Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐPS T2A.008 CHƯƠNG 8 ĐỨC PHẬT TRÚ NGỤ Ở BẢY CHỖ
Sau khi chứng ắc Phật quả như vậy, vào lúc rạng sáng của ngày mười sáu tháng Vesakha (tháng tư), Đức Phật xuất khỏi cảm hứng kệ (udāna) và trong khi ang ngồi trên Vô ịch bảo tọa, Ngài khởi lên ý nghĩ: “ Để ạt ược Vô ịch bảo tọa này, Ta ã phải i từ kiếp này sang kiếp khác suốt bốn asaṅkhyeyya và một trăm ngàn ại kiếp, thực hành mười pháp Ba-la-mật một cách phi thường. Trong bốn asaṅkhyeyya và một trăm ngàn ại kiếp, ể có ược Vô ịch bảo tọa này, ã nhiều lần Ta cho i ầu của mình kèm theo vương miện quí báu; ã nhiều lần Ta cho tim và mắt của mình; ã nhiều lần Ta cho ến bất cứ ai xin ứa con trai yêu quý như Jāli, ứa con gái yêu quý như Kanhajinā và người vợ như Maddī, làm nô lệ. Đây là Bảo tọa mà khi ngồi trên nó, Ta ã hoàn toàn thắng phục Ngũ ma. Chỗ ngồi ầy oai lực và kiết tường. Khi ngồi trên bảo tọa này, tất cả mọi ước nguyện của Ta, cả ước nguyện thành Phật ều ược thành tựu viên mãn. Ta sẽ không vội rời khỏi Bảo tọa này nơi mà Ta chịu ơn rất nhiều.”
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:5934

Các tên gọi khác

Sau khi chứng ắc Phật quả như vậy, vào lúc rạng sáng của ngày mười sáu tháng Vesakha (tháng tư), Đức Phật xuất khỏi cảm hứng kệ (udāna) và trong khi ang ngồi trên Vô ịch bảo tọa, Ngài khởi lên ý nghĩ: “ Để ạt ược Vô ịch bảo tọa này, Ta ã phải i từ kiếp này sang kiếp khác suốt bốn asaṅkhyeyya và một trăm ngàn ại kiếp, thực hành mười pháp Ba-la-mật một cách phi thường. Trong bốn asaṅkhyeyya và một trăm ngàn ại kiếp, ể có ược Vô ịch bảo tọa này, ã nhiều lần Ta cho i ầu của mình kèm theo vương miện quí báu; ã nhiều lần Ta cho tim và mắt của mình; ã nhiều lần Ta cho ến bất cứ ai xin ứa con trai yêu quý như Jāli, ứa con gái yêu quý như Kanhajinā và người vợ như Maddī, làm nô lệ. Đây là Bảo tọa mà khi ngồi trên nó, Ta ã hoàn toàn thắng phục Ngũ ma. Chỗ ngồi ầy oai lực và kiết tường. Khi ngồi trên bảo tọa này, tất cả mọi ước nguyện của Ta, cả ước nguyện thành Phật ều ược thành tựu viên mãn. Ta sẽ không vội rời khỏi Bảo tọa này nơi mà Ta chịu ơn rất nhiều.”

General Information

Danh sách : Liên quan
:
ĐPS T2A.008 CHƯƠNG 8 ĐỨC PHẬT TRÚ NGỤ Ở BẢY CHỖ

CHƯƠNG 8

ĐỨC PHẬT TRÚ NGỤ Ở BẢY CHỖ

(1) Tuần lễ trên vô ịch bảo tọa (Pallaṅka Sattāha) 

Sau khi chứng ắc Phật quả như vậy, vào lúc rạng sáng của ngày mười sáu tháng Vesakha (tháng tư), Đức Phật xuất khỏi cảm hứng kệ (udāna) và trong khi ang ngồi trên Vô ịch bảo tọa, Ngài khởi lên ý nghĩ:

“ Để ạt ược Vô ịch bảo tọa này, Ta ã phải i từ kiếp này sang kiếp khác suốt bốn asaṅkhyeyya và một trăm ngàn ại kiếp, thực hành mười pháp Ba-la-mật một cách phi thường. Trong bốn asaṅkhyeyya và một trăm ngàn ại kiếp, ể có ược Vô ịch bảo tọa này, ã nhiều lần Ta cho i ầu của mình kèm theo vương miện quí báu; ã nhiều lần Ta cho tim và mắt của mình; ã nhiều lần Ta cho ến bất cứ ai xin ứa con trai yêu quý như Jāli, ứa con gái yêu quý như Kanhajinā và người vợ như Maddī, làm nô lệ. Đây là Bảo tọa mà khi ngồi trên nó, Ta ã hoàn toàn thắng phục Ngũ ma. Chỗ ngồi ầy oai lực và kiết tường. Khi ngồi trên bảo tọa này, tất cả mọi ước nguyện của Ta, cả ước nguyện thành Phật ều ược thành tựu viên mãn. Ta sẽ không vội rời khỏi Bảo tọa này nơi mà Ta chịu ơn rất nhiều.”

Như vậy, Đức Phật ã trải qua bảy ngày trên Vô ịch bảo tọa, nhập vào tứ thiền dẫn ến chứng ắc Arahatta-phala với trên một trăm ngàn koṭi pháp chứng.

Suốt ngày mười sáu tháng Vesakha, trú trong ịnh của thiền quả như vậy, Đức Phật thọ hưởng sự an lạc của trạng thái giải thoát (vimutti - an lạc của ạo quả A-la-hán). Trong canh ầu của êm, Ngài quán pháp Duyên khởi (Paṭiccasampuddā): “ Avijjā paccayā saṅkhārā - do vô minh (avijjā), ba loại hành (saṅkhāra): phúc hành (puññābhi-saṅkhāra), phi phúc hành (apuññābhi-saṅkhāra),  và bất ộng hành (anañjabhi-saṅkhāra)  sanh khởi.” Bắt ầu bằng cách này, Đức Phật tiếp tục quán quá trình sanh khởi của vòng au khổ theo thứ tự xuôi (thuận thứ). Ngài lại quán : “ avijjāya tv’eva asesavirāganirodho saṅkhāra nirodhā - do sự diệt tắt của vô minh bởi A-la-hán ạo, ba loại hành: puññābhi-saṅkhāra, apuññābhi-saṅkhāraanañjabhi-saṅkhāra cũng diệt.” Bắt ầu bằng cách quán như vậy, Đức Phật tiếp tục quán quá trình diệt của vòng au khổ theo thứ tự nghịch (nghịch thứ).

(Ở ây cần ặc biệt chú ý rằng, dầu Đức Phật ã liễu tri tất cả các Pháp, Ngài chỉ quán pháp Duyên khởi (Paticcasamuppāda) theo thứ tự xuôi và ngược bởi vì khi Ngài i vào pháp thiền Quán, Ngài bắt ầu bằng pháp quán này và cũng vì giáo lý này rất vi tế thâm diệu và khó hiểu).

Khi Đức Phật quán i quán lại pháp Duyên khởi này theo thứ tự cả xuôi lẫn ngược, Ngài càng thấy rõ hơn, sâu rộng hơn quá trình sanh khởi của vòng khổ au trong saṁsāra theo thứ tự xuôi như sau: do sự khởi sanh của các nguyên nhân như vô minh, v.v... thì khởi sanh liên tục các quả như hành, v.v... Dường thế ấy, Đức Phật cũng biết rõ quá trình diệt tắt của luân hồi khổ theo thứ tự nghịch như sau: do sự diệt tắt của các nguyên nhân như vô minh, v.v… thì có sự diệt tắt các kết quả như hành, v.v... Sự quán xét này làm khởi sanh liên tục trong dòng tâm của Đức Phật một loạt những ổng lực tâm ại hạnh, câu hành hỉ, tương ưng trí, vô trợ (mahā-kriyā somanassasahagata ñāṇasampayutta asaṅkhārika javana).

Khi một cái bình ựng bơ lỏng hoặc dầu ầy ến miệng thì lượng thừa sẽ tràn ra ngoài; tương tự, khi tâm của Đức Phật ngập tràn hỷ lạc do trí tuệ thông suốt pháp Duyên khởi càng lúc càng rõ rệt hơn thì tâm của Đức Phật cũng tràn ầy hoan hỉ kệ như sau:

Yadā have pātubhavanti dhamma

                    ātāpino jhāyato brāhmanassa                     Athassa kankhā vapayanti sabba                    Yato pājanāti sahetudhammaṁ.

Khi ba mươi bảy Pháp trợ ạo (Bodhipakkhiya Dhamma) xuất hiện một cách sống ộng trong dòng tâm của vị arahat, bậc ã oạn trừ tất cả iều ác, bậc có sự nỗ lực chân chánh ể thiêu ốt một ngàn năm trăm phiền não, có pháp thiền vững chắc ến mức ộ chứng ắc An chỉ ịnh (Appanā-jhāna), nhờ pháp quán về ba ặc tánh vô thường, khổ và vô ngã của nhiều ề mục thiền chỉ như Hơi thở vô ra và Danh sắc uẩn. Do sự xuất hiện sống ộng của ba mươi bảy Pháp Trợ ạo, vị ấy liễu tri khổ uẩn bao gồm vô minh, v.v... là nhân và hành, là quả. Do thấy rõ pháp Duyên khởi (Paticcasamuppāda) này, tất cả mọi hoài nghi liên quan ến các pháp hoặc tất cả mười sáu hoài nghi liên quan ến danh sắc mà xảy ra trong ba thời (quá khứ, hiện tại và vị lai) do vô minh không thấy Paticcasamuppāda. Tất cả hoài nghi ấy ều biến mất trong dòng tâm của vị A-la-hán ấy, như những giọt sương tan biến theo sức nóng mạnh mẽ của ánh sáng ban mai.

                      Đến canh giữa của           êm, Đức Phật quán     i quán lại

Paticcasamuppāda theo thứ tự thuận nghịch suốt cả canh ấy. Khi Ngài quán như vậy thì trí tuệ liễu tri Niết bàn, sự diệt tắt của nguyên nhân, càng lúc càng rõ ràng hơn. Điều này dẫn ến sự sanh khởi trong dòng tâm của Ngài một loạt những ổng lực tâm ại hạnh, câu hành hỉ, tương ưng trí và vô trợ (mahā-kriyā somanassa-sahagata ñāṇasampayutta asaṅkhārika javana). Vì Ngài không thể kềm chế hỉ lạc ấy, Ngài lại thốt lên một bài kệ hoan hỉ tựa như hỉ lạc ang tuôn tràn ra ngoài:

Yadā have pātubhavanti dhammā

                   ātāpino jhāyato brāhmanassa.                     Atthassa kaṅkhā vapayanti sabha                   yato khayaṁ paccayānaṁ avedi.

Khi ba mươi bảy Pháp Trợ ạo xuất hiện sống ộng trong dòng tâm của vị A-la-hán, bậc ã oạn trừ tất cả iều ác, bậc có sự nỗ lực chân chánh, ể thiêu ốt một ngàn năm trăm phiền não, có pháp thiền vững chắc ạt ến mức ộ An chỉ ịnh (Appanā-jhāna), nhờ pháp quán về ba ặc tánh vô thường, khổ và vô ngã của nhiều ề mục thiền như hơi thở vô ra và danh sắc uẩn. Do sự xuất hiện sống ộng của ba mươi bảy Pháp Trợ bồ ề, Ngài thông ạt Niết bàn vô vi, sự diệt tắt của tất cả các nhân như vô minh, v.v... Nhờ thấy rõ vô vi Niết bàn tối thượng, còn ược gọi là sự diệt tắt các nhân (paccayakkhaya), tất cả mọi hoài nghi xảy ra trong ba thời do bởi vô minh không thấy Niết bàn ều biến mất trong dòng tâm của vị A-la-hán ấy, như những giọt sương tan biến theo sức nóng của mặt trời ban mai.

                  Qua     canh     cuối     của      êm,     Đức    Phật    quán             pháp

Paticcasamuppāda lập i lập lại theo thứ tự thuận nghịch suốt canh. Khi Ngài quán như vậy thì trí tuệ liễu tri thánh ạo của Ngài thấy thông suốt quá trình khởi sanh liên tục và sự diệt tắt của vòng khổ au trở nên càng lúc càng rõ rệt. Điều này dẫn ến sự khởi sanh liên tục trong dòng tâm của Ngài một loạt những ổng lực tâm ại hạnh, câu hành hỉ, tương ưng trí và vô trợ (mahā-kriyā somanassa-sahagata ñāṇasampayutta asaṅkhārika javana). Bởi vì Ngài không thể kềm chế hỉ lạc ấy, Ngài lại thốt lên bài cảm hứng kệ thứ ba tựa như hỉ lạc ang tuôn tràn ra ngoài.

Yadā have pātubhavanti dhammā            ātāpino jhāyato brahmanassa            vidhūpayaṁ tiṭṭhati mārasenaṁ            sūriyo va obhāsayaṁ antalikkhaṁ.

Khi ba mươi bảy Pháp trợ ạo xuất hiện sống ộng trong dòng tâm của vị A-la-hán, bậc ã oạn trừ tất cả iều ác, bậc có sự nỗ lực chân chánh ể thiêu ốt một ngàn năm trăm phiền não, có pháp thiền vững chắc ạt ến An chỉ ịnh, nhờ pháp quán về ba ặc tánh vô thường, khổ và vô ngã của nhiều ề mục thiền như hơi thở vô ra và danh sắc uẩn. Như mặt trời mọc trên ỉnh núi Yugandhara, chiếu sáng khắp bầu trời; cũng vậy, vị A-la-hán ấy nhờ ba mươi bảy Pháp Trợ ạo, ã ánh tan mười ạo binh ma như dục, v.v… và sáng chói bằng ngọn uốc trí tuệ của vị ấy giống như mặt trời.

(Trong bộ Udāna Pāḷi, có giải thích rằng suốt canh ầu của êm, pháp Paticcasamuppāda ược quán theo thứ tự xuôi; suốt canh giữa pháp ược quán theo thứ tự ngược và suốt canh cuối của êm pháp ược quán theo thứ tự cả xuôi lẫn ngược. Lời giải thích này, ám chỉ sự quán pháp của Đức Phật vào êm thứ bảy, êm cuối cùng của tuần lễ ngụ trên Vô ịch bảo tọa).

Sau khi quán pháp Paticcasamuppāda thứ tự thuận và nghịch suốt cả ba canh của êm trong ngày mười sáu tháng Vesakha, Đức Phật ã thốt lên ba bài cảm hứng kệ kể trên - thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu và thứ bảy cũng vậy, Ngài vẫn ngồi trên Vô ịch bảo tọa, thọ hưởng an lạc của Đạo A-la-hán.

(2)   Tuần lễ ngắm nhìn (Animisa Sattāha)

(Bảy ngày Đức Phật nhìn chăm chú vào Đại thọ Bồ-ề và Vôịch bảo tọa mà không hề nhắm mắt thì ược gọi là Animisa sattāha)  Sau khi chứng ắc Phật quả và thọ hưởng sự an lạc của Đạo Quả A-la-hán, Đức Phật vẫn ngồi trên Vô ịch bảo tọa suốt bảy ngày trong tư thế ngồi kiết già. Trong dòng tâm của một số chư thiên và Phạm thiên còn phàm phu (khác với chư thiên và Phạm thiên bậc thánh biết ược những ân ức của Đức Phật, một phần là do ã chứng ắc Đạo Quả trong thời kỳ của các vị Phật quá khứ), khởi sanh những hoài nghi rằng : “ Đến giờ mà Đức Phật vẫn chưa rời khỏi bảo tọa. Ngoài những ân ức mà Ngài ã có, phải chăng vẫn còn những ân ức khác giúp Ngài có thể chứng ắc Phật quả?”

Rồi ến ngày thứ tám, Đức Phật xuất khỏi thiền quả, ra khỏi sự thọ hưởng pháp giải thoát. Khi biết ược những hoài nghi của chư thiên và Phạm thiên, Đức Phật bay vào không trung thị hiện Song thông gồm nước và lửa ể oạn diệt những hoài nghi của họ. (Song thông ược thị hiện ở ây tại cây ại thọ Mahābodhi, song thông ấy cũng ược thị hiện trước hội chúng quyến thuộc của Đức Phật tại kinh thành Kapilavatthu, và cũng ược thị hiện trước hội chúng do ngoại ạo sư Pathikaputta dẫn ầu ở kinh thành Vesali, song thông này giống như song thông ược thị hiện gần cây xoài Kandamba. Sự mô tả chỉ tiết của phần cuối sẽ ược trình bày sau).

Sau khi oạn trừ các hoài nghi trong tâm của chư thiên và Phạm thiên bằng sự thị hiện Song thông gồm nước và lửa, Đức Phật từ không trung i xuống và ứng thẳng như cột trụ bằng vàng tại chỗ ở hướng Đông Bắc của Vô ịch Bảo tọa. Rồi với ý nghĩ: “ Ta quả thực ã chứng ắc Nhất thiết trí trên Vô ịch bảo tọa này.” Ngài trải qua bảy ngày ứng thẳng không nhắm mặt, chỉ nhìn chăm chú vào Bảo tọa và Đại thọ Bồ- ề, nơi mà Ngài ã chứng ắc A-la-hán ạo trí (Arahatta-magga-ñāṇa) và Nhất thiết trí (sabbañuta-ñāṇa) do kết quả của những pháp Ba-la-mật mà Ngài ã thực hành suốt bốn asaṅkhyeyya và một trăm ngàn ại kiếp. Nơi ó ược gọi là Animisa Cetiya.

(3) Tuần lễ kinh hành (Cankama Sattāha)

Đến tuần lễ thứ ba, Đức Phật i kinh hành trên con ường châu báu do chư thiên và Phạm thiên tạo ra và trải dài từ ông sang tây nằm giữa Vô ịch bảo tọa (Aparājita pallaṅka) và nơi Đức Phật ứng (Animissa cetiya), ồng thời Ngài cũng quán các pháp và nhập vào quả ịnh (phala-samāpatti). Chỗ ấy ược gọi là Ratanācankama

Cetiya.

(4)Tuần lễ tại Bảo ốc (Ratanāghara Sattāha) 

Vào tuần lễ thứ tư, Đức Phật quán pháp vi diệu Abhidhammā trong khi ang ngồi kiết già trong bảo ốc bằng vàng (Ratanāghara) do chư thiên và Phạm thiên tạo ra ở hướng ông bắc của ại thọ bồ-ề.

Theo bộ Jinālaṅkāra Tīkā, khi Đức Phật ngồi kiết già trong Bảo ốc và quán pháp, dò xét những chúng sanh hữu duyên ể tế ộ, Ngài thông suốt quá trình của pháp hành bao gồm giới (sīla), ịnh (simādhi) và tuệ (paññā). Những chúng sanh hữu duyên trong các cõi nhân loại, chư thiên và Phạm thiên chứng ắc ạo quả và Niết bàn nhờ an trú trong giới nhờ có tâm tập trung do ịnh (sāmadhi) và nhờ nỗ lực tinh tấn trong pháp quán do tuệ (paññā). Do ó, Đức Phật trước hết quán về tạng Luật (Viniya Piṭaka) trong ó giảng dạy về giới (sīla), rồi ến tạng Kinh (Sutta Piṭaka) giảng dạy về ịnh (samādhi), và cuối cùng quán về tạng Abhidhamma Piṭaka là tạng dạy về tuệ (paññā).

Khi Ngài quán tạng Abhidhamma Piṭaka, trước hết Ngài quán sáu bộ có nội dung ít cao siêu hơn, ó là Dhammasaṅganī Vibhaṅga, Dhātukathā, Puggala Paññatti, Kathā VatthuYamaka. Lúc ấy hào quang sáu màu của Ngài không phát ra vì Nhất thiết trí của Ngài rất quảng ại mà giáo lý trong ó thì tương ối hữu hạn. Nhưng khi Ngài quán về bộ thứ bảy, bộ Paṭṭhāna với vô số phương pháp (anantanaya samanta), Nhất thiết trí của Ngài tìm thấy cơ hội ể phát ra hào quang cực mạnh của nó (như con cá khổng lồ Timiñgala, dài một ngàn yojana, có dịp vùng vẫy trong ại dương to lớn).

Khi Đức Phật suy xét những iểm vi tế và thậm thâm nhất trong tất cả giáo lý Paṭṭhāna với vô số phương pháp thì dòng tâm của Đức Phật khởi sanh hỉ lạc to lớn. Do hỉ lạc như vậy, máu huyết của Ngài trở nên trong sáng hơn; do máu huyết trong sáng, da của Ngài tinh khiết hơn; do da tinh khiết, vầng hào quang có kích thước bằng một ngôi nhà hay một quả núi phát ra từ phần thân trước của Ngài và tỏa ra xuyên thấu vô số thế giới ở về hướng Đông, như voi chúa Chaddanta bay xuyên qua bầu trời.

Tương tự vậy, hào quang xuất hiện từ phần thân sau của Đức Phật xuyên thấu vô số thế giới về hướng tây; hào quang từ bên phải của Đức Phật chiếu sáng vô số thế giới về hướng nam; hào quang phát ra từ bên trái chiếu sáng vô số thế giới về hướng bắc. Và từ dưới hai bàn chân của Đức Phật, hào quang màu san hô phát xuyên khoảng không gian bên dưới sau khi xuyên qua lớp ất, lớp nước, và lớp gió, như sợi dây chuyền bằng ngọc bích ược làm cho quay tròn, những quả cầu của hào quang màu xanh nổi lên nối tiếp nhau từ trên ầu của Ngài thấu ến không gian ở bên trên sau khi i xuyên qua sáu cõi chư thiên và hai mươi cõi Phạm thiên. Vào lúc ấy, vô số chúng sanh trong vô số thế giới ều ánh lên sắc vàng.

Chú thích: Hào quang phát ra từ thân của Đức Phật, vào ngày Ngài quán giáo lý Paṭṭhāna, cho ến bây giờ vẫn còn tiếp tục i sâu ến vô số thế giới như là chuỗi liên tục của sắc do thời tiết sanh (utujarūpa).

                       Những bài kệ tán dương hào quang sáu màu 

                            (Chabbaṇa-raṁsi Buddha Vandanā) 

Về vấn ề này, những bài kệ tán dương hào quang sáu màu của

Đức Phật và những bản dịch của chúng do Mahāvisuddhārāma Sayadaw thực hiện sẽ ược nêu ra ể em lại lợi ích cho những người muốn tầm cầu trí tuệ (sutakāmi).

  1. Sāttasattāhamajjhambi

                        nātho yo sattā sammasi                                 patvā samantapaṭṭhānaṃ                                okāsaṁ labhate tadā.

Đức Phật, Đấng Thế Tôn sanh trong ba cõi, suy xét về bảy bộ Abhidhammā, ó là Dhammasaṅganī, Vibhaṅga, Dhātukathā, Puggala Paññatti, Kathāvatthu, YamakaPaṭṭhāna trong khi ang ngụ trong ngôi nhà bằng châu báu (ratanāghara) suốt tuần lễ thứ tư. Ngài suy xét bằng Nhất thiết trí - thậm thâm, vi tế và quảng ại vô song, là kết quả của những pháp Ba-la-mật phi thường ược thực hành trải qua vô số ại kiếp. Sau ó, khi vận dụng trí tuệ Ngài thâm nhập vào giáo lý Paṭṭhāna, mà bằng nhiều phương pháp mới, sâu rộng hơn ại dương có kích thước tám mươi bốn ngàn do tuần, ược bao quanh bởi rặng núi á. Sau khi thâm nhập vào giáo lý Paṭṭhāna như vậy, Nhất thiết trí của Ngài, thậm thâm, vi tế và hùng mạnh vô song, là kết quả của những pháp Ba-la-mật phi thường ã ược thực hành trải qua nhiều ại kiếp, có cơ hội ể phô diễn tánh rực rỡ của nó.

  1. Yojanānaṃ satāyāmo

                        pañca timirapiṅgalo                             kīl’okāsaṁ samudd’eva                             gambhīre labhate yathā.

Đây là ví dụ chứng minh; có một con cá khổng lồ tên là Timirapiṅgala, dài năm trăm do tuần. Con cá này ược dịp vẫy uôi, bơi lội và nô giỡn trong ại dương sâu tám ngàn do-tuần, bao quanh bởi những dãy núi á. Tương tự, Nhất thiết trí của Đức Phật, thậm thâm, vi diệu và hùng mạnh vô song, là kết quả của những pháp Ba-lamật phi thường ã ược tu tập trải qua nhiều ại kiếp liên tục, có cơ hội phô diễn tánh rực rỡ của nó.

  1. Sammantassa taṁ 

                               tadā satthu sarīrato

                         Taṁ taṁ dhāvanti chabbaṇṇā                               lohitādi-pasīdanā.

Khi Ngài có dịp phô diễn như vậy, thì hào quang sáu màu – xanh, vàng, ỏ, trắng, hồng và màu hỗn hợp của những màu này trải phủ khắp các chỗ, bên phải và bên trái, phía trước và phía sau, bên trên và bên dưới, từ thân cao mười tám hắc tay của Đức Phật. Do bởi trạng thái trong suốt và phát sáng của máu huyết, v.v... của Đức Phật khi Ngài ang quán pháp Paṭṭhāna vi diệu như những hạt nguyên tử. Bậc ạo sư thốt ra những lời khuyến giáo ến chúng sanh trong ba cõi gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên.

  1. Nīlāyo nīlaṭṭhānehi

                            pitodātā ca lohitā                             tamhā tamhā tu mañjeṭṭhā                             nikkhamiṁsu pabhassarā.

Từ những phần màu xanh trên thân của Đức Phật như tóc và con ngươi, phát ra những tia hào quang màu xanh có kích thước bằng ngôi nhà hay quả núi. Hào quang có màu hơi xám, hơi xanh và hơi xanh lục như màu của hạt ậu xanh, hoa sen xanh chiếu sáng rực rỡ làm cho toàn thể trời ất có màu xanh, hoặc xanh như những cái quạt bằng ngọc bích và những chiếc khăn ang phe phẩy nhẹ nhàng, êm ả, ã tỏa sáng liên tục từ ngày Đức Phật quán pháp Paṭṭhāna cho ến chiều hôm nay.

Những phần màu vàng trên thân của Đức Phật như da của Ngài, phát ra những tia hào quang màu vàng có kích thước bằng ngôi nhà hay quả núi. Chiếu sáng rực rỡ, hào quang bao trùm khắp mười phương làm cho tất cả thân phủ vàng như những tấm vải vàng ược trải ra trên một khu vực rộng lớn hay như bột nghệ và hoa kanikara bằng bạc khắp không trung, ã tỏa sáng liên tục từ ngày Đức Phật quán pháp Paṭṭhāna cho ến chiều hôm nay.

Những phần màu trắng trên thân của Đức Phật như xương, răng và những phần trắng của hai con mắt, những tia hào quang màu trắng có kích thước bằng ngôi nhà hay quả núi. Chiếu sáng rực rỡ, những tia hào quang ấy giống như dòng sữa tuôn ra khắp quanh từ cái bình bằng bạc, hay như cái lọng bằng bạc che khắp bầu trời, hoặc như những chiếc quạt bằng bạc phe phẩy nhẹ nhàng và êm ả từ những ám mây ở trên cao, hay như hoa lài trắng, hoa maghya, hoa sen trắng, hoa sumanamuggara ược trộn chung với nhau, ã chiếu sáng liên tục từ ngày Đức Phật quán pháp Paṭṭhāna cho ến chiều hôm nay.

Những phần màu ỏ trên thân của Đức Phật như mắt, thịt và máu, phát ra những tia hào quang ỏ có kích thước bằng ngôi nhà hay quả núi. Chiếu sáng một cách rực rỡ,  hào quang ỏ giống như bột chì ỏ, sơn dầu chảy, hoa hồng, hoa parijata của Ấn ộ, làm cho mặt ất và mặt nước và toàn thể không gian ược nhuộm màu ỏ, ã tỏa sáng liên tục từ ngày Đức Phật quán pháp Paṭṭhāna cho ến chiều hôm nay.

Ngoài ra, từ những chỗ khác trên thân của Đức Phật phát ra những tia hào quang có những màu ậm và nhạt (mañjettha) do sự pha trộn của màu en, ỏ và xanh và những tia hào quang có những màu óng ánh, lấp lánh và chói lọi (pabhassara) có kích thước bằng ngôi nhà hoặc quả núi. Chiếu sáng rực rỡ, hào quang giống như tia chớp trong trời suốt tháng Vesakha, hoặc như những tia lửa loé sáng, ã chiếu sáng từ ngày Đức Phật quán pháp Paṭṭhāna cho ến chiều hôm nay.

  1. Evaṃ chabbaṇṇaraṁsiyo

                            etā yāvajjavāsarā

                            sabhā disā vidhāvanti                             pabhā nassanti tatthikā.

Như vậy, hào quang sáu màu, gồm xanh, vàng, ỏ, trắng, xám và sáng lấp lánh ã chiếu khắp mười phương cho ến hôm nay - thời gian mà giáo pháp của Đức Phật vẫn còn chiếu sáng. Hào quang phát ra từ thân và hào quang của chư thiên và Phạm thiên chiếu sáng từ những cây Như ý hoặc những cây kapparukkha, những lạc viên, cung iện chiếu sáng toàn thể mười ngàn thế giới chỉ bằng mười ngón tay của họ, tất cả hào quang ấy ều biến mất khi chạm phải hào quang sáu màu của Đức Phật.

  1. Iti chabbaṇṇaraṁsitā

                           aṅgiraso ti nāmaso                            loke patthaṭagunaṃ taṁ                            vande Buddhaṁ namassiyaṁ.

Đức Phật, Thế Tôn, bậc có danh hiệu Angirasa vì Ngài có hào quang sáu màu, bậc có danh tiếng thấu khắp ba cõi, xứng áng ược toàn thể thế gian tôn kính cúng dường, bậc thông suốt Tứ diệu Đế như thấy rõ viên ngọc trong lòng bàn tay. 

Con với thân ba mươi hai thể trược, con xin cúi ầu ảnh lễ Ngài khi hồi tưởng lại thời gian Thế Tôn còn tại tiền.

Giáo lý Paṭṭhāna với phương pháp chia chẻ nhiều vô số như bầu trời, rộng lớn như quả ất và sâu thẳm như ại dương. Tuy vậy, Đức Phật, bằng Nhất thiết trí rộng lớn và mẫn tiệp, Ngài ã thông ạt hết giáo lý ấy trong vòng bảy ngày. Chỗ mà Đức Phật quán pháp bảo trong bảy ngày ược gọi Ratanaghara-cetiya.

   (5) Tuần lễ tại cây Ajapāla 

Sau khi trải qua bốn tuần lễ (hai mươi tám ngày) gần cây Đại thọ Bồ-ề và vào tuần thứ năm Đức Phật i ến cội cây a Ajapāla, ở hướng Đông của cây Bồ-ề và trú ngụ bảy ngày dưới cội cây ấy, quán pháp và nhập quả ịnh (phala-samāpatti) (Cây a này ược gọi là Ajapāla bởi vì ây là nơi mà những người chăn dê ến tụ họp và trú mát).

Lúc bấy giờ, một vị Bà-la-môn không rõ tên họ, tánh tình ngã mạn và thô bạo, i ến Đức Phật và chuyện trò vui vẻ với Ngài. Sau khi trao ổi những lời thăm hỏi vui vẻ, áng ghi nhớ, vị Bà-la-môn ngã mạn ứng ở nơi thích hợp và hỏi Đức Phật. “Kính bạch Đức Gotama, những ân ức nào tạo nên một vị Bà-la-môn thực sự trong thế gian này? Phải tu tập pháp môn nào ể trở thành bậc Thánh?”

Ở ây, vị Bà-la-môn ngã mạn sẽ không thông ạt Tứ Diệu Đế cho dù Đức Phật thuyết pháp cho ông ta. Thực ra, những người nghe pháp kệ của Đức Phật trước khi Ngài thuyết bài kinh Chuyển pháp luân chỉ ược lợi ích là có ấn tướng trong tâm mà thôi, như trường hợp hai vị thương buôn Tapussa và Bhallika chỉ ược lợi ích qua sự quy y mà thôi, họ không bao giờ thông ạt Tứ Diệu Đế ể chứng ắc Đạo Quả. Đó là pháp tánh (dhammata) hay qui luật tự nhiên (Sārattha Dīpanī Ṭīkā). Do vị Bà-la-môn ngã mạn không thể thâm nhập giáo pháp ược (vì không phải là người có khả năng giác ngộ Tứ Diệu Đế), nên Đức Phật không thuyết pháp ến ông ta. Nhưng vì hiểu rõ ý nghĩa trong câu hỏi của vị Bà-la-môn, Đức Phật nói lên cảm hứng kệ này:

Yo brahmaṇo bāhitapāpadhammo

                       nihuṅhutṅko nikkasāvo yatatto                        vedantagū vusitabrahmacariyo                         dhammena so brahmavādaṃ vadeyya                        yass’ ussadā n’athi kuhiṅci loke.

Vị A-la-hán ược gọi là Bà-la-môn, là bậc ã oạn diệt tất cả iều ác, ã thoát khỏi tánh thô bạo và ngã mạn; vị ấy ã thoát khỏi ô nhiễm; vị ấy chuyên tâm hành thiền hoặc vị ấy ã chế ngự tâm bằng giới; hay vị ấy ã ạt ến Niết bàn, sự diệt tận các pháp hữu vi qua tứ Đạo Tuệ (magga-ñāṇa), hoặc vị ấy ã ạt ến arahatta-phala, ỉnh cao của tứ magga-ñāṇa. Vị ấy ã thành tựu pháp hành của bậc thánh về Đạo dẫn ến Niết bàn. Trong thế gian này, nơi mà các pháp khởi sanh và hoại diệt, tuyệt ối không có năm bất thiện tăng thịnh pháp (ussadā) trong con người của vị A-la-hán ối với năm vật dục. Năm bất thiện pháp tăng thịnh ấy là tham ái tăng thịnh (rāg’ussāda), sân tăng thịnh (dos’ussāda), si tăng thịnh (moh’ussāda), ngã mạn tăng thịnh (mān’usada) và tà kiến tăng thịnh (diṭṭh’ussāda). Vị A-la-hán mà ược gọi Bà-la-môn ấy sẽ dũng cảm công bố rằng : “ Ta ích thực là một vị Bà-la-môn !”

(Có nghĩa là : người ược gọi là Bà-la-môn có bảy ân ức sau ây: (1) ã oạn tận các iều ác, (2) thoát khỏi tánh thô bạo và cống cao ngã mạn, (3) thoát khỏi các pháp ô nhiễm, (4) tâm ược chế ngự bằng giới, (5) giác ngộ Niết bàn, (6) thành tựu thực hành bậc thánh của con ường Đạo và (7) tâm không còn sanh khởi năm bất thiện pháp tăng thịnh (ussada).

Sự chấp nhận thất bại của Ma Vương  

Ma vương ã theo sát Đức Phật suốt bảy năm ể chờ có dịp tìm thấy lỗi lầm nơi Ngài, nhưng không thể có ược cơ hội như vậy dù nhỏ nhất. Do ó, y i ến Đức Phật khi Ngài ang ngồi dưới gốc cây a Ajapāla và nói lên câu kệ sau ây:

“ Này ông Sa-môn Gotama, phải chăng do bị phiền não nên ông mới ngồi ở ây trong khu rừng này? Phải chăng ông ã bị mất mát của cải trị giá ến hằng trăm, hằng ngàn? Hay phải chăng ông ngồi ây trong khu rừng này vì ông ã phạm phải lỗi lầm nghiêm trọng trong một ngôi làng hay thị trấn mà không dám gặp mặt mọi người? Tại sao ông không kết bạn với mọi người? Ông hoàn toàn không có sự thân thiện với mọi người!”

Đức Phật trả lời: “ Này Ma-vương, Ta ã oạn tận tất cả nguyên nhân của phiền não, ngay cả một chút iều ác Ta cũng không có. Hoàn toàn thoát khỏi lo âu, ta an trú trong hai loại ịnh (jhāna). Ta ã cắt ứt hữu ái (bhava-taṅhā). Ta không luyến ái bất cứ iều gì, Ta sống an lạc trong hai loại ịnh. (Trái ngược với iều ngươi nghĩ, Ta ngồi suy nghĩ nơi ây không phải vì thương tiếc cho sự mất mát của cải hoặc vì muốn ược nó).

Ma vương lại nói: “ Này ông Sa-môn Gotama, trong thế gian này có một số người và một số Sa-môn chấp thủ những ồ vật quí giá của họ như vàng và bạc và những vật dụng như y phục, v.v... Họ cho rằng : “ Cái này là của ta. Nếu tâm của ông cũng như những người này và những Sa-môn này mà bám chấp vào vàng, bạc ấy và y phục, v.v… thì ông không thoát khỏi quyền kiểm soát của ta trong ba cõi.”

Đức Phật : “ Này Ma vương, Ta không chấp thủ chút nào ối với những vật quí giá như vàng, bạc, v.v… và những vật dụng như y phục, v.v… khi nói rằng “ Cái này là của ta.”  “ Này Ma-vương, hãy biết Ta là con người như vậy! Bởi vì Ta ã khước từ ba cõi, ngươi sẽ không bao giờ thấy ược con ường của ta trong những vùng kiểm soát của ngươi như ba cõi hữu (bhava), bốn hình thức tái sanh (yoni), năm sanh thú (gati), bảy thức trú (viññanaṭhiti), và chín trú xứ của chúng sanh hữu tình.”

Ma vương: “ Này Sa-môn Gotama, nếu ông biết ược con ường an toàn, thánh thiện dẫn ến Niết bàn thì ông hãy i một mình. Tại sao ông muốn giảng dạy cho kẻ khác và tiếp ộ họ?”

Đức Phật: “ Này Ma vương (dầu ngươi ra sức ngăn cản Ta ến mấy chăng nữa), Ta vẫn cứ giảng dạy cho họ con ường chân chánh của bậc Thánh dẫn ến Niết bàn nếu chư thiên, nhân loại và Phạm thiên yêu cầu Ta giảng dạy về con ường thánh thiện dẫn ến Niết bàn, thoát khỏi tử sanh.”

Khi nghe vậy, Ma vương ã hết phương quanh co như con cua bị bọn trẻ trong làng ập gãy càng, bèn nói lên hai câu kệ chấp nhận thất bại:

Medāvaṇṇaṅ ca pāsānaṁ, vāyaso anuparrigā

                       apettha muduṁ vindema, api assādanā siyā.                        Aladdha tattha assādaṁ, vāyasetto apakkame                        kāko’va selamāsajja nibbijjāpema Gotama.

“Đức Phật, danh hiệu Gotama, hậu duệ của Đại vương Mahāsammata! Ví như con quạ ói ngây ngô  nhảy quanh tám hướng, i quanh một tảng á trông giống như cục mỡ và dùng mỏ mổ vào tảng á ấy, vì nó nghĩ rằng nó sẽ kiếm ược một miếng mỡ mềm với một ít thịt, hương vị của nó sẽ thật sự thơm ngon và tràn ngập khắp châu thân.

Nhưng không thể kiếm ược hương vị thơm ngon từ tảng á ấy, con quạ ngớ ngẩn rời bỏ tảng á. Giống như con quạ ngu si ấy, chẳng thưởng thức ược chút hương vị nào dù ã ra sức mổ quanh tảng á giống như cục mỡ ấy, phải rời bỏ cục á mà i; chúng tôi từ bỏ, chịu thất bại trong buồn bã và chán nản tột ộ, vì không thể thành công iều gì sau khi quấy nhiễu, xúc phạm và ngăn cản Ngài, thưa

Thế Tôn.” 

Những ứa con gái của Ma Vương ến mê hoặc Đức Phật 

Sau ó, Ma vương ngồi trầm ngâm suy nghĩ như vầy : “ Tuy ta luôn theo sát Đức Phật ể tìm lỗi của Ngài, ta không thể tìm thấy nơi thái tử Siddhattha một lỗi nhỏ nào áng chê trách. Giờ ây, thái tử Siddhattha ã thoát khỏi quyền kiểm soát của ta trong ba cõi.” Như vậy, y ã ngồi ủ rũ, buồn bã cô ộc trên con ường chính không xa Đức Phật mấy và vạch xuống ất mười sáu ường kẻ sau khi xuy xét mười sáu vấn ề sau ây:

  1. “Không như thái tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn pháp Bố thí Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Vì lý do này, ta không thể sánh bằng Thái tử.”  Với ý nghĩ này Ma vương vạch ường kẻ thứ nhất.
  2. “Không như thái tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn Giới Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Vì lý do này, ta không thể sánh bằng Thái tử.”  Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ hai.
  3. “Không như thái tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn Xuất gia Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Vì thế ta không thể sánh bằng Thái tử.”  Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ ba.
  4. “Không như thái tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn Trí tuệ Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Vì thế ta không thể sánh bằng Thái tử.”  Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ tư.
  5. “Không như Thái Tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn Tinh tấn Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Vì thế ta không thể sánh bằng Thái tử.”  Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ năm.
  6. “Không như Thái Tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn Nhẫn nại Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Vì thế ta không thể sánh bằng Thái tử.” Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ sáu.
  7. “Không như Thái Tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn Chân thật Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Vì thế ta không thể sánh bằng Thái tử.”  Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ bảy.
  8. “Không như Thái Tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn Chí nguyện Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Vì thế ta không thể sánh bằng Thái tử.”  Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ tám.
  9. “Không giống như Thái Tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn Từ Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Vì thế ta không thể sánh bằng Thái tử.” Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ chín.
  10. “Không như thái tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn Xả Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta. Vì thế ta không thể sánh bằng Thái tử.” Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ mười.
  11. “Không như thái tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta ể có ược Căn thượng hạ trí (Indriya-paropariyatti-ñāṇa). Vì thế ta không thể sánh bằng Thái tử.” Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ mười một.
  12. “Không như thái tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta ể có ược ý lạc Tuỳ miên trí (āsayanusaya-ñāṇa). Vì thế ta không thể sánh bằng Thái tử.” Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ mười hai.
  13. “Không như Thái tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta ể có ược Đại bi ịnh trí (mahā-karunā-samāpatti-ñāṇa). Vì thế, ta không thể sánh bằng Thái tử.” Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ mười ba.
  14. “Không như Thái tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta ể có ược Song  thông trí (yamaka-pāṭihāriya-ñāṇa). Vì thế, ta không thể sánh bằng Thái tử.” Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ mười bốn.
  15. “Không như Thái tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta ể có ược Vô chướng trí (anāvaraṇa-ñāṇa). Vì thế, ta không thể sánh bằng Thái tử.” Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ mười lăm.
  16. “Không như Thái tử Siddhattha, ta chưa thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật trong những kiếp quá khứ của ta ể có ược Nhất thiết trí (sabbaññuta-ñāṇa). Vì thế, ta không thể sánh bằng Thái tử.” Với ý nghĩ này, Ma vương vạch ường kẻ thứ mười sáu.

Lúc bấy giờ, ba người con gái của Ma vương: Taṅhā, Arati và Rāga, nhìn quanh suy nghĩ: “ Chúng ta không  nhìn thấy cha của chúng ta. Hiện giờ ông ang ở âu?” và chúng thấy Ma vương ang ngồi ủ rũ, gạch những ường kẻ trên mặt ất. Bởi vậy, chúng vội vã i ến Ma vương và hỏi rằng: “ Thưa cha, tại sao cha trông có vẻ buồn bã và tuyệt vọng như thế?” “ Này các con,” Ma vương áp lại: “ Vị Sa-môn Gotama này ã thoát khỏi quyền kiểm soát của chúng ta trong 3 cõi. Dù ta ã theo sát vị ấy suốt bảy năm ể tìm lỗi nơi vị ấy, nhưng ta không thể tìm thấy cơ hội nhỏ nhất ể chỉ trích lỗi lầm của vị ấy. Do ó, ta rất buồn chán và tuyệt vọng.” “Thưa cha, xin ừng lo. Chúng con sẽ mê hoặc Sa-môn Gotama này và em vị ấy về trước mặt cha.” Ba người con gái ã hứa với Ma vương như thế.

Rồi Ma vương áp lại: “ Này các con, không ai trong thế gian này có thể mê hoặc ược Sa-môn Gotama. Ngài ã khéo an trú trong niềm tin bất ộng.” “ Thưa cha, chúng con là phái nữ. Chúng con sẽ ưa vị ấy vào trong cạm bẩy dục tình và nhanh chóng em vị ấy ến trước mặt cha. Xin ừng ưu tư, tuyệt vọng.” Khi nói vậy, ba cô gái i ến trước mặt Đức Phật và nói lời dụ dỗ với Ngài rằng: “ Kính thưa Sa-môn, hãy cho phép chúng con ược hầu hạ Ngài. Chúng con sẽ cung kính ngồi dưới chân Ngài và làm thỏa mãn tất cả mọi nhu cầu của Ngài.” Tuy nhiên, Đức Phật không ể tâm ến chúng, mắt Ngài khép lại, thọ hưởng sự an lạc của Niết bàn qua sự an trú thiền quả (phala-samapatti).

 Rồi ba người con gái của Ma vương lại bàn bạc với nhau như vầy:  “ Đàn ông có những sở thích khác nhau. Một số thích những cô gái trẻ và dịu dàng, số khác thích àn bà ở thời kỳ ầu, một số thích àn bà ở thời kỳ giữa. Bởi vậy, chúng ta hãy hóa làm các nữ nhân ủ loại tuổi tác và chiêu dụ vị Sa-môn này.” Do ó, mỗi nàng trong bọn họ hóa ra một trăm nữ nhân:

  1. Một số mang tướng mạo những cô gái trẻ, 
  2. Một số mang tướng mạo những cô gái ở thời kỳ ầu, 
  3. Một số mang tướng mạo những thiếu phụ một con,
  4. Một số mang tướng mạo những thiếu phụ hai con, 
  5. Một số mang tướng mạo những công nương ở thời kỳ giữa,   (6)  Một số mang tướng mạo những mệnh phụ phu nhân. Tất cả ều có vẻ ẹp riêng của từng lứa tuổi.

Rồi chúng i ến Đức Phật sáu lần và nói lời mê hoặc như lần trước: “Kính bạch Sa-môn, hãy cho phép chúng con ược hầu hạ Ngài, chúng con sẽ tôn kính ngồi dưới chân Ngài và làm thỏa mãn tất cả mọi nhu cầu của Ngài.” Y như trước, Đức Phật không ể ý ến chúng mà vẫn ngồi nhắm mắt, nhập thiền quả ịnh và thọ hưởng sự an lạc của Niết bàn.

Sau ó, Đức Phật nói rằng: “ Hãy i i, này chư thiên. Các ngươi ra sức dụ dỗ ta ể ược lợi ích gì? Các ngươi có thể làm như vậy ối với những kẻ chưa thoát khỏi tham (rāga), sân (dosa) và si mê (moha). Còn về phần Ta, Ta ã hoàn toàn oạn diệt tham; Ta ã hoàn toàn oạn diệt sân; Ta ã hoàn toàn oạn diệt si mê.”  Rồi Đức Phật nói lên hai câu kệ sau ây như ã ược nêu ra trong Pháp cú kinh (Dhammapada Sutta).

Yassa jitam nāvajīyati                       Jitamassa no yāti kosi loke                       taṁ Buddhaṁ ananta gocaraṁ                       apadaṁ kena padena nessatha.

Yassa jālinī visattikā

                      taṅhā natthi kahin ci netave                       taṁ Buddhaṁ ananta gocaraṁ                       apadaṁ kena padena nessatha.

Đức Phật, sau khi ã chiến thắng phiền não, không còn gì ể chiến thắng nữa. Không phiền não nào ã bị oạn diệt còn i theo Ngài. Đức Phật với trí tuệ vô biên ã thông suốt tất cả. Các ngươi sẽ dẫn Đức Phật i bằng cách nào?

Đức Phật không còn những yếu tố như ái dục (taṅhā) - giống như cái lưới trói buộc chúng sanh trong luân hồi, có ặc tánh của chất ộc cực mạnh, ặc biệt có khả năng bám dính vào mọi thứ. Đức Phật ấy, với trí tuệ vô biên Ngài ã thông suốt tất cả, Bậc không còn những phiền não như tham ái. Các ngươi sẽ dẫn Ngài i bằng cách nào?

Sau khi nói lời tán dương Đức Phật, chúng nói với nhau rằng: “ Cha của chúng ta ã nói úng sự thật. Sa-môn Gotama này có những ân ức như Ứng cúng (Arahaṁ) và Thiện Thệ (Sugata), Ngài không thể dễ dàng bị mê hoặc bằng tham ái.”  Ba nàng con gái của Ma vương bèn trở về với cha của chúng.

Ý ịnh của Đức Phật là sống tôn kính Pháp 

Khi Đức Phật ang ngụ dưới cội cây a Ajapāla, Ngài suy nghĩ : “Sống mà không có sự tôn kính ến kẻ khác (không có ai ể tôn kính) quả thật là phiền muộn. Ta nên i ến ai ể bày tỏ sự tôn kính? Ai ã oạn diệt tất cả phiền não? Ai ã oạn trừ tất cả mọi iều ác?” Rồi Ngài tiếp tục suy gẫm: “ Ta nên sống gần người mà hơn Ta về giới, ịnh, tuệ và giải thoát, nhờ vậy giới, ịnh, tuệ và giải thoát của Ta chưa hoàn hảo sẽ ược hoàn hảo và viên mãn.” Rồi Đức Phật dò xét bằng Nhất thiết trí ể tìm có ai hơn Ngài về giới, ịnh, tuệ và giải thoát. Khi thấy rằng chẳng có nhân vật nào như vậy trong cả ba cõi.

Ngài suy nghĩ : “ Thật tốt thay nếu Ta sống chỉ tôn kính Đức Pháp mà Ta ã chứng ạt.”

Vào lúc ấy, biết ược ý ịnh của Đức Phật, Phạm thiên Sahampati ngay lập tức hiện diện trước Đức Phật và sau khi ắp vào chiếc khăn quàng bên vai trái, ầu gối phải chạm ất, vị ấy chấp tay tôn kính và bạch rằng: “ Bạch Đức Phật vinh quang, iều mà Ngài suy nghĩ là úng. Thưa Đức Thế Tôn, chư Phật quá khứ cũng ã sống tôn kính Pháp, chư Phật ương lai cũng sẽ sống tôn kính Pháp. Thưa Đức Phật vinh quang, Ngài là vị Phật của hiện tại sống tôn kính Pháp”. Vị ấy cũng nói thêm ba câu kệ sau ây:

Ye ca atītā Sambuddhā, ye ca Buddhā anāgatā, yo ce tarahi Sambuddho, bahīnaṁ sokanāsano.  Sabbe saddhammagaruno vihaṁsu viharanti ca,  atho pi viharissanti esā Buddhāna dhammatā  tasmā hi attakāmena mahāttaṁ abhikankhit,

           saddhammo garukātabbo saraṁ Buddhāna sāsanaṁ.

Bạch Đức Thế Tôn, có những vị Phật ã xuất hiện trong quá khứ, có những vị Phật sẽ xuất hiện trong tương lai và Ngài, vị Phật ang xuất hiện trong hiện tại, Bậc oạn trừ ưu não của nhân loại, chư thiên và Phạm thiên. Tất cả chư Phật trong ba thời ều sống tôn kính Pháp, ang và sẽ sống tôn kính Pháp. Sống tôn kính Pháp là tục lệ của chư Phật Chánh ẳng giác. Do ó, Ngài muốn ược lợi ích và muốn làm người ược tôn kính trọng vọng, thì ngày êm Ngài nên tôn kính Pháp bảo - tài sản của những bậc giới ức, những bậc hằng ghi nhớ trong tâm ba khía cạnh của Giáo Pháp.

Sau khi nói lên ba câu kệ này, Phạm thiên Sahampati cung kính ảnh lễ Đức Phật, i quanh Đức Phật rồi biến mất tại chỗ ấy và trở về cõi Phạm thiên. Sau khi biết rõ lời thỉnh cầu của Phạm thiên Sahampati là thích hợp ối với Ngài, Đức Phật sống chỉ tôn kính ến Pháp mà Ngài ã giác ngộ. (Về sau, chúng Tăng ược tròn ủ bốn pháp quảng ại (mahātta), ó là (1) quảng ại về số lượng các vị trưởng lão (rattaññu-mahātta), (2) quảng ại về số thành viên của Tăng (vepulla-mahātta), (3) quảng ại về phạm hạnh pháp (brahmacariya-mahātta) và (4) quảng ại về số lượng bốn món vật dụng (lābhagga-mahātta). Lúc bấy giờ, Đức Phật cũng tỏ sự tôn kính ến Tăng (Saṅgha). Vì lý do này, khi di mẫu của Ngài - bà Mahā Pajapati Gotamī, dâng hai xấp vải ể may y. Đức Phật nói rằng : “ Thưa Di mẫu, hãy cúng dường vải may y ấy ến Tăng. Cúng dường ến Tăng trong ó có cả Như Lai.” Như vậy, Đức Phật rõ ràng ã bày tỏ sự tôn kính của Ngài ến Tăng).

               (6) Tuần lễ tại hồ Mucalinda (Mucalinda Sattāha)

        Sau khi trải qua bảy ngày quán pháp dưới cội cây a Ajapāla, Đức Phật rời khỏi cội cây ấy và i ến cây Mucalinda ở về hướng ông gần cây ại thọ bồ ề. Dưới cội cây Mucalinda, Đức Phật trải qua bảy ngày ngồi kiết già thọ hưởng sự an lạc của ạo quả A-la-hán.

Vào lúc ấy, một trận mưa lớn bất thường (trước mùa mưa) ổ xuống trong bảy ngày. (Cơn ại vũ như vậy chỉ xảy ra trong hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất là khi vị Chuyển luân vương xuất hiện và trường hợp thứ hai là khi Đức Phật xuất hiện). Khi cơn mưa ổ xuống thì một vị long vương (nāga) rất hùng mạnh, tên là Mucalinda, cai trị cõi rồng ở dưới hồ nước gần ó bèn suy nghĩ như vầy: “ Cơn mưa sái mùa này ổ xuống ngay khi Đức Phật ang trú ở chỗ ngụ của ta. Thật tốt thay nếu chỗ ngụ dành cho Đức Phật ược tìm thấy.”  Vị nāga này có ủ thần lực ể tự mình tạo ra một lâu ài to lớn bằng bảy báu; nhưng vị ấy suy xét rằng: “ Sẽ không có lợi ích lớn nếu ta hóa ra một lâu ài to lớn bằng bảy báu và dâng nó ến Đức Phật. Ta sẽ em thân của ta ể che mưa cho Ngài.” Thế nên, nāga hóa thân ra to lớn và quấn quanh Đức Phật bảy vòng, còn cái ầu của vị ấy thì giương rộng ra ể làm mái che Đức Phật, tránh khỏi lạnh, nóng, muỗi mòng, v.v…

(Phía bên trong những vòng thân của long vương rộng lớn như tầng dưới của Thanh ồng iện (Lohapasada). Ý ịnh của long vương là ể Đức Phật ược thoải mái trong bốn oai nghi i, ứng, nằm và ngồi. Ở bên trong, trung tâm những vòng thân của long vương có ặt một bảo tọa bằng châu báu. Bên trên bảo tọa là chiếc lọng với những chuỗi hoa lơ lửng thơm ngát và những ngôi sao bằng vàng rất xinh ẹp ược thả xuống từ viền quanh của chiếc lọng. Ở bốn góc có những cây èn ược thắp sáng bằng dầu thơm, những chiếc hộp ựng bột thơm chiên àn ược mở nắp và ược ặt ở bốn hướng. Trên chiếc bảo tọa bằng châu báu ấy, Đức Phật ngồi thọ hưởng sự an lạc của Quả chứng ( Majjhima Aṭṭhakathā).

Như vậy, Đức Phật ã ngụ bên trong bảy vòng thân của long vương Mucalinda và suốt bảy ngày thọ hưởng sự an lạc của giải thoát tựa như Ngài ang ở trong một hương phòng không quá hẹp. Khi long vương nhìn lên trời cao và thấy không còn mưa, vị ấy bèn bỏ thân long vương và hóa ra một chàng trai trẻ tuấn tú, ứng chấp tay trước Đức Phật. Rồi sau khi quán xét và thấy rằng “Với ai thọ hưởng sự an lạc Niết bàn, hạnh phúc sẽ hiện hữu bất cứ nơi nào người ấy lưu lại.” Và với tâm tràn ngập hoan hỉ, Đức Phật thốt lên những cảm hứng kệ sau ây:

   Sukho viveko tuṭṭhassa

                      sutadhammassa passato                       Abyāpajjaṁ sukhaṁ loke,                       pāṇabhutesu saṁyamo.                  Sukhā virāgatā loke,                     kāmānaṁ samatikkamo.               Asmimānassa yo vinayo                etaṁ ve paramani sukhaṁ.

Niết bàn - sự trống vắng bốn hình thức tái sanh (upadhi), là tịnh lạc. Ngài không sân hận mà từ ái ối với nhân loại, chư thiên và Phạm thiên. Bậc hài lòng với thành quả của mình qua bốn ạo Tuệ. Bậc giác ngộ chánh pháp bằng tuệ nhãn của Ngài, hay Bậc ã thông ạt Pháp và Bậc bằng tuệ nhãn Ngài thấy Niết bàn, không có bốn hình thức tái sanh, thấy các Pháp nên thấy. Pháp từ ái của bậc như vậy là sự tịnh lạc trong thế gian này. Phát triển tâm bi mẫn - pháp hành của các vị Phạm thiên, tâm thoát khỏi sự ộc ác cường bạo, là sự tịnh lạc. A-na-hàm ạo tuệ oạn diệt ái, ly sân, ly dục là tịnh lạc. Đạo quả Ala-hán hoàn toàn oạn tận ngã ‘Ta là’. Đạo quả A-la-hán quả thật là hạnh phúc tối thượng trong tất cả các pháp hữu vi.

        (7) Tuần lễ dưới cội cây Rājāyatana (Rājāyatana Sattāha)

Sau khi trải qua bảy ngày thọ hưởng sự an lạc của ạo quả Ala-hán dưới cội cây Mucalinda và ến tuần lễ thứ bảy, Đức Phật rời khỏi chỗ ó và i ến cội cây Rājāyatana ở về hướng nam của ại thọ bồ ề và ngồi dưới cội cây ấy thọ hưởng sự an lạc của ạo quả A-lahán trong bảy ngày.

(Suốt 49 ngày này, Đức Phật không làm bất cứ công việc như súc miệng, rửa mặt, ại tiểu tiện, tắm, ộ thực, uống nước và nằm. Ngài trải qua thời gian ấy chỉ thọ hưởng sự an lạc của thiền (jhāna) và quả). Khi 49 ngày kết thúc, ến ngày mồng năm tháng năm (tháng Āsaḷha, khi Đức Phật ang trú ở Rājāyatana, Sakka ến và dâng ến Ngài trái thuốc myrobalan vì vị ấy biết Đức Phật muốn rửa mặt và vệ sinh thân thể. Đức Phật nhận lấy trái myrobalan. Khi Ngài vừa ộ xong trái myrobalan thì Ngài i ại tiện và tiểu tiện. Sau ó Sakka dâng cây chà răng lấy từ cõi rồng, và nước từ hồ Anotatta ( ể rửa mặt). Đức Phật dùng cây chà răng, súc miệng và rửa mặt bằng nước ở hồ Anotatta và vẫn ngồi dưới cội cây Rājāyatana.

Hai anh em thương buôn, Tapussa và Bhallika qui y Nhị Bảo 

 Hai anh em thương nhân, Tapussa và Bhallika ang i trên ường từ quê nhà của họ ở Ukkalājanapada ến xứ Majjhimadesa với năm trăm cổ xe của họ ể buôn bán. Họ ang i theo con ường chính khi ến gần cây Rājāyatana, những cỗ xe bỗng nhiên dừng lại tựa như chúng bị dính trong bùn, dù mặt ất vẫn bằng phẳng và không có nước. Khi họ hỏi nhau: “ Do nguyên nhân gì?” và ang bàn bạc thì một vị thiên, ã từng là quyến thuộc của hai anh em thương buôn trong kiếp quá khứ, hiện hình ra trên nhánh cây và nói rằng : “ Này các bạn trẻ, sau khi chứng ắc Phật quả không lâu, Đức Phật ã trú trong sự an lạc của ạo quả A-la-hán và hiện ang ngồi dưới cội cây Rājāyatana, Ngài ã không thọ thực suốt 49 ngày rồi. Này các bạn trẻ, hãy tôn kính Đức Phật bằng sự cúng dường vật thực. Điều này sẽ em lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho các bạn.”

Nghe qua những lời này, hai vị thương buôn rất hoan hỉ và nghĩ rằng: “ Nếu nấu cơm sẽ mất nhiều thời gian.”  Họ bèn i ến Đức Phật mang theo những miếng bánh nướng bằng bột gạo và những viên vật thực có tẩm mật ong mà họ ã mang theo trên ường i. Sau khi ến Đức Phật, họ tôn kính ảnh lễ Ngài, ngồi xuống ở nơi phải lẽ và bạch với Ngài rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn, cầu xin Ngài thọ lãnh những chiếc bánh nướng và những viên mật ong này ể chúng con ược lợi ích và hạnh phúc lâu dài.”

Nhân ó, Đức Phật suy xét: “ Chư Phật quá khứ không bao giờ thọ lãnh vật thực bằng ôi tay của các Ngài. Như vậy, Ta sẽ dùng cái gì ể nhận lấy những miếng bánh và những viên mật ong do hai vị thương nhân này dâng ến?” (Vì cái bát bằng ất do Phạm thiên Ghaṭikāra dâng tặng vào lúc Ngài xuất gia ã biến mất từ ngày Ngài thọ lãnh món cơm sữa của nàng Sujātā). Biết ược ý nghĩ của Đức Phật, bốn vị Thiên vương - Dhataraṭṭa, Viruḷhaka, Virūpakkha và Kuvera bèn dâng ến Ngài bốn cái bát bằng ngọc bích. Tuy nhiên, Đức Phật từ chối nhận chúng. Bốn vị Thiên vương lại dâng ến Ngài bốn cái bình bát khác bằng á tự nhiên có màu lục. Đức Phật nhận lấy bốn cái bát này. Và do lòng bi mẫn ến Tứ ại thiên vương, Đức Phật ặt bốn cái bát chồng lên nhau và chú nguyện: “ Hãy biến thành chỉ một cái.” Và ngay lập tức, bốn cái bát tự biến thành một cái bát với bốn ường viền tròn.

 Đức Phật thọ lãnh vật thực bằng cái bát ấy và ộ thực rồi ban lời phúc chúc ến hai vị thương nhân. Sau ó hai vị thương nhân xin quy y Phật và Pháp ( vì lúc bấy giờ chưa có Tăng bảo) và vì vậy họ trở thành hai cận sự nam (Devācika-saraṇa) quy y Nhị bảo bằng lời nói tự nguyện: “ Bạch Đức Thế Tôn, chúng con xin quy y Đức Thế Tôn và giáo pháp của Ngài - Ete mayhaṁ bhante, Bhagavantaṃ saranaṃ gacchāma dhammañ ca.” (Đây là hai vị thiện nam ầu tiên quy Nhị bảo).

Sau ó hai anh em thương nhân nói lời thỉnh cầu: “ Bạch Đức Thế Tôn, xin Đức Thế Tôn vì lòng bi mẫn ến chúng con mà ban cho chúng con một vật gì ó ể chúng con tôn thờ về sau.”  Đức Phật dùng bàn tay phải thoa lên ầu của Ngài và lấy xuống những sợi tóc của Ngài và ban tặng họ. Khi có ược những sợi tóc, hai anh em thương nhân vô cùng vui sướng, tựa như nước cam lồ ược tưới lên người của họ. Bán xong hàng hóa, họ trở về thị trấn Pukkharavatī của họ tại xứ Ukkalā, và tại ó, họ dựng lên một bảo tháp thờ Tóc xá-lợi, ược ựng trong một cái hộp bằng vàng.

                                  KẾT THÚC CHƯƠNG 8                          ĐỨC PHẬT TRÚ NGỤ Ở BẢY CHỖ

HẾT TẬP II, PHẦN 1

8-5-2002

                                                                      ]œ           

     

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications