Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tìm kiếm nhanh

1. Đức Phật là bậc toàn giác 

BẬC TOÀN GIÁC BIẾT TẤT CẢ?

- Thưa đại đức ! Đức Phật là bậc Toàn giác (Sabbannù), tức là ngài biết tất cả (Sabbadassàvì) phải không?

- Đúng thế, ngài là bậc Toàn giác nên ngài có tuệ biết tất cả (Sabbannutannàna), tâu đại vương!

- Đức Thế Tôn có tuệ biết tất cả, tại sao ngài không chế định giới luật trước mà đợi đến khi các vị tỳ khưu có giới phạm mới cấm chế sau?

- Đại vương biết trên thế gian này có nhiều thầy thuốc tài giỏi chứ?

- Có biết, rất nhiều thầy giỏi.

- Họ làm như thế nào? Họ chế thuốc trước cho người vô bệnh uống hay đợi đến khi có bệnh, tùy bệnh nặng nhẹ, cân đo liều lượng mới chế thuốc cho uống sau?

- Dĩ nhiên pha chế thuốc phải sau chứ.

- Cũng như thế đó, có giới phạm của chư tỳ kheo, mới chế định giới luật, như trị bệnh cho thuốc vậy, tâu đại vương!

- Dễ hiểu quá, cảm ơn đại đức.

#Cau_60 #MiTienVanDap

Xem thêm : https://thuvienhoasen.org/a12266/nhu-lai-la-bac-toan-tri-toan-giac-chu-khong-toan-nang

2. Đức Phật không phải toàn năng

2.1. Bốn điều Phật không làm được 

1. Một là NHÂN QUẢ không thể đổi thay, người gieo nhân nào thì gặt quả ấy, không ai có thể nhận thay.

2. Hai là TRÍ TUỆ không thể cho, ai muốn có đều phải tự mình tu học.

3. Ba là PHẬT PHÁP không thể diễn tả, chỉ có thể dựa vào ngộ mà đắc được.

4. Bốn là KHÔNG CÓ NHÂN DUYÊN thì không thể độ, người không có duyên thì không bao giờ nghe được những lời ta giảng”.

3. Khi còn tại thế, Đức Phật vẫn phải chịu những quả báo từ các đời trước về thân

Vì chưa tìm được bài viết nguồn copy phù hợp nên Tâm Học đành phải tự viết theo trí nhớ... từ các bản chú giải Phật giáo nguyên thủy

+ Việc bồ tát Tất Đạt Đa phải mất 6 năm tu khổ hạnh sau đó buông bỏ và mới tìm ra chân lý cũng được xem là 1 ác báo do tiền kiếp ..( các vị Phật toàn giác trước đó mất thời gian ít hơn).

+ Theo 1 số bài mà Tâm Học đọc nghe được thì Đức Phật cũng phải chịu nạn đói , và phải ăn phân bò ( nên tìm hiểu lại để tránh sai sót)

+ Đức Phật cũng phải trả quả báo khi Đề Bà Đạt Đa lăn đá hại ngài . Ngay cả dưới sự giúp đỡ của chư thiên thì 1 mảnh đá nhỏ đã lăn vào chân làm Phật chảy máu

+ Đức Phật nhiều lần đích thân ngăn cản hoàng tử Tỳ Lưu Ly ( lúc này đã cướp ngôi)  tấn công sát hại tộc Thích Ca. Nhưng cuối cùng Phật cũng dừng lại vì biết rằng đó là quả báo sâu xa từ các đời trước , khi dòng Thích Ca là dân chài lưới đánh cá , Tỳ Lưu Ly là con cá vua và tùy tùng là đàn cá trong ao. Đức Phật cũng đã phải chịu cộng nghiệp với dòng Thích Ca đó là bị đau đầu .

4. Khi mang thân tứ đại , Đức Phật cũng vẫn phải chịu những nỗi khổ về thân

+ Khi Phật còn tại thế , ngài cũng trải qua nhiều trận ốm thậm chí là ốm nặng ; Đức Phật đã dùng định tâm ( 1 dạng thiền) để vượt qua những đau khổ về thân.

+ Những năm cuồi đời Đức Phật còn bị bệnh tả lị hành hạ , ngoài ra còn bị đau khớp .

 

Vậy đó là bệnh gì? Trong bài báo nghiên cứu “The Cause of the Buddha’s Death” (Nguyên Nhân Tử Vong của Đức Phật) [4], hai tác giả Thượng toạ Bác sĩ Mettanando Bhikkhu và Nhà Nam Á học, Tiến sĩ Oskar von Hinüber kết luận rằng Ngài đã bị thiếu máu mạc treo (mesenteric infarction) do nghẹt động mạch.

https://nguyenvantuan.info/2024/07/18/duc-phat-qua-doi-vi-ung-thu/#:~:text=Trong%20b%C3%A0i%20b%C3%A1o%20nghi%C3%AAn%20c%E1%BB%A9u,infarction)%20do%20ngh%E1%BA%B9t%20%C4%91%E1%BB%99ng%20m%E1%BA%A1ch.

5. Một thời pháp ứng hợp mọi tâm nguyện và trình độ hiểu biết

Khi Đức Phật giảng về Tính không cho những người mong cầu sự lý giải tỉ mỉ, Ngài đã dùng rất nhiều phép ẩn dụ để giúp họ dễ hiểu hơn ý nghĩa cốt yếu của Tính không, vì vậy những bài Pháp được giảng ở đỉnh Linh Thứu được gọi là “108.000 đoạn kệ về trí tuệ Bát Nhã”. Những đoạn thơ ca trong 12 quyển này được tụng trong các tự viện và nhà riêng của các hành giả Phật giáo vùng Himalaya.

Với những Phật tử ở mức độ trung bình, Đức Phật giảng những bài Pháp “trung bình” hay còn gọi là “80.000 đoạn kệ”. Những Phật tử muốn một cách hiểu đơn giản hơn về Tính không được Đức Phật giảng Pháp theo một cách ít tỉ mỉ và súc tích hơn hay còn gọi là “8.000 đoạn kệ”. Một bản ngắn gọn hơn nữa dành cho những người muốn một cách nhìn tổng quát nhanh gọn gọi là “Bát Nhã tâm kinh”.  Và bản ngắn nhất là chỉ duy nhất chữ chủng tử “Ah”. Toàn bộ ý nghĩa của Kinh này nằm trong chữ chủng tử “Ah”.

Tất cả những bản kinh khác nhau này được Đức Phật giảng cùng một lúc, vì vậy cùng một lúc giáo pháp được tất cả các Phật tử nghe và hiểu đúng như cách mà họ mong cầu, giúp họ tỉnh thức hơn. Đức Phật không giảng ba bài giảng ba lần khác nhau. Ngài chỉ ban giáo pháp một lần duy nhất tại đỉnh Linh Thứu và tất cả các Phật tử đều hiểu được giáo Pháp Ngài giảng theo cách Ngài muốn, vì vậy nó giống như Ngài đã giảng nhiều phiên bản giáo Pháp khác nhau.

Đó là lý do vì sao một vài Kinh điển viết rằng Đức Phật, với sự tỉnh thức siêu việt, vượt qua mọi khái niệm và sự chia tách, Ngài đã không giảng gì cả, nhưng những Phật tử của Ngài vẫn nhậm vận tự nhiên đạt được sự hiểu biết và chứng ngộ tùy theo tâm nguyện của từng người.

Nguyên tác: “Journey to Liberation – A life story of Buddha in Mahayana tradition”

https://nikaya.tamhoc.org/viewbv.vi-sao-1-thoi-phap-cua-duc-phat-co-the-ung-hop-moi-trinh-do-hieu-biet-

6. Nhục kế của Đức Phật là gì

Nhục là thịt, Kế là búi tóc. Nhục kế có nghĩa đen là cái búi tóc (bằng) thịt, còn được gọi là Phật đảnh (đỉnh đầu của Phật). Đảnh kế (búi tóc lên đỉnh đầu). Đây là các từ Hán dịch từ Usnisa (Sanskrit và Pali).

Đức Phật có để tóc hay không, tướng nhục kế là gì?

Đây là tướng tốt thứ 31 trong 32 tướng tốt và là vẻ đẹp thứ 66 trong 80 vẻ đẹp của Đức Phật, biểu hiện cho một vị Đại nhân (Mahapurusa), một vị vua vĩ đại, một vị Phật tương lai… mà nhà hiền triết kiêm tế sư Asita (A Tư Đà) đã kể ra khi được mời đến xem tướng cho Đức Phật lúc Ngài mới sinh ra được ba ngày.

Kinh điển Phật giáo thường nói rằng nhục kế của Đức Phật (và của Bồ-tát) là do tích tập công đức nhiều đời mà có, rằng do công đức ấy mà xương đỉnh đầu nhô lên và tự nhiên trở thành búi tóc. Chúng ta thường thấy nhiều tranh tượng về hình Đức Phật có bộ tóc xoăn, sát đầu, đỉnh đầu có khối thịt nhỏ nhô lên, đấy là nhục kế. Hình tượng này có lẽ được căn cứ vào Kinh Quán Phật Tam Muội Hải: “Xương đỉnh đầu của Như Lai tròn đầy như nắm tay, màu trắng; chỗ da mỏng thì màu hồng, chỗ da dày thì màu kim cương”.

https://nikaya.tamhoc.org/viewbv.nhuc-ke-cua-duc-phat-la-gi-

7.Thấy biết của Đức Phật do đâu mà có 

Thế Tôn là bậc Giác ngộ, thể nhập làm một với pháp tính thì thông tỏ hết vạn pháp.

“Một thời Phật ở động Hoa Lâm vườn cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi khất thực, tụ họp ở Hoa Lâm đường, cùng nhau bàn luận rằng:

–  Các Hiền giả Tỷ-kheo, duy chỉ Đấng Vô Thượng Tôn, rất kỳ diệu, oai lực lớn lao, thần thông viễn đạt, mới biết rõ quá khứ vô số Đức Phật nhập Niết-bàn, dứt sạch các kiết sử, tiêu diệt các hý luận và cũng biết rõ kiếp số các Đức Phật ấy dài hay ngắn, cho đến danh hiệu, dòng họ thác sinh, sự ăn uống, thọ mạng dài ngắn, cảm thọ lạc và cảm thọ khổ như thế nào; lại biết rõ các Đức Phật ấy có giới như vậy, có pháp như vậy, có trí tuệ như vậy, có giải thoát như vậy, an trụ như vậy. Thế nào, này chư Hiền? Đó là do Đức Như Lai thông rõ các pháp tính mà biết được hay do chư Thiên kể lại?

Bấy giờ, Ðức Thế Tôn đang ở chỗ thanh vắng, bằng thiên nhĩ thanh tịnh, nghe rõ các Tỷ-kheo luận bàn như thế, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Hoa Lâm đường, ngồi vào chỗ ngồi dọn sẵn. Bấy giờ, Ðức Thế Tôn tuy đã biết nhưng vẫn hỏi:

– Này chư Tỷ-kheo, các ngươi tụ tập nơi đây bàn luận chuyện gì? Các Tỷ-kheo bèn đem hết mọi việc bạch lại với Phật. Rồi thì, Ðức Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:

– Lành thay, lành thay! Các ngươi đã với tâm chánh tín xuất gia học đạo, nên làm hai việc: một là nói năng theo pháp Hiền Thánh, hai là im lặng theo pháp Hiền Thánh. Những điều các ngươi luận bàn phải nên như thế. Như Lai thần thông oai lực lớn lao, biết khắp mọi việc từ vô số kiếp quá khứ, như thế là do thông rõ các pháp tính, đồng thời cũng do chư Thiên nói lại”.

(Kinh Trường A-hàm, kinh Đại bản [trích])

8. Ngay cả khi thành Phật , chánh đẳng giác Đức Phật vẫn làm phước 

Câu chuyện Đức Phật làm phước

Thời Phật còn tại thế, người đệ tử A-na-luật là anh em chú bác ruột với Ngài. Do quyết chí tu hành, nên A-na-luật bị mù cả hai mắt, bù lại, Ngài chứng được Thiên nhãn thông.

Việc làm của Đức phật khiến chúng ta phải cảm phục, quý kính, bởi Ngài là bậc toàn giác, bậc thầy vĩ đại, mà vẫn không bỏ qua việc làm phước nhỏ. Ảnh minh họa

Một hôm, Đức Phật thuyết giảng trong một pháp hội lớn, tất cả đại chúng đều say mê chăm chú lắng nghe, riêng Ngài A-na-luật thì ngủ gà, ngủ gật. Thấy thế, đức Phật gọi dậy và phương tiện độ người đệ tử:

– Này A-na-luật, có ai bắt buộc ông đi tu không? Hay vì ông thiếu nợ nhiều quá phải làm thuê, làm mướn vất vả nên trốn vào đây tu?

A-na-luật thưa:

– Bạch Thế Tôn, không phải như thế. Con là một Hoàng Tử đâu cần làm thuê, làm mướn và cũng không thiếu nợ ai. Con đi tu vì cảm kích công hạnh của Thế Tôn không thể nghĩ bàn. Con tu là để cầu giác ngộ giải thoát, nhưng vì tập khí xa xưa của con còn quá nhiều, nên nó che chướng làm con mê mờ trong lúc nghe Thế Tôn chỉ dạy.

Đức Phật bảo:

– Ông tu vì muốn giác ngộ và giải thoát sinh tử cho chính mình và cứu giúp chúng sanh, tại sao lại mê ngủ như vậy?

Nghe những lời cảnh tỉnh của Thế Tôn, Ngài ăn năn hổ thẹn, xin sám hối chừa bỏ tật ngủ gật và phát nguyện lớn: “Nếu đời này không thành đạo thì tôi không nhắm mắt.” Do quyết chí tu hành, ban ngày học hỏi làm việc, ban đêm siêng năng hành trì đến nỗi đôi mắt bị đỏ lên và sưng vù. Các thầy thuốc bảo Ngài ngủ lại bình thường thì mắt sẽ hết bệnh, nhưng Ngài vẫn cương quyết một lòng tu tập không ngủ nghỉ.

Đức Phật nghe chuyện, thân hành đến thăm và khuyên ông nên ngủ lại bình thường như trước, nhưng ông vẫn không chịu ngủ, cuối cùng đôi mắt của Ngài bị mù hẵn khi chưa chứng đạo. Tuy vậy, Ngài vẫn quyết tâm tinh tấn tu hành, chỉ một thời gian ngắn, Ngài chứng đắc Thiên nhãn thông với lực dụng không thể nghĩ bàn. Ngài có thể thấy suốt vũ trụ bao la như nhìn một trái xoài trong lòng bàn tay không bị chướng ngại của vật cản nào.

Một hôm, chiếc y của mình bị rách, Ngài muốn tự tay khâu lại, nhưng ngặt nỗi không thấy đường xỏ chỉ vào kim, Ngài lên tiếng nói rằng: “Có ai xỏ kim dùm tôi không?” Vừa lúc ấy Đức Phật đi ngang nghe được, liền đến xỏ kim giúp người đệ tử mù của mình. Chúng ta thấy, một việc làm lành dù nhỏ nhoi Đức Phật cũng không từ nan. Học chuyện xưa để mỗi người chúng ta bắt chước công hạnh của Như Lai Thế Tôn.

Để thấy lời Phật dạy không sai, mỗi người chúng ta phải cố gắng gieo trồng phước đức. Do phước nghiệp không đồng nên con người có thân tướng, lời nói, vóc dáng khác nhau, không ai giống ai cả. Ảnh minh họa

Việc làm của Đức phật khiến chúng ta phải cảm phục, quý kính, bởi Ngài là bậc toàn giác, bậc thầy vĩ đại, mà vẫn không bỏ qua việc làm phước nhỏ.

Qua đó, chúng ta thấy người giác ngộ không từ chối bất cứ việc lành nào cho dù rất nhỏ khi đủ nhân duyên. Như vậy, chứng tỏ rằng sự có mặt của đạo Phật luôn đem đến lợi ích thiết thực cho con người, không gây tổn hại cho ai trên đời này cả dù rất nhỏ.

Chúng ta phải biết làm việc thiện dù lớn hay nhỏ, ta phải cố gắng vun trồng, cóp nhặt để như giọt nước lâu ngày đầy lu. Ngược lại, việc ác dù nhỏ mấy ta cũng phải tránh, không làm. Muốn gieo trồng phước đức, ta phải xa rời nghiệp ác và phát triển nghiệp lành.

Học hạnh xưa của Thế Tôn để ngày nay chúng ta cố gắng bắt chước gieo trồng phước đức. Một ngày làm việc thiện thì bao việc ác không thể có mặt. Như vậy gieo trồng phước đức có lợi cho ta rất nhiều, còn tham lam bỏn xẻn, ích kỷ, tâm địa nhỏ nhoi thì lúc nào cũng chịu nhiều đau khổ thiệt thòi.

Ta làm việc ác nhỏ lâu ngày tạo nên nghiệp ác lớn, ví như lỗ thủng nhỏ rỉ nước vào thuyền, nếu không chặn lại ngay từ đầu, đến một lúc nào đó nó sẽ nhấn chìm cả chiếc thuyền lớn.

Bởi chưng kiếp trước khéo tu

Kiếp này con cháu võng dù xênh xang.

Dân gian có câu: “Có phước làm quan.” Làm quan thì có điều kiện giúp đỡ gia đình, quyến thuộc, đó là lẽ đương nhiên trong cuộc đời. Theo quan niệm dân gian Việt Nam “một người làm quan cả họ được nhờ” là thế. Để thấy lời Phật dạy không sai, mỗi người chúng ta phải cố gắng gieo trồng phước đức. Do phước nghiệp không đồng nên con người có thân tướng, lời nói, vóc dáng khác nhau, không ai giống ai cả. Người giàu sang, kẻ nghèo khổ, người sống thọ, kẻ chết yểu, người thông minh, kẻ ngu dốt cũng từ đó mà ra.

Trích tác phẩm “Gieo trồng phước đức” – Thích Đạt Ma Phổ Giác

9. Những đặc điểm hoằng pháp của Đức Phật

Thứ nhất, Đức Phật dấn thân vào cuộc đời hoằng pháp cứu độ chúng sinh

Thứ hai, Đức Phật dùng chính sự thực hành phạm hạnh của bản thân để giáo hóa chúng sinh (Hoằng pháp bằng thân giáo)

Thứ ba, Đức Phật nói pháp có nhân duyên

Thứ tư, Đức Phật xây dựng Tăng đoàn hòa hợp, thanh tịnh

Thứ năm, Đức Phật thuyết pháp thiết thực với hiện tại, phù hợp, giải quyết được những vấn đề cuộc sống

Thứ sáu, Đức Phật bình đẳng trong giáo pháp và quan điểm, tư tưởng

https://nikaya.tamhoc.org/viewbv.mot-so-dac-diem-hoang-phap-cua-uc-phat-thich-chanh-thuan

10 .Cuộc đời Đức Phật gắn liền với môi trường thiên nhiên

Trước hết, những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Đức Phật diễn ra ngoài trời trực tiếp với thiên nhiên. Khi ra đời, vì ngẫu nhiên trùng hợp hay có chủ đích, Đức Phật đản sinh dưới cây Vô Ưu (Saraca indica) tại vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini). Đây là một sự kiện lịch sử dù cho nó được giảng giải theo cách huyền sử hay chính sử. Trước khi thành đạo, Đức Phật cũng được xác nhận là đã dành khoảng thời gian ngồi thiền định dưới cây được gọi tên là Bồ-đề (peepal/Bodhi). Sống dưới gốc cây và tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên là trải nghiệm thực tế sâu sắc của Đức Phật với môi trường. Có lẽ vì thế mà Đấng Giác ngộ có kinh nghiệm về môi trường hơn bất cứ đấng giáo chủ nào khác.Giáo lý Duyên khởiđược Đức Phật giảng dạy có thể xem là một minh chứng thuyết phục. Sau khi thành đạo, Đức Phật chủ đích thuyết pháp mà danh từ thuật ngữ gọi là chuyển pháp luân tại vườn Nai (Sanarth). Lại một lần nữa Đức Phật chọn vị trí thiên nhiên để khởi đầu sự nghiệp của mình. Tại sao Đức Phật không chọn địa điểm “khởi nghiệp” của mình tại một nơi có đông hội chúng mà lại là nơi vườn Nai? Với trí tuệ siêu việt sau khi chứng tam minh,có thể nói rằng Đức Phật sẽ thành công bất cứ nơi nào nếu Ngài đến thuyết pháp.

Tuy nhiên, Đức Phật lại chọn nơi thiên nhiên. Về vấn đề này, chúng ta chỉ có thể suy luậnrằng việc chọn vườn Nai là chủ đích của Đức Phật khi Ngài quán chiếu thấy rõ trình tự thuyết pháp độ sanh thích hợp. Cuối cùng, khi Niết-bàn tịch diệt Đức Phật tiếp tục chọn địa điểm ngoài trời chứ không phải trong tịnh thất hay tinh xá. Địa điểm ấy là rừng cây Sala tại xứ Kushinagar. Một sự ra đi tự nhiên nhưng rất trang nghiêm nơi rừng cây xanh ngát. Bốn địa điểm này được ghi trong kinh Đại bát Niết-bàn thuộc kinh Trường bộ là bốn Thánh tích cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính bởi các đệ tử và tín chúng. Đức Phật cũng nói với Ananda rằng “Những ai, trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên”.

https://nikaya.tamhoc.org/viewbv.cuoc-doi-duc-phat-va-moi-truong-thich-hanh-chon

11. Hưởng thụ lạc được Như Lai khen ngợi

Sống ở đời thì phải vui mới khỏe và đáng sống. Kém vui thì thân thụ động, tâm buồn chán, u sầu, nhiều loại bệnh tật não phiền cũng bắt đầu từ đây. Không chỉ người đời cần vui vẻ, thoải mái mà người tu cũng rất cần sống vui, an lạc.

Dĩ nhiên những niềm vui đời thường, thuộc về dính mắc của căn và trần thì Đức Phật quở trách. Những lạc thú do buông lung phóng dật như sát sinh, trộm cướp, tà hạnh, nói dối, say nghiện…, bậc Đạo sư cũng khuyến cáo nên nhanh chóng diệt trừ. Chỉ có niềm vui hay an lạc của Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền được Thế Tôn đặc biệt khen ngợi.

Ai trú trong thiền định và thành tựu hỷ lạc thì Đức Phật khen ngợi.

Vì sao Như Lai thương xót chúng sinh mê lầm?

“Một thời, Phật ở tại nước Ca-duy-la-vệ, trong khu rừng của Ưu-bà-tắc Miến-kỳ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo 1.250 người…

“Nếu có Phạm chí ngoại đạo hỏi như vậy: Thứ lạc hưởng thụ nào mà Sa-môn Thích tử khen ngợi? Này các Tỳ-kheo, nếu người kia có nói như vậy, các ngươi nên trả lời rằng: Này chư Hiền, năm phẩm chất của dục, đáng ưa đáng thích, được người đời tham đắm.

Những gì là năm? Mắt biết sắc,…., cho đến, thân biết xúc, đáng ưa đáng thích, được người đời tham đắm. Này chư Hiền, do nhân duyên là năm dục mà sanh lạc, nên nhanh chóng diệt trừ. Cũng như có người cố ý sát sanh, tự cho thế là khoái lạc. Thứ lạc như thế, nên nhanh chóng diệt trừ. Có người trộm cắp, tự cho thế là khoái lạc. Thứ lạc ấy nên nhanh chóng diệt trừ. Cũng như có người phạm tịnh hạnh, tự cho thế là khoái lạc. Thứ lạc ấy nên chóng diệt trừ. Cũng như có người phóng đãng buông trôi, tự cho thế là khoái lạc. Thứ lạc ấy nên nhanh chóng diệt trừ. Cũng như có người hành khổ hạnh bề ngoài, cho thế là khoái lạc. Thứ lạc ấy nên chóng diệt trừ. Cũng như có người ly dục, lìa bỏ pháp ác bất thiện, có giác có quán, có hỷ lạc phát sanh do ly dục, nhập Sơ thiền. Lạc như thế là điều Phật khen ngợi. Cũng như có người diệt giác quán, nội tâm hoan hỷ, nhất tâm, không giác không quán, có hỷ lạc do định sanh, nhập Nhị thiền. Lạc như thế được Phật khen ngợi. Cũng như có người trừ hỷ, nhập xả, tự biết thân lạc, là điều mà Hiền thánh mong cầu, có xả niệm, nhất tâm, nhập đệ Tam thiền. Lạc như thế được Phật khen ngợi. Lạc hết, khổ hết, ưu và hỷ trước đã diệt, không khổ không lạc, hộ niệm thanh tịnh, nhập đệ Tứ thiền. Lạc như vậy được Phật khen ngợi”.

(Kinh Trường A-hàm, kinh Thanh tịnh, số 17 [trích])

12.Một ngày của Đức Phật

Đức Phật có thể được xem là vị giáo chủ hoạt động tích cực và nhiệt thành nhất trên thế gian. Ngài luôn luôn bận rộn với công việc đạo pháp trọn ngày, trừ những lúc phải để ý đến vài nhu cầu vật chất. Lịch trình hoạt động của Ngài được sắp xếp rất có qui cũ và mực thước. Đời sống bên trong là tham thiền nhập định và chứng nghiệm hạnh phúc Niết-Bàn, còn bên ngoài là phục vụ vị tha, nâng đỡ phẩm hạnh của chúng sanh trong khắp thế gian. Chính vì có khả năng giác tha nên Đức Phật tận lực cố gắng để giác ngộ người khác và dẫn dắt chúng sanh ra khỏi vòng phiền não của đời sống.

Hoạt động hằng ngày của Đức Phật chia làm năm đoạn:

Buổi sáng; 2. Buổi trưa; 3. Canh đầu; 4. Canh giữa; và 5. Canh chót.

Chính vì có khả năng giác tha nên Đức Phật tận lực cố gắng để giác ngộ người khác và dẫn dắt chúng sanh ra khỏi vòng phiền não của đời sống.

Buổi sáng

Thường ngày, lúc còn tản sáng sớm, Đức Phật dùng thiên nhãn để quan sát thế gian, xem có ai cần Ngài tế độ. Nếu thấy có người cần hỗ trợ tinh thần thì không đợi thỉnh cầu, Ngài tự ý đến để dẫn dắt người ấy vào chánh đạo. Ngài đi bộ. Nhưng đôi khi Ngài cũng dùng phép thần thông bay trên không trung. Ngài đến những người hư hèn, ô nhiễm như tên cướp sát nhân hung tợn Angulimala và quỉ Dạ Xoa, bạo tàn ác độc. Nhưng cô bé Visakha có tâm đạo nhiệt thành và nhà triệu phú Cấp-Cô-Độc (Anathapindika) và những bực thiện trí như Xá-Lợi Phất (Sariputta) và Mục-Kiền-Liên (Moggallana) thì tìm đến thọ giáo để được Ngài dẫn dắt.

Trong khi tế độ thế gian, nếu không có ai thỉnh về trai tăng, Đức Phật đi trì bình khất thực trên các nẻo đường, khi một mình, lúc với chúng Tăng. Im lặng đứng trước cửa từng nhà. Không thốt ra một lời, Ngài thọ lãnh vật thực nào mà tâm trong sạch bố thí của thiện tín hoan hỉ sớt vào bát, rồi trở về chùa. Cho đến năm tám mươi tuổi, mặc dầu đau ốm bất thường, Ngài vẫn đi bát trong thành Vesàli.

Đức Phật thọ thực trước ngọ. Sau đó chư vị tỳ kheo hợp lại nghe Ngài thuyết một bài Pháp ngắn. Sau thời Pháp, Đức Phật ban lễ qui y Tam Bảo, truyền Ngũ Giới và nếu có vị nào đạt đến trình độ tinh thần đầy đủ, Ngài chỉ dẫn vào Thánh Đạo – Con Đường Giải Thoát. Một vài vị đến gần xin đề mục thiền định thích hợp theo tâm tánh mình. Nếu có lời thỉnh nguyện, đôi khi Ngài cũng ban lễ xuất gia.

Buổi trưa

 
Sau khi giảng dạy hoặc kêu gọi chư vị đệ tử, Đức Phật lui về tịnh thất. Nếu muốn, Ngài nằm nghiêng mình bên mặt và định thần một lát.

Sau khi giảng dạy hoặc kêu gọi chư vị đệ tử, Đức Phật lui về tịnh thất. Nếu muốn, Ngài nằm nghiêng mình bên mặt và định thần một lát. Lúc dậy, Ngài nhập Đại Bi Định (Maha Karuna Samapatti) và dùng Phật nhãn quan sát thế gian, nhất là các vị tỳ kheo đã đi vào rừng sâu hành thiền nơi vắng vẻ và các đệ tử khác ở xa, để hướng dẫn và khuyên dạy. Nếu có một vị ở xa cần hỗ trợ, Ngài dùng thần thông bay đến nơi để tế độ rồi trở về tịnh thất.

Vào buổi chiều, thiện tín kéo đến nghe Pháp. Do Phật nhãn Ngài nhìn vào khuynh hướng và tâm tánh của từng người trong cử tọa để thuyết Pháp độ một tiếng. Mỗi người nghe, dầu tâm tánh và tình cảnh hoàn toàn khác biệt, đều có cảm tưởng rằng bài Pháp của Đức Phật đặc biệt hướng về mình. Đó là phương pháp giảng dạy của Đức Phật. Ngài thường dùng những thí dụ, những hình ảnh hay những bài ngụ ngôn có liên quan đến đời sống hằng ngày trong nhà để giải thích giáo lý và Ngài nhằm vào trí thức hơn là tình cảm.

Đối vời người thuộc hạng trung bình, Đức Phật bắt đầu giảng về hạnh bố thí, giới luật và hạnh phúc ở các cảnh Trời. Đối với người tiến bộ hơn, Ngài đề cập đến mối nguy hại của thú vui vật chất và hạnh phúc của sự từ khước, sự thoát ly. Với các vị đã đạt đến trình độ cao thượng, Ngài giảng về pháp Tứ-Diệu-Đế.

Trong một vài trường hợp hiếm hoi – như trường hợp Angulimala và bà Khema – Đức Phật dùng đến oai lực thần thông để ảnh hưởng đến tâm người nghe.

Cả hai lớp người, giàu và nghèo, cao sang và thấp kém, đều từ bỏ đức tin cũ của mình để hướng về Thông Điệp Hòa Bình của Đức Phật.

Canh đầu

 
Như vậy một ngày của Ðức Phật là một ngày của chúng sanh. Trái tim Như Lai là trái tim của tha nhân. Ðức Phật đã đượm nhuần toàn thể thế gian trong tình yêu thương vô tận của Ngài, không có gì riêng cho mình.

Từ sáu đến mười giờ đêm là khoảng Đức Phật dành riêng để các vị tỳ kheo được tự do thỉnh cầu Ngài giải đáp những mối hoài nghi của mình, hỏi Ngài về những điểm phức tạp trong Giáo Pháp, xin Ngài đề mục thiền định và nghe thuyết Pháp.

Canh giữa

Từ mười giờ đến hai giờ khuya, chư Thiên và chư Phạm Thiên là những chúng sanh mà mắt người không thể trông thấy, từ các cảnh Trời, đếu hầu Phật và hỏi Ngài về Giáo Pháp. Trong Kinh Sách có một đoạn thường được nhắc đi lập lại như sau: “Lúc bấy giờ đêm đã khuya, một vị Trời có hào quang rực rỡ đến gần Đức Phật, cung kính đảnh lễ và đứng lại một bên”. Nhiều bài kinh và nhiều lời vấn đáp được ghi trong tập Samyutta Nikaya (Tương Ưng Bộ).

Canh cuối cùng

Canh cuối cùng trong đêm, từ hai giờ khuya đến sáu giờ sáng, được chia làm bốn phần. Trong phần đầu tiên, từ hai đến ba giờ. Đức Phật đi kinh hành. Từ ba đến bốn giờ, Ngài nằm định thần, nghiêng về phía tay mặt. Từ bốn đến năm giờ, Ngài nhập Đại Bi Định (Mahà Karunà Samapatti), rãi tâm từ khắp nơi và làm êm dịu tâm trí tất cả chúng sanh. Sau đó Ngài quan sát thế gian bằng Phật nhãn xem coi có thể tế độ ai. Những người đạo hạnh và những người cần đến Ngài, dầu ở cách xa thế nào Ngài cũng nhận ra và mở lòng bi mẩn, Ngài tự ý đến để đem lại sự hỗ trợ tinh thần cần thiết.

Trích: “Đức Phật và Phật Pháp”, Phạm Kim Khánh chuyển dịch, Sài gòn 1970

13. Ai thấy pháp người đó thấy Phật

Nguyên nhân đức Phật nói bài pháp này, vì tôn giả Vakkali ở nhà thợ gốm, đang bị bịnh nặng, sắp lâm chung, nhưng lòng rất muốn diện kiến dung nhan đức Thế Tôn và đảnh lễ Ngài lần cuối trước khi nhắm mắt lìa đời, nhưng không thể nào đến nơi Thế Tôn ở được, cho nên Tôn giả Vakkali đã cho thị giả đến cung thỉnh đức Thế Tôn đến nơi mình ở. Vì lòng từ mẫn đức Thế Tôn đã thân hành đến thăm Tỷ kheo Vakkali. Sau khi đến đức Thế Tôn hỏi:

– Này Vakkali, nếu ông không có gì trách mình về giới luật, vậy có gì phân vân hay hối hận không ? 

– Đã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn, nhưng thân con không đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn.. 

– Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này. Này Vakkali. Ai thấy pháp, người ấy thấy Ta, Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp.[1]. 

https://nikaya.tamhoc.org/viewbv.ai-thay-phap-la-nguoi-ay-thay-phat-thich-hanh-binh

14.Vì sao đức Phật còn tóc mà chư Tăng thì không?

Trong 6 năm tu khổ hạnh thì Thái tử không cạo tóc vì tu khổ hạnh và không bận tâm đến hình thể của mình. Nhưng sau khi giác ngộ, mỗi tháng đức Phật đều cạo đầu và các đệ tử của Ngài cũng cạo đầu theo.

Ở tuổi 29, Thái tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ cơ hội làm vua và quyết tìm kiếm con đường chân lý.

Ở tuổi 29, Thái tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ cơ hội làm vua và quyết tìm kiếm con đường chân lý. Ngài vượt thành Ca tỳ la vệ và khi qua khỏi sông A-nô-ma, thái tử Tất Đạt Đa đã dùng thanh gươm cạo sạch râu tóc và gởi râu tóc đó cho người hầu là Xa-Nặc mang về hoàng cung trình với đức vua Tịnh Phạn rằng thái tử Tất Đạt Đa không chết đi mà người đang tìm con đường chân lý và hẹn ngày tái ngộ.

Trong 6 năm tu khổ hạnh thì Thái tử không cạo tóc vì tu khổ hạnh và không bận tâm đến hình thể của mình. Nhưng sau khi giác ngộ, mỗi tháng đức Phật đều cạo đầu và các đệ tử của Ngài cũng cạo đầu theo.

Có lần đức Phật dạy các tu sĩ, mỗi ngày và tối thiểu nửa tháng sờ trên đầu mình để biết rất rõ là mình không còn tóc nữa và biến đầu trọc này trở thành thông điệp: vì tôi là người xuất gia từ bỏ cái răng, cái tóc vốn là gốc con người; tôi phải trở thành là một thánh nhân. Tôi phải phấn đấu để trở thành nhân cách đặc biệt hơn những người phàm tục khác. Và râu tóc được đức Phật ví như là biểu tượng của người đời, của các hành vi phàm, của lối sống phàm và cạo râu tóc là thông điệp vượt trên lối sống phàm đó.

Đó là nhân tướng học, còn khi đức Phật đi xuất gia cho đến lúc ngài qua đời thì đức Phật cạo tóc đều mỗi tháng.
Đó là nhân tướng học, còn khi đức Phật đi xuất gia cho đến lúc ngài qua đời thì đức Phật cạo tóc đều mỗi tháng.

Các nghệ nhân bao gồm thợ điêu khắc chạm trổ và các họa sĩ khi khắc chạm và vẽ tượng hay ảnh của Đức Phật thì dựa vào 32 tướng đại nhân được mô tả trong các Kinh. Một trong 32 tướng đại nhân mà đức Phật có là tướng tóc xoắn mà theo nhân tướng học Ấn độ là biểu tượng của người thông minh. Và theo một số kinh sách, đức Phật có tướng tốt nhục kết và tóc xoăn thành vòng theo chiều bên phải nên khi tạc tượng, hay vẽ tranh ảnh ngài, tướng nhục kế và tóc xoăn hình trôn ốc được khắc họa nổi bật khiến chúng ta được khắc họa nổi bật khiến chúng ta thấy như chỉ có các Tỷ kheo và Tỷ kheo ni mới cạo tóc, còn Phật thì không.

Đó là nhân tướng học, còn khi đức Phật đi xuất gia cho đến lúc ngài qua đời thì đức Phật cạo tóc đều mỗi tháng. Nhưng vì chúng ta quen 32 tướng đại nhân đó mà ở Trung quốc và Việt Nam thường dịch trật là 32 tướng tốt cho nên khi nắn tượng và vẽ hình đức Phật thì người ta vẫn quen việc để tóc cho Ngài để nhấn mạnh.

TT Thích Nhật Từ

15. Đức Phật có ngủ ngon giấc không ?

Như Lai đã loại bỏ được tất cả lòng tham sân si, cắt bỏ chúng tận gốc rễ, giống như gốc cây cọ trơ trụi không còn ra hoa trái nữa, bởi vì lòng tham sân si đã bị hoàn toàn xóa sạch, nên chúng không thể nào phát sinh ra trong tương lai. Hoàng Tử, vì thế, nên ta đã ngủ ngon giấc.

https://nikaya.tamhoc.org/viewbv.duc-phat-ngu-ngon-giac-khong-

16.Nguyên nhân Đức Phật chế Giới Luật

Giới luật bao hàm một ý nghĩa cực trọng. Những qui luật này, sau khi Phật nhập Niết bàn được các hàng Thánh đệ tử của Ngài đọc tụng, biên chép thành hệ thống và trở thành một trong tam tạng Giáo điển. Đó là Luật Tạng.

 >>Đức Phật

Qua lịch sử Phật giáo, cũng như sự truyền thừa Giới luật cho chúng ta thấy, sau khi đức Phật thành Đạo trong thời gian đầu, Tăng bảo được hình thành chưa chế Giới luật, lúc bấy giờ Tăng già đều là các vị Tỳ kheo thanh tịnh. Trong suốt 12 năm đầu, tổ chức sinh hoạt Giáo Đoàn rất thanh tịnh sống trên tinh thần hòa hợp đoàn kết, nên Đức Phật không cần phải chế Giới luật, vì mỗi vị đã tự kiểm soát thân, khẩu, ý trong từng niệm, từng sát na nên được giải thoát, không còn những pháp bất thiện trong tâm thức.

Đến năm thứ 13, Tăng già có số lượng đông đảo, phần lớn các vị Vương tôn công tử theo Phật xuất gia, từ đời sống vương giả hưởng thụ đủ mọi thứ ngũ dục, khi xuất gia thì phải sống theo hạnh đầu đà. Cho nên, Tăng đoàn phát sinh ra nhiều pháp hữu lậu trong sinh hoạt. Hơn nữa, lúc này Tăng đoàn phát triển quá nhanh, và thâu nhận rộng rãi mọi thành phần trong xã hội, từ đó có sự suy thối xảy ra. Cho nên, dần về sau trong tổ chức Tăng đoàn xuất hiện nhiều thành phần xuất gia với mục đích không chân chính. Các thầy Tỳ kheo dần dà sống xa rời tinh thần giải thoát, bị lôi cuốn vào danh vọng, lợi dưỡng. Giới luật buộc phải ra đời để làm hàng rào ngăn chặn sự hư đốn trong Tăng đoàn, bảo hộ sự thanh tịnh hòa hợp của Tăng thân, cũng như giữ gìn bản thể Tỳ kheo không cho hư hủy. Mặt khác, Ngài vì sợ tiếng đồn gần xa của người thế tục, họ nhìn vào nếp sống bê tha “tự tung tự tác” của Tăng đoàn mà mất đi Chánh tín, hoặc chê bai, hoặc hiềm tỵ, hoặc coi giáo đoàn Phật giáo không hơn kém những ngoại đạo. Cho nên, sự có mặt của Giới luật là yếu tố vô cùng cần thiết để thành tựu thanh tịnh một Tỳ kheo làm mô phạm cho Trời, người và giúp cho hành giả bước đi vững chãi trên con đường thoát ly sinh tử.

Xem thêm : https://nikaya.tamhoc.org/viewbv.nguyen-nhan-duc-phat-che-gioi-luat-minh-chinh-tong-hop-

17.Những ngôn ngữ Đức Phật sử dụng khi thuyết pháp là gì? 

Đây không phải một chuyên khảo luận về đề tài ngôn ngữ thời đức Phật, chỉ là ghi lại vài suy nghĩ bất chợt, nên không thể đáp ứng nhu cầu tìm hiểu Phật pháp đa diện của các bậc thức giả muốn nghiên cứu sâu rộng.

Nếu muốn đòi hỏi chứng minh đa diện, dẫn chứng cụ thể, luận bàn chi tiết, thì bài viết này không thể thỏa mãn nhu cầu đó.

  • 1. Thổ ngữ Magādhi

  • 2. Ngôn ngữ Pāli
  • 3. Ngôn ngữ Sanskrit
  • 4. Hình thành hai tạng kinh Agāma và Pāli

https://nikaya.tamhoc.org/viewbv.nhung-ngon-ngu-duc-phat-su-dung-khi-thuyet-phap-la-gi-phuoc-nguyen

18. Y bát của Đức Phật

Y và bát của đức Phật là thông điệp đầy ý nghĩa đối với hàng đệ tử của Ngài. Trong sinh hoạt của Tăng đoàn việc thọ trì y và bát theo luật nghi là một điều tối quan trọng để hội chúng xuất gia được thanh tịnh và để kế thừa truyền thống chánh pháp của chư Phật trong nhiều đời.

Kể từ ngày đức Phật nhập diệt, để tưởng nhớ và cúng dường Ngài, các hàng đệ tử của Ngài thường lễ bái, cầu nguyện và dâng cúng các phẩm vật tại các thánh tích cùng những bảo tháp thờ xá-lợi của Ngài.

Xá-lợi Phật chính là những di vật thiêng liêng tượng trưng cho sự hiện hữu của Ngài tại nhân gian, là nguồn lực gia trì cho sự tu tập của người Phật tử, và là thông điệp về sự vô thường của các pháp hữu vi, dù đó là thân xác của một đấng giác ngộ.

https://nikaya.tamhoc.org/viewbv.y-bat-cua-duc-phat-thich-dong-thanh

19. Ý nghĩa từ tư thế ngủ của Đức Phật 

Ngủ là lúc chúng ta nghỉ ngơi nên nhiều người cho rằng, thích kiểu gì thì cứ nằm theo kiểu đó chứ không suy nghĩ gì nhiều, cũng không biết tư thế ngủ ảnh hưởng đến tâm trí hay sức khỏe của mình.

Tuy nhiên theo các sách Kinh Phật diễn giải, nằm đúng tư thế cũng là một cách tu. Tư thế nằm phản ánh tâm trạng và ảnh hưởng sâu sắc đến sự an tịnh của thân tâm người nằm. Theo Đức Phật, có 4 cách nằm ngủ là nằm ngửa, nằm sấp, nằm nghiêng về bên trái và nằm nghiêng về bên phải.

1. Nằm ngửa thường thể hiện nỗi khát khao, khó nhiếp phục tâm khát ái, vọng tưởng hơn các tư thế khác. Nó còn dễ tạo ra sự hớ hênh, nhất là lúc ngủ say có thể đánh mất oai nghi.

2. Nằm sấp là kiểu nằm thể hiện sự dằn vặt, đau khổ, dễ gặp ác mộng, và chính người nằm cũng khó có được cảm giác thoải mái. 

3. Nằm nghiêng bên trái phản ánh tâm trạng của phần lớn những người ưa thích thọ hưởng dục vọng. 

Theo các nghiên cứu khoa học thì nằm sấp, nằm ngửa và nằm nghiêng bên trái ảnh hưởng không tốt đến hệ tuần hoàn, nội tạng và xương khớp. Vì thế, người tu thường không nằm theo 3 tư thế này.

4. Nằm nghiêng bên phải, hai chân gác lên nhau như sư tử là tư thế hội đủ oai nghi, một trong những tế hạnh của người tu, cũng chính là cách nằm của Đức Phật: Đây là tư thế nằm cát tường, tạo ra sự yên lành, an ổn cho thân thể và nhất là tâm luôn đạt được sự thức tỉnh.

Nằm ngửa thường thể hiện nỗi khát khao, khó nhiếp phục tâm khát ái, vọng tưởng hơn các tư thế khác. Nó còn dễ tạo ra sự hớ hênh, nhất là lúc ngủ say có thể đánh mất oai nghi.

Xem thêm : https://nikaya.tamhoc.org/viewbv.y-nghia-tham-sau-tu-tu-the-ngu-cua-duc-phat-theo-moral-stories

20. 8 tướng thành đao của Đức Phật

Đức Phật Thích Ca thị hiện thành Phật ở cõi Ta-bà (dương gian), từ lúc đản sinh cho đến ngày nhập diệt niết bàn đã thị hiện viên tròn đủ tám tướng trọng đại. Điều này được ghi chép chân thực trong kho tàng sử liệu Phật giáo.

Theo sử liệu ghi: Khi một vị Phật ra đời độ sinh luôn “thị hiện” tám tướng thành đạo. Điều này xem như một chứng thực cho một đức Phật – bậc Giác ngộ ở hai phạm trù thế gian và siêu việt (xuất) thế gian.

1. Đức Phật Thích Ca trong tướng thành đạo thứ nhất: “giáng Đâu – suất tướng”

2. Tướng thành đạo thứ hai: Đại Bồ tát nhập thai mẹ trong hình tướng Voi trắng sáu ngà

3. Tướng thành đạo thứ ba: Đức Phật đản sinh: 7 bước đi sen nở

4. Tướng thành đạo thứ 4: Xuất gia tướng

5. Tướng thành đạo thứ 5: Đức Phật chiến thắng ngũ ma – (Hàng ma tướng)

6. Tướng thành đạo thứ 6: Tiến trình chứng ngộ trong đêm Phật thành đạo

7. Tướng thành đạo thứ 7: Đức Phật Chuyển Pháp luân

8.Tướng thành đạo thứ 8: Đức Phật nhập Niết bàn

Xem thêm : https://nikaya.tamhoc.org/viewbv.8-tuong-thanh-dao-cua-duc-phat-thich-ca

21. Đức Phật dạy những gì và không dạy những gì 

Đoạn kinh trên nêu rõ Đức Phật chỉ giảng dạy những gì giúp chúng sanh thoát khỏi đau khổ, hướng đến an tịnh giải thoát Niết-bàn mà thôi. Ngài bỏ qua một bên những lý thuyết về vũ trụ, về nhân sanh, vì những lý thuyết ấy không giúp gì cho người tu hành hướng đến an tịnh giải thoát Niết-bàn. Thái độ của Đức Phật rất thiết thực và rõ ràng. Đối với Đức Phật, vấn đề có Thượng Đế hay không, không phải là vấn đề quan trọng, vì dầu Thượng Đế có hay không, sự đau khổ vẫn đè nặng trên đời sống con người và loài người vẫn sống trong dục vọng tham, sân, si, phiền não. Tuy vậy, các học trò Đức Phật về sau đã quên lời dạy này, hợp thành các tôn phái chống báng nhau, công kích nhau, tạo thêm nhiều lý thuyết mới, và quên rằng người Phật tử chỉ là người theo lời dạy Đức Phật, thiết thực tu hành theo con đường Ngài đã thực nghiệm và truyền dạy.

Vậy điều cần hiện tại của người Phật tử là bỏ qua một bên các biện luận suông, bỏ sự chấp chặt những lý thuyết tôn phái này tôn phái khác, thiết thực cố gắng ứng dụng những lời dạy Đức Phật trong đời sống hàng ngày của mình, để san bớt dần những dục vọng, giải thoát dần những phiền não. Có vậy mới nhận chân được ý nghĩa lời dạy Đức Phật và mới hưởng được lợi ích thiết thực của đạo Phật.

https://nikaya.tamhoc.org/viewbv.duc-phat-day-nhung-gi-va-khong-day-nhung-gi-ht-thich-minh-chau

HT Thích Minh Chau 

22.Đức Phật có phải là Thượng đế hay không?

Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?

Câu hỏi vốn được hỏi từ những nhà học giả và những sinh viên mới trong những nghiên cứu Phật giáo? Theo thuật ngữ kỹ thuật thì Tôn giáo có nghĩa là bất cứ đức tin hay phương pháp thờ phượng của niềm tin trong một thượng đế (nhất thần giáo) hay nhiều thượng đế (đa thần giáo) những đấng đã tạo ra thế giới và những đấng có thể kiểm soát mọi thứ xảy ra trong thế giới. Phật giáo không là một tôn giáo trong phương diện này nhưng chúng ta có thể thừa nhận với khái niệm của một tôn giáo tương tự như những tôn giáo khác. Phật giáo cũng đặt sự nhấn mạnh vào căn bản của Niềm Tin. Tuy thế, nên thấu hiểu rằng Phật giáo không dừng lại ở niềm tin. Niềm Tin và tuệ trí là căn bản của Phật giáo. Niềm Tin, Saddha, thông thường liên hệ đến sự Giác Ngộ của Đức Phật hay luật nghiệp báo chứ không phải vào một Đấng Tối cao. Trên căn bản này, một cách chắc chắn, hầu hết sự trình bày của Đạo Phật có thể được xem như một tôn giáo.

Sau khi Đức Phật nhập niết bàn người Phật tử vì sự tôn kính của họ với Ngài như một vị Thầy đã chỉ ra con đường để tự giải thoát và cứu độ chúng sanh đã bắt đầu tôn thờ Ngài và Phật giáo bắt đầu dường như có những đặc tính của một tôn giáo.

Đức Phật được tạo lập tượng và tôn thờ như thế nào?

Rồi thì phát sinh câu hỏi Đạo Phật là gì? Đạo Phật là tên được đặt cho Giáo huấn của Đức Phật Thích Ca nhưng thường được Phật tử gọi là Phật Pháp hay Giáo lý Đạo Phật. Trong khi những nhà quan sát Tây phương có thể tranh luận Phật giáo nên được xem như một triết học hay như một môn tâm lý học thì có thể ghi nhớ rằng giáo huấn của Ngài không quá khác với những giáo lý chủ yếu của những tôn giáo chính trên thế giới.

Ban sơ Phật giáo là một triết lý ứng dụng. Nó đối phó với những vấn nạn của đời sống hay khổ đau và vấn đề giải quyết chúng như thế nào trong ánh sáng của luật nhân quả. Sau khi Đức Phật nhập niết bàn người Phật tử vì sự tôn kính của họ với Ngài như một vị Thầy đã chỉ ra con đường để tự giải thoát và cứu độ chúng sanh đã bắt đầu tôn thờ Ngài và Phật giáo bắt đầu dường như có những đặc tính của một tôn giáo. Điều này có thể là xu hướng tôn giáo của bản chất con người. Loài người thì yếu đuối và luôn luôn tìm kiếm điều gì đó siêu tự nhiên để nương tựa. Nếu không có điều gì loại đó trong tôn giáo của họ, họ sẽ tưởng tượng và nương tựa vào đó vào những lúc khẩn cấp. Phật giáo và những người Phật tử cũng không ngoại lệ.

 
Người Phật tử tôn kính với hình tượng Phật để tỏ lòng biết ơn và tôn kính như một vị thầy lớn hơn là Thượng đế hay tôn thờ Ngài như một vị thần thánh.

Người ngu và người trí theo quan điểm của Đức Phật

Dường như không có gì tổn hại trong việc tin tưởng trong điều gì đó siêu nhiên khi mà người tin tưởng có được một lợi ích nào đó từ đó mặc dù lợi lạc có thể chỉ là tâm lý. Con người có cả cảm xúc và trí thông minh. Một tôn giáo nên có điều gì đó siêu nhiên để làm hài lòng cảm xúc và điều gì đó thông tuệ hay triết lý để làm hài lòng lý trí. Tóm lại, người Phật tử tôn kính với hình tượng Phật để tỏ lòng biết ơn và tôn kính như một vị thầy lớn hơn là Thượng đế hay tôn thờ Ngài như một vị thần thánh.

Ven. S.M. Sujano – Tuệ Uyển chuyển ngữ

23.Đức Phật là thầy dẫn đường bậc mô phạm đạo đức

Sự trải nghiệm trong suốt quá trình tụ tập của biết bao nhiêu bậc hiền Thánh đã đi trước, để lại cho chúng ta những lời chỉ dạy rất bổ ích, chúng tôi xin chân thành trình bày ra đây bằng tất cả tấm lòng với trái tim yêu thương và hiểu biết.

>>Những giáo lý Phật giáo nên đọc 

Sự sống của con người là luôn tìm kiếm hạnh phúc cho thể xác lẫn tinh thần, ai muốn tìm về cội nguồn của an lạc hạnh phúc thì phải tìm hiểu lại lịch sử, xem đức Phật là gì? Là ai? Chúng ta muốn học hỏi và bắt chước đi theo con đường giác ngộ, giải thoát, thì ta phải biết đức Phật là ai trước khi tin Phật. Tin như như vậy là niềm tin chân chính vì có tìm hiểu, học hỏi và tu tập. Phật có phải là con người lịch sử, hay là một đấng thần linh thượng đế như người cổ xưa đã gán cho Ngài, hoặc Ngài là một nhân vật huyền thoại không có thật.

Phật là danh từ chung, nói cho đủ là Phật-đà, nói gọn lại là Phật. Phật là người giác ngộ, là người tỉnh thức, là người vì lợi ích tha nhân, vì sự sống của con người, giúp cho mọi người biết cách làm chủ bản thân, tin sâu nhân quả, tin chính mình chủ của bao điều họa phúc.

Trước khi thành Phật, Ngài là hoàng thái tử chuẩn bị kế thừa ngôi vua ở đất nước Ấn Độ. Ý thức được sự khổ đau của nhân loại vì bị sinh – già – bệnh – chết, Ngài chấp nhận từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ, để ra đi tìm cầu chân lý, giúp cho mọi người thoát khỏi sinh – già – bệnh – chết.

Sau 5 năm học và tu với hai vị đạo sư nổi tiếng thời bấy giờ. Ngài vẫn không hết được phiền muộn, khổ đau do tham – sân – si chi phối. Nghe nói lối tu khổ hạnh ép xác, hành hạ thân thể sẽ thành tựu đạo quả, nên Ngài kiên trì, bền bỉ thực hành liên tục sáu năm, cho đến khi thân thể chỉ còn lại da bọc xương, và cuối cùng Ngài ngất xỉu.

Nhờ một cô thôn nữ cúng dường bát sữa, Ngài tỉnh lại và tìm ra lối tu trung đạo, ăn uống vừa đủ để nuôi sống thân này, và dùng trí tuệ để phá tan vô minh phiền não. Cuối cùng, Ngài đã biết cách làm chủ bản thân, an nhiên, tự tại giải thoát, không còn bị mọi dục vọng trên cõi đời này làm lung lạc, và thành Phật.

24 .Vì sao Đức Phật từ bỏ con đường tu khổ hạnh cực đoan?

Vì sao Đức Phật từ bỏ con đường tu khổ hạnh cực đoan?

Bình Nguyên

Đức Phật từ bỏ lối tu khổ hạnh và sự hành xác tới gần như kiệt quệ. Ngài nhận ra rằng, nếu chỉ thiền định an trụ tâm trong hư không vô biên, như các bậc thầy tu khổ hạnh đã dạy Ngài, sẽ không bao giờ chấm dứt khổ đau trong ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới.

Đến cuối thời kỳ sáu năm thực hành miên mật, Bồ Tát Tất Đạt Đa tự hỏi vì sao mình nỗ lực hành đạo theo con đường cực đoan? Con đường nào mới là con đường giải thoát? Con đường thoát khổ là con đường nào?

Bởi đạo khổ hạnh không hề cho thấy một chút khả năng nào mang lại hỷ lạc hay trợ duyên giác ngộ. Do vậy, Ngài đã từ bỏ lối tu khổ hạnh và sự hành xác tới gần như kiệt quệ. Ngài cũng nhận ra rằng nếu chỉ thiền định an trụ tâm trong hư không vô biên, như các bậc thầy tu khổ hạnh đã dạy Ngài, sẽ không bao giờ chấm dứt khổ đau trong ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Vì vậy, Thái tử quyết tâm đi theo con đường Trung đạo của chính mình.

25. Vì sao đức Phật không khích lệ Hạnh Đầu đà khổ hạnh?

https://tapchinghiencuuphathoc.vn/duc-phat-hanh-dau-da-kho-hanh.html

Bài kinh đầu tiên được đức Phật dạy ở Vườn Nai cho năm đồng tu có tên gọi là Kinh chuyển pháp luân, đức Phật dạy từ bỏ hai cực đoan...

Bài kinh đầu tiên được đức Phật dạy ở Vườn Nai cho năm đồng tu có tên gọi là Kinh chuyển pháp luân, đức Phật dạy từ bỏ hai cực đoan gồm hưởng thụ và đầu đà khổ hạnh ép xác..

Hỏi: Hạnh đầu đà là gì?

Đáp: Đầu-đà (頭陀) trong tiếng Pali và Sanskrit là “dhūta,” và “dhūtaṅga” có nghĩa đen là “loại bỏ”, “vứt bỏ”, “rũ bỏ”, cụ thể là “từ bỏ đời sống xa hoa, hưởng thụ”, giúp người tu đầu đà có thể “loại bỏ ái dục” và “từ bỏ sự nhiễm đắm dục lạc trần gian.” Hạnh đầu-đà là lối sống khổ hạnh ép xác về cách dùng pháp phục, ăn uống và chỗ ở, vốn không phù hợp với chủ trương trung đạo của đức Phật. Thi thoảng vẫn có vài thành viên tăng đoàn thích tu khổ hạnh.

Lối tu khổ hạnh đầu đà vì ít người có thể làm được nên những người tu đầu đà thường được quần chúng ngộ nhận là Thánh sống, Phật sống nên đã hết lời tán dương, đảnh lễ, thần tượng hóa một cách cực đoan. Ai đụng đến nhân vật tu đầu đà được thần tượng sẽ dễ bị xúc phạm, xuyên tạc. Xem mười hai hạnh đầu đà; mười ba hạnh đầu đà.

Hỏi: Đức Phật có tu hạnh đầu đà, khổ hạnh không?

Đáp: Lúc mới đi tu, đức Phật tu đầu đà số một. Khoảng 6 tháng sau khi đi bỏ cơ hội làm vua nước Sakya, xuất gia tu học, đức Phật đã tu khổ hạnh tại Khổ hạnh lâm (Dungeswari), thị trấn Gaya, tiểu bang Magadh (nay là bang Bihar) khoảng 6 năm. Cách tu đầu đà của Phật khắc nghiệt hơn bất kỳ ai. Mỗi ngày chỉ ăn một trái táo, sau đó, chỉ ăn một hạt gạo. Do ăn quá ít, đức Phật đã kiệt sức hoàn toàn “ngã quỵ, úp mặt xuống đất,” suýt chết.

 

Đức Phật không khích lệ Hạnh Đầu đà khổ hạnh

 

Hỏi: Kinh nào đề cập đức Phật tu khổ hạnh?

Đáp: Kinh Sử Tử Hống thuộc Kinh Trung Bộ I, 80 kể lại cách tu đầu đà khổ hạnh của Phật không ai sánh bằng. Đoạn kinh do HT.Thích Minh Châu dịch như sau:

“Này Sāriputta, trong khi Ta Ta sống chỉ ăn một trái táo, thân thể của Ta trở thành hết sức ốm yếu […] trong khi ta chỉ sống ăn một hột gạo, thân thể của Ta trở thành hết sức ốm yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà. Vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh. Vì Ta ăn quá ít các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột của một nhà sàn hư nát.

Vì Ta ăn quá ít, con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu. Vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nheo, khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo, khô cằn. Này Sāriputta, nếu Ta nghĩ: “Ta hãy sờ da bụng”, thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: “Ta hãy rờ xương sống”, thì chính da bụng bị Ta nắm lấy.

Vì Ta ăn quá ít, nên này Sāriputta, da bụng của Ta bám chặt xương sống. Này Sāriputta, nếu Ta nghĩ: “Ta đi đại tiện hay đi tiểu tiện”, thì Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Sāriputta, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thời này Sāriputta, trong khi Ta lấy tay xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít.”

Hỏi: Có phải đức Phật giác ngộ chân lý do tu đầu đà khổ hạnh không?

Đáp: Theo lời tâm tình của Phật, nhờ bỏ lối tu khổ hạnh, rời núi Khổ hạnh, đi khoảng 8km đường chim bay, đức Phật đến Bồ đề Đạo tràng, chuyên tâm tu thiền định và con đường trung đạo, nhờ đó, giác ngộ, giải thoát.

“Sau khi từ giả hai vị đạo sư đạo Bà la môn, Ta tu khổ hạnh trong suốt sáu năm, không ai sánh bằng. Vì ăn quá ít, tay chân của Ta óm như cọng cỏ, cây leo khô héo. Bàn trôn của Ta như móng lạc đà. Xương sống phô bày như một chuỗi banh. Xương sườn gầy mòn như rui nhà nát. Con mắt của Ta không còn long lanh, nằm sâu hun hút. Da đầu nhăn nheo, như trái bí đắng ngả màu xám trắng, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo.

Da bụng của Ta bám sát xương sống, đen đuốt xấu xí. Khi đi vệ sinh, Ta đã té gục, úp mặt xuống đất. Lông tóc hư mục, rời khỏi thân ta. Ta tự xoa bóp cơ thể của Ta, toàn thân, tay, chân thật là đau nhức. Từ nhận thức này, Ta quyết từ bỏ pháp tu khổ hạnh của Bà la môn. Ta rời núi Khổ, đi thẳng về hướng Bồ đề Đạo tràng, chuyên tâm thiền định, suốt bốn chín ngày.” (Kinh Sử Tử Hống thuộc Kinh Trung Bộ I, 80).

Hỏi: Thiền định mà đức Phật giác ngộ, sau khi bỏ lối tu đầu đà khổ hạnh, là gì?

Đáp: Phương pháp thiền định (P. jhāna samādhi; S. dhyāna samādhi, 禪定) mới do đức Phật khám phá là bốn thiền. Đoạn Kinh Trung Bộ I, 240, đức Phật mô tả gồm: (1) ly dục sinh hỷ lạc, (2) định sanh hỷ lạc, (3) ly hỷ diệu lạc, (4) xả niệm thanh tịnh. Đoạn kinh như sau:

“Này các đệ tử, rồi Ta suy nghĩ: Ta đang ngồi dưới bóng mát Bồ đề, chuyển hóa ái dục, ly bất thiện pháp, thanh tịnh tâm ý, chứng thiền thứ nhất, trạng thái hỷ lạc do lìa ái dục, còn tầm, còn tứ; chứng thiền thứ hai, trạng thái hỷ lạc do nội định sinh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm;

Chứng thiền thứ ba trụ xả, lìa các hỷ lạc, chính niệm, tỉnh giác, cảm nhận hạnh phúc do biết buông xả; chứng thiền thứ tư buông bỏ tất cả ý niệm, không còn khổ vui, thanh tịnh tuyệt đối. Ta nhận ra rằng đây là con đường đưa đến an lạc, giác ngộ, niết bàn.” (Kinh Trung Bộ I, 240).

Hỏi: Hạnh tu đầu đà có phải do đức Phật quy định cho tăng đoàn, ni đoàn không?

Đáp: Dĩ nhiên là không. Đức Phật suýt chết vì lối tu đầu đà khổ hạnh trong 6 năm ở Khổ hạnh lâm, nếu không có thôn nữ Sujata dâng bát cháo sữa giúp ngài phục hồi thể lực. Khổ hạnh lâm ngày nay là Dungeswari, cách Bồ đề Đạo tràng 24km, thuộc thị trấn Gaya, tiểu bang Bihar, Ấn Độ.

Sau khi từ bỏ lối tu đầu đà khổ hạnh ép xác, đức Phật khám phá con đường trung đạo, còn gọi là bát chánh đạo (tầm nhìn chân chánh, tư duy chân chánh, lời nói chân chánh, hành động chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, nỗ lực chân chánh, niệm chân chánh, thiền định chân chánh). Nhờ tu tập trung đạo, sau 49 ngày thiền định, đức Phật chứng đắc đạo quả giác ngộ, giải thoát.

Hỏi: Đầu đà có phải là cách tu số một không?

Đáp: Đầu đà là cách tu khổ hạnh, chứ không phải là pháp môn. Tu khổ hạnh ép xác có nguồn gốc từ Ấn Độ giáo. Các đạo sĩ Ấn Độ giáo và Kỳ na giáo tin rằng bằng phương pháp tu khổ hạnh ép xác, họ có thể giác ngộ giải thoát. Bằng phương pháp thực chứng, đức Phật từ bỏ đầu đà khổ hạnh ép xác. Đức Phật chỉ truyền bá trung đạo. Do đó, đầu đà chẳng những không phải là cách tu số một, mà còn là một trong 2 cực đoan nên tránh, được đức Phật cảnh báo trong bài kinh đầu tiên tại Vườn Nai.

Hỏi: Bài kinh nào thể hiện chủ trương của đức Phật kêu gọi từ bỏ đầu đà khổ hạnh ép xác?

Đáp: Bài kinh đầu tiên được đức Phật dạy ở Vườn Nai cho năm đồng tu có tên gọi là Kinh chuyển pháp luân (Pali: Dhammacakkappavattana Sutta; Sanskrit: Dharmacakrapravartana Sūtra; 轉法輪經). Trong kinh này, đức Phật dạy từ bỏ hai cực đoan gồm hưởng thụ và đầu đà khổ hạnh ép xác như sau:

“Này các đệ tử, có hai cực đoan mà người xuất gia cần nên từ bỏ, đó là (1) hưởng thụ khoái lạc giác quan phàm tục, thấp kém, không xứng hạnh thánh, và (2) tu khổ hạnh, hành hạ thân thể vốn là khổ đau, hoàn toàn vô ích, không xứng hạnh thánh. Nhờ từ bỏ được hai cực đoan này, Như Lai khám phá con đường Trung đạo, có thể mang lại tầm nhìn, tri kiến, đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ tuyệt đối, niết bàn an vui.

Trung đạo đó là con đường tám chính: Tầm nhìn chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, siêng năng chân chính, chính niệm, chính định. Đây là Trung đạo mà đức Như Lai đã chứng ngộ được.”

NGUỒN TƯ LIỆU HỎI - ĐÁP DO VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM CUNG CẤP

26.Về bài pháp đầu tiên của Đức Phật

Khi hiểu được rằng mọi việc diễn ra đều có nguyên nhân và kết quả, khi tin vào luật nhân quả và bắt đầu áp dụng luật nhân quả vào cuộc sống hàng ngày thì bạn trở thành Phật tử nhập môn.

 

Đức Phật chuyển pháp luân tại Lộc Uyển

 

Khổ đế

Đức Phật đã thuyết bài pháp đầu tiên về Tứ Diệu Đế. Ngài dạy rằng đó là chân lý về sự Khổ. Ngài dạy trong luân hồi có ba loại khổ. Khổ do đau khổ, ví dụ như bị đọa vào địa ngục. Ví như theo quy luật vô thường thì con người chúng ta rồi ai cũng sẽ phải chết, thêm vào đó chúng ta còn phải chịu nhiều bất hạnh, hết đau khổ này tới đau khổ khác. Loại thứ hai là hoại khổ, tức là Khổ do những gì chúng ta ưa thích, muốn nắm giữ đang dần hoại diệt: chẳng hạn như giàu trở nên nghèo, trẻ phải già đi, điều đang thích bây giờ sắp sửa mất đi… Còn loại khổ thứ ba là hành khổ, loại khổ này vi tế tới nỗi con người chúng ta chẳng thể nào cảm nhận hay ý thức được. Nỗi khổ đó chính là sự thay đổi của chúng ta trong mỗi sát na. Thực tế, mỗi sát-na trôi qua chúng ta đang lại già đi, sự thay đổi đang diễn ra trong mỗi sát-na, vi tế tới nỗi chúng ta không hề nhận ra. Nhưng đó là một nỗi khổ bởi mỗi sát-na trôi qua, bạn lại tiến gần hơn tới trạng thái gọi là tuổi già hay cái chết. Tương tự như vậy, tất cả vạn vật dù là cây cối, nhà cửa, quốc gia, bất kỳ thứ gì đều đang chuyển hoá như vậy trong mỗi giây phút hay còn gọi là sát na vô thường. Tôi nghĩ thông thường chúng ta không nhận ra nỗi khổ đó bởi chúng ta chỉ có thể thấy những thứ thô lậu, trong khi có những thứ như biến chuyển này lại vô cùng vi tế.

Tập đế

Đức Phật đã dạy, nhìn chung thế gian có ba loại khổ, và những khổ đau đó là Quả, còn Nhân là năm xúc tình tiêu cực, những nghiệp bất thiện trong quá khứ gây ra khổ đau hiện tại. Hoặc bạn có thể nói những hành động thân khẩu ý, ngũ uẩn của một người trong nhiều kiếp trước chính là Nhân của khổ đau hiện tại. Rồi Đức Phật dạy rằng sự an bình và hạnh phúc tuyệt đối, vĩnh cửu chính là sự giác ngộ. Ngài dạy rằng Nhân của giác ngộ chính là con đường thực hành Phật Pháp, hay Bát chính đạo… Nói cách khác, Pháp chính là nhân đưa tới giác ngộ.

 
Bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật là pháp Tứ đế.

 

Diệt đế

 

Nói chung, khi bạn hiểu rõ Luật Nhân Quả rằng bất kỳ việc gì xảy ra trong cuộc đời này đều có những nguyên nhân và kết quả đằng sau đó, có thể đó là nhân của những kiếp trước hay kiếp này. Bất kỳ việc gì ta làm, mỗi người đều phải chịu trách nhiệm về kết quả từ những hành động của chính chúng ta. Vì thế, bạn hiểu ra và cố gắng làm nhiều thiện nghiệp, có những suy nghĩ tích cực, cố gắng dừng sát sinh, dừng hẳn hay hạn chế phần nào những nghiệp bất thiện, cố gắng thực hành thiện hạnh và tích lũy công đức. 

Đạo đế

Từ những thiện nghiệp như vậy, xuất phát từ sự hiểu biết luật nhân quả áp dụng trong cuộc sống hàng ngày, lâu dần bạn sẽ hiểu sâu sắc hơn và nhờ đó, bạn trở thành Phật tử sơ cơ. Phật tử sơ cơ là người có quan kiến thanh tịnh, có nhận thức đúng đắn về Luật Nhân Quả. Nhờ vậy mà người đó luôn có trách nhiệm với những hành động của mình. Họ biết rằng những hành động đó đều gây ra nghiệp quả trong kiếp này và kiếp sau, do đó họ hết sức cẩn trọng với từng hành động thân, khẩu, ý của mình. Khi hiểu được như vậy thì bạn trở thành Phật tử nhập môn.

Trích “Tam thừa Phật giáo và Truyền thừa tinh tuý” 

Ngài Gyalwa Dokhampa

27. Hai bữa ăn quan trọng trong cuộc đời Đức Phật

Hai Bữa Ăn Của Đức Phật

Posted by  in Uncategorized

“Thức ăn gì không quan trọng, mà quan trọng hơn là ý nghĩa của nó, tức là nó đã giúp được gì cho ta trong quá trình tu tập và giác ngộ….”

Trong 80 năm tại thế và gần 50 năm hành đạo, Đức Phật đã nhận cúng dường vô số các bữa ăn từ các phật tử, trong đó có nhiều bậc vương giả. Nhưng với Ngài chỉ có hai bữa ăn là quan trọng nhất, đó là bát cháo sữa của Cô Sujata cúng dường trước hôm Ngài thành đạo và bữa ăn cuối cùng của người thợ rèn Cunda cúng dường trước khi Ngài nhập niết bàn. Nếu như bát cháo sữa đã giúp Ngài lấy lại sức khoẻ để tiếp tục thiền định đạt thành chánh quả thì bát cháo nấm cuối cùng của ông Cunda (nấm độc mà ông không biết) là nhân duyên đưa Đức Phật về lại với niết bàn. Cả hai bữa ăn đều mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc đời của mỗi con người, đó là lúc người ta chứng ngộ và lúc rời bỏ cõi tạm này để trở về với Như Lai (bất sinh bất diệt).

Chúng ta cũng có hàng ngàn bữa ăn trong cuộc đời, trong đó cũng có nhiều bữa ăn sang trọng, nhiều bữa ăn đạm bạc, nhưng phần lớn không mang nhiều ý nghĩa. Nhiều trong số đó là những bữa tiệc tùng vô bổ, những bữa ăn khoe khoang, những bữa ăn cãi vã, giận hờn. Sau đó chúng ta lại ra sức làm việc quần quật để có thêm nhiều bữa ăn như thế, cũng lại vô bổ, tham lam, ích kỷ, sân si.

Thực ra trong cuộc đời của mỗi con người có hai ngày quan trọng nhất đó là ngày người ta được giác ngộ và ngày từ giã cõi đời để về cõi niết bàn. Ngoài ra các việc khác chỉ là phụ, chỉ là phương tiện. Bởi vậy mới thấy thức ăn gì không quan trọng, mà quan trọng hơn là ý nghĩa của nó, tức là nó đã giúp được gì cho ta trong quá trình tu tập và giác ngộ.

28. Tại sao Đức Phật thường nói về khổ đau 

Bài viết đầy đủ

Với lòng bi mẫn, sau khi đức Phật Giác ngộ toàn triệt (Thanh tịnh thiền) Ngài thấu tỏ Tam thiên, Đại thiên thế giới và thấy rõ kiếp người sống đây, chết kia trong vòng sinh tử luân hồi khổ đau không ngày cùng. Nên Ngài chế ra nhiều pháp môn tu (cứu độ) để giúp con người giác ngộ – giải thoát khổ đau trong lục đạo. Trong đó, Tứ diệu đế là Bài pháp Chuyền luân đầu tiên đức Phật dạy cho bốn người bạn đồng tu thời bấy giờ.

Vậy Tứ diệu đế nói gì? Và đức Phật đề cập về sự khổ đau của con người trong giáo ý này ra sao? Chúng ta hãy lần lần tìm hiểu nội dung căn bản của Pháp này. Tứ diệu đế còn có các tên gọi khác là Tứ thánh đế, Tứ chân đế và sau này các học giả cùng với các nhà nghiên cứu Phật học còn gọi là Bốn sự thật cao quý, Bốn lẽ sâu mầu và là vua của các pháp.

Trước khi đi vào tìm hiểu nội của Bốn sự thật cao quý được gọi là Tứ Thánh Đế. Ta hãy xét hai chữ khổ-đế. Theo Phật học từ điển của học giả Đoàn Trung Còn, chữ đế theo Hán ngữ dùng về danh từ thì đế có nghĩa là: Chân lý cần phải thẩm xét, tu tập; đạo lý chân thật, chính – đáng đưa người đến chỗ tấn – hóa giải thoát. Còn xét về mặt tĩnh từ, đế có nghĩa là: chín chắn, chân chánh, thành thật.

Trong các kinh pháp của Phật, chân lý cũng có hai bề để chỉ, đó là (nhị đế và chân đế):

1- (Nhị đế) chân lý để cho người tại thế, bậc phàm-phu tu tập lần hồi, kêu là Tục đế, Thế đế.

2- (Chân đế) để cho hàng xuất gia, hàng Thánh giả tham cứu. Chân lý này cao siêu, rốt ráo, vô lậu, vô vi, nên kêu là chân-đế, Thắng nghĩa đế, Đệ nhất nghĩa đế.

Cũng theo Đoàn Trung Còn, xét về chữ khổ và sự Khổ của con người, có nghĩa là khi con người sinh ra thì đều phải chịu cảnh: hoạn nạn, bệnh tật, suy nhược, những sự ưu não bức bách về thân tâm. Phạn ngữ đọc là Đậu-Khư (Duh-kha).

Đạo Phật dạy rằng: Chúng sinh hằng chịu khổ, với bốn cái khổ là sinh, già, bệnh, chết bởi chưng do vô minh mê muội, tham lam, luyến ái, ham muốn. Ảnh minh họa
Đạo Phật dạy rằng: Chúng sinh hằng chịu khổ, với bốn cái khổ là sinh, già, bệnh, chết bởi chưng do vô minh mê muội, tham lam, luyến ái, ham muốn. Ảnh minh họa

Đạo Phật dạy rằng: Chúng sinh hằng chịu khổ, với bốn cái khổ là sinh, già, bệnh, chết bởi chưng do vô minh mê muội, tham lam, luyến ái, ham muốn. Muốn dứt khổ, hãy dứt cái ham muốn, tức là thi hành bốn cái Diệu đế của Phật và diệt mười hai cái Nhân – duyên (1) dính líu với nhau mà sinh ra cái nỗi khổ.

Vậy khổ đối với lạc (sướng).

Khổ là chân lý đầu tiên trong bốn chân lý mà Phật thuyết: 1/ Khổ (duh-kha), 2/ Tập (trisna), 3/ Diệt (moksa), 4/ Đạo, tức là đạo Bát chánh (marga).

Bốn chân lý ấy là Tứ diệu đế, đây là giáo pháp diệt khổ não. Con người ta nếu chưa tu hành cho đắc đạo thì còn khổ. Bởi khổ có nhiều mối đem lại đó là: Tam khổ, Lục khổ, Bát khổ.

Xin nêu giản lược những nỗi khổ trên để chúng ta cùng suy ngẫm trải nghiệm.

Tam khổ: Là con người ta vì vô minh mà ham muốn làm sự khổ, nên khổ lại ‘chồng’ khổ, hết sự khổ này đến sự khổ khác, nào là đao binh lửa đạn; nào là đói khát, tật bệnh…cái khổ này kéo thêm cái khổ khác dài mãi, mà tấm thân phải ưu não không dứt. Cái khổ thứ hai là sự hư hoại, bởi người, vật mà mình ưa thích thì lần lần hư hoại mất đi, nhân đó mà mình cảm thấy khổ. Cái khổ thứ ba, mà trong giáo lý đạo Phật gọi là hành khổ, tức là nỗi khổ khi nhận ra vạn vật ở cõi thế này là vô thường, cứ chuyển dời biến đổi mãi, vì vậy mà tâm sinh ra khổ não.Còn về Lục khổ (sáu khổ) trong kinh (Du Già) quyển 44 có nói tới sáu mối khổ dưới đây:

1- Nhân khổ: Cái cớ tạo ra sự ác, gây cảnh ác.

2- Quả khổ: Cái kết – quả khổ não đưa đến.

3- Cầu tài vị khổ: Cái nỗi khổ vì xu hướng theo tiền của vật chất, danh vị, chức phận…

4- Cần thủ hộ khổ: Sự khổ cực vì lo bảo giữ các vật mà mình có.

5- Vô yếm túc khổ: Sự khổ về lòng tham, có món này cầu món khác không biết chán.

6- Biến hoại khổ: Khổ não, lo rầu vì các sự hư hoại nơi thân thể, vợ con, (chồng con), nhà cửa, tài vật, danh vị của mình mà sinh khổ.

Cùng với Tam khổ, Lục khổ còn có Bát khổ, bởi ai ai cũng phải chịu tám mối khổ này đó là: Sinh khổ, Lão khổ, Bệnh khổ, Tử khổ, Tăng hiềm hội khổ, (tức không muốn, nhưng phải ở gần với kẻ thù nghịch mà khổ); Ái biệt ly khổ (tức phải xa lìa với người mình yêu thương, đem lòng nhớ hằng ngày nên khổ); Cầu bất đắc khổ (tức lòng tham muốn ước ao mà chẳng được); Ngũ ấm (uẩn) xí thạnh khổ (tức 5 món hiệp lại làm người (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) nếu không điều hòa với nhau, có món nào quá đáng lắm cũng khổ sở. Ví dụ như hình thể (sắc) mà phải tốn công săn sóc quá lắm cũng khổ; tư tưởng mơ ước quá lắm cũng khổ; nhọc nhằn tâm trí, tính mưu, kế (hành) quá lắm cũng khổ…

Đó là tám mối khổ thông thường của thế gian, cộng với những nỗi khổ đã nêu trên làm cho con người thật sự khổ đau không dứt, mà trong giáo lý đạo Phật gọi là ‘khổ hải’ tức bể khổ.

Vậy, khổ-đế mà đức Phật dạy đó là một trong bốn chân lý của Tứ đế: (Khổ, Tập, Diệt, Đạo). Theo giáo lý đạo Phật, những quả báo của sự sinh-tử trong Tam giới, hết thảy đều là sự khổ, mà không có tánh an vui. Lý ấy quyết định là chân thật, cho nên gọi là Khổ đế.

29. Quan điểm của Đức Phật về phép lạ & thần thông

( Do không tìm được bài viết phù hợp nên tự viết)

Đức Phật có thần thông , thánh đệ tử của Phật cũng có thần thông ; tuy nhiên Đức Phật không xem trọng thần thông , ngài đề cao giác ngộ giải thoát "Trí tuệ là sự nghiệp của người tu"

a/ Đức Phật và các thánh đệ tử của ngài  có thần thông ( đặc biệt ngài Mục Kiền Liên) ; ngoài ra ở 1 số tài liệu "Đại Phật Sử" thì ông Cấp Cô Độc cũng có thần thông do đã chứng thánh quả tu đà hoàn...

b/ Đức Phật cũng có 1 số lần sử dụng thần thông để nhiếp phục ngoại đạo , nhiếp phục dạ xoa, rồng chúa . Tuy nhiên ngài không cho các đệ tử của mình được tùy tiện sử dụng thần thông... 

c/ Tích chuyện nguyên nhân Đức Phật các đệ tử sử dụng thần thông : 

Có trưởng giả Maluta thách đố các đệ tử của Phật lấy được chiếc bát quý bằng bạc treo cao 20 thước. Những người ngoại đạo nghĩ ra một cách rất hèn nhát và hợm hĩnh, đó là giả vờ thỉnh Đức Phật bay lên nhưng các vị đệ tử đã ngăn lại vì chiếc bát bằng bạc đó không đáng để Ngài phải thi triển thần thông. Và họ kéo nhau đi về khiến trưởng giả Maluta có những lời chê bai, chỉ trích đối với những sa môn, đạo sĩ và không tin vào thần thông. Nhân duyên này, Ngài Tân Đầu Lư Phả La Đọa xin phép Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần thông để lấy chiếc bát. Việc này khiến cả kinh thành chấn động, kinh ngạc trước thần thông kỳ diệu của vị đệ tử Phật. Những người theo ngoại đạo dần dần quy ngưỡng về Trúc Lâm Tinh Xá. Nhưng khi vua Bình Sa xin gặp Phật và trình bày về việc sau khi đệ tử Phật dùng thần thông lấy chiếc bát khiến dân chúng xôn xao không yên, Đức Phật quở trách Ngài Mục Kiền Liên cùng các đệ tử và chỉ dạy không được dùng thần thông để thể hiện như vậy, chỉ được dùng thần thông để giáo hóa chúng sinh chứ không ngoài mục đích nào khác.

https://daibaothapmandalataythien.org/nhan-duyen-duc-phat-quo-trach-2-vi-de-tu-de-nhat-thong#:~:text=Th%E1%BA%ADt%20ra%2C%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Ph%E1%BA%ADt%20th%C3%A0nh,%C3%ADch%20thi%E1%BA%BFt%20th%E1%BB%B1c%20n%C3%A0o%20c%E1%BA%A3.

d/ Thần thông không thắng được nghiệp lực , không thể thay đổi nhân quả

Ngài Mục Kiền Liên đã sử dụng thần thông đưa 1 số người trong dòng họ Thích vào bình bát và đem lên trời tránh sự tàn sát của vua Tỳ Lưu Ly ... Tuy nhiên , những người được đưa vào bình bát đều tử nạn hết . ( search google).

Bản thân ngài Mục Kiền Liên cũng không thắng được nghiệp lực của chính mình , tuy là thần thông đệ nhất nhưng vẫn bị hại bởi đám ngoại đạo ...

https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%A5c-ki%E1%BB%81n-li%C3%AAn

e/ Thần thông không phải để khoe mẽ , và thần thông không đưa đến giác ngộ giải thoát

Thần thông chỉ là 1 trong những thành quả cộng thêm trong quá trình tu tâp thiền , tu tập các loại tâm .

30. Thời còn tại thế Đức Phật ăn gì ?

Đức Phật không chủ trương ăn chay , hay chủ trương ăn mặn ; thời tại thế ngài "ai cúng gì ăn thế" , không chọn lựa .

Trước hết phải nói rằng trong giới luật thuộc truyền thống Nguyên Thủy, không có giới cấm ăn thịt cá, mặc dầu có giới cấm sát sanh.

Phật giáo Nguyên Thủy quan niệm rằng ăn cách nào cũng được [1], tùy duyên mà ăn cho có đủ sức khỏe để hành trì giáo pháp, ăn chay mà thân thể yếu đuối xanh xao, tinh thần bạc nhược thì rất tai hại, đường tu đạo đã không được tiến hóa mà còn trở ngại cho sự tu hành. Họ cho rằng sự ăn chay không có mặt trong thời kỳ bắt đầu của Phật Giáo và chính Đức Phật cũng không phải là người ăn chay [2],  ăn chay là một nét đặc thù của Phật Giáo Đại Thừa Trung Hoa [3], bắt đầu từ triều đại nhà Minh, tức thời Hòa Thượng Vân Thê Châu Hoằng (1565-1615) và dĩ nhiên truyền mạnh qua Phật giáo Bắc Tông Việt Nam. Trước đó Phật Giáo Trung Hoa cũng không đặt vấn đề ăn chay mặn là việc quan trọng cho sự tu hành. [4]

Phật giáo Nguyên Thủy cho rằng chính Phật không đặt thành vấn đề ăn chay mặn, sự giải thoát không phải do nơi ăn, mà là do nơi thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý, ăn chay mà thân khẩu không lành, ý chứa gươm đao, giới luật không giữ thì đâu gọi là chay. Đức Phật cùng các đệ tử của Ngài đều ăn theo truyền thống khất thực, "ăên để mà sống để hành đạo", chứ không phải "sống để mà ăn để thụ hưởng".

Tất cả chư Tăng Nam Tông, tính có hàng triệu người, ở các quốc gia Phật giáo như Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Cao Miên, Ai Lao và một phần Việt Nam đều tiếp tục duy trì truyền thống này. Họ cho rằng bản thân họ không tự mình sát sinh, không khích lệ người khác sát sanh, không tùy hỷ sự sát sanh và do đó không phạm giới sát sinh.

Trong Tăng Chi Bộ Kinh Đức Phật dạy hàng Tỳ Kheo, nếu hành đầy đủ ba pháp "Tự mình từ bỏ sát sanh, khích lệ người khác từ bỏ sát sinh, tùy hỷ sự từ bỏ sát sanh sẽ được sanh lên cảnh trời, không bị rơi vào địa ngục. [5]

Trong Tăng-Hàm, quyển 37, khi luận bàn về vấn đề sát sanh, có nói như sau:

"Tôi muốn sống, không muốn chết, muốn được sung sướng, không muốn phải đau khổ. Nếu có kẻ nào cướp đi sự sống của tôi, tôi có vui vẻ không? Nếu tôi không vui vẻ, thì kẻ khác cũng không vui vẻ khi tôi cướp đi của họ sự sống và sự sung sướng ấy. Không những thế, phàm cái gì mình không ưa thích thì kẻ khác cũng không thích. Nếu thế thì tại sao ta lại làm cho những kẻ khác những điều mà ta không ưa thích?" (Kimura Taiken, Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận - Hán dịch: Thích Diễn Bồi; Việt dịch: Thích Quảng Độ).

Thật ra mục đích căn bản của đạo Phật về mặt giới luật là tránh làm mọi điều ác, làm tất cả việc lành và giữ tâm được trong sạch. Sự giác ngộ giải thoát chẳng phải do việc ăn chay hay ăn thịt, mà là do sự trong sạch của thân khẩu ý. [6] Phàm tất cả những việc gì có hại đối với thân tâm, gia đình, xã hội, quốc gia, nhân loại, cho đến tất cả chúng sinh hữu tình, đều bị chi phối bởi năm giới luật căn bản, mà giới cấm sát sanh là giới cấm đầu tiên của Đạo Phật.

Trong kinh điển Nguyên Thủy, Đức Phật sau khi nghe lời thỉnh cầu của Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) xin ban hành giới cấm không cho hàng Tỳ kheo ăn thịt cá, Đức Phật không chấp thuận và Ngài dạy rằng. "Sự ăn thịt cá có thể coi như trong sạch trong ba trường hợp (tam tịnh nhục) là người ăn không thấy, không nghe, không có lòng hoài nghi rằng con vật bị giết riêng biệt cho mình." [7]

Chúng ta nên nhớ rằng, thời Đức Phật còn tại thế, hàng tỳ kheo đi khất thực, bữa ăn hàng ngày tùy thuộc vào những gì mà lòng hảo tâm của thập phương bá tánh đặt vào bình bát, các thầy lặng lẽ nhận với một tâm không phân biệt, ngoại trừ những thức ăn không được Đức Phật cho phép ăn như nói ở trên.

Theo luật tắc của tu viện thời Đức Phật, quý thầy Tỳ kheo không được phép đòi hỏi món này hay món khác, quý thầy nhận với tâm bình thản và không phân biệt bất luận thứ gì mà người Phật tử hoan hỷ cúng dường. Thực phẩm chỉ để nuôi mạng sống.

Ngày nay tại các quốc gia mà các thầy tỳ kheo không thể đi khất thực được, việc ăn uống tùy thuộc hoàn toàn vào các nhóm cư sĩ Phật tử hoan hỷ hỗ trợ các thầy. Quý Phật tử tự ý đi chợ mua sắm rồi nấu nướng dâng đến các thầy thọ trai. [8]

Trên đây là tóm lược quan điểm của Phật Giáo Nguyên Thủy về vấn đề ăn chay. Họ có những lý do tin là việc ăn chay hay không ăn chay không phải là điều quan trọng trong việc hành trì Phật Pháp. Họ tin rằng việc dính mắc hay không dính mắc trong tâm tưởng mới là điều quan yếu, khi tâm quá dính mắc vào các ý niệm thiện ác hay ăn chay mặn là mang vào mình sự bất an vì e sợ không biết hành động của mình có sai, có tạo nên ác nghiệp không? Chẳng hạn khi quét nhà lo sợ kiến chết hay khi đi lo sợ dẫm lên làm chết côn trùng hay làm hại cây cỏ. Họ cũng thường trích dẫn bài kinh Amagandha mà Đức Phật giảng cho Jivaka nghe rằng "phẩm hạnh xấu xa của người làm tội bằng nhiều cách khác nhau, còn tệ hại hơn là ăn thịt cá nhiều."

Họ nghĩ rằng những điều làm cho con người bất tịnh chẳng phải là ở nơi ăn thịt cá, mà là ở nơi lòng oán hận, mê tín, gian xảo, tật đố kiêu căng, và xu hướng theo đường bất chánh.

Nói tóm lại, Phật giáo Nguyên Thủy tin tưởng rằng, không có một giới luật khắt khe nào trong Phật giáo nói là tín đồ của Đức Phật không nên ăn thịt cá và bắt tất cả người Phật tử phải ăn chay. Họ cũng tin rằng, Đức Phật chỉ khuyên là không nên liên quan vào việc sát sanh có dụng ý hoặc không nên yêu cầu người khác giết bất cứ chúng sanh nào cho mình ăn.

Thế nhưng còn nhiều nghi vấn đặt ra về phương diện đạo đức như là thịt cá bày bán ở ngoài chợ có phải giết đặc biệt cho chúng ta ăn không? Có phải ăn thịt cá là một thứ "ủy nhiệm sát sinh" không? (killing by proxy). Ngoài ra còn nhiều nghi vấn, sẽ được những người Phật giáo khác trả lời như là làm sáng tỏ quan điểm ăn chay của họ.

------------------------
[1] Hòa Thượng Hộ Tông, Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam, Người Tu Cần Phải Ăn Chay Không?, Kỷ Yếu Bửu Môn Xuân Mậu Thìn 1987, tr. 100.

[2] Ven. S. Dhammika, Australian BuddhaNet

[3] Phạm Ngọc Sâm, Người Tu Cần Phải Ăn Chay Không?, Kỷ Yếu Bửu Môn Xuân Mậu Thìn 1987, Chùa Bửu Môn, Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam Tại Hải Ngoại, Port Arthur, Texas, tr. 96-97.

[4] Như dẫn chứng số 3 nêu trên.

[5] Hòa Thượng Thích Minh Châu, Tăng Chi Bộ Kinh, Tập 1, Xuất Bản tại Việt Nam năm 1987, tr. 347.

[6] Thân: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm; Khẩu: không nói dối, không nói lời hai lưỡi, không nói lời độc ác; Ù: không tham, không sân hận, không si mê.

[7] Jivaka Sutta, Majjhima Nikaya 55

[8] Quý Phật tử hộ pháp nên đem tấm lòng thành kính đối với Phật, lòng từ bi đối với muôn loài chúng sinh mà làm đồ ăn chay dâng cúng chư vị Tu sĩ, vừa giúp cơ thể chư vị mạnh khỏe thanh tịnh để tu hành, vừa giúp súc sinh khỏi sống tù tội chết đau đớn (Lời người biên soạn).

 

Nguồn: 

 www.buddhismtoday.com

 

 

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ...
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications