật quá khứ đã thực hành viên mãn. Do những lần suy
quán về mười pháp Ba-la-mật, cần thiết cho việc chứng đắc đạo quả
Phật, không bỏ sót một pháp nào, nên đại địa này của mười ngàn thế
giới đã rung chuyển dữ dội như thế.” Như vậy Đức Phật Nhiên Đăng

đã giải thích rõ về nguyên nhân của sự địa chấn và khẳng định với họ
rằng không có tai họa nào xảy ra.

Chư thiên và Phạm thiên bày tỏ sự tôn kính đến  Sumedha

Dân chúng thành Rammavati tức thì yên tâm và không còn lo sợ
khi nghe những lời của Đức Phật Nhiên Đăng. Ngược lại, họ rất hoan

hỷ, mang hoa và các vật thơm cùng lễ vật cúng dường, kéo nhau ra khỏi thành phố, đi đến Sumedha và bày tỏ sự tôn kính đến đạo sĩ Sumedha bằng những lễ vật cúng dường, rồi đảnh lễ vị ấy.

Đạo sĩ Sumedha, sau khi quyết định thực hành Bồ-tát đạo, đã quán
niệm về các ân đức của bậc Chánh Biến Tri. Tâm vị ấy vững chắc
hướng về Đức Phật Nhiên Đăng làm lễ rồi đứng dậy, từ chỗ ngồi kiết
già.

Khi đạo sĩ Sumedha đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cả chư thiên và nhân loại tôn kính vị ấy bằng cách rải lên vị ấy những bông hoa mà chư thiên và nhân loại đem theo.

Sau đó họ nói lên những lời tán dương và khích lệ: “Kính thưa bậc ẩn sĩ cao quý, Ngài đã phát nguyện thành đạt quả vị cao quý, là đạo quả Phật. Chúc Ngài được viên thành bổn nguyện”.

“Cầu mong rằng tất cả tai ương và chướng ngại đang chực chờ Ngài thảy đều tiêu diệt và không bao giờ xảy ra. Cầu mong tất cả những lo âu và tật bịnh thảy đều biến mất và Ngài sẽ không bao giờ gặp chúng. Cầu mong không có tai họa nào xảy đến với Ngài. Cầu chúc Ngài sớm chứng đắc đạo quả Tuệ và Nhất Thiết trí!”

“Hỡi Đấng đại anh hùng! Như những cây nở hoa đúng mùa trong thế gian này. Cũng vậy, cầu chúc Ngài nở những bông hoa pháp như Tứ vô sở uý tuệ (Catu-vesārajja-ñāṇa)1, Lục bất cộng trí (Chaasādhārana-ñāṇa)2 và Thập lực trí (Dasabala-ñāṇa), v.v… là những thành quả của tất cả chư Phật.”

“Hỡi Đấng đại anh hùng! Hãy thực hành viên mãn mười pháp Ba-
la-mật như tất cả chư Phật đã làm. Cầu chúc Ngài có thể thực hiện
được!”

“Hỡi  Bậc đại anh hùng! Như tất cả chư Phật đã thông đạt Tứ Diệu
Đế dưới cội cây bồ đề, Cũng vậy, cầu chúc Ngài trở thành một vị Phật
sau khi thông đạt Tứ Diệu Đế dưới cội cây bồ đề, là địa danh của sự
chiến thắng!”

“Hỡi Đấng đại anh hùng! Như tất cả chư Phật đã từng Chuyển pháp luân, cầu chúc Ngài có thể quay bánh xe pháp bằng việc thuyết bài Pháp đầu tiên!

Như trăng rằm sáng tỏ, không bị năm vật che mờ do  sương phía dưới bốc lên, sương trên mây rơi xuống, do thần Rahu và khói. Cũng vậy, cầu chúc Ngài xuất hiện rực rỡ giữa mười ngàn thế giới với nguyện ước được viên thành!

Như mặt trời thoát khỏi miệng Asura, chiếu sáng rực rỡ. Cũng vậy, cầu chúc Ngài chiếu sáng rực rỡ bằng oai lực của một vị Phật sau khi thoát khỏi tất cả mọi kiếp sống!

Như tất cả mọi con sông đều đổ ra biển. Cũng vậy, cầu mong tất cả chư thiên và nhân loại đều đến với Ngài!”

Bằng cách này, chư thiên và nhân loại đã công bố sự vinh quang của vị ấy và nói những lời cầu nguyện may mắn.

Đạo sĩ Sumedha sau khi được khích lệ như vậy với đầy đủ những lời chúc lành và sự ngưỡng mộ, đã đi vào Hy-mã-lạp-sơn với quyết tâm tu tập và thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật.

 

 

KẾT THÚC CHƯƠNG 6

CÂU CHUYỆN VỀ SUMEDHA



Chú thích:

1. Catū-vesārajja-ñāṇa - Tứ Vô Sở Uý Tuệ

a. Antarāyikadhamme vā jānatā: Tuệ thông suốt những yếu tố làm
   
chướng ngại sự chứng đắc Niết bàn.

b. Niyyānikadhamme  passatā: Tuệ thấy rõ những yếu tố dẫn đến
   
sự thoát khỏi vòng sanh tử.

c. Kilesārīnaṃ hatā arahatā: Tuệ đoạn diệt kẻ thù phiền não.

d. Sammā        samañ       ca       sabbadhammānaṃ                           buddhattā

sammāsambuddhena: Nhất thiết trí.

2. Cha-asādhārana-ñāṇa - Lục Bất Cộng Trí

a. Indriyaparopariyatta-ñāṇa: Trí biết rõ các giai đoạn phát triển
    
trong các quyền của chúng sanh.

b. Āsayānussaya-ñāṇa: Trí biết rõ những khuynh hướng tiềm ẩn
    
của chúng sanh để hóa độ họ (tức Tuỳ miên trí).

c. Yamakapāṭihāriya-ñāṇa: Song thông trí.

d. Mahākarunā- ñāṇa: (Đại bi trí), trí liên quan đến tâm đại bi đối với chúng sanh.

e. Sabbaññuta- ñāṇa: Nhất thiết trí.

f. Anāvaraṇa-ñāṇa: Vô chướng trí.

 

 

Hết Tập 1, Phần 1

.

ĐPS T1A.001 Giới thiệu tác giả - dịch giả : -

ĐPS T1A.002 CHƯƠNG 1 KÍNH LỄ VÀ PHỤC NGUYỆN : -

ĐPS T1A.003 CHƯƠNG 2 SỰ XUẤT HIỆN HY HỮU CỦA MỘT VỊ PHẬT : -

ĐPS T1A.004 CHƯƠNG 3 BÀ-LA-MÔN SUMEDHA : -

ĐPS T1A.005 CHƯƠNG 4 SỰ XUẤT GIA CỦA SUMEDHA : -

ĐPS T1A.006 CHƯƠNG 5 SỰ THỌ KÝ : -

ĐPS T1A.007 CHƯƠNG 6 QUÁN XÉT VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT : -

ĐPS T1A.008 PHỤ CHÚ GIẢI ĐẠI PHẬT SỬ Cuốn I phần I : -

ĐPS T1B.001 CHƯƠNG 7 LINH TINH NHỮNG ĐIỂM CHÚ THÍCH VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT : -

ĐPS T1B.002 CHƯƠNG 8 MƯỜI TÁM BẤT KHẢ SỬ XỨ ABHABBAṬṬHĀNA : -

ĐPS T1B.003 CHƯƠNG 9 LỊCH SỬ 24 VỊ PHẬT TỔ : -

ĐPS T2A.001 CHƯƠNG 1 PHẬT BẢO : -

ĐPS T2A.002 CHƯƠNG 2 LỄ HẠ ĐIỀN : -

ĐPS T2A.003 CHƯƠNG 3     SỰ TRÔNG THẤY BỐN ĐIỀM TƯỚNG : -

ĐPS T2A.004 CHƯƠNG 4 SỰ CẮT TÓC VÀ TRỞ THÀNH SA-MÔN  : -

ĐPS T2A.005 CHƯƠNG 5 HỌC HỎI VÀ LUẬN BÀN VỚI ĀḶĀRA VÀ UDAKA : -

ĐPS T2A.006 CHƯƠNG 6 BỒ TÁT THỰC HÀNH PHÁP KHỔ HẠNH : -

ĐPS T2A.007 CHƯƠNG 7 SỰ CHỨNG ĐẮC PHẬT QUẢ  : -

ĐPS T2A.008 CHƯƠNG 8 ĐỨC PHẬT TRÚ NGỤ Ở BẢY CHỖ : -

ĐPS T2A.009 CHƯƠNG 9 ĐỨC PHẬT QUÁN XÉT TÁNH CHẤT CAO SIÊU CỦA PHÁP : -

ĐPS T2A.010 CHƯƠNG 10 CÂU CHUYỆN VỀ HAI VỊ THIÊN SĀTĀGIRA VÀ HEMAVATA (KINH HEMAVATA) : -

ĐPS T2A.011 CHƯƠNG 11 SỰ THUYẾT GIẢNG THANH TỊNH ĐẠO HÀNH : -

ĐPS T2A.012 CHƯƠNG 12 YASA, CON TRAI VỊ ĐẠI THƯƠNG NHÂN TRỞ THÀNH TỲ KHƯU : -

ĐPS T2A.013 CHƯƠNG 13 ĐỨC PHẬT PHÁI SÁU MƯƠI VỊ A-LA-HÁN ĐI TRUYỀN BÁ : -

ĐPS T2A.014 CHƯƠNG 14 SỰ GIÁO HOÁ BA ANH EM ẨN SĨ VÀ MỘT NGÀN ĐẠO SĨ : -

ĐPS T2A.015 CHƯƠNG 15 ĐỨC PHẬT VIẾNG THĂM KINH THÀNH RĀJAGAHA : -

ĐPS T2A.016 Phẩn giải thích bổ sung tập 2 : -

ĐPS T3A.001 : -

ĐPS T3A.002 CHƯƠNG 17 CHUYẾN ĐI CỦA ĐỨC PHẬT ĐẾN KAPILAVATTHU : -

ĐPS T3A.003 CHƯƠNG 18 NHỮNG CƠN MƯA ‘LÁ SEN’ RƠI XUỐNG HỘI CHÚNG : -

ĐPS T3A.004 CHƯƠNG 19 MỘT NGÀN VỊ HOÀNG TỬ THÍCH CA THỌ PHÉP XUẤT GIA TỪ ĐỨC THẾ TÔN : -

ĐPS T3A.005 CHƯƠNG 20 SỰ CHỨNG ĐẮC KHÁC NHAU CỦA SÁU VỊ HOÀNG TỬ : -

ĐPS T3A.006 CHƯƠNG 21 CÂU CHUYỆN VỀ SUMANA, NGƯỜI BÁN HOA CỦA THÀNH : -

ĐPS T3A.007 CHƯƠNG 22 SỰ THÀNH LẬP VESALI : -

ĐPS T3A.008 CHƯƠNG 23 ĐỨC THẾ TÔN NGỤ Ở VESALI - MÙA AN CƯ THỨ NĂM : -

ĐPS T3A.009 CHƯƠNG 24 ĐỨC PHẬT NGỰ Ở NGỌN NÚI MAKULA MÙA AN CƯ THỨ SÁU : -

ĐPS T3A.010 CHƯƠNG 25 HẠ THỨ BẢY VÀ SỰ THUYẾT GIẢNG ABHIDHAMMA TẠI CUNG TRỜI ĐAO LỢI (Tāvatiṃsa) : -

ĐPS T3A.011 CHƯƠNG 26 HẠ THỨ TÁM CỦA ĐỨC PHẬT TẠI THỊ TRẤN SUSUMARAGIRA : -

ĐPS T3A.012 CHƯƠNG 27 TRƯỞNG GIẢ GHOSAKA CỦA NƯỚC KOSAMBI : -

ĐPS T4A.001 CHƯƠNG 28 MÙA AN CƯ THỨ 10 CỦA ĐỨC PHẬT TẠI KHU RỪNG PĀLILEYYAKA : -

ĐPS T4A.002 CHƯƠNG 29 HẠ THỨ MƯỜI MỘT CỦA ĐỨC PHẬT TẠI LÀNG CỦA BÀ-LA-MÔN NĀḶA : -

ĐPS T4A.003 CHƯƠNG 30 HẠ THỨ MƯỜI HAI CỦA ĐỨC PHẬT TẠI THÀNH PHỐ VERAÑJĀ : -

ĐPS T4A.004 CHƯƠNG 31 TỲ KHƯU SUDINNA, CON TRAI CỦA THƯƠNG NHÂN KALANDA : -

ĐPS T4A.005 CHƯƠNG 32 HẠ THỨ MƯỜI BA CỦA ĐỨC PHẬT TẠI ĐỒI CALIKA : -

ĐPS T4A.006 CHƯƠNG 33 HẠ THỨ MƯỜI LĂM CỦA ĐỨC PHẬT TẠI KAPILAVATTHU : -

ĐPS T4A.007 CHƯƠNG 34 HẠ THỨ MƯỜI BẢY CỦA ĐỨC PHẬT TẠI VEḶUVANA : -

ĐPS T4A.008 CHƯƠNG 35 CÂU CHUYỆN VỀ MĀRA : -

ĐPS T4A.009 CHƯƠNG 36 CHIỀU CAO CỦA ĐỨC PHẬT ĐƯỢC ĐO BỞI MỘT BÀ-LA-MÔN : -

ĐPS T4A.010 CHƯƠNG 37 CÂU CHUYỆN VỀ VUA AJĀTASATTU : -

ĐPS T5A.001 CHƯƠNG 38 CHA MẸ BÀ-LA-MÔN CỦA ĐỨC PHẬT TRONG KIẾP QUÁ KHỨ : -

ĐPS T5A.002 CHƯƠNG 39 ĐẾ THÍCH SỞ VẤN : -

ĐPS T5A.003 CHƯƠNG 40 NHỮNG LỜI THUYẾT GIẢNG & SỰ VIÊN TỊCH BÁT NIẾT BÀN CỦA ĐỨC PHẬT : -

ĐPS T5A.004 CHƯƠNG 41 NHỮNG BÀI KỆ ĐỘNG TÂM : -

ĐPS T5A.005 CHƯƠNG 42 PHÁP BẢO – DHAMMA RATANA : -

ĐPS T6A.000 Giới thiệu qua chương 43 : -

ĐPS T6A.001 Câu chuyện về hai anh em: Mahākāla và Culakāla : -

ĐPS T6A.002 (2-3) HAI VỊ THƯỢNG THỦ THINH VĂN TRƯỞNG LÃO SĀRIPUTTA & TRƯỞNG LÃO MOGGALLĀNA : -

ĐPS T6A.003 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KASSAPA (Đại trưởng lão Ca-Diếp) : -

ĐPS T6A.004 ĐẠI TRƯỞNG LÃO ANURUDDHA : -

ĐPS T6A.005 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BHADDIYA : -

ĐPS T6A.006 ĐẠI TRƯỞNG LÃO AKUṆDAKA BHADDIYA : -

ĐPS T6A.007 ĐẠI TRƯỞNG LÃO PIṆḌOLA BHĀRADVĀJA : -

ĐPS T6A.008 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MANTĀNIPUTTA PUṆṆA : -

ĐPS T6A.009 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KACCĀYANA (Ca-chiên-diên) : -

ĐPS T6A.010 (11&12) HAI VỊ ĐẠI TRƯỞNG LÃO TÊN PANTHAKA : -

ĐPS T6A.011 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SUBHŪTI (TU BỒ ĐỀ) : -

ĐPS T6A.012 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KHADIRAVANIYA REVATA : -

ĐPS T6A.013 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KAṄKHĀ REVATA : -

ĐPS T6A.014 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KOḶIVISA : -

ĐPS T6A.015 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOṆA KUṬIKAṆṆA : -

ĐPS T6A.016 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SĪVALI : -

ĐPS T6A.017 ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAKKALI : -

ĐPS T6A.018 (20-21) ĐẠI TRƯỞNG LÃO RĀHULA & ĐẠI TRƯỞNG LÃO RAṬṬHAPĀLA : -

ĐPS T6A.019 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KUṆḌA DHĀNA : -

ĐPS T6A.020 ĐẠI TRƯỞNG LÃO VAṄGĪSA : -

ĐPS T6A.021 ĐẠI TRƯỞNG LÃO UPASENA VAṄGANTAPUTTA : -

ĐPS T6A.022 ĐẠI TRƯỞNG LÃO DABBA : -

ĐPS T6A.023 ĐẠI TRƯỞNG LÃO PILINDAVACCHA : -

ĐPS T6A.024 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BĀHIYA DĀRUCĪRIYA : -

ĐPS T6A.025 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KUMĀRA KASSAPA : -

ĐPS T6A.026 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KOṬṬHIKA : -

ĐPS T6A.027 ĐẠI TRƯỞNG LÃO ĀNANDA : -

ĐPS T6A.028 ĐẠI TRƯỞNG LÃO URUVELA KASSAPA : -

ĐPS T6A.029 ĐẠI TRƯỞNG LÃO KĀḶUDĀYĪ : -

ĐPS T6A.030 ĐẠI TRƯỞNG LÃO BĀKULA : -

ĐPS T6A.031 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SOBHITA : -

ĐPS T6A.032 ĐẠI TRƯỞNG LÃO UPĀLI : -

ĐPS T6A.033 ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDAKA : -

ĐPS T6A.034 ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDA : -

ĐPS T6A.035 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MAHĀ KAPPINA : -

ĐPS T6A.036 ĐẠI TRƯỞNG LÃO SĀGATA : -

ĐPS T6A.037 ĐẠI TRƯỞNG LÃO RĀDHA : -

ĐPS T6A.038 ĐẠI TRƯỞNG LÃO MOGHARĀJA : -

ĐPS T6A.039 BĀVARĪ VỊ THẦY BÀ LA MÔN ( tiếp theo) : -

ĐPS T6B.001 Chapter 44 LIfE HISTORIES Of BHIKKHUN¢ ARAHATS : -

ĐPS T6B.002 Chapter 45 THE LIfE STORIES Of MALE LAY DISCIPLES : -

ĐPS T6B.003 EPILOGUE : -

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications