Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tìm kiếm nhanh

Kho tàng pháp học : Một Pháp || Hai Pháp || Ba Pháp || Bốn Pháp|| Năm Pháp|| Sáu Pháp|| Bảy Pháp|| Tám Pháp|| Chín Pháp|| Mười Pháp|| Trên 10 Pháp

# Nội dung Tài liệu
KTPH [102] Ba pháp vô thượng (Anuttariya)

[102] Ba pháp vô thượng (Anuttariya):

 

 

1. Sự thấy vô thượng (Dassanānuttariya), tức là thấy bằng trí tuệ, thấy được tam tướng của danh sắc, giác ngộ chân lý.

 

2, Sự hành vô thượng, (Paṭipadānuttariya), tức là thực hành phápcao quí, hành theo bát chánh đạo hay giới định tuệ.

 

3. Sự giải thoát vô thượng (Vimuttānuttariya), tức là sự giải thoát khỏi phiền não, thoát khỏi sanh tử luân hồi. D.III.219; M.I.235

- 3phap
KTPH [103] Ba pháp hành bất vạy (Apaṇṇakapaṭipadā); sự thực hành thẳng tiến, không cong quẹo; sự thực hành căn bản để tiến đạt đến giải thoát

[103] Ba pháp hành bất vạy (Apaṇṇakapaṭipadā); sự thực hành thẳng tiến, không cong quẹo; sự thực hành căn bản để tiến đạt đến giải thoát:

 

 

1. Thu thúc lục căn (Indriyasaṃvara), là sự phòng hộ sáu nội xứ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) ngăn ngừa không cho tham ái ưu bi sanh khởido duyên thấy, nghe v.v…

 

2. Tiết độ ẩm thực (Bhojane mattaññutā), là biết chừng mực khi ăn, quán tưởng nhờm gớm, không tham đắm vật thực.

 

3. Sống tỉnh thức (Jāgariyānuyogo), là sống chuyên cần nỗ lực, có chánh niệm tỉnh giác, ngày đêm nhiệt tâm tu tập trong thiện pháp. A.I.113.

- 3phap
KTPH [104] Ba thắng hành (Abhisaṅkhāra), pháp hành tạo tác, pháp làm nhân tạo quả dị thục

[104] Ba thắng hành (Abhisaṅkhāra), pháp hành tạo tác, pháp làm nhân tạo quả dị thục:

 

 

1. Phúc hành (Puññābhisaṅkhāra), hành vi thiện tạo quả tốt làm thành thức tục sinh cõi vui hữu sắc. Ở đây chi pháp là Tư tâm sở tương ưng thiện dục giới và sắc giới.

 

2. Phi phúc hành (Apuññābhisaṅkhāra), hành vi bất thiện tạo quả xấu làm thành thức tục sinh cõi khổ. Ở đây chi pháp là Tư tâm sở tương ưng tâm bất thiện.

 

3. Bất động hành (Āneñjābhisaṅkhāra), hành vi thiện vi tế tạo quả thức tục sinh cõi vô sắc. Ở đây chi pháp là tư tâm sở tương ưng thiện vô sắc.

 

Ba loại hành này là nghiệp luân quá khứ hình thành do duyên vô minh, là chi Hành (Saṅkhāra) trong y tương sinh (Paṭiccasamuppāda). Ps.III.206; Vbh.135. 

- 3phap
KTPH [105] Ba lậu hoặc (Āsava), lọai phiền não ngâm tẩm, làm cho chúng sanh thấm đọng cấu uế

[105] Ba lậu hoặc (Āsava), lọai phiền não ngâm tẩm, làm cho chúng sanh thấm đọng cấu uế:

 

1. Dục lậu (Kāmāsava), làtính ái tham cảnh dục sắc, thinh v.v…

 

2. Hữu lậu (Bhavāsava), làtính ái tham cõi tái sanh, mong muốn sự hiện hữu của kiếp sống khác, cũng có nghĩa là tham luyến lạc thiền nhập.

 

3. Vô minh lậu (Avijjāsava), là tính si mê, lầm lạc, không biết pháp đáng biết.

 

Lậu hoặc (Āsava) thường nói đến bốn chi, có thêm tà kiến lậu (diṭṭhāsava), xem [105]. D.II.81; S.IV.256

- 3phap
KTPH [106] Ba nghiệp (Kamma), hành động tạo quả dị thục

[106] Ba nghiệp (Kamma), hành động tạo quả dị thục:

 

 

1. Thân nghiệp (Kāyakamma), hành động bằng thân, tư thiện hay bất thiện khiến thân hành động.

 

2. Khẩu nghiệp (Vacīkamma), hành động bằng lời nói, tư thiện hay bất thiện khiến miệng phát ngôn.

 

3. Ý nghiệp (Manokamma), hành động bằng ý, tư thiện hay bất thiện khiến tâm suy nghĩ. M.I.373.

- 3phap
KTPH [107] Ba thiện xảo (Kosalla), sự khéo léo, sự thành thạo

[107] Ba thiện xảo (Kosalla), sự khéo léo, sự thành thạo:

 

 

1. Tăng ích thiện xảo (Āyakosalla), là trí tác ý đến điều mà làm lớn mạnh thiện pháp và làm suy sụp ác pháp. Như vậy gọi là tăng ích thiện xảo, vì trí tuệ làm phát sanh lợi ích.

 

2. Tổn hại thiện xảo (Apāyakosalla), là trí tác ý đến điều mà làm lớn mạnh ác pháp và làm suy sụp thiện pháp. Như vậy gọi là tổn hại thiện xảo, vì trí tuệ ấy đem đến nguy hại.

 

3. Phương tiện thiện xảo (Upāyakosalla), là trí sắp đặt đường lối hành động để phát sinh hai trường hợp trên: tăng ích và tổn hại. D.III.220; Vbh.325

- 3phap
KTPH [108] Ba loại trí (Ñāṇa), ba luân trong tứ thánh đế

[108] Ba loại trí (Ñāṇa), ba luân trong tứ thánh đế:

 

1. Sự thật trí (Saccañāṇa), trí nhận hiểu bốn sự thật, là nhận biết rằng: “Đây là khổ, đây là khổ tập; đây là khổ diệt, đây là khổ diệt đạo lộ”.

 

2. Sở dụng trí (Kiccañāṇa), trí nhận hiểu tính ứng dụng trong bốn đế, là biết rằng: “Khổ cần biến tri, khổ tập cần đoạn trừ, khổ diệt cần tác chứng”; khổ diệt đạo lộ cần tu tập”.

 

3. Sở tác trí (Katañāṇa), trí rõ biết điều đã làm đối với bốn đế, tức là biết rõ: “Khổ đế cần biết đã biết, tập cần trừ đã trừ, diệt đế cần chứng đã chứng, đạo cần tu đã tu”.

 

Ba trí này được gọi là ba luân (Parivaṭṭa) của sự giác ngộ bốn đế. Đức Thế Tôn đã giác ngộ tứ đế theo ba luân, mười hai thể (Ākāra). Sự giác ngộ ấy gọi là tri kiến như thật (Yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ), đối với bốn đế, và chính do tri kiến như thật ấy đã khởi nên Đức Phật đã xưng danh là Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammāsambuddho). Vin.I.11Ṣ.V.422. 

- 3phap
KTPH [109] Ba loại tuệ (Paññā)

[109] Ba loại tuệ (Paññā):

 

1. Tuệ tư (Cintāmayapaññā), trí sáng suốt do suy nghĩ, do quán xét.

 

2. Tuệ văn (Sutamayapaññā), trí sáng suốt do người khác dạy, do học hỏi, do đàm luận.

 

3. Tuệ tu (Bhāvanāmayapaññā), trí sáng suốt do tuệ tu chứng ngộ.

 

Ba tuệ này, tuệ tư và tuệ văn là trí tương ưng tâm thiện dục giới, tuệ tu là trí tương ưng trong tâm thiền hiệp thế và tâm siêu thế. D.III.219; Vbh.324. 

- 3phap
KTPH [110] Ba chủ thuyết ngoại giáo (Titthāyatana)

[110] Ba chủ thuyết ngoại giáo (Titthāyatana):

 

1. Thuyết tiền định (Pubbekatahetuvāda hay Pubbekatavāda). Một số người chấp rằng: “Tất cả cảm thọ lạc, khổ của chúng sanh là do vận mệnh an bày sẵn”.

 

2. Thuyết tạo hóa (Issarakaraṇavāda), cũng gọi là thuyết sáng tạo chủ. Một số người chủ trương rằng: “Mọi cảm thọ lạc, khổ của chúng sanh là do một đấng toàn năng tạo ra”.

 

3. Thuyết vô nhân (Ahetuvāda), là thuyết chủ trương rằng: “Mọi hạnh phúc đau khổ là ngẫu nhiên phát sanh, không do nhân duyên gì cả”.

 

Cả ba chủ thuyết này, Đức Phật phủ nhận cả, vì không đúng chân lý, không giúp cho tâm chuyên cần nỗ lực để tự chứng ngộ giải thoát. A.I.173; Vbh.367. 

- 3phap
KTPH [111] Ba tri kiến (Diṭṭhi) thuộc tà kiến

[111] Ba tri kiến (Diṭṭhi) thuộc tà kiến:

 

1. Vô hành kiến (Akiriyādiṭṭhi), sự thấy sai lầm rằng: không có cái gọi là hành vi thiện ác để cho quả báo.

 

2. Vô nhân kiến (Ahetukadiṭṭhi), sự thấy sai lầm rằng: cảm thọ vui, khổ ở đây không phải do nhân thiện ác tạo ra, hay là cho rằng mọi sự kiện xảy ra là ngẫu nhiên.

 

3. Vô hữu kiến (Natthikadiṭṭhi), sự thấy sai lầm rằng: cha mẹ không có ân đức, không có thiện ác quả báo, không có luân hồi tái sinh, không có việc tu hành đắc đạo v.v… M.I.404.

- 3phap
KTPH [112] Ba trạng thái khổ (Dukkhatā), khổ của pháp thực tính, tình trạng bất ổn của pháp hữu vi

[112] Ba trạng thái khổ (Dukkhatā), khổ của pháp thực tính, tình trạng bất ổn của pháp hữu vi:

 

 

1. Khổ khổ (Dukkhadukkhatā), trạng thái khó chịu vì khổ thọ của thân và tâm, tức là thân đau đớn, tâm buồn bực… sự khổ này thông thường chúng sanh đều nhận biết được.

 

2. Hoại khổ (Vipariṇāmadukkhatā), sự bất ổn do mất mát thay đổi, như là tình trạng thọ lạc diệt mất tạo ra sự thất vọng.

 

3. Hành khổ (Saṅkhāradukkhatā), sự bất kham do tính cách sanh diệt của danh sắc hữu vi. Sự khổ này xuất phát từ trạng thái vô thường, sự khổ hiển nhiên của pháp hành. Chỉ có tuệ quán mới nhận thức được sự khổ này. D.III.216; S.IV.259; S.V.56. 

- 3phap
KTPH [113] Ba tạng kinh điển Phật giáo, tam tạng (Tipiṭaka)

[113] Ba tạng kinh điển Phật giáo, tam tạng (Tipiṭaka):

 

1. Tạng Luật (Vinayapiṭaka), gồm các điều giới luật đã được Đức Phật chế định. Gồm 21.000 pháp môn.

 

2. Tạng Kinh (Suttantapiṭaka), gồm có bài pháp mà Đức Phật thuyết để dạy phương thức tu hành. Gồm 21.000 pháp môn.

 

3. Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapiṭaka), gồm các luận thuyết phân tích nguyên lý của vạn pháp. Gồm 42.000 pháp môn.

 

Tam tạng giáo lý bằng tiếng Pāli (Phạn) gồm 45 quyển, cả thảy 84.000 pháp môn.

 

Giải về cách tính pháp môn (Dhammakkhandha), dựa theo bộ Saddhammasaṅgaha, do ngài đại trưởng lão Dhammakitti trình bày, như sau:

 

Pháp môn (Dhammakkhandha) là đoạn câu pháp liên kết nội dung.

 

Một đoạn kinh có một nội dung pháp, đó là một pháp môn, một đoạn kinh có nhiều nội dung pháp thì là nhiều pháp môn. Đối với các bài kệ ngôn thì một câu hỏi là một pháp môn, một câu đáp là một pháp môn.

 

Riêng về tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), mỗi điều chia chẻ trong tam đề hay nhị đề, hoặc mỗi điều chia chẻ phần tâm v.v… gọi là một pháp môn.

 

Tạng Luật (Vinaya), mỗi một điều luật, mỗi một sự việc phạm học giới, mỗi một thể thức phạm tội, mỗi một lý giải câu nói, mỗi một tội kể thêm, mỗi một điều không phạm tội, gọi là mỗi pháp môn.

 

Như vậy là cách tính 84.000 pháp môn.

 

Phân chi tiết như sau: A- Tạng Luật (Vinaya) gồm 8 quyển, phân thành 5 bộ:

 

1. Bộ đại phân tích (Mahāvibhaṅga) hay bộ tỳ-kheo phân luật (Bhikkhuvibhaṅga), gồm 2 quyển. Bộ này giải chi tiết giới bổn Pāṭimokkha của tỳ-kheo.

 

2. Bộ tỳ-kheo ni phân luật (Bhikkhunīvibhaṅga), có 1 quyển. Bộ luật này giải rộng giới bổn của tỳ-kheo ni.

 

3. Bộ đại phẩm (Mahāvagga), gồm 2 quyển. Bộ này nói đến mười chương – Khandhaka, tăng sự thông thường như Bố tát (Uposatha), tự tứ (pavāraṇā) v.v…

 

4. Bộ tiểu phẩm (Cūlavagga), gồm 2 quyển. Bộ này nói đến mười hai chương tăng sự đặc biệt, như biệt trú tăng tàng (Saṅghādisesaparivāsa) v.v…

 

5. Bộ tạp sự (Parivāra), chỉ có 1 quyển. Bộ này thống kê toàn bộ nội dung giới luật của 4 bộ luật trên.B- Tạng Kinh (Sutta), gồm 25 quyển, phân thành 5 bộ:

 

1. Trường bộ kinh (Dīghanikāya), có 3 quyển. Gồm 34 bài kinh dài.

 

2. Trung bộ kinh (Majjhimānikāya), có 3 quyển. Gồm 152 bài kinh trung bình.

 

3. Tương ưngbộ kinh (Saṃyuttanikāya), có 5 quyển. Gồm 7.762 bài kinh xếp theo 56 phẩm tương ưng, như là những đoạn kinh mà Đức Phật thuyết cho chư thiên nghe thì xếp thành phẩm tương ưng chư thiên v.v…

 

4. Tăng chi bộ kinh (Aṅguttaranikāya), có 5 quyển. Gồm 11 chương, 9557 bài kinh. Bộ này thống kê những bài kinh xếp theo nhóm pháp một chi, hai chi, ba chi v.v…

 

5. Tiểu bộ kinh (Khuddakanikāya), có 9 quyển, 15 tập. Quyển một là tập Tiểu tụng (Khuddakapāṭha). Quyển hai gồm bốn tập là Pháp cú (Dhammapada), Cảm thán ngôn (Udāna), Như thị thuyết (Itivuttaka), Kinh tập (Suttanipāta). Quyểnba gồm bốn tập là Thiên Cung sự (Vimānavatthu), Ngạ Quỉ sự (Petavatthu), Trưởng Lão Tăng kệ (Theragāthā), Trưởng Lão Ni kệ (Therīgāthā). Quyển bốn và quyển năm là tập Bổn sanh (Jāṭaka). Quyểnsáu và quyển bảy là tập Lịch sử (Niddesa). Quyểntám là tập Vô Ngại Giải (Paṭisambhidā). Quyểnchín gồm ba tập Thinh Văn Sử (Apadāna), Phật Tông (Buddhavaṃsa), Hạnh Tạng (Cariyāpiṭaka). Tiểu Bộ Kinh gồm mười lăm tập như thế, mỗi tập có nội dung đặc thù riêng biệt.C- Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), gồm 12 quyển, phân thành 7 bộ:

 

1. Bộ Pháp tụ (Dhammasaṅginī), chỉ có một quyển. Bộ này trình bày các đầu đề pháp (Mātikā).

 

2. Bộ Phân tích (Vibhaṅga), chỉ có một quyển. Bộ này phân tích và giải thích 18 đề pháp quan trọng, đối chiếu theo hai hệ Kinh tạng và Vi Diệu Pháp.

 

3. Bộ Chất ngữ (Dhātukathā), chung một quyển với bộ Nhơn Chế Định, Bộ này thống kê các đề pháp xét theo Uẩn, Xứ, Giới, Đế.

 

4. Bộ Nhơn chế định (Puggalapaññatti), chung một quyển với bộ Chất ngữ. Bộ này trình bày sáu phần chế định, đặc biệt là giải thích, phân loại các hạng người.

 

5. Bộ Ngữ tông (Kathāvatthu), có một quyển. Bộ này trình bày các quan điểm dị biệt giữa những bộ phái Phật giáo trong thời kỳ sau Phật níp-bàn. Được hình thành vào kỳ kết tập lần thứ ba.

 

6. Bộ Song đối (Yamaka), có hai quyển. Bộ nàylập luận mười vấn qua hình thức hỏi đáp ngược xuôi.

 

7. Bộ Vị trí (Paṭṭhāna, cũng gọi là Mahāka-raṇa), gồm 6 quyển. Bộ Vị trí là bộ Luận quan trọng nhất trong tạng Diệu Pháp, luận giải các đầu đề pháp (Mātikā) theo định lý duyên hệ (Paccaya).

 

Trước thời kỳ kết tập lần thứ ba, toàn bộ giáo lý tam tạng này chỉ gọi là Pháp và Luật (Dhammavi-naya). Tạng Kinh và tạng Vi Diệu Pháp gọi là PHÁP (Dhamma), Tạng Luật gọi là LUẬT (Vinaya). Vin.V.86 

- 3phap
KTPH [114] Ba y chỉ, ba chỗ nương (Tisaraṇa), đối tượng qui y của hàng cư sĩ

[114] Ba y chỉ, ba chỗ nương (Tisaraṇa), đối tượng qui y của hàng cư sĩ:

 

1. Đức Phật (Buddha), vị đã tự giác ngộ, chân chánh, là bậc Đạo sư của trời, người.

 

2. Giáo Pháp (Dhamma), lời dạy của Đức Phật, Phật ngôn, kim chỉ nam để tu tập.

 

3. Tăng chúng (Saṅgha), chư tỳ-kheo đệ tử Phật, những vị thừa hành lời dạy của Đức Phật, là phước điền của chúng sanh.

 

Ba đối tượng y chỉ cao quí này còn được gọi là Tam Bảo (Ratanattaya). Xem [115].

 

Những ai có lòng tin niệm tưởng ân đức tam bảo, nương tam bảo làm hướng đạo như thế gọi là qui y tam bảo. Kh.1. 

- 3phap
KTPH [115] Ba ngôi báu, tam bảo (Ratanattaya)

[115] Ba ngôi báu, tam bảo (Ratanattaya):

 

1. Phật bảo (Buddharatana), Đức Phật như là báu vật vì đức hạnh cao quí của Ngài.

 

2. Pháp bảo (Dhammaratana), giáo pháp như là báu vật vì khả năng thiết thực và hướng thượng.

 

3. Tăng bảo (Saṅgharatana), tăng chúng đệ tử Phật như là báu vật vì sự thanh tịnh và uy lực.

 

Tam bảo là chỗ nương cao quí của chúng sanh, là đối tượng qui y của hàng cư sĩ. Kh.1. 

- 3phap
KTPH [116] Ba đạt tri (Pariññā), sự biến tri, sự liễu tri; sự hiểu biết thấu đáo

[116] Ba đạt tri (Pariññā), sự biến tri, sự liễu tri; sự hiểu biết thấu đáo:

 

1. Trí đạt tri (Ñātapariññā), là sự liễu tri do hiểu biết tướng riêng biệt của các pháp, như là biết rõ “Sắc có đặc tính bị bức não, Thọ có đặc tính bị tác động v.v…”

 

2. Thẩm đạt tri (Tīraṇapariññā), là sự liễu tri do thẩm sát tướng phổ thông của các pháp hữu vi, như là thẩm sát “Sắc là vô thường, thọ là vô thường v.v…”

 

3. Trừ đạt tri (Pahānapariññā), là sự liễu tri do đoạn trừ nghịch tưởng, điên đảo kiến, như đoạn trừ tưởng kiến thấy là thường do nhận thấy tướng vô thường v.v…

 

Ba sự đạt tri này là trí hiệp thế, có cảnh là năm uẩn, có phận sự là biến tri khổ đế, thuộc về Kiến tịnh, Đoạn nghi tịnh, Đạo phi đạo tri kiến và Hành lộ tri kiến tịnh.

 

Phân theo tuệ minh sát thì như sau:

 

Trí đạt tri là lãnh vực hai tuệ minh sát, tức tuệ xác định danh sắc và tuệ duyên đạt.

 

Thẩm đạt tri là lãnh vực hai tuệ minh sát, tức tuệ phổ cập tướng và tuệ tiến thoái.

 

Trừ đạt tri là lãnh vực 9 tuệ minh sát: tức tuệ diệt một, tuệ kinh úy, tuệ quá tội, tuệ phiền yểm, tuệ dục thoát, tuệ quyết ly, tuệ hành xả, tuệ thuận lưu và tuệ chuyển tộc.

 

Xem chín tuệ quán [438], mười sáu tuệ quán [484]. Nd1.53, Vism.606

- 3phap
KTPH [117] Ba sự tu tiến (Bhāvanā), sự tu tiến theo đề mục thiền hay nghiệp xứ

[117] Ba sự tu tiến (Bhāvanā), sự tu tiến theo đề mục thiền hay nghiệp xứ:

 

 

1. Tu tiến sơ khởi (Parikammabhāvanā), tức là sự tu tiến bước đầu, bước chuẩn bị, như là ghi nhận các dạng hoàn tịnh (Kasina) chẳng hạn, là sự xác định sơ tướng (Parikammanimitta). Sự tu tập suy niệm về ân Đức Phật v.v… cũng nằm trong pháp tu tiến sơ khởi, vì bước đầu luyện tập tâm an trú.

 

2. Tu tiến cận hành (Upacārabhāvanā), tức là sự tu tiến thuần thục đến cận định, nghĩa là chú tâm theo một đề mục khắng khít cho đến khi sanh khởi Tợ tướng (Paṭibhāganimitta) đồng thời năm triền cái cũng lắng xuống. Cấp tu tiến này vẫn còn là định dục giới, nương theo cả 40 đề mục; cận hành tu tiến sẽ chấm dứt ở sát na diệt của tâm Chuyển tộc (Gotrabhū) trong lộ tâm đắc thiền.

 

3. Tu tiến an chỉ (Appanābhāvanā), tức là sự tu tiến đạt đến tâm thiền định (Jhāna), một trạng thái định kiên cố hay tâm đổng lực thiền sanh tiếp nối Gotrabhū. Định này sanh khởi do nương theo 30 đề mục trừ 10 tùy niệm. Định sơ thiền sanh khởi do 25 đề mục là 10 hoàn tịnh, 10 đề mục bất mỹ, từ, bi, hỷ, phạm trú, 1 thân hành niệm, 1 số tức quan. Định nhị thiền sanh khởi do 14 đề mục là 10 hoàn tịnh, từ, bi, hỷ, phạm trú, 1 số tức quan. Định tam thiền và định tứ thiền cũng như nhị thiền. Định ngũ thiền sanh khởi do 12 đề mục là 10 hoàn tịnh, 1 xả vô lượng tâm, 1 số tức quan. Định vô sắc thiền sanh khởi do 1 trong 4 đề mục vô sắc. Comp. 203. 

- 3phap
KTPH [118] Ba học pháp (Sikkhā), cũng thường gọi là tam học (Tisikkhā), pháp nền tảng tu tập để tăng tiến, để đạt đến níp-bàn:

[118] Ba học pháp (Sikkhā), cũng thường gọi là tam học (Tisikkhā), pháp nền tảng tu tập để tăng tiến, để đạt đến níp-bàn:

 

1. Tăng thượng giới học (Adhisīlasikkhā), sự học tập trau giồi giới hạnh chân chánh, làm nền tảng tăng tiến tâm định.

 

2. Tăng thượng tâm học (Adhicittasikkhā), sự tu tập về tâm thiền kiên cố, làm nền tảng tăng tiến tuệ minh sát.

 

3. Tăng thượng tuệ học (Adhipaññāsikkhā), sự tu tập phát triển trí tuệ thẩm sát thực tướng danh sắc để đạt đến tri kiến thanh tịnh, giác ngộ giải thoát.

 

Ba học pháp này gọi tóm tắt là Giới, Định, Tuệ, tức là Tam học. D.III.220; A.I.229. 

- 3phap
KTPH [119] Ba diệu pháp, ba tinh hoa của chánh pháp (Saddhamma)

[119] Ba diệu pháp, ba tinh hoa của chánh pháp (Saddhamma):

 

1. Pháp học (Pariyattidhamma), tức là những Phật ngôn cần phải học hiểu, gồm chín phần giáo lý hay tam tạng kinh điển.

 

2. Pháp hành (Paṭipattidhamma), tức là đường lối cần phải tu tập thực hành, như trì giới, thu thúc lục căn, thọ pháp đầu đà, tu tiến chỉ tịnh, tu tiến minh sát.

 

3. Pháp thành (Paṭivedhadhamma), tức là mục đích cần phải đạt đến, như thiền định, Đạo Quả. Điều này cũng gọi là Adhigamasaddhamma – pháp chứng đạt Vin.A. 225; Ā.V. 33. 

- 3phap
KTPH [120] Ba loại pháp thực tính (Dhamma)

[120] Ba loại pháp thực tính (Dhamma):

 

1. Pháp thiện (Kusaladhamma), pháp có tính chất tốt đẹp, thành nhân lành cho quả vui, pháp có căn thiện tương ưng. Pháp thiện gồm 37 tâm thiện và 38 tâm sở phối hợp.

 

2. Pháp bất thiện (Akusaladhamma), pháp có tính chất xấu, uế nhiễm, là nhân cho quả khổ, pháp có căn bất thiện tương ưng. Pháp bất thiện gồm 12 tâm bất thiện và 27 tâm sở phối hợp.

 

3. Pháp vô ký (Abyākatadhamma), pháp có tính chất phi thiện phi bất thiện, pháp không thành nhân tạo quả. Gồm có pháp vô ký danh (Nāma abyākata) là 52 tâm quả, 20 tâm tố, cùng 38 tâm sở phối hợp và níp-bàn, có pháp vô ký sắc (Rūpa abyākata), tức là 28 sắc pháp.

 

Các chi pháp trong đây, xem thêm [496] [494] [488] [40] Dhs. 91, 180, 234. 

- 3phap
KTPH [121] Ba pháp cố định, ba định luật (Dhammaniyāma) cũng gọi là ba tướng phổ thông (Sāmaññalakkhaṇa)

[121] Ba pháp cố định, ba định luật (Dhammaniyāma) cũng gọi là ba tướng phổ thông (Sāmaññalakkhaṇa):

 

1. Chư hành vô thường (Sabbe saṅkhārā aniccā), tức là mọi pháp hữu vi không thường hằng, luôn luôn biến đổi.

 

2. Chư hành khổ não (Sabbe saṅkhārā dukkhā), tức là mọi pháp hữu vi có tính bất ổn, khó chịu, không kham nổi vì trạng thái biến động.

 

3. Chư pháp vô ngã (Sabbe dhammā anattā), tức là mọi pháp thực tính dù là hữu vi hay vô vi cũng đều là phi ngã, không phải là bản ngã hiện hữu.

 

Ba pháp này là một qui luật hiển nhiên của vạn pháp, dù Đức Phật không xuất hiện, không tuyên bố, qui luật ấy vẫn chi phối các pháp ở đời. A.I. 285. 

- 3phap
KTPH [122] Ba ấn chứng thiền (Nimitta), dấu hiệu hay tướng sanh để xác định giai đoạn tu tiến nghiệp xứ:

[122] Ba ấn chứng thiền (Nimitta), dấu hiệu hay tướng sanh để xác định giai đoạn tu tiến nghiệp xứ:

 

1. Biến tác tướng (Parikammanimitta) cũng gọi là sơ tướng hay chuẩn bị tướng, tức là ấn chứng sơ khởi, tướng sanh ở giai đoạn đầu. Sau khi xác định đề mục nghiệp xứ như là hình dạng kasiṇa v.v… vị hành giả chú mục vào đó và ghi nhận rõ hình dạng đề mục. Sự kiện này gọi là Biến tác tướng. Tướng này áp dụng cho cả 40 đề mục.

 

2. Thủ trì tướng (Uggahanimita), cũng gọi là thô tướng, tức là ấn chứng do thuần thục nhập tâm vào đề mục, đây là tướng sanh ở giai đoạn hai. Nghĩa là khi chú mục vào mọi án xứ tu tập thì gọi là biến tác tướng, rồi khi nhắm mắt lại tác ý vẫn thấy rõ án xứ ấy, đây gọi là Thủ trì tướng. Thủ trì tướng sanh lên cũng với tất cả 40 đề mục.

 

3. Tương tợ tướng (Paṭibhāganimitta), cũng gọi là quang tướng. Tức là ấn chứng phát sanh từ Thủ trì tướng (thô tướng), tướng này làm sáng lên đề mục, ghi nhận đề mục một cách tinh khiết không thấy tỳ vết. Tương tợ tướng sẽ sanh khởi khi tâm đạt tới cận định. Tương tợ tướng chỉ sanh đối với 22 đề mục là 10 kasiṇa, 10 asubha, 1 thân hành niệm, và 1 niệm số tức quan. Comp.203; Vism. 125.

- 3phap
KTPH [123] Ba sự đoạn trừ (Pahāna)

[123] Ba sự đoạn trừ (Pahāna):

 

 

1. Trấn phục đoạn trừ (Vikkhambhanapahāna), tức là trừ phiền não bằng cách áp chế, đè nén. Nghĩa là sự áp chế phiền não bằng tâm thiền, khi hành giả nhập thiền thì trong suốt thời gian ấy phiền não không sanh.

 

2. Nhất thời đoạn trừ (Tadaṅgapahāna), tức là trừ phiền não bằng cách đối trị, thí dụ như đang khi tuệ phân tích danh sắc sanh khởi thì phiền não thân kiến được trừ khử ngay lúc ấy… Sự đoạn trừ này chỉ tạm thời khi sát na thiện đang có mặt.

 

3. Triệt tiêu đoạn trừ (Samucchedapahāna), tức là sự đoạn trừ phiền não bằng trí thánh đạo. Sự đoạn trừ này là tuyệt trừ phiền não không còn phát sanh nữa.

 

Xem thêm [305] năm pháp đoạn diệt. Vism. 693.

- 3phap
KTPH [124] Ba pháp nghiệt chướng (Papañcadhamma); pháp chướng ngại khiến không thể nhập chân lý, pháp lệch hướng chánh đạo

[124] Ba pháp nghiệt chướng (Papañcadhamma); pháp chướng ngại khiến không thể nhập chân lý, pháp lệch hướng chánh đạo:

 

 

1. Ái tham (Taṇhā), sự tham muốn ái nhiễm danh lợi hay mong mỏi sự tái sanh.

 

2. Tà kiến (Diṭṭhi), sự cố chấp sai lầm, quan niệm tà thuyết; hiểu sai chân lý.

 

3. Ngã mạn (Māna), sự kiêu ngạo, tự đắc, tự cao, hoặc tự ti mặc cảm.

 

Trong A tỳ đàm bộ Vibhaṅga, nói đến ba pháp Papañca như sau: dục vọng (chanda), ngã mạn (māna), và tà kiến (micchādiṭṭhi) . Nd1. 280 ; Vbh. 393; Nett.37-38. 

- 3phap
KTPH [125] Ba bậc Dự lưu (Sotāpanna), ba hạng Thánh Tu-đà-huờn

[125] Ba bậc Dự lưu (Sotāpanna), ba hạng Thánh Tu-đà-huờn:

 

1. Nhất chủng sanh (Ekabījī), là bậc Dự lưu mà chỉ sanh lại cõi dục giới một lần nữa rồi đắc đến A-la-hán và viên tịch.

 

2. Lục chủng sanh (Kolaṅkola), là bậc Dự lưu mà còn sanh cõi dục từ hai đến sáu lần nữa mới đắc A-la-hán và viên tịch.

 

3. Thất chủng sanh (Sattakkhattuparama), là bậc Dự lưu mà phải sanh lại cõi dục cho đến bảy lần (mức định chót), mới đắc A-la-hán và viên tịch. Đây là hạng Dự lưu chậm nhất.

 

Sở dĩ được phân ra như vậy vì căn cứ vào pháp ngũ quyền (indriya) của vị Dự lưu mạnh, hay trung bình, hoặc yếu. A.I.233; IV. 380; V.120; Pug.3,16,74.

- 3phap
KTPH [126] Ba Ân Đức Phật (Buddhaguṇa)

[126] Ba Ân Đức Phật (Buddhaguṇa):

 

 

1. Tuệ đức (Paññāguṇa), Đức Phật có trí tuệ siêu phàm, trí tuệ của Ngài vượt trội chúng sanh trong tam giới.

 

2. Tịnh đức (Visuddhiguṇa), Đức Phật là bậc thanh tịnh tuyệt đối, sở hành thân khẩu ý của Ngài hoàn toàn không có khuyết điểm dù ở trước hội chúng hay lúc độc cư.

 

3. Bi đức (Karuṇāguṇa), lòng bi mẫn của Đức Phật đối với chúng sanh là vô lượng, dù những kẻ có tâm đối lập với Ngài, Ngài cũng bao dung tế độ.

 

Trong ba ân đức Phật, nói căn bản chỉ có hai là tuệ đức và bi đức; trong kinh điển ít khi nói đến Tịnh đức, vì sự thanh tịnh của Đức Phật phát xuất từ tuệ giác ngộ, nên chỉ nói tuệ đức là gồm cả tịnh đức. Vism ṭīkā I.1.

- 3phap
KTPH [127] Ba Phật hạnh (Buddhacariyā)

[127] Ba Phật hạnh (Buddhacariyā):

 

 

1. Hạnh lợi ích cho đời (Lokatthacariyā). Đức Phật luôn có tâm đại bi với chúng sanh, những người hữu duyên với Ngài thì dù họ ở xa hay gần, giàu hay nghèo đều được Ngài tế độ cho giác gộ giải thoát, hay giúp cho họ thành tựu phước báu.

 

2. Hạnh lợi ích cho quyến thuộc (Ñātatthacariyā). Đức Phật luôn là bóng mát cho thân tộc, nhưng Ngài không phải giúp đỡ quyến thuộc bằng tài sản thế gian mà Ngài ban cho quyến thuộc pháp bất tử là đạo lộ níp-bàn.

 

3. Hạnh Phật sự (Buddhatthacariyā). Đức Phật mỗi ngày đều hành năm phận sự của chư Phật, trong suốt 45 năm hoằng pháp không bỏ sót ngày nào.

 

Ba công hạnh này ngay cả thời kỳ Ngài còn là vị Bồ tát (Bodhisatta) cũng thực hành, nhưng phải hiểu như sau:

 

Bồ tát hành lợi ích cho đời là Ngài luôn khuyến khích hướng dẫn hội chúng thực hành thiện pháp, đi theo con đường tốt.

 

Bồ tát hành lợi ích cho quyến thuộc là Ngài luôn làm chỗ nương an toàn cho quyến thuộc, che chở cho quyến thuộc.

 

Bồ tát hành lợi ích giác ngộ là Ngài tinh tấn tạo thiện pháp vì mục đích giác ngộ giải thoát cho bản thân.

 

Nd2.322; Ps.329; A.A.I.98; Dh.A.III.441. 

- 3phap
KTPH [128] Ba cách thuyết pháp của Đức Phật (Buddhadhammadesanā)

[128] Ba cách thuyết pháp của Đức Phật (Buddhadhammadesanā):

 

1. Ngài thuyết pháp bằng sự kinh nghiệm thắng tri giác ngộ, (Abhiññāyadhammadesanā), không phải do học hỏi bắt chước.

 

2. Ngài thuyết pháp hợp nhân duyên (Sanidānadhammadesanā), tức là thuyết pháp khế cơ với thính chúng, có nguyên nhân, có người hữu duyên.

 

3. Ngài thuyết pháp có sự nhiệm mầu, (Sappaṭihāriyadhammadesanā), tức là thuyết pháp khế lý, có tính thuyết phục, luôn thành tựu lợi ích cho người nghe.

 

Trong ba cách thuyết pháp này, điều một là đặc tính nhất định trong pháp thoại của Đức Phật. M.II.9; A.I.276. 

- 3phap
KTPH [129] Ba huấn từ của chư Phật (Buddha-ovāda)

[129] Ba huấn từ của chư Phật (Buddha-ovāda):

 

1. Không làm mọi điều ác (Sabbapāpassa akaraṇaṃ), là không hành động thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, như không sát sanh v.v…

 

2. Thực hiện các việc lành (Kusalass’ ūpasam-padā), là tạo các thiện sự, như mười phước nghiệp sự: bố thí, trì giới v.v…

 

3. Thanh lọc nội tâm (Sacittapariyodapanaṃ), là tu tập nội tâm theo phương pháp thiền chỉ và thiền quán, thành tựu về đức tin, tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác v.v…

 

Ba điều giáo huấn này có trong bài kinh Ovādapaṭimokkha mà Đức Phật đã thuyết vào dịp đại hội thánh tăng gồm 1.250 vị A-la-hán, rằm tháng giêng (Māghapuṇṇamī). D.II.49; Dhp.183 

- 3phap
KTPH [130] Ba cửa tạo nghiệp (Dvāra)

[130] Ba cửa tạo nghiệp (Dvāra):

 

1. Thân môn (Kāyadvāra), thân hành động là cửa tạo nghiệp, tức là ám chỉ thiện nghiệp hay ác nghiệp sanh khởi từ thân hành.

 

2. Khẩu môn (Vacīdvāra), khẩu hành động hay miệng nói là cửa tạo nghiệp, nghĩa là thiện nghiệp hoặc ác nghiệp sanh từ khẩu hành.

 

3. Ý môn (Manodvāra), ý hành động hay tư tưởng là cửa tạo nghiệp, tức là thiện nghiệp, ác nghiệp đều sanh khởi từ ý hành.

 

Ba môn này nên hiểu theo nghĩa lý kinh tạng, không phải theo tạng Vi Diệu Pháp. Dhp.234 

- 3phap
KTPH [131] Ba loại thần thông (Pāṭihāriya)

[131] Ba loại thần thông (Pāṭihāriya):

 

1. Biến hóa thông thần (Iddhipāṭihariya), tức là thần thông về phép mầu biến hóa, thị hiện điều phi thường. Như Đức Phật hóa hiện thành hai vị Phật thuyết pháp vấn đáp, hoặc hiện song thông vừa có lửa vừa có nước… để nhiếp phục ngoại đạo.

 

2. Ký thuyết thần biến (Ādesanāpāṭihāriya), tức là thần thông tiên tri, tiên đoán trước những điều sẽ xảy ra, hay hiểu và nói ra đúng ý nghĩ của người khác. Như Đức Phật tiên tri thọ ký cho các nhân vật sẽ thành tựu hạnh nguyện trong tương lai, hoặc Ngài nói ra tư tưởng người đối diện đang suy nghĩ gì khiến họ qui phục…

 

3. Giáo hóa thần thông (Anusāsanīpāṭihāriya), tức là uy lực nhiếp chúng bằng sự thuyết pháp dạy dỗ. Đức Phật đã chỉ dạy điều tốt đẹp khiến chúng sanh qui ngưỡng.

 

Trong ba loại thần thông này, Đức Phật chỉ đặt trọng tâm và tán thán loại “Giáo hóa thần thông”, Ngài đề cao đó là thần thông nhiếp chúng, thù thắng nhất và hữu hiệu nhất. D.I.211; A.I.170; Ps.II.227.

- 3phap

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications