Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
NTPG.Q10.B6 Tứ Thánh-Đế (Ariyasacca)
Tứ Thánh-đế (ariyasacca) đó là 4 sự-thật chân-lý của bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là: Khổ Thánh-đế (dukkha ariyasacca) là sự-thật chân-lý của bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là ngũ- uẩn chấp-thủ, hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới. Nhân sinh khổ Thánh-đế (dukkhasamudaya ariya- sacca) là sự-thật chân-lý của bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là 3 loại tham-ái: Dục-ái (kāmataṇhā) là tham-ái trong 6 đối-tượng: Sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái. Hữu-ái (bhavataṇhā) là tham-ái trong 6 đối-tượng (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với thường-kiến, và tham-ái trong thiền sắc-giới-tâm, thiền
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:6078

Các tên gọi khác

Tứ Thánh-đế (ariyasacca) đó là 4 sự-thật chân-lý của bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là: Khổ Thánh-đế (dukkha ariyasacca) là sự-thật chân-lý của bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là ngũ- uẩn chấp-thủ, hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới. Nhân sinh khổ Thánh-đế (dukkhasamudaya ariya- sacca) là sự-thật chân-lý của bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là 3 loại tham-ái: Dục-ái (kāmataṇhā) là tham-ái trong 6 đối-tượng: Sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái. Hữu-ái (bhavataṇhā) là tham-ái trong 6 đối-tượng (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với thường-kiến, và tham-ái trong thiền sắc-giới-tâm, thiền

General Information

Danh sách : Liên quan
:
NTPG.Q10.B6 Tứ Thánh-Đế (Ariyasacca)

Tứ Thánh-Đế (Ariyasacca)

 

Tứ Thánh-đế (ariyasacca) đó là 4 sự-thật chân-lý của bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là:

  1. Khổ Thánh-đế (dukkha ariyasacca) là sự-thật chân-lý của bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là ngũ- uẩn chấp-thủ, hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới.
  2. Nhân sinh khổ Thánh-đế (dukkhasamudaya ariya- sacca) là sự-thật chân-lý của bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là 3 loại tham-ái:
  • Dục-ái (kāmataṇhā) tham-ái trong 6 đối-tượng: Sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái.
  • Hữu-ái (bhavataṇhā) tham-ái trong 6 đối-tượng (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với thường-kiến, và tham-ái trong thiền sắc-giới-tâm, thiền

 

vô-sắc-giới-tâm, tầng-trời sắc-giới phạm-thiên, tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.

  • Phi-hữu-ái (vibhāvataṇhā) tham-ái trong 6 đối- tượng (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với đọan-kiến.
  1. Diệt khổ Thánh-đế (dukkhanirodha ariyasacca) là sự-thật chân-lý của bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là Niết-bàn, pháp diệt tham-ái, diệt khổ tái-sinh kiếp sau.
  2. Pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế (dukkha- nirodhagaminī paṭipadā ariyasacca) sự-thật chân-lý của bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh: Chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.

Tứ Thánh-đế là sự-thật chân-lý là nền tảng căn bản trong giáo pháp của chư Phật-Chánh-Đẳng-Giác quá- khứ, hiện-tại và vị-lai.

Thật vậy, trong 9 ân-Đức-Phật, Đức-Thế-Tôn ân- đức Sammāsambuddha: Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā) đã tích lũy từ vô số kiếp quá-khứ, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.

ân-đức Buddha: Đức-Phật tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh.

 

Đức-Phật thuyết pháp tế độ những chúng-sinh có duyên lành nên tế độ. Những chúng-sinh ấy thuộc về hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) đã từng tích-lũy

10 pháp-hạnh ba-la-mật từ vô số kiếp quá-khứ, kiếp hiện-tại là người có giới-hạnh trong sạch, có duyên lành đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ cũng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, cũng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân nào tuỳ theo năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: Tín-pháp-chủ, tấn- pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi bậc Thánh Thanh-văn đệ-tử ấy.

Kinh Chuyển-Pháp-luân đầu tiên

Sau khi trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama vào canh chót đêm rằm tháng tư tại cội Đại-Bồ-đề trong khu rừng Uruvelā (nay gọi Buddhagayā, nước Ấn-độ).

Đúng 2 tháng sau, Đức-Phật Gotama từ khu rừng Uruvelā ngự đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, có nhóm 5 tỳ-khưu trú tại nơi ấy, vào ngày rằm tháng 6 (âm lịch), Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Dhammacakkappavattana- sutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân(1) lần đầu tiên, để tế độ nhóm 5 tỳ-khưu: Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji.

Nội dung cốt lõi toàn bài kinh Chuyển-Pháp-Luân này, Đức-Phật đề cập đến tứ Thánh-đế. Trong bài kinh này, có một đọan Đức-Phật khẳng định truyền dạy toàn cõi thế giới chúng-sinh rằng:

 
   
 

 

1 Xem ý nghĩa bài kinh trong quyển I:Tam-bảo, phần Đức-Pháp, cùng soạn giả.

 

“Yāvakīvañca me bhikkhave, imesu catūsu ariya- saccesu evaṃ tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ na suvisuddhaṃ ahosi, neva tāvāhaṃ bhikkhave, sadevake loke samārake sabrahmake sassa- maṇabrahmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ.

“Yato ca kho me bhikkhave, imesu catūsu ariya- saccesu evaṃ tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi, athāhaṃ bhikkhave, sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇa- brahmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammā- sambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ.

Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādī, akuppā me vimutti, ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavo.”(1)

Ý nghĩa: - “Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo tam-tuệ- luân (trí-tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành) thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng thanh-tịnh chưa phát sinh đến với Như-Lai.

  • Này chư tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai vẫn chưa truyền dạy rằng: “Như-Lai chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh- Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi-giới chúng-sinh nhân-loại, vua chúa, sa-môn, bà-la-môn, chư-thiên, ma- vương, phạm-thiên cả thảy.
  • Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân (trí-tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành) thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng thanh-tịnh đã phát sinh đến với Như-Lai.

 

 
   
 

 

1 Bộ Saṃyuttanikāya, Mahāvaggasaṃyutta, kinh Dhammacakkappavattasutta.

 

  • Này chư tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai dõng dạc khẳng định truyền dạy rằng: “Như-Lai đã chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi- giới chúng-sinh nhân-loại, vua chúa, sa-môn, bà-la- môn, chư-thiên, ma-vương, phạm-thiên cả thảy.”

Trí-tuệ quán triệt đã phát sinh đến với Như-Lai, biết rõ rằng: “A-ra-hán Thánh-quả-tuệ giải thoát của Như- Lai không bao giờ bị mất, kiếp này là kiếp chót, chắc chắn không còn tái-sinh kiếp sau nữa.”

Khi Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Chuyển- Pháp-Luân xong, nhóm 5 tỳ-khưu phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức-Phật, cùng toàn thể chư thiên từ mặt đất, 6 cõi trời dục-giới, cho đến chư phạm-thiên 15 cõi trời sắc-giới, phát sinh đại-thiện- tâm vô cùng hoan hỷ đồng thanh tán dương ca tụng rằng:

“Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp- Luân vô thượng tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh thành Bārāṇasī, chưa từng có sa- môn, bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương, phạm-thiên hay bất cứ ai trong đời này có thể thuyết giảng như vậy được.”

Khi ấy, Ngài Đại Trưởng-lão Koṇḍañña vị thanh- văn đệ-tử phát sinh pháp-nhãn (dhammacakkhu) chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên y theo Đức-Phật, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu là bậc Thánh Thanh-văn đầu tiên trong giáo pháp của Đức- Phật Gotama, cùng với 180 triệu chư-thiên, phạm-thiên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả bậc nào tuỳ theo 10 pháp-hạnh ba-la-mật và năng lực 5 pháp-chủ: Tín-pháp- chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ- pháp-chủ của mỗi vị.

 

Như vậy, tứ Thánh-đế sự-thật chân-lý có tầm quan trọng lớn không chỉ đối với chư Phật-Chánh-Đẳng- Giác, mà còn các hàng Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật nữa, bởi vì, để trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác đều phải chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, rồi mới chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

Và để trở thành bậc Thánh Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật bậc nào cũng phải chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, rồi mới chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận tham-ái, phiền-não, trở thành Thánh- nhân bậc nào, hoàn toàn tuỳ thuộc vào năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật và năng lực của 5 pháp-chủ của mỗi vị Thánh Thanh-văn ấy.

Tìm hiểu thật-tánh của tứ Thánh-đế

Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-Tịnh-Đạo giảng giải 16 thật-tánh của tứ Thánh-đế(1) như sau:

  1. Khổ Thánh-đế (dukkha ariyasacca) đó là ngũ- uẩn-chấp-thủ, hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam- giới, có 4 thật-tánh là:
  • Thật-tánh khổ là luôn luôn hành hạ.
  • Thật-tánh khổ là do nhân-duyên cấu tạo.
  • Thật-tánh khổ làm nóng nảy.
  • Thật-tánh khổ là do luôn luôn biến đổi.
  1. Nhân sinh khổ Thánh-đế (dukkhasamudaya ariya- sacca) đó là 3 loại tham-ái, nhân sinh khổ Thánh-đế, có 4 thật-tánh là:
  • Thật-tánh làm nhân sinh khổ-đế.
  • Thật-tánh làm cho phát sinh khổ-đế.
  • Thật-tánh ràng buộc trong khổ-đế, không thoát ra khỏi khổ-đế được.

 
   
 

 

1 Bộ Visuddhimagga, phần Pariññādikiccakathā.

 

  • Thật-tánh dính mắc trong khổ-đế.
  1. Diệt khổ Thánh-đế (dukkhanirodha ariyasacca) đó là Niết-bàn, pháp diệt khổ Thánh-đế, có 4 thật-tánh là:
  • Thật-tánh giải thoát khổ Thánh-đế.
  • Thật-tánh không bị ràng buộc trong khổ Thánh-đế.
  • Thật-tánh không bị nhân-duyên nào cấu tạo.
  • Thật-tánh không còn tử sinh luân-hồi.
  1. Pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế (dukkha- nirodhagaminī paṭipadā ariyasacca) đó là pháp-hành bát-chánh-đạo: Chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, có 4 thật-tánh là:
  • Thật-tánh pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn.
  • Thật-tánh pháp-hành chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
  • Thật-tánh là pháp-hành giải thoát khổ tử sinh luân- hồi trong ba giới bốn loài.
  • Thật-tánh là pháp-hành dẫn đầu làm phận sự: Biết khổ Thánh-đế, diệt tham-ái, nhân sinh khổ Thánh-đế, chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ Thánh-đế.

Tất cả 16 thật-tánh của tứ Thánh-đế này đồng thành tựu cùng một lúc trong 4 Thánh-đạo-tâm.

Tam-tuệ-luân (Tiparivaṭṭa)

Đức-Phật dạy rằng:

“Yato ca kho me bhikkhave, imesu catūsu ariya- saccesu evaṃ tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi, athāhaṃ bhikkhave, sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇa- brahmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ…”

“- Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân

 

(trí-tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành) thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng thanh-tịnh đã phát sinh đến với Như-Lai…”

  • Này chư tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai dõng dạc khẳng định truyền dạy rằng: “Như-Lai đã chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi giới chúng-sinh nhân loại, vua chúa, sa-môn, bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương, phạm-thiên cả thảy”.

Tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân là thế nào?

Tam-tuệ-luân đó là 3 loại trí-tuệ luân chuyển theo tuần tự trong tứ Thánh-đế là:

  1. Saccañāṇa: Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế.
  2. Kiccañāṇa: Trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế.
  3. Katañāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành xong phận sự trong tứ Thánh-đế.

Giảng giải

  1. Saccañāṇa: Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, điều trước tiên cần phải học về phần pháp-học của tứ Thánh-đế, đó là 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế cho hiểu rõ các chi pháp của mỗi Thánh-đế như sau:

1.1- Trí-tuệ-học trong khổ Thánh-đế

Trí-tuệ-học trong khổ Thánh-đế đó là học về ngũ-uẩn chấp-thủ (pañcupadānakkhandha) nghĩa ngũ-uẩn đối- tượng của 4 pháp-chấp-thủ (tham-dục chấp-thủ, tà-kiến chấp-thủ, pháp-thường-hành chấp-thủ, ngã-kiến chấp-thủ).

Ngũ-uẩn chấp-thủ có 5 uẩn là:

  1. Sắc-uẩn chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.

 

  1. Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
  2. Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở đồng sinh với 81 tâm tam-giới là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
  3. Hành-uẩn chấp-thủ đó là 50 tâm-sở (trừ ra thọ và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm là đối- tượng của pháp-chấp-thủ.
  4. Thức-uẩn chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm là đối- tượng của pháp-chấp-thủ.
    • Mỗi tâm phát sinh chắc chắn có một số tâm-sở đồng sinh với tâm ấy, nên có 4 uẩn phát sinh:
  • Tâm ấy thuộc về thức-uẩn.
  • Thọ tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về thọ-uẩn.
  • Tưởng tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về

tưởng-uẩn.

  • Số tâm-sở còn lại đồng sinh với tâm ấy thuộc về

hành-uẩn.

  • vatthurūpa là nơi sinh của tâm với tâm-sở ấy thuộc về sắc-uẩn.
    • Đối với tất cả chúng-sinh trong 11 cõi dục-giới và chư phạm-thiên trú trong 15 tầng trời sắc-giới phạm- thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên) đều có đủ ngũ-uẩn.
    • Đối với tất cả chư phạm-thiên trong 4 tầng trời vô- sắc-giới phạm-thiên chỉ có 4 danh-uẩn mà thôi, không có sắc-uẩn.
    • Đối với tất cả chư phạm-thiên trong tầng trời sắc- giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên chỉ có 1 uẩn sắc-uẩn mà thôi.

Ngũ-uẩn chấp-thủ:

  • Sắc-uẩn chấp thủ thuộc về sắc-pháp.

 

  • Thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp-thủ, thức-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp.

Như vậy, ngũ-uẩn chấp-thủ hoặc sắc-pháp danh-pháp trong tam-giới khổ Thánh-đế mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ.

1.2- Trí-tuệ-học trong nhân sinh khổ Thánh-đế

Trí-tuệ-học trong nhân sinh khổ Thánh-đế đó là học về các loại tham-ái.

Tham-ái có 3 loại, 6 loại, 18 loại, 54 loại, 108 loại.

    • Tham-ái có 3 loại là:
  1. Kāmataṇhā: Dục-ái tham-ái trong 6 đối-tượng: Sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái.
  2. Bhavataṇhā: Hữu-ái tham-ái trong 6 đối-tượng (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với thường-kiến tham-ái trong thiền sắc-giới-tâm, thiền vô- sắc-giới-tâm, trong cõi trời sắc-giới phạm-thiên, cõi trời- vô-sắc-giới phạm-thiên.
  3. Vibhavataṇhā: Phi-hữu-ái tham-ái trong 6 đối- tượng (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với đọan-kiến.
    • Tham-ái có 6 loại là:
  • Rūpataṇhā: Sắc-ái tham-ái trong đối-tượng sắc.
  • Saddataṇhā: Thanh-ái tham-ái trong đối-tượng thanh.
  • Gandhataṇhā: Hương-ái tham-ái trong đối-tượng

hương.

  • Rasataṇhā: Vị-ái tham-ái trong đối-tượng vị.
  • Phoṭṭhabbataṇhā: Xúc-ái tham-ái trong đối-tượng

xúc.

  • Dhammataṇhā: Pháp-ái tham-ái trong đối-tượng

pháp.

 

    • Tham-ái có 18 loại là 3 loại tham-ái nhân với 6 đối- tượng thành 18 loại tham-ái.
    • Tham-ái 54 loại 18 loại tham-ái nhân với 3 thời:
  • Thời quá-khứ có 18 loại tham-ái.
  • Thời hiện-tại có 18 loại tham-ái.
  • Thời vị-lai có 18 loại tham-ái. Trong 3 thời gồm có 54 loại tham-ái.
    • Tham-ái 108 loại 54 loại tham-ái nhân với 2 bên:
  • Bên trong của mình có 54 loại tham-ái.
  • Bên ngoài mình, của người khác, vật khác có 54 loại tham-ái.

Hai bên gồm có 108 loại tham-ái.

Các loại tham-ái đều thuộc về nhân sinh khổ Thánh-

đế mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ.

1.3- Trí-tuệ-học trong diệt khổ Thánh-đế

Trí-tuệ-học trong diệt khổ Thánh-đế đó là học về các loại Niết-bàn.

    • Niết-bàn có 2 loại:
  1. Sa upādisesanibbāna: Hữu-dư Niết-bàn Niết- bàn đối với chư bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, còn gọi là phiền-não Niết-bàn (kilesaparinibbāna), nhưng ngũ-uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.
  2. Anupādisesanibbāna: Vô-dư Niết-bàn Niết-bàn đối với chư bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót; đến lúc hết tuổi thọ, bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, còn gọi là ngũ- uẩn Niết-bàn (khandhaparinibbāna), giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

 

    • Niết-bàn có 3 loại:
  1. Animittanibbāna: Vô-hiện-tượng Niết-bàn Niết- bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp hoặc sắc-pháp, hiện rõ trạng-thái vô-thường (aniccalakkhaṇa) hơn trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, do năng lực của tín-pháp-chủ (sadhindriya) hơn 4 pháp- chủ còn lại (tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp- chủ, tuệ-pháp-chủ). Hoặc do năng lực của giới (sīla), dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Niết-bàn ấy gọi là Animittanibbāna: Vô-hiện-tượng Niết-bàn, Niết-bàn không có hiện tượng của các pháp-hữu-vi.
  2. Appaṇihitanibbāna: Vô-ái-Niết-bàn Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí- tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh- pháp hoặc sắc-pháp, hiện rõ trạng-thái khổ (dukkha- lakkhaṇa) hơn trạng-thái vô-thường, trạng-thái vô-ngã, do năng lực của định-pháp-chủ (samādhindriya) hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm- pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ). Hoặc do năng lực của định (samādhi) dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Niết-bàn ấy gọi là Appaṇihitanibbāna: Vô-ái-Niết-bàn, Niết- bàn không có tham-ái nương nhờ.
  3. Suññatanibbāna: Chơn-không-Niết-bàn Niết- bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp hoặc sắc-pháp, hiện rõ trạng-thái vô-ngã (anattalakkhaṇa) hơn trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, do năng lực của tuệ-pháp-chủ (paññindriya) hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-

 

pháp-chủ, định-pháp-chủ). Hoặc do năng lực của tuệ (paññā), dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Niết-bàn ấy gọi là Suññatanibbāna: Chơn-không-Niết-bàn, Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.

Những Niết-bàn này đều thuộc về diệt khổ Thánh-đế

mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ.

1.4- Trí-tuệ-học trong pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế

Trí-tuệ-học trong pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế đó là học về pháp-hành bát-chánh-đạo.

Bát-chánh-đạo có 8 chánh:

  1. Sammādiṭṭhi: Chánh-kiến là trí-tuệ chân-chính, trí- tuệ thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
  2. Sammāsaṅkappa: Chánh-tư-duy là tư duy chân- chính, có 3 pháp:
    • Tư duy thoát ra khỏi ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục).
    • Tư duy không làm khổ mình, khổ người.
    • Tư duy không làm hại mình, hại người.
  3. Sammāvācā: Chánh-ngữ lời nói chân-chính, 4
    • Không nói dối.
    • Không nói lời chia rẽ.
    • Không nói lời thô tục.
    • Không nói lời vô ích.
  4. Sammākammanta: Chánh-nghiệp là nghề nghiệp chân-chính, có 3 điều:
    • Không sát sinh.
    • Không trộm cắp.
    • Không tà dâm.

 

  1. Sammā ājīva: Chánh-mạng là nuôi mạng chân- chánh là tránh xa cách sống tà-mạng do thân hành ác- nghiệp, do khẩu nói ác-nghiệp.
  2. Sammāvāyāma: Chánh-tinh-tấn là tinh-tấn chân chính, có 4 pháp:
    • Tinh-tấn ngăn ác pháp chưa sinh, không cho sinh.
    • Tinh-tấn diệt ác pháp đã phát sinh.
    • Tinh-tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh.
    • Tinh-tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
  3. Sammāsati: Chánh-niệm là niệm chân chính, có 4

pháp-hành tứ-niệm-xứ:

    • Thân niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm.
    • Thọ niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm.
    • Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm.
    • Pháp niệm-xứ: Tháp là đối-tượng của chánh-niệm.
  1. Sammāsamādhi: Chánh-định định-tâm chân- chính trong 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

Bát-chánh-đạo đó là 8 loại tâm-sở:

    • Chánh-kiến có chi pháp là trí-tuệ tâm-sở.
    • Chánh-tư-duy có chi pháp là hướng-tâm tâm-sở.
    • Chánh-ngữ có chi pháp là chánh-ngữ tâm-sở.
    • Chánh-nghiệp có chi pháp là chánh-nghiệp tâm-sở.
    • Chánh-mạng có chi pháp là chánh-mạng tâm-sở.
    • Chánh-tinh-tấn có chi pháp là tinh-tấn tâm-sở.
    • Chánh-niệm có chi pháp là niệm tâm-sở.
    • Chánh-định có chi pháp là nhất-tâm tâm-sở.

8 loại tâm-sở này gọi là bát-chánh-đạo chỉ cùng đồng sinh với 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm mà thôi, bởi vì trong bát-chánh-đạo 3 chế-ngự-tâm-sở (viraticetasika):

 

Chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng thuộc về loại niyata ekatocetasika, 3 tâm-sở cố định chỉ cùng đồng sinh với 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm có đối-tượng Niết- bàn siêu-tam-giới mà thôi.

Tuy nhiên chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng

3 chế-ngự-tâm-sở thuộc về loại aniyatayogīcetasika: Bất-định-tâm-sở còn thuộc loại nānākadāci: Mỗi tâm-sở riêng rẽ đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, bởi vì mỗi tâm- sở này có mỗi đối tượng khác nhau.

Bát-chánh-đạo theo tam-giới và siêu-tam-giới

Bát-chánh-đạo có 8 chánh mà mỗi chánh có nhiều loại, phân biệt bát-chánh-đạo tam-giới bát-chánh-đạo siêu-tam-giới như sau:

* Chánh-kiến (sammādiṭṭhi) là trí-tuệ chân chính thấy

đúng, biết đúng, có 5 loại:

  1. Kammassatā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến sở-nghiệp trí-tuệ thấy đúng, biết đúng thiện-nghiệp và ác-nghiệp mà ta đã tạo rồi là thuộc của riêng ta, chỉ có ta là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp và chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy mà thôi.
  2. Vipassanā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến thiền-tuệ trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới (lokiyavipassanā) thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng- thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.
  3. Magga sammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới (lokuttaravipassanā) chứng đắc Thánh-đạo-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
  4. Phala sammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-quả-tuệ trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới (lokuttaravipassanā) chứng đắc Thánh-quả-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

 

  1. Paccavekkhaṇā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến quán- triệt là trí-tuệ quán-triệt Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết- bàn đã chứng ngộ, phiền-não nào đã bị diệt tận được và phiền-não nào chưa bị diệt tận được.

Trong 5 loại chánh-kiến này, chánh-kiến sở-nghiệp, chánh-kiến thiền-tuệ, chánh-kiến quán-triệt thuộc về tam-giới.

Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ chánh-kiến Thánh-quả- tuệ thuộc về siêu-tam-giới.

Chánh-kiến đó là tuệ-chủ tâm-sở (paññindriya- cetasika) đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, 4 đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc- giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.

    • Nếu khi tuệ-chủ tâm-sở (trí-tuệ tâm-sở) đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-kiến thuộc về tam-giới.
    • Nếu khi tuệ-chủ-tâm-sở (trí-tuệ tâm-sở) đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh- kiến thuộc về siêu-tam-giới.
  • Chánh-tư-duy (sammāsaṅkappa) là tư-duy chân- chính, có 3 điều:
  1. Tư-duy thoát ra khỏi ngũ-dục.
  2. Tư-duy không làm khổ mình, khổ người.
  3. Tư-duy không làm hại mình, hại người.

Chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở (vitakka- cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác- tâm, đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ nhất thiền sắc- giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.

    • Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới- tâm ấy thì chánh-tư-duy thuộc về tam-giới.
    • Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-

 

đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-tư-duy thuộc về siêu-tam-giới.

  • Chánh-ngữ (Sammāvācā) là lời nói chân-chính, có 3 loại:
  1. Kathā sammāvācā: Chánh-ngữ lời-nói là lời nói hay, nói thật, lời nói chân-chính đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến cho người nghe.
  2. Cetanā sammāvācā: Chánh-ngữ tác-ý là tác-ý thiện-tâm tránh xa 4 tà-ngữ:
    • Tránh xa lời nói-dối, mà nói lời chơn-thật.
    • Tránh xa lời nói chia-rẽ, mà nói lời hòa-hợp.
    • Tránh xa lời thô-tục, mà nói lời dịu dàng dễ nghe.
    • Tránh xa lời vô-ích, mà nói lời hữu-ích.
  3. Virati sammāvācā: Chánh-ngữ chế-ngự, chánh- ngữ tâm-sở tránh xa tà-ngữ, khi đang thực-hành pháp- hành thiền-tuệ.

Trong 3 loại chánh-ngữ này, chánh-ngữ lời-nói và chánh-ngữ tác-ý thuộc về tam-giới.

Chánh-ngữ chế-ngự đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới.

Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở (sammāvācā- cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

    • Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với tam-giới- tâm ấy thì chánh-ngữ thuộc về tam-giới.
    • Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-ngữ thuộc về siêu-tam-giới.
  • Chánh-nghiệp (sammākammanta) là nghề nghiệp chân-chính, có 3 loại:

 

  1. Kiriyā sammākammanta: Chánh-nghiệp hành-động, là hành động đại-thiện-nghiệp đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến cho mọi người.
  2. Cetanā sammākammanta: Chánh-nghiệp tác-ý là tác-ý thiện-tâm tránh xa tà-nghiệp:
    • Tránh xa sự sát-sinh.
    • Tránh xa sự trộm-cắp.
    • Tránh xa sự tà-dâm.
  3. Virati sammākammanta: Chánh-nghiệp chế-ngự, chánh-nghiệp tâm-sở tránh xa tà-nghiệp, khi đang thực- hành pháp-hành thiền-tuệ.

4

Trong 3 loại chánh-nghiệp này, chánh-nghiệp hành-

động và chánh-nghiệp tác-ý thuộc về tam-giới.

    • Chánh-nghiệp chế-ngự đồng sinh với 4 Thánh-đạo- tâm và 4 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới.

Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở (sammā- kammantacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

    • Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với tam- giới-tâm ấy thì chánh-nghiệp thuộc về tam-giới.
    • Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-nghiệp thuộc về siêu-tam-giới.
  • Chánh-mạng (sammā ājīva) là nuôi mạng chân- chính, có 2 loại:
  1. Viriya sammā ājīva: Chánh-mạng tinh-tấn, là tinh- tấn nuôi mạng chân-chính, từ bỏ cách sống tà-mạng do thân hành ác-nghiệp, khẩu nói ác-nghiệp.
  2. Virati sammā ājīva: Chánh-mạng chế-ngự, chánh-mạng tâm-sở tránh xa cách sống tà-mạng, khi đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.

 

Trong 2 loại chánh-mạng này, chánh-mạng tinh-tấn

thuộc về tam-giới.

Chánh-mạng chế-ngự đồng sinh với 4 Thánh-đạo- tâm và 4 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới.

Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở (sammā ājīva) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

    • Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với tam- giới-tâm ấy thì chánh-mạng thuộc về tam-giới.
    • Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-mạng thuộc về siêu-tam-giới.
  • Chánh-tinh-tấn (sammāvāyāma) là tinh-tấn chân- chính, có 4 điều:
    • Tinh-tấn ngăn ác pháp chưa sinh, không cho sinh.
    • Tinh-tấn diệt ác pháp đã phát sinh.
    • Tinh-tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh.
    • Tinh-tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.

Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở (viriyacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc- giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm,

4 Thánh-quả-tâm.

  • Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm

ấy thì chánh-tinh-tấn thuộc về tam-giới.

  • Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo- tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-tinh-tấn thuộc về siêu-tam-giới.
  • Chánh-niệm (sammāsati) là niệm chân-chính trong 4 pháp-hành tứ-niệm-xứ:
  • Thân niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm.
  • Thọ niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm.

 

  • Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm.
  • Pháp niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm.

Chánh-niệm đó niệm- âm-sở (saticetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới thiện-

tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-

sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.

  • Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-niệm thuộc về tam-giới.
  • Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-niệm thuộc về siêu-tam-giới.
  • Chánh-định (sammāsamādhi) là định chân-chính trong 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh- quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatācetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện- tâm, 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm, 4 hoặc 20 Thánh-đạo-

tâm, 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm.

  • Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới- tâm ấy thì chánh-định thuộc về tam-giới.
  • Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm thì chánh- định thuộc về siêu-tam-giới.

Đó là 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế thuộc về pháp- học Phật-giáo (pariyattisāsana).

  1. Kiccañāṇa: Trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế

Sau khi học hỏi, hiểu rõ trí-tuệ-học trong tứ Thánh- đế xong thuộc về phần pháp-học Phật-giáo, luân chuyển sang trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế thuộc về phần pháp-hành Phật-giáo.

 

Hành-giả bắt đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ là thực-hành theo trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế.

Trí-tuệ-hành phận sự trong mỗi Thánh-đế khác nhau như sau:

  • Trí-tuệ-hành phận sự nên biết khổ Thánh-đế.
  • Trí-tuệ-hành phận sự nên diệt nhân sinh khổ- Thánh-đế.
  • Trí-tuệ-hành phận sự nên chứng-ngộ diệt khổ Thánh đế.
  • Trí-tuệ-hành phận sự nên tiến-hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế.

2.1- Trí-tuệ-hành phận sự trong khổ Thánh-đế

Khổ Thánh-đế (dukkha ariyasacca) đó là ngũ-uẩn chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận sự nên biết (pariññeyyaṃ) khổ-đế với trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp ấy là khổ-đế (không phải nên diệt, nên chứng ngộ, nên tiến hành).

2.2-Trí-tuệ-hành phận sự trong nhân sinh khổ Thánh-đế

Nhân sinh khổ Thánh-đế (dukkhasamudaya ariya- sacca) đó là tham-ái, pháp mà hành-giả có trí-tuệ- hành phận sự nên diệt(1) (pahātabbaṃ) nhân sinh khổ

 
   
 

 

1 Diệt tham-ái 5 cách:

  • Vikkhambhanappahāna: Diệt bằng cách chế ngự tham-ái do năng lực của bậc thiền.
  • Tadaṅgappahāna: Diệt-từng-thời tham-ái do năng lực của trí-tuệ thiền-tuệ Tam-giới.
  • Samucchedappahāna: Diệt tận được tham-ái do năng lực của Thánh-đạo-tuệ.
  • Paṭippassadhippahāna: Diệt bằng cách làm vắng-lặng tham-ái do năng lực của Thánh-quả-tuệ.
  • Nissaraṇappahāna: Diệt khỏi tham-ái do năng lực của đối-tượng Niết-bàn.

 

Thánh-đế với trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới diệt từng thời tham- ái (không phải nên biết, nên chứng ngộ, nên tiến hành).

2.3- Trí-tuệ-hành phận sự trong diệt khổ Thánh-đế

Diệt khổ Thánh-đế (dukkhanirodha ariyasacca) đó là Niết-bàn, pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận sự nên chứng ngộ (sacchikātabbaṃ) diệt khổ-đế với trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới chứng ngộ từng-thời Niết-bàn(1)(không phải nên biết, nên diệt, nên tiến hành).

2.4- Trí-tuệ-hành phận sự trong pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế

Pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế (dukkhanirodha- gaminī paṭipadā ariyasacca) đó là pháp-hành bát- chánh-đạo, pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận sự nên tiến hành (bhāvetabbaṃ) pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế với trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới đang tiến hành pháp-hành bát-chánh-đạo (không phải nên biết, nên diệt, nên chứng ngộ).

Trong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế này, thì trí-tuệ-hành phận sự nên biết khổ Thánh-đế là chính, đóng vai trò quan trọng trong pháp-hành thiền-tuệ.

Thật vậy, - khi hành-giả thực-hành pháp-hành thiền- tuệ, nếu có trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới thấy rõ, biết rõ sắc-

 
   
 

 

1 Nirodho nibbānaṃ Niết-bàn nghĩa diệt, 5 loại:

  • Vikkhambhananibbāna: Diệt bằng cách chế ngự phiền-não do năng lực của bậc thiền.
  • Tadaṅganibbāna: Diệt-từng-thời phiền-não do năng lực của trí-tuệ thiền-tuệ tam giới.
  • Samucchedanibbāna: Diệt tận được phiền-não do năng lực của Thánh-đạo-tuệ.
  • Paṭippassadhinibbāna: Diệt bằng cách làm vắng lặng phiền-não do năng lực của Thánh-quả tuệ.
  • Nissaraṇanibbāna: Diệt khỏi phiền-não do năng lực của đối-tượng Niết-bàn.

 

pháp hoặc danh-pháp là khổ-đế thì đó là trí-tuệ-hành phận sự nên biết khổ-đế.

    • Khi trí-tuệ-hành phận sự nên biết khổ-đế ấy, thì tham-ái không thể nương nhờ nơi sắc-pháp ấy hoặc danh-pháp ấy mà phát sinh, nghĩa là diệt tham-ái, đó là trí-tuệ-hành phận sự nên diệt-từng-thời (tadaṅgappahāna) tham-ái, nhân sinh khổ-đế.
    • Khi trí-tuệ-hành phận sự nên diệt từng-thời (tadaṅgappahāna) tham-ái, nhân-sinh khổ Thánh-đế, thì đó là trí-tuệ-hành phận sự nên chứng ngộ từng-thời (tadaṅganibbāna) Niết-bàn, diệt khổ-đế.
    • Khi trí-tuệ-hành phận sự nên biết khổ-đế, trí-tuệ- hành phận sự nên diệt từng-thời tham-ái, nhân-sinh khổ Thánh-đế, trí-tuệ-hành phận sự nên chứng ngộ từng-thời Niết-bàn, diệt khổ Thánh-đế, đó là trí-tuệ-hành phận sự nên tiến hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-đế.

Như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế này, thì trí-tuệ-hành phận sự nên biết khổ-đế là chính, đồng thời trí-tuệ-hành phận sự nên diệt từng-thời nhân sinh khổ- đế, trí-tuệ-hành phận sự nên chứng ngộ từng-thời diệt khổ-đế, trí-tuệ-hành phận sự nên tiến hành pháp-hành dẫn đến diệt-đế cũng thành tựu cùng một lúc không trước không sau.

Bốn trí-tuệ-hành phận sự trong tứ đế này thuộc về

pháp-hành Phật-giáo (paṭipattisāsana).

  1. Katañāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành xong phận- sự trong tứ Thánh-đế

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, khi có 4 trí- tuệ-hành phận sự tứ đế với trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới đã hoàn thành xong phận sự tứ đế, thì được luân chuyển

 

đến 4 trí-tuệ-thành phận sự tứ Thánh-đế với trí-tuệ thiền- tuệ siêu-tam-giới đã hoàn thành xong phận sự tứ Thánh- đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

    • Khi ấy, khổ Thánh-đế đó là sắc-pháp, danh-pháp tam-giới pháp trí-tuệ-hành phận sự nên biết (pariññeyyaṃ) sắc-pháp danh-pháp tam-giới là khổ-đế với trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận sự đã biết xong (pariññātaṃ) khổ Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
    • Cũng đồng thời, nhân-sinh khổ Thánh-đế đó là tham- ái pháp trí-tuệ-hành phận sự nên diệt (pahātabbaṃ) tham-ái, nhân sinh khổ-đế với trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ- thành phận sự đã diệt xong (pahīnaṃ) nhân sinh khổ Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
    • Cũng đồng thời, diệt khổ Thánh-đế đó là Niết-bàn pháp trí-tuệ-hành phận sự nên chứng ngộ (sacchikātabbaṃ) Niết-bàn từng-thời là diệt khổ-đế với trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận sự đã chứng ngộ xong (sacchikataṃ) Niết-bàn, diệt khổ Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.
    • Cũng đồng thời, pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh- đế đó là bát-chánh-đạo pháp trí-tuệ-hành phận sự nên tiến hành (bhāvetabbaṃ) bát-chánh-đạo, pháp- hành dẫn đến diệt khổ-đế, với trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận sự đã tiến hành xong (bhāvitaṃ) pháp-hành dẫn đến diệt khổ

 

Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu tam-giới, đã hoàn thành 4 phận sự là:

    • Khổ Thánh-đế là pháp nên biết, thì đã biết xong.
    • Nhân sinh khổ Thánh-đế là pháp nên diệt, thì đã diệt xong.
    • Diệt khổ Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ xong.
    • Pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì đã tiến hành xong.

Trong 4 trí-tuệ-thành đã hoàn thành xong 4 phận sự trong tứ Thánh-đế, thì trí-tuệ-thành phận sự đã tiến hành xong pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến diệt khổ Thánh-đế chính yếu, còn lại 3 trí-tuệ-thành phận sự trong mỗi Thánh-đế kia cũng đã hoàn thành xong mỗi phận sự đồng thời cùng một lúc không trước, không sau.

4 trí-tuệ-thành hoàn thành xong 4 phận sự trong tứ Thánh-đế thuộc về Pháp-thành Phật-giáo (paṭivedha- sāsana).

Trong Visuddhimagga có ví dụ rằng: Một đèn dầu thắp sáng trong đêm tối có 4 sự việc xảy ra cùng một lúc, không trước không sau:

    • Ánh sáng tỏa ra.
    • Bóng tối biến mất.
    • Dầu hao dần.
    • Tim cháy dần.

4 sự việc này xảy ra đồng thời cùng một lúc, không trước không sau.

Cũng như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận sự, 4 trí-tuệ- thành đã hoàn thành xong phận sự trong tứ Thánh-đế đồng thời, cùng một lúc, không trước không sau.

 

Quan hệ nhân quả của tam-tuệ-luân

Quan hệ từ quả đến nhân, từ nhân đến quả

4 trí-tuệ-thành trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, đó là kết quả của 4 trí-tuệ-hành phận sự đã hoàn thành xong trong tứ Thánh-đế.

4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đã thực- hành đúng theo phận sự trong mỗi Thánh-đế, đó là kết quả của 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế đã hiểu biết rõ mỗi chi pháp của mỗi Thánh-đế.

Như vậy, 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế hiểu biết rõ các chi pháp của mỗi Thánh-đế làm nền tảng cơ bản, làm nhân phát sinh dẫn đến quả là 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đúng theo phận sự của mỗi Thánh-đế.

4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đã hoàn thành xong làm nhân phát sinh dẫn đến quả là 4 trí-tuệ- thành trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, phạm hạnh cao thượng đã hoàn thành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn tái-sinh kiếp nào nữa, chắc chắn sẽ tịch diệt Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Vai trò 4 trí-tuệ-hành và 4 trí-tuệ-thành

Trong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế ở giai đọan đầu, thì trí-tuệ-hành phận sự nên biết sắc- pháp, danh-pháp tam-giới là khổ-đế với trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới, đóng vai trò chính yếu, còn 3 trí-tuệ-hành phận sự của mỗi Thánh-đế kia cũng được thành tựu đồng thời cùng một lúc, không trước không sau.

 

Trong 4 trí-tuệ-thành đã hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế ở giai đọan cuối, thì trí-tuệ-thành đã hoàn thành xong phận sự đã tiến hành pháp-hành bát- chánh-đạo dẫn đến diệt khổ Thánh-đế với 4 Thánh- đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới có đối- tượng Niết-bàn siêu-tam-giới đóng vai trò chính yếu, còn 3 trí-tuệ-thành phận sự của mỗi Thánh-đế kia cũng được thành tựu đồng thời cùng một lúc, không trước không sau.

Bốn Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 3 loại tham-ái

  1. Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 2 loại tham-ái vibhavataṇhā: Tham-ái hợp với đọan-kiến, và bhavataṇhā: Tham-ái hợp với thường- kiến, trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến (còn lại 4 tham- tâm không hợp với tà-kiến, thì chưa diệt được).
  2. Nhất-lai-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được

1 loại tham-ái kāmataṇhā: Tham-ái trong 5 đối- tượng ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục) loại thô ở cõi dục-giới, trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến (còn 5 đối-tượng ngũ-dục loại vi- tế chưa diệt được).

  1. Bất-lai Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 1 loại tham-ái kāmataṇhā: Tham-ái trong 5 đối-tượng ngũ-dục vi-tế ở cõi dục-giới, trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến (còn tham-ái trong các bậc thiền sắc- giới-tâm, các bậc thiền vô-sắc-giới-tâm, trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên, tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thì chưa diệt được).
  2. A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được 1 loại tham-ái bhavataṇhā: Tham-ái trong các bậc thiền sắc-giới duy-tác-tâm, các bậc thiền vô-sắc-giới

 

duy-tác-tâm, các tầng trời sắc-giới phạm-thiên, các tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến không còn dư sót.

Như vậy, bậc Thánh A-ra-hán có khả năng đặc biệt diệt tận được hoàn toàn mọi tham-ái không còn dư sót nữa.

Tứ Thánh-đế trong Phật-giáo

Tứ Thánh-đế là sự-thật chân-lý của chư bậc Thánh- nhân đã chứng ngộ, là chánh-pháp cốt lõi căn bản trọng yếu trong giáo pháp của chư Phật quá-khứ, Đức-Phật hiện-tại và chư Phật vị-lai.

Tứ Thánh-đế:

  1. Dukkha ariyasacca: Khổ Thánh-đế, đó là ngũ-uẩn chấp thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới.

Trong giáo pháp của Đức-Phật, tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong cõi dục-giới, cõi sắc-giới, và danh- pháp trong cõi vô-sắc-giới, đúng theo sự-thật chân-lý thì chỉ có dukkhasacca: Khổ-đế mà thôi, không có pháp nào gọi là lạc-đế cả.

Tuy trong thọ tâm-sở (vedanācetasika) sukha- vedanā: Thọ lạc, nhưng sukhavedanā: Thọ-lạc ấy gọi là vipariṇāmadukkha: Biến-chất-khổ, bởi vì thọ-lạc (sukha- vedanā) sinh rồi diệt vô-thường làm biến chất, luôn luôn hành hạ, nên chỉ là khổ-đế mà thôi.

Thọ lạc dù là khổ vẫn còn dễ chịu đựng.

Như vậy, tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về pháp-hữu-vi đúng theo sự-thật chân-lý thì chỉ có khổ- đế mà thôi, không có lạc-đế.

Nếu có lạc (sukha) thì lạc ấy gọi là sukhavipallāsa: Lạc-đảo-điên do tưởng-đảo-điên (saññāvipallāsa), tâm-đảo- điên (cittavipallāsa), tà-kiến-đảo-điên (diṭṭhivipallāsa).

 

Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới thuộc về pháp-hữu-vi đều sinh rồi diệt, nên có 4 trạng- thái: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh, nhưng do tưởng-đảo-điên, tâm-đảo-điên, tà-kiến-đảo-điên tưởng sai, biết sai, thấy sai, chấp lầm cho sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới thường, lạc, ngã, tịnh.

Đúng theo sự-thật chân-lý thì tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới thuộc về pháp-hữu-vi chỉ là dukkhasacca: Khổ-đế mà thôi, không có lạc-đế nào cả.

  1. Dukkhasamudaya ariyasacca: Nhân sinh khổ Thánh-đế đó là taṇhā: Tham-ái.

Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp hiện-tại và kiếp vị-lai.

* Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp hiện-tại

  • Nếu tâm tham-ái muốn được điều gì đó, vật gì đó, … mà không được thoả mãn như ý, thì sân-tâm phát sinh không vừa lòng, làm cho khổ-tâm.
  • Nếu tâm tham-ái muốn được điều gì đó, vật gì đó,

… mà được thoả mãn như ý, thì tham-tâm phát sinh chấp thủ cho là của ta, cũng làm nhân phát sinh tâm lo lắng, giữ gìn, tâm sầu não khổ-tâm.

Đức-Phật dạy trong Dhammapadagāthā câu kệ: “Taṇhāya jāyati soko, taṇhāya jāyatī bhayaṃ. Taṇhāya vippamuttassa, natthi soko kuto bhayaṃ.”(1)

Sự sầu não phát sinh do tham-ái, Sự lo sợ phát sinh do tham-ái, Bậc Thánh A-ra-hán diệt tham-ái,

Không còn sầu não, từ đâu có lo sợ?

 
   
 

 

1 Bộ Dhammapadagāthā thứ 216.

 

* Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp vị-lai

Tất cả mọi chúng-sinh nào hễ còn tham-ái là còn phải tái-sinh kiếp sau, các chúng-sinh ấy gồm có cả 3 bậc Thánh-nhân là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, bởi vì 3 bậc Thánh-nhân này vẫn còn một ít tham-ái.

Nếu chúng-sinh còn có tham-ái thì sau khi chết, tham- ái sẽ dẫn dắt nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau (taṇhā ponobbhavikā), kiếp sau như thế nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh ấy.

  • Sau khi chúng-sinh ấy chết, nếu có ác-nghiệp nào có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh vào 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác- nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.
  • Sau khi chúng-sinh ấy chết, nếu có đại-thiện-nghiệp nào có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì đầu thai làm người trong cõi người hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của đại- thiện-nghiệp ấy, rồi chuyển kiếp sang cõi-giới khác, tuỳ theo nghiệp và quả của nghiệp của chúng-sinh ấy.
  • Hành-giả nào đã chứng đắc được bậc thiền-sắc-giới thiện-tâm nào giữ gìn cho đến lúc lâm chung, sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng với bậc thiền sắc-giới quả-tâm ấy. Vị phạm-thiên hưởng quả an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy, rồi chuyển kiếp sang cõi-giới khác, tuỳ theo nghiệp và quả của nghiệp của vị phạm-thiên ấy.

 

  • Hành-giả nào đã chứng đắc đến bậc thiền vô-sắc- giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn vô- sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa- sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm- thiên, tương xứng với bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm ấy. Vị phạm-thiên hưởng quả an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy, rồi chuyển kiếp sang cõi-giới khác, tuỳ theo nghiệp và quả của nghiệp của vị phạm-thiên ấy.

Ba bậc Thánh hữu học (Sekha ariya)

  • Sau khi bậc Thánh Nhập-lưu chết, không còn tái- sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới, mà chỉ có đại-thiện- nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm người trong cõi người hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi. Đến kiếp thứ 7, bậc Thánh Nhập-lưu chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  • Sau khi bậc Thánh-Nhất-lai chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm người trong cõi người hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới chỉ có 1 kiếp nữa mà thôi. Trong kiếp ấy, bậc Thánh Nhất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra- hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân- hồi trong tam-giới.
  • Sau khi bậc Thánh-Bất-lai chết, không còn tái-sinh trở lại cõi dục-giới, mà chỉ có sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào cho quả tái-sinh hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm- thiên tương xứng với bậc thiền sắc-giới quả-tâm ấy.

Vị phạm-thiên Bất-lai ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn tại tầng trời

 

sắc-giới phạm-thiên ấy, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

  • Bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được mọi tham-ái không còn dư sót, nên ngay kiếp hiện-tại đến khi hết tuổi thọ, bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  1. Dukkhanirodha ariyasacca: Diệt khổ Thánh-đế

đó là Niết-bàn.

Niết-bàn là pháp diệt nhân sinh khổ Thánh-đế và cũng là pháp diệt quả khổ Thánh-đế.

  • Diệt nhân sinh khổ Thánh-đế

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, gọi là phiền-não Niết-bàn (kilesaparinibbāna), nghĩa là mọi tham-ái, mọi phiền- não đã bị diệt tận rồi, mọi phiền-não vĩnh viễn không còn phát sinh nữa.

Như vậy, Niết-bàn pháp diệt nhân sinh khổ Thánh-đế.

  • Diệt quả khổ Thánh-đế

Chư Thánh A-ra-hán đã diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót nữa, đến khi hết tuổi thọ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, gọi là ngũ-uẩn Niết-bàn (khandhapari- nibbāna) nghĩa là sau khi tịch diệt Niết-bàn rồi, không còn tái-sinh kiếp nào nữa.

Như vậy, Niết-bàn là pháp diệt quả khổ Thánh-đế.

  1. Dukkhanirodhagaminī paṭipadā ariyasacca: Pháp- hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế đó là pháp-hành bát- chánh-đạo.

 

Bát-chánh-đạo có 8 chánh: Chánh-kiến, chánh-tư- duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh- tấn, chánh-niệm, chánh-định, đó là 8 tâm-sở:

  • Chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở.
  • Chánh-tư-duy đó hướng-tâm tâm-sở.
  • Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở.
  • Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở.
  • Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở.
  • Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở.
  • Chánh-niệm đó là niệm tâm-sở.
  • Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở.

5

8 tâm-sở này gọi là bát-chánh-đạo cùng với 28 tâm-

sở khác gồm có 36 tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo- tâm 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu- tam-giới.

Tuy nhiên, trong 8 tâm-sở này 3 tâm-sở chánh- ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở thuộc về aniyatayogīcetasika: Bất-định tâm-sở thuộc về loại nānākadācicetasika: Mỗi bất-định tâm-sở riêng rẽ đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, bởi vì mỗi tâm-sở này có mỗi đối-tượng khác nhau.

Trong bát-chánh-đạo gồm có 8 chánh đó là 8 tâm-sở, trong 8 tâm-sở này có 3 tâm-sở chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở thuộc về niyata ekatocetasika chắc chắn đồng sinh với nhau trong

4 Thánh-đạo-tâm 4 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn hoàn thành xong 4 phận sự:

  • Khổ Thánh-đế là pháp nên biết, thì Thánh-đạo-tuệ đã biết xong.
  • Nhân sinh khổ Thánh-đế là pháp nên diệt, thì Thánh-đạo-tuệ đã diệt xong.

 

  • Diệt khổ Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì Thánh-đạo-tuệ đã chứng ngộ xong.
  • Pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì Thánh-đạo-tuệ đã tiến hành xong.

Do đó, bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ Thánh-đế.

Tứ Thánh-đế là nền tảng căn bản, là cốt lõi chính yếu trong giáo pháp của chư Phật Chánh-Đẳng-Giác quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, bởi vì hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ, ban đầu dù có những đối-tượng thiền-tuệ khác nhau như thân, thọ, tâm, pháp, sắc-pháp, danh- pháp, ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu), v.v… đến giai đọan cuối, cũng đều dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, rồi mới chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả và Niết-bàn.

Cho nên, tứ Thánh-đế là sự-thật chân-lý của chư bậc Thánh-nhân, là căn bản cốt yếu trong giáo pháp của chư Phật quá-khứ, hiện-tại, vị-lai.

Nhân-quả liên quan của tứ Thánh-đế

Chân-lý tứ Thánh-đế có nhân-quả liên quan với nhau:

  • Khổ Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ hoặc sắc- pháp, danh-pháp trong tam-giới, quả của nhân sinh khổ Thánh-đế.
  • Nhân sinh khổ Thánh-đế đó là tham-ái, là nhân

dẫn dắt tái-sinh kiếp sau (taṇhā ponobbhavikā).

  • Diệt khổ Thánh-đế đó là Niết-bàn không thuộc về quả của một nhân nào cả, bởi vì, Niết-bàn là pháp-vô-vi (asaṅkhatadhamma) hoàn toàn không có một nhân- duyên nào cấu tạo.

 

  • Pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế đó là pháp- hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ Thánh-đế.

Như vậy, pháp-hành bát-chánh-đạo pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ Thánh-đế, không phải là nhân phát sinh Niết-bàn, và diệt khổ Thánh-đế đó là Niết-bàn cũng không phải là quả của pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế, Niết-bàn chỉ là đối-tượng siêu- tam-giới của pháp-hành bát-chánh-đạo trong 4 Thánh- đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm mà thôi.

Ví dụ nôm na rằng: “Con đường dẫn đến kinh đô.”

  • Con đường ví như bát-chánh-đạo pháp-hành dẫn

đến diệt khổ Thánh-đế.

  • Kinh đô ví như Niết-bàn là pháp diệt khổ Thánh-đế.

Con đường dẫn đến kinh đô, chứ không phải là nhân phát sinh kinh đô.

Cũng như vậy, pháp-hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, chứ không phải là nhân phát sinh Niết-bàn.

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications