Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tìm kiếm nhanh

 

(Phần tóm lược Đức Phật Thích Ca do Tâm Học soạn)

I.Giới thiệu Đức Phật Thích Ca 

1. Đức Phật Thích Ca là ai ?

SINH Siddhārtha Gautama
624 TCN[1][2]
Lumbini (Lâm Tỳ Ni), Nepal
MẤT 544 TCN
(thọ 80 tuổi)[note 1]
Kushinagar (Câu Thi Na), Ấn Độ
TÊN KHÁC Siddhartha Gautama, Shakyamuni, Shakya Gauma
NỔI TIẾNG VÌ Sáng lập ra Phật giáo
TÔN GIÁO Phật giáo
PHỐI NGẪU Yasodharā (Da-du-đà-la)
CON CÁI Rāhula (La-hầu-la)
CHA MẸ
GIA ĐÌNH Nhà Gautama của Shakya

Siddhārtha Gautama (tiếng Phạn: सिद्धार्थ गौतम, chữ Hán: 悉達多瞿曇, phiên âm Hán-Việt: Tất-đạt-đa Cồ-đàm) hay Gautama Buddha, còn được gọi là Phật Shakyamuni (tiếng Phạn: शाक्यमुनि, chữ Hán: 釋迦牟尼, phiên âm Hán-Việt: Thích-ca-mâu-ni, trong khẩu ngữ thường gọi tắt là PhậtBụtPhật Tổ hoặc chỉ đơn giản là Đức Phật), là một nhà tu hànhnhà truyền giáo, nhà thuyết giảng và đạo sư sống ở Ấn Độ vào thời cổ đại, người sáng lập Phật giáo. Ông sinh ra ở vùng đất mà ngày nay là Nepal, nhưng quãng cuộc đời quan trọng nhất sau đó của ông lại gắn liền với các khu vực mà ngày nay là Ấn Độ khi ông đi xuống phía Đông và phía Nam để sáng tạo và truyền bá các lý thuyết của ông, tín đồ Phật giáo xem ông là người đầu tiên hoàn toàn giác ngộ để đạt đến niết bàn thành Phật.

Theo các bộ kinh Phật giáo truyền lại cùng sử liệu thì ông vốn xuất thân là một vị Thái tử thuộc về Hoàng tộc Cồ-Đàm (Gautama) của Tiểu quốc Thích-ca (Shakya) ở vùng Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Tuy nhiên, ông đã sớm từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý ở nơi đấy để nhằm lên đường đi tìm chánh đạo. Sau khoảng 6 năm tu đạo, ông đạt được giác ngộ chính pháp ở năm 35 tuổi và dành tiếp 45 năm còn lại trong cuộc đời mình cho việc truyền bá, giảng dạy các giáo lý Phật pháp khắp những khu vực ở Đông và Nam tiểu lục địa Ấn Độ.[4][5] Tất-đạt-đa đề xướng con đường Trung đạo (Majihimāpaṭipadā) – tức vừa từ bỏ đời sống xa hoa nhưng cũng vừa không theo lối tu hành ép xác khổ hạnh vốn rất thịnh hành trong các học thuyết tôn giáo và tín ngưỡng Ấn Độ xưa.[6] Các giáo pháp trong thời gian mà Đức Phật từng truyền bá ở Ấn Độ cũng đã đặt ra nền tảng quan trọng và to lớn cho sự hình thành và phát triển của những giáo lý đạo Phật ngày nay.[7][5]

Ông được những Phật tử coi là một bậc đạo sư và tâm linh tiến đến giác ngộ, tinh thần viên mãn, tự giải thoát bản thân hoàn toàn khỏi quy luật sinh tử luân hồi và hiểu rõ được tất cả bản chất mọi sự vật sự việc; đồng thời truyền bá những kinh nghiệm tu luyện và giác ngộ của mình cho người khác để họ có thể tự chấm dứt khổ đau của bản thân, đạt được “hạnh phúc tối thượng”. Chi tiết về cuộc đời cùng sự nghiệp, những lời dạy và các giới luật của ông được nhiều thế hệ học trò ghi nhớ và tổng hợp lại sau khi Tất-đạt-đa qua đời. Hàng loạt những bản kinh ghi lại lời dạy của ông được lưu giữ qua truyền miệng nhiều thế hệ và dần bắt đầu được viết thành sách 200 năm sau đó.

 (Lấy từ wiki)

2. Thế nào gọi là Phật 

Phật (chữ Hán: 佛, tiếng Phạn/tiếng Pali: बुद्ध, phiên âm: Buddha) hay Bụt (Chữ Nôm: 侼, hoặc Bụt Đàchữ Phạn: Buddhã) trong Phật giáo nghĩa là Bậc Giác Ngộ, dùng để chỉ đến một vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác đã đạt đến sự tinh khiết và hoàn thiện trong đạo đứctrí tuệ thông qua nỗ lực của bản thân trong việc thực hiện các pháp Ba-la-mật ở rất nhiều kiếp sống, tâm trí hoàn toàn không còn vô minh - gốc rễ gây ra sinh tử. Đó là một trí tuệ vĩ đại (Nhất thiết trí) cùng với sự từ bi vô hạn với tất cả mọi chúng sinh khác, không phân biệt đối tượng. Sự giác ngộ ấy có tính chất siêu nhiên, theo Phật giáo thì nó không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ được mà chỉ có thể hiểu hoàn toàn khi đã trải nghiệm nó. Những chúng sinh đang trên con đường để trở thành một vị Phật, chuyên tâm thực hiện các hạnh Ba-la-mật, phát tâm từ bi được gọi là Bồ tát. Khi thành Phật, không chỉ về mặt trí tuệ và đức hạnh mà còn toàn diện về mặt hình thể Ba mươi hai tướng tốt - Tám mươi vẻ đẹp vô cùng thanh tịnh, tuy nhiên Phật toàn giác không toàn năng (Đức Phật là bậc "toàn tri", "toàn giác" nhưng không "toàn năng". Đức Phật chỉ là người chỉ ra con đường để đi đến giải thoát, và do không toàn năng nên Đức Phật không thể ban, cho, thưởng, phạt bất cứ ai, mỗi người phải tự tu hành mới đạt được kết quả của riêng mình).

Từ này thường để chỉ một vị Phật trong lịch sử tên là "Thích Ca Mâu Ni", một nhân vật có thật đã truyền bá tư tưởng của mình ở lục địa Ấn Độ vào thế kỷ 5 trước công nguyên, và những giáo lý ấy đã được làm nền tảng để khai sinh ra Phật giáo. Nhưng theo lời giảng của chính Tất-đạt-đa Cồ-đàm thì Ngài chỉ là vị Phật duy nhất trên Trái Đất trong thời kỳ này, chứ nếu xét rộng ra toàn vũ trụ, xét cả quá khứ - tương lai thì ngoài Ngài ra còn có vô số vị Phật khác nữa, họ tồn tại ở các thế giới khác hoặc ở những thời điểm khác: nhiều vị đã đắc đạo ở quá khứ, nhiều vị đang sống trong hiện tại (ở những thế giới khác) và nhiều vị sẽ đắc đạo ở tương lai. Cũng theo lời Ngài, trong tương lai rất xa về sau, trên Trái Đất sẽ xuất hiện một vị nữa đắc đạo thành Phật, đó là Bồ Tát Di Lặc thành Phật Di Lặc.

Theo Phật giáo, thời đại xuất hiện một vị Phật là rất hiếm. Vì có nhiều thời kỳ, có nhiều giai đoạn rất dài trong các chu kỳ thế giới không hề xuất hiện một vị Phật nào, nếu có thì cũng chỉ có những vị Phật Độc Giác, các vị này xu hướng ít tuyên thuyết giáo pháp, cho nên chúng sinh không có phương tiện giải thoát. Vị Phật thường được xem là đại diện cho các vị Phật quá khứ là Nhiên Đăng Cổ Phật. Trong khi vị Phật tương lai được cho là sẽ xuất hiện ở Trái Đất này là Di-lặc. Trong Phật giáo Bắc tông thì còn chia ra Phật mẫu(phật bà), Phật vươngPhật tổ(Phật chủ), Phật tử. Ngoài ra còn có những tầng tu hành thấp hơn Phật như: Duyên giác (Phật độc giác), Thanh văn (là những người nghe Phật giảng dạy mà tu được quả vị A-la-hán).

( Copy từ wiki ) 

3. Ý nghĩa gọi hồng danh Phật

4. Phân biệt A La hán, Phật độc giác , Phật chánh đẳng giác

5. Những thông tin khác cần nắm

Copy từ budsas

Niên lịch:

  • Phật lịch (PL), Buddhist Era (BE)

  • Tây lịch (TL), Trước Tây lịch (TTL), Dương lịch (DL), Công nguyên (CN), Trước Công nguyên (TCN), Common Era (CE), Before Common Era (BCE).

  • Phật lịch tính từ khi Đức Phật bát-niết-bàn, 544 năm trước Tây lịch.

  • PL = TL + 544 - Thí dụ: 2560 PL = 2016 TL + 544

  • Phật Đản = 544 + 80 = 624 năm trước Tây lịch

  • Niên lịch đó tính theo truyền thống & sử liệu Sri Lanka. Theo các sử liệu khác, Phật Đản có thể sớm hơn 100-150 năm.

Phật Đản:

  • Tam Hợp (Lễ Vesak): Rằm tháng Tư ÂL, gồm 3 dịp: Đản sinh, Thành đạo, Bát niết-bàn. Dựa theo sử liệu Sri Lanka.

  • Theo truyền thống Bắc tông: Đản sinh: mồng 8 tháng Tư ÂL; Thành đạo: mồng 8 tháng Chạp ÂL; Bát niết-bàn: rằm tháng Hai ÂL, dựa theo sử liệu và kinh điển trong Hán tạng.

  • Theo kinh Du Hành, Trường A-hàm 2, Đức Phật đản sinh, thành đạo, bát-niết-bàn đều cùng ngày mồng 8 tháng 2. Dựa theo lịch Ấn Độ, tháng 2 là tháng tương đương với tháng Vesak (= tháng 4 AL). Như vậy, ngày mồng 8 tháng 4 AL cũng có thể được xem là ngày Tam Hợp.

  • Phật Đản được quy định thống nhất là ngày trăng tròn tháng 5 DL (= Rằm tháng Tư ÂL), từ năm 1950, tại Đại hội Liên hữu Phật giáo Thế giới, Colombo, Sri Lanka.

  • Phật Đản Liên Hiệp Quốc (UN Vesak) được công nhận từ năm 2000, vào ngày trăng tròn đầu tiên của tháng 5 DL (= ngày rằm tháng Tư ÂL) mỗi năm.

Đức Phật lịch sử:

  • Thích-ca Mâu-ni: Sakya Muni, nhà Hiền triết của tiểu quốc Thích-ca.

  • Tên là Sĩ-đạt-đa (Siddhattha,Tất-đạt-đa), dòng họ Cồ-đàm (Gotama). Cha là vua Tịnh Phạn (Suddhodana), mẹ là Hoàng hậu Ma-da (Maya), di mẫu là Ba-xà-ba-đề Kiều-đàm-di (Pajapati Gotami). Hai bà Ma-da và Ba-xà-ba-đề là chị em, thuộc dòng họ Devadaha.

  • Đản sinh năm 624 TTL tại vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini), nay thuộc Nepal. Thời niên thiếu tại thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu), nay thuộc Nepal-Ấn Độ.

  • Lập gia đình năm 16 tuổi, vợ là Công chúa Gia-du-đà-la (Yasodhara). Có một người con trai, là La-hầu-la (Rahula).

  • Xuất gia tầm đạo năm 29 tuổi, sống đời khất sĩ trong 6 năm, học và thực hành nhiều pháp môn với nhiều đạo sư.
     

  • Từ bỏ pháp tu khổ hạnh, nhận phần cháo sữa do bà Sujata cúng dường, Ngài vượt sông Ni-liên-thuyền (Neranjara), đến tọa thiền tại gốc cây bồ-đề -- assatha (ficus religiosa). Ngài nhập định tham thiền, quán niệm hơi thở, an trú vào bốn tầng thiền-na (jhana), rồi hướng tâm hồi tưởng các tiền kiếp. Vào cuối canh một đêm đó, Ngài chứng đạt trí tuệ "túc mạng minh". Sau đó, Ngài hướng tâm quán triệt nguyên do đưa đến sự sinh tử của mọi loài, về luật nghiệp quả, và vào cuối canh hai, Ngài chứng đạt "thiên nhãn minh". Sau đó, Ngài quán triệt sự chấm dứt các lậu hoặc, quán triệt Khổ, Khổ tập, Khổ diệt, và con Ðường diệt khổ (Tứ Diệu Ðế), và chứng đạt "lậu tận minh".
     

  • Từ đó trong suốt 45 năm, Ngài đi truyền giảng con đường giải thoát, thu nhận đệ tử, có người xuất gia theo Ngài và lập thành Tăng đoàn, có người cũng còn tại gia, gọi là các cư sĩ. Vùng truyền giáo của Ngài là vùng Ðông Bắc Ấn Ðộ giáp biên giới xứ Nepal, dọc theo các nhánh sông thượng nguồn sông Gange (sông Hằng).
     

  • Ðức Phật tịch diệt năm 544 trước TL, lúc Ngài 80 tuổi, tại khu rừng cây sala, gần thành Kusinara (Câu-thi-na). Ðêm đó, sau khi nhập và xuất tám tầng thiền-na, Ngài nhập Niết Bàn Vô Dư Y -- hay Bát-niết-bàn (Parinibbana). Lúc đó là canh cuối của đêm rằm tháng tư. Lời dạy cuối cùng của Ngài là: "Nầy các vị Tỳ khưu, nay Ta khuyên bảo chư vị: tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật".

Căn bản Phật pháp:

  • Tứ diệu đế, bát chánh đạo, tam vô lậu học, 37 phẩm trợ đạo

  • Tam pháp ấn: khổ, vô thường, vô ngã

  • Tái sinh và nghiệp quả

  • Lý duyên sinh

  • Tam giới, lục đạo luân hồi 

  • Niết-bàn

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ...
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications