Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Mẹ Của Trưởng Lão Kumārakassapa (Ca Diếp Đồng Tử)- câu chuyện tiền kiếp bầy hươu
Kệ Pháp Cú này, Đức Bổn Sư thuyết khi ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Mẹ của Trưởng lão Kumārakassapa (Ca Diếp Đồng Tử). Tương truyền rằng: Mẹ của Trưởng lão Kumārakassapa là con gái của một Bá hộ trong thành Rājagaha (Vương Xá). Khi tuổi có trí khôn, nàng lại hướng tâm đến đời sống xuất gia. Nhiều lần Tiểu thư xin song thân cho mình sống được sống đời sống vô gia đình trong Giáo Pháp của Đức Thế Tôn nhưng song thân nàng không ưng thuận. Đến tuổi cập kê, Tiểu thư xuất giá vu quy về ở nhà chồng, chẳng bao lâu Tiểu thư thọ thai. Tuy nhiên nàng chẳng hề biết được điều đó, nên vẫn làm vừa lòng chồng rồi xin xuất gia.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:57

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2023-02-26 10:02:55
Chỉnh sửa gần nhất : 11/20/2025 19:59:52
Mẹ Của Trưởng Lão Kumārakassapa (Ca Diếp Đồng Tử)- câu chuyện tiền kiếp bầy hươu

1. Kumāra-Kassapa Thera.-He was foremost among those who had the gift of varied and versatile discourse (cittakathikānam) (A.i.24). His mother was the daughter of a banker of Rājagaha, and she, having failed to obtain her parent's consent to become a nun, married and, with her husband's consent, joined the Order, not knowing that she was with child. When her condition was discovered her colleagues consulted Devadatta, who declared that she was no true nun. The Buddha, on being consulted, entrusted the matter to Upāli, who had it fully investigated by Visākhā and other residents of Sāvatthi, and he gave his finding in the assembly, in the presence of the king, that the nun was innocent. (For details see J.i.148; Upāli's handling of the case won the Buddha's special commendation, see, e.g., AA.i.172). When the boy was born the king reared him, and the boy was ordained at the age of seven. The boy came to be called Kumāra, because he joined the Order so young and was of royal upbringing, and also because the Buddha, when sending him little delicacies such as fruit, referred to him as Kumāra Kassapa.

Once when Kumāra Kassapa was meditating in Andhavana, an anāgāmī Brahmā, who had been his companion in the time of Kassapa Buddha, appeared before him, and asked him fifteen questions which only the Buddha could answer. This led to the preaching of the Vammika Sutta (M.i.143ff), and after dwelling on its teachings Kassapa became an arahant. (For Kumāra Kassapa's story see J.i.147ff; AA.i.158f; ThagA.i.322f; MA.i.335f).

His mother, too, developed insight and attained to arahantship. It is said that she wept for twelve years because she could not be with Kassapa, and one day, seeing him in the street, as she ran towards him and fell, milk flowed from her breasts and wet her robe. Kassapa, realising that her great love was standing in the way of her attainments, spoke harshly to her that she might love him the less. The ruse succeeded and she became an arahant that very day (DhA.iii.147).

In the time of Padumuttara Buddha Kassapa was a learned brahmin, and having heard a monk ranked foremost in eloquence, he wished for a similar distinction and did many acts of piety towards that end. When the teachings of Kassapa Buddha were being forgotten, he, together with six others, entered the Order and lived a life of rigorous asceticism on the summit of a mountain. (Ap.ii.473f; the details of this story are given in DhA.ii.210-12; among Kassapa's companions were also PukkusātiDārucīriyaDabba Mallaputta and Sabhiya; see also UdA.80f).

Two verses of deep significance ascribed to Kumāra-Kassapa are found in the Theragāthā (vv.201.202). Although it is said that he was a very eloquent speaker, the examples given of his preaching are extremely scanty. The Anguttara Commentary (i.159) states that the Buddha gave him his title from the skilful way in which he argued with Pāyāsi, as related in the Pāyāsi Sutta; but this cannot be correct for, according to Dhammapāla (VvA.297), the events of the Pāyāsi Sutta took place after the Buddha's death. The Sutta, however, does justify Kassapa's reputation. (For his praises see also MA.i.500f).

Kassapa's upasampadā took place in his twentieth year. A doubt arose as to whether this was valid because, according to the rule, twenty years must be completed for upasampadā. The Buddha held that in reckoning the age the time spent in the mother's womb could also be included. Vin.i.93; Sp.iv.867.

 

1. Kumāra-Kassapa Thera. - Ngài là người đứng đầu trong số những người có năng khiếu về bài thuyết giảng đa dạng và linh hoạt (cittakathikānam) (Ai24). Mẹ của ngài là con gái của một chủ ngân hàng ở Rājagaha , và bà, sau khi không được cha mẹ đồng ý để trở thành một nữ tu, đã kết hôn và, với sự đồng ý của chồng, gia nhập Tăng đoàn, mà không biết rằng mình đang mang thai. Khi tình trạng của bà bị phát hiện, các đồng nghiệp của bà đã tham khảo ý kiến ​​của Devadatta , người tuyên bố rằng bà không phải là một nữ tu chân chính. Sau khi được tham khảo ý kiến, Đức Phật đã giao vấn đề này cho Upāli , người đã cho Visākhā và những cư dân khác của Sāvatthi điều tra đầy đủ , và ông đã đưa ra kết luận của mình trước hội đồng, trước sự chứng kiến ​​của nhà vua, rằng nữ tu vô tội. (Để biết chi tiết, hãy xem Ji148; cách xử lý vụ án của Upāli đã giành được lời khen ngợi đặc biệt của Đức Phật, xem, ví dụ, AA.i.172). Khi đứa bé chào đời, nhà vua đã nuôi dưỡng và cho xuất gia lúc bảy tuổi. Cậu bé được gọi là Kumāra, vì cậu gia nhập Tăng đoàn từ khi còn rất nhỏ và được nuôi dưỡng trong cung đình, và cũng vì Đức Phật, khi ban cho cậu những món ăn ngon như trái cây, đã gọi cậu là Kumāra Kassapa.

Một lần, khi Kumāra Kassapa đang thiền định ở Andhavana , một vị Phạm Thiên Bất Lai (Anāgāmī Brahmā), người từng là bạn đồng hành của ngài vào thời Đức Phật Kassapa, đã hiện ra trước mặt ngài và hỏi ngài mười lăm câu hỏi mà chỉ có Đức Phật mới có thể trả lời. Điều này dẫn đến việc thuyết giảng Kinh Vammika (Mi143ff), và sau khi suy ngẫm về giáo lý của kinh này, Kassapa đã đắc quả A La Hán. (Về câu chuyện của Kumāra Kassapa, xem Ji147ff; AA.i.158f; ThagA.i.322f; MA.i.335f).

Mẹ của ngài cũng đã phát triển tuệ giác và đắc quả A-la-hán. Kinh sách kể rằng bà đã khóc suốt mười hai năm vì không được ở bên cạnh Kassapa, và một ngày nọ, khi nhìn thấy ngài trên đường, bà chạy đến và té ngã, sữa từ ngực bà chảy ra và làm ướt áo bà. Kassapa, nhận ra rằng tình yêu lớn lao của mình đang cản trở sự chứng đắc của bà, đã nói nặng lời với bà để bà bớt yêu ngài hơn. Mưu kế đã thành công và bà đã đắc quả A-la-hán ngay hôm đó (DhA.iii.147).

Vào thời Đức Phật Padumuttara, Kassapa là một vị Bà-la-môn uyên bác, và sau khi nghe một vị tỳ kheo được xếp hạng cao nhất về hùng biện, ngài mong muốn được như vậy và đã thực hiện nhiều hành vi mộ đạo hướng đến mục đích đó. Khi giáo lý của Đức Phật Kassapa bị lãng quên, ngài cùng với sáu người khác đã gia nhập Tăng đoàn và sống một cuộc đời khổ hạnh nghiêm ngặt trên đỉnh núi. (Ap.ii.473f; chi tiết câu chuyện này được ghi lại trong DhA.ii.210-12; trong số những người bạn đồng hành của Kassapa còn có Pukkusāti , Dārucīriya , Dabba Mallaputta và Sabhiya ; xem thêm UdA.80f).

Hai câu kệ có ý nghĩa sâu sắc được cho là của Kumāra-Kassapa được tìm thấy trong Theragāthā (câu 201.202). Mặc dù được cho là một diễn giả rất hùng biện, nhưng những ví dụ về bài thuyết giảng của ông lại cực kỳ ít ỏi. Chú giải Tăng Chi Bộ (Anguttara Commentary i.159) cho rằng Đức Phật đã ban cho ông danh hiệu này nhờ cách tranh luận khéo léo với Pāyāsi, như đã được ghi lại trong Pāyāsi Sutta ; nhưng điều này không thể đúng, bởi vì, theo Dhammapāla (VvA.297), các sự kiện trong Pāyāsi Sutta diễn ra sau khi Đức Phật nhập diệt. Tuy nhiên, bài kinh này đã chứng minh danh tiếng của Kassapa. (Về những lời ca ngợi ông, xin xem thêm MA.i.500f).

Lễ Upasampadā của Kassapa diễn ra vào năm ngài hai mươi tuổi. Một nghi vấn nảy sinh về việc liệu điều này có hợp lệ hay không, bởi vì theo luật, phải hoàn tất hai mươi năm mới được Upasampadā. Đức Phật cho rằng khi tính tuổi, thời gian nằm trong bụng mẹ cũng có thể được tính. (Vin.i.93; Sp.iv.867).

 

Chú Giải Kinh Pháp Cú Quyển III

Phẩm Tự Ngã: Tích Mẹ Của Trưởng Lão Ca Diếp Đồng Tử

“Attā hi attano nātho,
Ko hi nātho paro siyā;
Attanā hi sudantena,
Nāthaṃ labhati dullabhaṃ”.

“Tự mình y chỉ mình,
Nào có y chỉ khác,
Nhờ khéo điều phục mình,
Được y chỉ khó được”.

Kệ Pháp Cú này, Đức Bổn Sư thuyết khi ngự tại Jetavana Vihāra (Kỳ Viên Tự), đề cập đến Mẹ của Trưởng lão Kumārakassapa (Ca Diếp Đồng Tử).

Tương truyền rằng: Mẹ của Trưởng lão Kumārakassapa là con gái của một Bá hộ trong thành Rājagaha (Vương Xá). Khi tuổi có trí khôn, nàng lại hướng tâm đến đời sống xuất gia. Nhiều lần Tiểu thư xin song thân cho mình sống được sống đời sống vô gia đình trong Giáo Pháp của Đức Thế Tôn nhưng song thân nàng không ưng thuận. Đến tuổi cập kê, Tiểu thư xuất giá vu quy về ở nhà chồng, chẳng bao lâu Tiểu thư thọ thai. Tuy nhiên nàng chẳng hề biết được điều đó, nên vẫn làm vừa lòng chồng rồi xin xuất gia.

Một hôm, trong thành Rājagaha có lễ hội, không màng trang điểm, nàng lại chẳng tha thiết chi đến lễ hội. Công tử lấy làm lạ hỏi nguyên nhân, nàng bày tỏ nguyện vọng của mình. Công tử vô cùng hoan hỷ cho Tiểu thư được xuất gia trong Ni viện.

Khi ấy, người chồng cho sắm sửa nhiều lễ vật trọng thể đưa vợ mình đi xuất gia, nhưng vì không biết Tịnh xá Ni ở đâu nên đi ngay đến chỗ trú của chư Tỳ khưu Ni thuộc nhóm chia rẽ Tăng của Devadatta (Đề Bà Đạt Đa).

Thời gian sau, khi thai bào tăng trưởng, chư Ni biết được, hỏi nàng rằng:

– Này Sư Cô! Vì sao có chuyện lạ như thế?

– Thưa chư Hiền tỷ! Tôi cũng không rõ vì sao nữa nhưng giới hạnh của tôi không bị lấm nhơ đâu!

Chư Tỳ khưu Ni bèn đem việc này trình với Devadatta rằng:

– Bạch Ngài! Nữ Ni này xuất gia do đức tin nhưng chúng tôi không rõ vì sao nàng lại mang thai cả. Giờ đây chúng tôi phải xử sự làm sao?

Devadatta chẳng chịu suy xét kỹ lưỡng, chỉ nghĩ đến một điều là: “Đừng để tai tiếng đến chư Ni trong trú xứ của ta là những người mà chính ta hằng giáo giới”. Tôn giả nói với chư Tỳ khưu Ni rằng:

– Các cô hãy tẩn xuất nàng ấy ra khỏi trú xứ, cho nàng trở về đời sống thế tục đi. Nghe Devadatta nói như thế, vị Nữ Ni trẻ bạch với chư Tỳ khưu Ni rằng:

– Thưa chư Hiền tỷ! Xin các Hiền tỷ đừng làm tổn hại đến tôi, tôi không có xuất gia riêng với Devadatta. Xin chư Hiền tỷ hãy đưa tôi đến yết kiến Đức Thế Tôn và trình bày việc này đến Đức Đạo Sư đi.

Chư Tỳ khưu Ni bèn dắt nàng về yết kiến Đức Thế Tôn đang ngự tại Jetavana Vihāra (Tịnh xá Kỳ Viên) trong thành Sāvatthī (Xá Vệ). Khi sự việc được trình lên Đức Thế Tôn, Ngài đã rõ biết rằng: “Nữ Ni này đã mang thai trước khi xuất gia”. Để làm sáng tỏ vấn đề này, Ngài cho mời Đức vua Pasenadi (Ba Tư Nặc), Trưởng giả Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc), ông Cūḷānāthapiṇḍika (Tiểu Cấp Cô Độc), Đại Tín nữ Visākhā (Thiện Chi) cùng các đại gia vọng tộc khác đến, rồi Ngài phán bảo Trưởng lão Upāli (Ú Pa Ly) rằng:

– Này Upāli! Giữa hàng Tứ chúng, hãy xét xử minh bạch trường hợp của Tỳ khưu Ni trẻ này!

Vâng lịnh Đức Thế Tôn, Trưởng lão Upāli cho mời nàng Visākhā đến và giao cho bà thẩm nghiệm thời gian thọ thai, cùng xác minh Giới hạnh của Nữ Ni ấy trước mặt đại chúng.

Bà Thiện Chi cho người che màn chung quanh rồi tự thân bà kiểm tra từ tay chân đến rún, bụng của nàng Nữ Ni, rồi tính toán ra ngày tháng đậu thai và biết được rằng: “Ni Cô này đã mang thai trước khi xuất gia”. Bà liền thông qua cho Trưởng lão biết kết quả. Lúc ấy, ngay giữa tứ chúng Trưởng lão đã công bố bản án: “Ni cô hoàn toàn trong sạch”.

Do tiền kiếp Ni Cô này đã có phát nguyện dưới chân Đức Cổ Phật Thượng Liên Hoa (Padumuttara) nên thời gian sau, nàng hạ sanh được một hài nhi, có oai lực lớn. Một hôm, Đức vua ngự đến Tịnh xá Tỳ khưu Ni ấy, bỗng nghe tiếng trẻ thơ, Ngài phán hỏi cận tướng rằng:

– Này các khanh! Tiếng gì thế?

– Tâu Bệ hạ! Đứa con trai của Tỳ khưu Ni mới sanh, chính đó là tiếng của nó.

Nghe vậy, Đức vua bèn đem đứa đồng tử ấy về hoàng cung giao cho các vú nuôi. Đến ngày lễ đặt tên, đứa bé được đặt tên la Kassapa (Ca Diếp). Nhân vì các vú nuôi săn sóc từ lúc ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành, cho nên các bà quen miệng cứ kêu cậu là Kumārakassapa (Ca Diếp Đồng Tử).

Khi chơi thể thao ở sân vận động, cậu đánh bại hết các trẻ khác. Chúng nói:

– Chúng ta đã thua kẻ không có cha mẹ.

Công tử Kumārakassapa nghe như thế, liền đi đến Đức vua Pasenadi bạch hỏi rằng:

– Tâu Bệ hạ! Các đứa trẻ luôn bảo con là đứa không cha không mẹ, xin Ngài hãy chỉ cha mẹ cho con đi!

– Các nhũ mẫu chính là mẹ của con đấy. Nghe vậy, cậu bé cãi lại:

– Không phải bấy nhiêu bà đều là mẹ của con hết. Mẹ của con phải là một bà mà thôi. Xin Bệ hạ hãy chỉ giùm bà ấy cho con!

Đức vua suy nghĩ: “Ta không thể nói gạt được đứa bé này”, nên tỏ thật rằng:

– Con ạ! Mẹ ruột của con là một Tỳ khưu Ni, Trẫm đã đến tịnh xá Ni đem con về đây.

Lúc bấy giờ, cậu bé bỗng phát sanh kinh cảm suy nghĩ chín chắn rồi nói:

– Xin Phụ vương cho con xuất gia.

– Lành thay! Con ạ!

Thế rồi, Đức vua cho sắp đặt cuộc lễ rất trọng đại và cho cậu bé xuất gia với Đức Bổn Sư.

Sau khi được thọ Cụ túc giới, ông sư trẻ được gọi là Trưởng lão Kumārakassapa (Ca Diếp Đồng Tử). Ngài thọ huấn đề mục Chỉ Quán từ nơi Đức Thế Tôn rồi, bèn vào rừng thanh vắng yên tịnh để Tinh tấn hành Sa môn Pháp, nhưng không thể giác ngộ Chánh Pháp. Trưởng lão tính trở về đảnh lễ Đức Bổn Sư để xin thụ huấn đề mục hành thiền một lần nữa. Trên đường về, Trưởng lão tạm an cư trong khu rừng Mù (Andhavana). Lúc bấy giờ, có một vị Phạm Thiên, nguyên là một Tỳ khưu đồng hành Sa môn Pháp với Trưởng lão trong thời Đức Phật Tổ Ca Diếp, vị ấy đã đắc A Na Hàm quả và sau đó được sanh lên cõi Phạm Thiên. Từ Phạm Thiên giới, vị ấy bèn xuống hỏi Trưởng lão mười lăm câu hỏi, rồi tiễn Trưởng lão lên đường và bảo rằng:

– Những câu hỏi này, ngoại trừ Bậc Đạo Sư ra không một ai khác giải đáp nổi. Hãy đi về tìm gặp Bậc Đạo Sư mà học nghĩa lý của những câu này.

Trưởng lão làm theo lời chỉ bảo của vị Phạm Thiên và đắc quả A La Hán khi các câu hỏi vừa được giải đáp hết.

Kể từ khi Trưởng lão ra đi hành pháp Sa môn trong rừng, thấm thoát được mười hai năm, trong mười hai năm trường ấy, mẹ Ngài không thể ngăn được nước mắt khi nhớ đến con. Vì xa cách con trai nên bà buồn khổ, đang đi khất thực mà mặt đầm đìa nước mắt. Bỗng nhiên, gặp Trưởng lão giữa đường, bà mừng quýnh, vừa chạy đến nắm Trưởng lão vừa kêu to:

– Con ơi, con ơi!

Bất ngờ, bà té nhào xuống đất, hai vú bà tươm sữa ra dính vào y do sự xúc cảm quá mãnh liệt, bà lồm cồm đứng dậy, mang y ướt đến nắm lấy Trưởng lão.

Trưởng lão nghĩ thầm: “Nếu ta dùng lời dịu ngọt nói với mẹ ta, ắt bà sẽ hư hỏng chứ chẳng ích lợi chi cả. Vậy ta nên dùng lời cứng xẵng mà nói chuyện với bà”.

Trưởng lão suy nghĩ như thế bèn làm nghiêm, hỏi trách bà rằng:

– Bà tu làm chi thế? Tại sao bà đã xuất gia rồi mà không thể cắt đứt được sự thương yêu ấy ư?

Tỳ khưu Ni ấy suy nghĩ rằng: “ Than ôi, lời lẽ của con ta sao mà chát chúa quá!”.

Tuy nhiên, bà cũng hỏi lại một lần nữa:

– Con à, con vừa nói chi vậy?

Trưởng lão cũng lặp lại như trước, khiến cho bà tỉnh ngộ, nghĩ rằng: “Ta đã không cầm được nước mắt suốt cả mười hai năm trường vì lòng thương nhớ con, nhưng con của ta nó vô tình quá, té ra đối với ta lòng nó lại cứng cỏi như sắt đá, chẳng nghĩ chi đến ta cả! Thế thì ta còn nuối tiếc nó làm gì nữa!”. Bà suy nghĩ như thế rồi, buông y Trưởng lão ra, trở về Tịnh thất, cố gắng quên đi đứa con vô tình, tinh tấn hành Đạo. Lòng thương con không còn tha thiết như trước nữa, nhờ áp chế được tình thâm mẫu tử bà chứng đạt A La Hán quả trong ngày đó. Thời gian sau, chư Tỳ khưu bàn luận cùng nhau nơi giảng đường:

– Các đạo hữu ơi! Tôn giả Kumārakassapa và Trưởng lão Ni có đầy đủ duyên lành như thế, vậy mà suýt nữa bị Devadatta làm tổn hại. Còn Bậc Đạo Sư là nơi nương nhờ của hai vị ấy, thật là kỳ diệu thay! Lẽ thường chư Phật là bậc hằng tế độ thế gian vậy!

– Với thiên nhĩ thuần tịnh siêu nhân, Đức Thế Tôn nghe được sự luận bàn ấy của chư Tỳ khưu, Ngài ngự đến hỏi rằng:

– Này các Tỳ khưu! Các ngươi đang bàn luận cùng nhau về việc gì?

– Bạch Thế Tôn, chuyện này…

– Này các Tỳ khưu! Chẳng phải chỉ trong kiếp này ta là nơi nương nhờ cho hai mẹ con Kumārakassapa mà trong quá khứ, hai người ấy cũng đã từng nương nhờ nơi Ta rồi.

Theo lời thỉnh cầu của các Tỳ khưu, Ngài thuyết giảng rộng tích Bổn Sanh Nigrodha (Ni Câu Luật Đà), rồi Đức Bổn Sư ngâm kệ rằng:

“Nigrodhameva seveyya
Na sākhamupasaṃvase,
Nigrodhasmiṃ mataṃ seyyo
Yañce sākhasmiṃ jīvitanti”.

– Thà sống với con hươu Nigrodha (Ni Câu Luật Đà), chớ đừng sống Sākha. Thà chết với Nigrodha, còn hơn sống với Sākha.

Đức Thế Tôn nhận diện Bổn sanh(1) rằng: “Nai Sākha trong quá khứ nay là Devadatta, hội chúng của nai Sākha nay là hội chúng của Devadatta trong hiện tại. Nai cái nay chính là Trưởng lão Ni, con nai con nay là Trưởng lão Kumārakassapa. Nai chúa Nigrodha nay chính là Đấng Như Lai vậy”.

Tiếp theo đó, Đức Bổn Sư dạy cho biết là sau khi đoạn tình mẫu tử, Trưởng lão Ni tự mình đã khiến cho mình giác ngộ Chánh Pháp: “Này các Tỳ khưu, người nào nương cậy kẻ khác thì không thể hy vọng sẽ sanh lên cõi trời, hoặc sẽ chứng đắc Đạo quả. Bởi vậy cho nên, mình hãy là chỗ tựa của mình, chớ ai đâu khác sẽ làm chuyện ấy”.

Nói rồi, Đức Bổn Sư ngâm kệ rằng:
“Attā hi attano nātho,
Ko hi nātho paro siyā ;
Attanā hi sudantena,
Nāthaṃ labhati dullabhaṃ”.

Chính tự mình làm chỗ nương cho mình, chứ người khác làm sao nương được? Tự mình khéo tu tập mới đạt đến chỗ nương tựa nhiệm màu (quả vị A La Hán).

CHÚ GIẢI

Nātho: nương nhờ. Như trên đã nói, người nào tự mình nương cậy lấy mình, kiện toàn thiện pháp rồi, ắt có thể siêu sanh lên nhà cảnh, hoặc chứng đắc Đạo quả, làm cho thấu rõ Níp Bàn được, bởi vậy mới nói tự ngã chính là chỗ nương (patiṭṭhā = nātho) của mình. Người khác là ai, xưng danh là chỗ nương của ai? Như vậy thì do mình khéo léo tự điều phục lấy mình mà đắc quả A La Hán, là chỗ nương khó mà có được.

Nāthaṃ labhati dullabhaṃ: được điểm tựa khó được trên đây ngụ ý chỉ Quả vị A La Hán vậy. Cuối thời Pháp, nhiều vị Tỳ khưu đắc Thánh quả, nhất là Tu Đà Hườn quả.

Dịch Giả Cẩn Đề
Mười hai năm chẵn cách xa con,
Sư nữ trông chờ, dạ héo hon,
Bỗng gặp, chào mừng Sư Lậu tận,
“Lời Sư sao đắng tợ bồ hòn”.
Nhờ Minh Sát Khổ đến kỳ cùng,
Mẫu tử tình thâm tự cáo chung.
Sư nữ đắc ngay La Hán quả,
Não phiền rũ sạch, sống ung dung.
Phật dạy: “Mỗi người tự độ mình,
Lên trời hoặc đến cõi Vô sinh,
Ngoài Ta, chẳng có người ta tựa,
Tự Ta là nơi tựa tối linh”.
DỨT TÍCH MẸ CỦA TRƯỞNG LÃO KUMĀRAKASSAPA

.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm

Xuất hiện ở nikaya khác ( tiểu bộ kinh )



218 Thời Phật tại thế Xóa
581 Ni trưởng và thánh ni thời Phật Xóa


1190 Vương quốc Magadha Xóa

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
6133
Bài viết
786
Nhân vật
45
Hình ảnh

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications