Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
NTPG.Q10.B5 Trạng-Thái-Chung (Sāmaññalakkhaṇa) và Trạng-Thái-Riêng (Visesalakkhaṇa)
Tất cả mọi danh-pháp (nāmadhamma) mọi sắc-pháp (rūpadhamma) là pháp-hữu-vi (saṅkhatadhamma) thuộc về chân-nghĩa-pháp đều có sự sinh, sự diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung (sāmaññalakkhaṇa) là: Aniccalakkhaṇa: Trạng-thái vô-thường. Dukkhalakkhaṇa: Trạng-thái khổ. Anattalakkhaṇa: Trạng-thái vô-ngã.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:6077

Các tên gọi khác

Tất cả mọi danh-pháp (nāmadhamma) mọi sắc-pháp (rūpadhamma) là pháp-hữu-vi (saṅkhatadhamma) thuộc về chân-nghĩa-pháp đều có sự sinh, sự diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung (sāmaññalakkhaṇa) là: Aniccalakkhaṇa: Trạng-thái vô-thường. Dukkhalakkhaṇa: Trạng-thái khổ. Anattalakkhaṇa: Trạng-thái vô-ngã.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
NTPG.Q10.B5 Trạng-Thái-Chung (Sāmaññalakkhaṇa) và Trạng-Thái-Riêng (Visesalakkhaṇa)

Trạng-Thái-Chung (Sāmaññalakkhaṇa)

Tất cả mọi danh-pháp (nāmadhamma) mọi sắc-pháp (rūpadhamma) pháp-hữu-vi (saṅkhatadhamma) thuộc về chân-nghĩa-pháp đều có sự sinh, sự diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung (sāmaññalakkhaṇa) là:

  1. Aniccalakkhaṇa: Trạng-thái vô-thường.
  2. Dukkhalakkhaṇa: Trạng-thái khổ.
  3. Anattalakkhaṇa: Trạng-thái vô-ngã.

Trạng-Thái-Riêng (Visesalakkhaṇa)

Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều có 3 trạng- thái-chung (sāmaññalakkhaṇa). Riêng mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp đều có trạng-thái-riêng của mỗi pháp.

  • Citta: Tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm cùng có một trạng-thái-riêng là: Ārammaṇavijānanalakkhaṇa: Trạng- thái biết các đối-tượng.
  • Cetasika: Tâm-sở gồm có 52 tâm-sở, mỗi tâm-sở có mỗi trạng-thái-riêng, nên có 52 trạng-thái-riêng.
  • Rūpadhamma: Sắc-pháp gồm 28 sắc-pháp, mỗi sắc pháp có mỗi trạng-thái-riêng, nên có 28 trạng-thái-riêng.
  • Nibbāna: Niết-bàn có trạng-thái-riêng là Santi- lakkhaṇa: Trạng-thái làm vắng lặng mọi phiền-não, mọi nỗi khổ của sắc-pháp, của danh-pháp.

Trạng-thái-riêng của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp có tầm quan trọng, để phân biệt sự khác nhau của mỗi sắc- pháp, mỗi danh-pháp.(1)

 
   
 

 

1 Tìm hiểu trong quyển Vi-diệu-pháp hiện thực trong cuộc sống, cùng soạn giả.

 

Ba trạng-thái-chung (Sāmaññalakkhaṇa) 1- Trạng-thái vô-thường (Aniccalakkhaṇa)

Ý nghĩa anicca:

“Aniccaṃ khayaṭṭhena”(1): Vô-thường có ý nghĩa diệt, bởi vì tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp sinh rồi diệt cả thảy. Hoặc

“Hutvā abhāvaṭṭhena aniccā”: Có rồi lại không, có ý nghĩa là vô-thường.

Anicca: Vô-thường có 3 loại:

  1. Anicca: Vô-thường

“Sabbe saṅkhārā aniccā”: Tất cả các pháp-hữu-vi

đều là vô-thường.

Saṅkhārā: Pháp-hữu-vi đó là sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu), v.v… đều là vô-thường, bởi vì các pháp-hữu-vi sinh rồi diệt theo tự nhiên của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp.

  1. Aniccalakkhaṇa: Trạng-thái vô-thường

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, khi trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc- pháp, mỗi danh-pháp liên tục không ngừng, nên hiện rõ trạng-thái vô-thường của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp ấy.

  1. Aniccānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo trạng- thái vô-thường

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trí-tuệ thiền- tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô- thường, rồi dõi theo trạng-thái vô-thường, nên diệt được sự tưởng lầm, chấp lầm rằng: Sắc-pháp, danh-pháp là thường (niccasaññā).

 
   
 

 

1 Bộ Visuddhimagga, phần Sammasanañāṇakathā.

 

Nếu hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ danh-pháp hoặc sắc-pháp có trạng-thái vô-thường, rồi dõi theo trạng-thái vô- thường của sắc-pháp hoặc danh-pháp ấy, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là amittanibbāna: Vô-hiện-tượng Niết- bàn, Niết-bàn không có hiện tượng các pháp-hữu-vi.

Hành-giả chứng ngộ amittanibbāna: Vô-hiện-tượng Niết-bàn do tín-pháp-chủ (saddhindriya) nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, đính-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ) hoặc do năng lực của giới trong sạch (sīla).

2- Trạng-thái khổ (dukkhalakkhaṇa)

Ý nghĩa dukkha:

“Dukkhaṃ bhayaṭṭhena”(1)khổ ý nghĩa đáng kinh sợ, bởi vì tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp sinh rồi diệt liên tục không ngừng, vô-thường, diệt mất, nên đáng kinh sợ.

“Uppādavayapaṭipīḷanaṭṭhena dukkhā”: Sự sinh, sự diệt luôn luôn hành hạ có ý nghĩa là khổ.

Tính chất khổ có 3 loại:

  1. Dukkhadukkha: Khổ-thật-khổ đó thọ-khổ (dukkha- vedanā) khổ khó chịu đựng nổi, như khổ thân, khổ tâm.
  2. Vipariṇāmadukkha: Biến-chất-khổ đó là thọ-lạc (sukhavedanā) bị vô-thường sinh rồi diệt làm biến chất, nên thọ lạc biến đổi thành khổ-đế. Dù khổ vẫn còn dễ chịu đựng được.
  3. Saṅkhāradukkha: Pháp-hành-khổ đó là tất cả các pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp sinh rồi diệt liên tục, không ngừng hành hạ, nên chỉ có khổ mà thôi.

 
   
 

 

1 Bộ Visuddhimagga, phần Sammasanañāṇakathā.

 

Dukkha: Khổ có 3 loại:

  1. Dukkha: Khổ thân, khổ tâm

“Sabbe saṅkhārā dukkhā”: Tất cả các pháp-hữu-vi

đều là khổ.

Saṅkhārā: Pháp-hữu-vi đó là sắc-pháp, danh-pháp, ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu), v.v… đều là khổ, bởi vì sinh rồi diệt liên tục không ngừng, vô-thường luôn luôn hành hạ (abhiṇhapaṭipīḷana).

  1. Dukkhalakkhaṇa: Trạng-thái khổ

Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều có trạng-thái vô-thường, nên tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp cũng có trạng-thái khổ.

Đức-Phật dạy trong kinh Anattalakkhaṇasutta: “Yadaniccaṃ taṃ dukkhaṃ.”

Ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp nào có trạng-thái vô- thường, thì ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp ấy có trạng- thái khổ.

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, khi trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc- pháp, mỗi danh-pháp liên tục không ngừng luôn luôn hành hạ, nên hiện rõ trạng-thái khổ của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp ấy.

  1. Dukkhānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo trạng-thái khổ.

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trí-tuệ thiền- tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái khổ, rồi dõi theo trạng-thái khổ, nên diệt được sự tưởng lầm, chấp lầm rằng: Sắc-pháp, danh-pháp là lạc (sukhasaññā).

Nếu hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ,

trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ danh-pháp hoặc sắc-pháp

 

trạng-thái khổ, rồi dõi theo trạng-thái khổ của danh- pháp hoặc sắc-pháp ấy, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là appaṇihitanibbāna: Vô-ái Niết-bàn, Niết-bàn không tham-ái nương nhờ.

Hành-giả chứng ngộ appaṇihitanibbāna: Vô-ái Niết- bàn do định-pháp-chủ (samādhindriya) có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của định (samādhi).

3- Trạng-thái vô-ngã (anattalakkhaṇa)

Ý nghĩa Anattā

“Anattā asārakaṭṭhena”(1): Vô-ngã có ý nghĩa vô dụng, bởi vì không phải ta, không phải của ta, không chiều theo ý muốn của ta. Hoặc

Anattā: Vô-ngã còn có 4 ý nghĩa theo Chú-giải là:

  • Avasavattanaṭṭha: Vô-ngã có ý nghĩa là không chiều theo ý muốn của một ai cả.
  • Asāmikaṭṭha: Vô-ngã có ý nghĩa là vô chủ, không có ai làm chủ cả.
  • Suññataṭṭha: Vô-ngã có ý nghĩa là không, không phải ta, không phải của ta, không phải của ai cả.
  • Attapaṭikkhepaṭṭha: Vô-ngã có ý nghĩa là phủ nhận thuyết tà-kiến chấp ngã của nhóm ngoại đạo.

Anattā: Vô-ngã có 3 loại:

  1. Anattā: Pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.

“Sabbe dhammā anattā”: Tất cả các pháp-hữu-vi và pháp-vô-vi đều là vô-ngã.

 
   
 

 

1 Bộ Visuddhimagga, phần Sammasanañāṇakathā.

 

Pháp-hữu-vi (saṅkhatadhamma) đó là sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu), v.v… là các pháp bị cấu tạo bởi 4 nhân-duyên: Nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực đều là pháp-vô-ngã.

Pháp-vô-vi (asaṅkhatadhamma) đó là Niết-bàn và gom cả chế-định-pháp (paññattidhamma) là những pháp không bị cấu tạo bởi 4 nhân-duyên: Nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực, nên cũng là pháp-vô-ngã.

  1. Anattalakkhaṇa: Trạng-thái vô-ngã

Tất cả sắc-pháp, danh-pháp đều có trạng-thái khổ, thì tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp cũng có trạng-thái vô-ngã.

Đức-Phật dạy trong kinh Anattalakkhaṇasutta: “Yaṃ dukkhaṃ tadanattā.”

Ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp nào có trạng-thái khổ, thì ngũ-uẩn, sắc-pháp, danh-pháp ấy trạng-thái vô-ngã.

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, khi trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc- pháp, mỗi danh-pháp liên tục không ngừng, không chiều theo ý muốn của một ai cả, nên hiện rõ trạng-thái vô- ngã của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp ấy.

  1. Anattānupassanā: Trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo trạng- thái khổ

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trí-tuệ thiền- tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô- ngã, rồi dõi theo trạng-thái vô-ngã, nên diệt được sự tưởng lầm, chấp lầm rằng: Sắc-pháp, danh-pháp ngã (attasaññā).

Nếu hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ,

trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ danh-pháp hoặc sắc-pháp

 

trạng-thái vô-ngã, rồi dõi theo trạng-thái vô-ngã của danh-pháp hoặc sắc-pháp ấy, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là suññatanibbāna: Chơn-không Niết-bàn, Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.

Hành-giả chứng ngộ suññatanibbāna: Chơn-không Niết-bàn do tuệ-pháp-chủ (paññindriya) có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ), hoặc do năng lực của trí-tuệ (paññā).

Sự liên quan giữa 3 trạng-thái-chung

Ba trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái- khổ, trạng-thái vô-ngã của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp có sự liên quan lẫn nhau.

Đức-Phật dạy:

“Yadaniccaṃ, taṃ dukkhaṃ. Yaṃ dukkhaṃ, tadanattā.”(1)

Pháp nào có trạng-thái vô-thường, thì pháp ấy có trạng-thái khổ.

Pháp nào có trạng-thái khổ, thì pháp ấy có trạng-thái vô-ngã.

Như vậy, mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp đều có 3 trạng- thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng- thái vô-ngã.

Thật ra, trí-tuệ thiền-tuệ trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, hoặc đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ, mỗi tâm ấy chỉ có khả năng thấy rõ, biết rõ một đối-tượng mà thôi (một tâm không thể biết nhiều đối-tượng cùng một lúc). Cho nên,

 
   
 

 

1 Samyuttanikāya, Khandhavagga, Anattalakkhaṇasutta.

 

  • Khi nào trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đối-tượng trạng-thái vô-thường (aniccalakkhaṇa) của sắc-pháp nào, của danh-pháp nào, thì khi ấy, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp ấy, của danh-pháp ấy không hiện rõ.
  • Khi nào trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đối-tượng trạng-thái khổ (dukkhalakkhaṇa) của sắc-pháp nào, của danh-pháp nào, thì khi ấy, trạng-thái vô-thường, trạng- thái vô-ngã của sắc-pháp ấy, của danh-pháp ấy không hiện rõ.
  • Khi nào trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đối-tượng trạng-thái vô-ngã (anattalakkhaṇa) của sắc-pháp nào, của danh-pháp nào, thì khi ấy, trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ của sắc-pháp ấy, của danh-pháp ấy không hiện rõ.

Vậy, khi trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ trạng-thái- chung nào của sắc-pháp nào, của danh-pháp nào làm đối-tượng thiền-tuệ, thì 2 trạng-thái-chung còn lại mặc dù không hiện rõ, nhưng tiềm năng của trí-tuệ thiền-tuệ ấy vẫn có khả năng diệt được sự tưởng lầm, chấp lầm cho rằng: Sắc-pháp, danh-pháp là thường, lạc, ngã, bởi vì 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã có liên quan lẫn nhau.

Quan niệm vô-thường, khổ, vô-ngã theo đời

Trong thời kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác chưa xuất hiện trên thế gian, hoặc đối với những người không hiểu biết về giáo pháp của Đức-Phật, có các quan niệm:

  • Quan niệm về vô-thường: Đối với số người, những gì có tính chất không được bền vững lâu dài, có rồi lại bị hư hại, hoặc mất đi, v.v… người ta cho là vô-thường.

 

Ví dụ: Khi nghe người chết, chiếc xe bị hư, cái ly bị bể, xảy ra sự biến đổi, v.v… Người ta nói với nhau rằng: “Vô-thường!”

  • Quan niệm về khổ: Đối với số người, khi gặp sự khổ thân như: Bị bệnh hoạn ốm đau, bị tai nạn, bị đánh đập tàn nhẫn, bị nóng lạnh, bị đói khát, v.v… Người ta nói với nhau rằng: “Khổ quá!”

Hoặc khi gặp nỗi khổ tâm như: Sầu não khóc than thương tiếc đến người thân đã chết, của cải tài sản bị mất, v.v… Người ta nói với nhau rằng: “Khổ quá!”

  • Quan niệm về vô-ngã: Đối với số người không từng học hỏi giáo-pháp của Đức-Phật, không từng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, thì không có quan niệm về vô-ngã, bởi vì số người ấy vốn là người thường chấp ngã, chấp thủ có ta.

Dù cho số người ấy có quan niệm về vô-thường, quan niệm về khổ cũng chỉ là một cách thô thiển mà thôi.

Thật vậy, một người sống qua bấy nhiêu năm, rồi mới chết, một chiếc xe chạy qua thời gian, rồi mới bị hư, một cái ly đã sử dụng qua, rồi mới bị bể, v.v…

Như vậy, quan niệm về vô-thường đối với họ chờ có thời gian.

quan niệm về khổ đối với họ phải chờ có bệnh hoạn ốm đau, bị tai nạn thương tích, v.v…

Trong Phật-giáo, hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, nếu hành-giả nào là hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật, có đủ

5 pháp-chủ: Tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp- chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ, có duyên lành lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi hành-giả ấy thực-

 

hành pháp-hành thiền-tuệ có khả năng phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới, cho đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 gọi là uddayabbayānupassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh- pháp hiện tại do nhân-duyên-sinh, do nhân-duyên-diệt, nên thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái chung: Trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của mỗi sắc- pháp hiện-tại ấy, mỗi danh-pháp hiện-tại ấy, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Thật ra, thật-tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp; sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp; 3 trạng-thái chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp tam- giới vẫn luôn luôn hiện hữu, nhưng không có một ai có khả năng chỉ dạy cho biết, cho thấy, mãi cho đến khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, Đức- Phật Gotama mới thuyết pháp, giảng dạy các pháp ấy, để tế độ chúng-sinh có duyên lành nên tế độ.

Trạng-thái chi tiết của 3 trạng-thái-chung

Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về pháp- hữu-vi đều có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã.

Trong mỗi trạng-thái-chung của sắc-pháp, của danh- pháp ấy có nhiều trạng-thái chi-tiết được trình bày trong bộ Visuddhimagga phần Maggāmaggañāṇadassana- visuddhi như sau:

 

  1. Aniccalakkhaṇa: Trạng-thái vô-thường

Trạng-thái vô-thường có 10 trạng-thái chi tiết:

  1. Aniccato: Với trạng-thái vô-thường.
  2. Palokato: Với trạng-thái tiêu diệt.
  3. Calato: Với trạng-thái biến đổi.
  4. Pabhaṅguto: Với trạng-thái tan rã.
  5. Addhuvato: Với trạng-thái không bền vững.
  6. Vipariṇāmadhammato: Với trạng-thái biến đổi là thường.
  7. Asārakato: Với trạng-thái vô dụng, không cốt lõi.
  8. Vibhavato: Với trạng-thái bị suy.
  9. Saṅkhatato: Với trạng-thái bị cấu tạo.
  10. Maraṇadhammato: Với trạng-thái diệt, chết là thường.

10 trạng-thái chi tiết của trạng-thái vô-thường cũng là đối-tượng của trí-tuệ thiền-tuệ aniccānupassanā. Mỗi trạng-thái chi tiết phát sinh tuỳ theo năng lực trí-tuệ thiền-tuệ của mỗi hành-giả.

  1. Dukkhalakkhaṇa: Trạng-thái khổ

Trạng-thái khổ có 25 trạng-thái chi-tiết:

  1. Dukkhato: Với trạng-thái khổ khó chịu.
  2. Rogato: Với trạng-thái khổ như bệnh tật.
  3. Gaṇḍato: Với trạng-thái khổ như ung nhọt.
  4. Sallato: Với trạng-thái khổ như mũi tên độc.
  5. Aghato: Với trạng-thái khổ bất hạnh.
  6. Ābādhato: Với trạng-thái khổ như ốm đau.
  7. Ītito: Với trạng-thái khổ suy đồi.
  8. Upaddavato: Với trạng-thái khổ tai nạn.
  9. Bhayato: Với trạng-thái khổ đáng kinh sợ.
  10. Upasaggato: Với trạng-thái khổ cản trở.
  11. Atāṇato: Với trạng-thái khổ không có nơi bảo hộ.

 

  1. Aleṇato: Với trạng-thái khổ không có nơi ẩn náu.
  2. Asaraṇato: Với trạng-thái khổ vì không có nơi nương nhờ.
  3. Ādīnavato: Với trạng-thái khổ vì tội chướng.
  4. Aghamūlato: Với trạng-thái nguồn gốc của khổ.
  5. Vadhakato: Với trạng-thái khổ như kẻ sát hại.
  6. Sāsavato: Với trạng-thái khổ do phiền-não trầm-luân
  7. Mārāmisato: Với trạng-thái khổ như mồi của Ma.
  8. Jātidhammato: Với trạng-thái khổ sinh là thường.
  9. Jarādhammato: Với trạng-thái khổ già là thường. 21-Byādhidhammato: Với trạng-thái khổ bệnh thường.
  1. Sokadhammato: Với trạng-thái khổ sầu não thường.
  2. Paridevadhammato: Với trạng-thái khổ than khóc là thường.
  3. Upāyāsadhammato: Với trạng-thái nỗi thống khổ cùng cực.
  4. Saṃkilesikadhammato: Với trạng-thái khổ bị ô nhiễm bởi phiền-não.

25 trạng-thái chi-tiết của trạng-thái khổ cũng là đối- tượng của trí-tuệ thiền-tuệ dukkhānupassanā. Mỗi trạng- thái chi tiết phát sinh tuỳ theo năng lực trí-tuệ thiền-tuệ của mỗi hành-giả.

  1. Anattalakkhaṇa: Trạng-thái vô-ngã

Trạng-thái vô-ngã có 5 trạng-thái chi-tiết:

  1. Anattato: Với trạng-thái vô-ngã, không phải ta.
  2. Parato: Với trạng-thái khác lạ (không phải ta).
  3. Rittato: Với trạng-thái rỗng không, không thường, lạc, ngã.
  4. Tucchato: Với trạng-thái không có thật là ta.
  5. Suññato: Với trạng-thái hoàn toàn không phải ta, không phải của ta.

 

5 trạng-thái chi-tiết của trạng-thái vô-ngã cũng là đối-tượng của trí-tuệ thiền-tuệ anattānupassanā. Mỗi trạng-thái chi tiết phát sinh tuỳ theo năng lực trí-tuệ thiền-tuệ của mỗi hành-giả.

Như vậy, 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp được phân loại ra trạng-thái chi tiết gồm có 40 trạng-thái chi-tiết, mà mỗi loại trạng-thái chi-tiết của sắc-pháp, của danh-pháp này được hiện rõ đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, tuỳ theo 10 pháp-hạnh ba-la-mật, tuỳ theo năng lực của 5 pháp- chủ: Tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định- pháp-chủ, tuệ pháp-chủ và tuỳ theo năng lực của pháp- hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ của mỗi hành-giả.

Mỗi loại trạng-thái chi-tiết ấy đều có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh- đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo như sau:

  • Nếu hành-giả có tín-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định- pháp-chủ, tuệ pháp-chủ), và có pháp-hành giới có nhiều năng lực thì trạng-thái vô-thường hiện rõ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán trong Phật-giáo.

Hành-giả trở thành Thánh-nhân bậc nào tuỳ theo 10 pháp- hạnh ba-la-mật, và năng lực của 5 pháp-chủ của hành-giả.

  • Nếu hành-giả có định-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, tuệ pháp-chủ) và có pháp-hành thiền-

 

định có nhiều năng lực thì trạng-thái khổ hiện rõ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán trong Phật-giáo.

Hành-giả trở thành Thánh-nhân bậc nào tuỳ theo 10 pháp- hạnh ba-la-mật, và năng lực của 5 pháp-chủ của hành-giả.

  • Nếu hành-giả có tuệ-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ) và có pháp-hành thiền- tuệ có nhiều năng lực thì trạng-thái vô-ngã hiện rõ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán trong Phật-giáo.

Hành-giả trở thành Thánh-nhân bậc nào tuỳ theo 10 pháp hạnh ba-la-mật, và năng lực của 5 pháp-chủ của hành-giả.

Bốn bậc Thánh-nhân

Trong Phật-giáo có 4 bậc Thánh-nhân:

  1. Bậc Thánh Nhập-lưu (Sotāpanna).
  2. Bậc Thánh Nhất-lai (Sakadāgāmī).
  3. Bậc Thánh Bất-lai (Anāgāmī).
  4. Bậc Thánh A-ra-hán (Arahanta).

Pháp che án 3 trạng-thái-chung

Tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp là pháp-hữu-vi (saṅkhatadhamma) thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramat- thadhamma) có những sự thật hiển nhiên như sau:

  • Thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp.
  • Sắc-pháp, danh-pháp có sự sinh, sự diệt.
  • Sắc-pháp, danh-pháp có 3 trạng-thái-chung: Trạng- thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã.

Đó là thật-tánh hiển nhiên của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp.

 

Vấn: - Do nguyên nhân nào che phủ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp?

  • Do pháp nào che phủ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp?

* Nguyên nhân che phủ thật-tánh

Đáp: - Do vô-minh (avijjā) là nguyên nhân che phủ thật-tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp.

Vô-minh đó là si-tâm-sở (mohacetasika) si-mê đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm làm cho tâm si-mê tối tăm, như màn vô-minh che phủ thật-tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp. Cho nên, thật-tánh hiển nhiên của mỗi sắc- pháp, mỗi danh-pháp không hiện rõ.

  • Do tà-kiến (diṭṭhi) đó là tà-kiến tâm-sở (diṭṭhi- cetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi danh-pháp, nơi sắc-pháp cho là ta, người, người nam, người nữ, chúng-sinh, v.v…
  • Do chấp thủ theo danh từ ngôn-ngữ chế-định được lưu truyền từ ngàn xưa cho đến ngày nay, trở thành thói quen, nên chỉ có biết sự-thật ngôn-ngữ chế-định-pháp (paññattidhamma) theo đời mà thôi, không biết đến sự thật chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).

Đó là những nguyên nhân che phủ thật-tánh hiển nhiên của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp. Nguyên nhân chính là vô-minh đó là si-tâm-sở (mohacetasika).

Vô-minh trong pháp paṭiccasamuppāda

Trong pháp paṭiccasamuppāda: Thập-nhị-nhân-sinh

có 12 pháp theo nhân quả liên hoàn:

“Avijjāpaccayā saṅkhārā,…”

“Do vô-minh làm duyên, nên các pháp-hành sinh,…”

 

Hay các pháp-hành phát sinh do vô-minh làm duyên.

  • Vô-minh (avijjā) đó là si tâm-sở (mohacetasika)

đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm.

  • Các pháp-hành (saṅkhārā) đó là tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, với 8 dục-giới thiện-tâm, với 5 sắc-giới thiện-tâm, với 4 vô- sắc-giới thiện-tâm.

Tác-ý tâm-sở đồng sinh với bất-thiện-tâm và các tam- giới thiện-tâm này phát sinh do vô-minh làm duyên.

Hay nói cách khác, vô-minh làm nhân phát sinh, các pháp-hành (saṅkhārā) ấy là quả (quả của vô-minh).

Không biết pháp nào gọi là vô-minh?

Không biết 8 pháp gọi là vô minh, 8 pháp đó là:

  1. Dukkhe añāṇaṃ: Không biết ngũ-uẩn chấp-thủ, hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là khổ Thánh-đế.
  2. Dukkhasamudaye añāṇaṃ: Không biết tham-ái là nhân sinh khổ Thánh-đế.
  3. Dukkhanirodhe añāṇaṃ: Không biết Niết-bàn là pháp diệt khổ Thánh-đế.
  4. Dukkhanirodhagāminīpaṭipadāya añāṇaṃ: Không biết pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến chứng ngộ Niết- bàn, diệt khổ Thánh-đế.
  5. Pubbante añāṇaṃ: Không biết ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu) trong quá-khứ.
  6. Aparante añāṇaṃ: Không biết ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu) trong vị-lai.
  7. Pubbantāparante añāṇaṃ: Không biết ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu) trong quá-khứ và trong vị-lai.
  8. Idappaccayatāpaṭiccasamuppannesu dhammesu

 

añāṇaṃ: Không biết sắc-pháp, danh-pháp phát sinh trong thập-nhị-duyên-sinh (paṭiccasamuppāda) theo 12 pháp nhân-quả liên-hoàn với nhau như sau:

“Avijjāpaccayā saṅkhārā, Saṅkhārāpaccayā viññāṇaṃ, v.v…

  • Các pháp-hành đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, 17 thiện-tâm trong tam-giới phát sinh do vô-minh làm duyên.
  • 19 quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau phát sinh do các pháp-hành trên làm duyên, v.v…

Nhân và quả liên-hoàn trong thập-nhị-duyên-sinh, không thuần là nhân, không thuần là quả, mỗi pháp là quả của pháp trước, rồi làm nhân của pháp sau tiếp diễn liên hoàn với nhau như vậy(1).

Như vậy, vô-minh không biết 8 pháp này, ngoài ra, vô-minh có thể biết các pháp khác, hoặc các bộ môn khác trong đời, nhưng không trực tiếp hỗ trợ cho chúng- sinh giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Thời-kỳ Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện

Trong thời-kỳ Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác chưa xuất hiện trên thế gian, toàn thể chúng-sinh trong tam- giới bị vô-minh che phủ thật-tánh của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp, không có một sa-môn, bà-la-môn, đạo- sư nào có khả năng biết đến thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp, bởi vì vô-minh che phủ, nên toàn thể chúng- sinh trong tam-giới đắm chìm trong biển khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Đến thời kỳ Đức-Bồ-tát Siddhattha sinh ra đời tại khu vườn Lumbīnī, vào ngày rằm tháng tư.

 
   
 

 

1 Tìm hiểu trong quyển Tìm Hiểu Pháp-Hành Thiền-Tuệ, cùng soạn giả.

 

35 năm sau, Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự đi đến ngồi tại cội Đại-Bồ-đề tại khu rừng Uruvelā, thực-hành pháp- hành thiền-tuệ với đối-tượng thiền-tuệ là thập-nhị- duyên-sinh và thập-nhị-nhân-diệt, theo chiều thuận và nghịch, trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận vô-minh, tham-ái, mọi phiền-não trầm-luân không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật- Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, vào canh chót đêm rằm tháng tư, tại khu rừng Uruvelā, tròn đúng 35 tuổi.

Đức-Phật thuyết dạy chánh-pháp tế độ chúng-sinh có duyên lành nên tế độ. Nếu những chúng-sinh nào thuộc về hạng người tam-nhân (tihetukapuggala), đã tích-lũy đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật từ vô số kiếp quá-khứ, có đủ 5 pháp-chủ (indriya): Tín-pháp-chủ, tấn-pháp- chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ, thì những chúng sinh ấy có duyên lành lắng nghe chánh- pháp của Đức-Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ diệt được vô-minh tối tăm, thấy rõ, biết rõ thật-tánh của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp được hiển nhiên hiện rõ; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh sự diệt của sắc-pháp, của danh- pháp, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Thánh-đạo nào, Thánh-quả ấy tuỳ theo năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật và 5

 

pháp-chủ (indriya): Tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm- pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi hành- giả như sau:

  • Có số chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā), trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
  • Có số chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
  • Có số chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại vi-tế, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
  • Có số chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), buồn-chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội-lỗi (ahỉika), không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A- ra-hán cao thượng.

Phương pháp diệt vô-minh

Diệt vô-minh có 2 giai đọan:

  • Giai đọan ngăn ngừa vô-minh, cho minh phát sinh.
  • Giai đọan diệt tận được vô-minh.
  1. Giai đọan ngăn ngừa vô-minh, cho minh phát sinh bằng cách nào?
  • Vô-minh (avijjā) đó là si tâm-sở (mohacetasika)

đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm.

  • Minh (vijjā) đó là trí-tuệ tâm-sở (paññācetasika)

 

đồng sinh với 4 dục-giới thiện-tâm hợp với trí-tuệ, 4 dục-giới quả-tâm hợp với trí-tuệ, 4 dục-giới duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ, 15 sắc-giới-tâm, 12 vô-sắc-giới-tâm, 8

hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm, gồm 47 hoặc 79 tâm.

Mohacetasika: Si tâm-sở có 4 đặc tính riêng biệt:

  1. Añāṇalakkhaṇo: Si tâm-sở có trạng-thái không biết thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp, hoặc không biết chân-lý tứ Thánh-đế.
  2. Ārammaṇasabhāvacchādanaraso: Si tâm-sở có phận sự che phủ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp. 3- Andhakārapaccupaṭṭhāno: Si tâm-sở làm cho tâm

tối tăm là quả hiện hữu.

4- Ayonisomanasikārapadaṭṭhāno: Biết sai lầm trong tâm với si-tâm không đúng với 4 trạng-thái của sắc-pháp, của danh-pháp là nguyên nhân gần phát sinh si tâm-sở.

Paññācetasika: Trí-tuệ tâm-sở 4 đặc tính riêng biệt:

  1. Yathābhūtapaṭivedhalakkhaṇā: Trí-tuệ tâm-sở có trạng-thái thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
  2. Visayobhāsanarasā: Trí-tuệ tâm-sở có phận sự làm rõ ràng thật-tánh các sắc-pháp, các danh-pháp.
  3. Asammohapaccupaṭṭhānā: Trí-tuệ tâm-sở không mê muội, tâm sáng suốt là quả hiện hữu.
  4. Yonisomanasikārapadaṭṭhānā: Hiểu biết trong tâm với trí-tuệ đúng với 4 trạng-thái của sắc-pháp, của danh- pháp là nguyên nhân gần phát sinh trí-tuệ tâm-sở.

Như vậy, si tâm-sở phát sinh do nguyên nhân gần là ayonisomanasikāra trí-tuệ tâm-sở phát sinh do nguyên nhân gần là yonisomanasikāra.

 

Ayonisomanasikāra là như thế nào?

Ayonisomanasikāra biết sai lầm trong tâm với si-tâm không đúng 4 trạng-thái của sắc-pháp, của danh-pháp như sau:

  • Sắc-pháp,  danh-pháp  có  trạng-thái  vô-thường

(anicca), thì si-tâm biết sai lầm cho thường (nicca).

  • Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái khổ (dukkha), thì si-tâm biết sai lầm cho là lạc (sukha).
  • Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-ngã (anattā), thì si-tâm biết sai lầm cho là ngã (attā).
  • Sắc-pháp, danh-pháp trạng-thái bất-tịnh (asubha), thì si-tâm biết sai lầm cho rằng: Tịnh, tốt đẹp (subha).

Do ayonisomanasikāra biết sai lầm trong tâm cho là thường, lạc, ngã, tịnh như vậy, nên si tâm-sở (moha- cetasika), gọi là vô-minh (avijjā), phát sinh làm che phủ thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp.

Yonisomanasikāra là như thế nào?

Yonisomanasikāra hiểu biết trong tâm với trí-tuệ đúng 4 trạng-thái của sắc-pháp, của danh-pháp như sau:

  • Sắc-pháp,   danh-pháp      trạng-thái   vô-thường (anicca) thì trí-tuệ hiểu biết đúng là vô-thường (anicca).
  • Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái khổ (dukkha), thì trí-tuệ hiểu biết đúng là khổ (dukkha).
  • Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-ngã (anattā), thì trí-tuệ hiểu biết đúng là vô-ngã (anattā).
  • Sắc-pháp, danh-pháp trạng-thái bất-tịnh (asubha), thì trí-tuệ hiểu biết đúng là bất tịnh (asubha).

Do yonisomanasikāra hiểu biết trong tâm với trí-tuệ đúng 4 trạng-thái: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ,

 

trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh của sắc-pháp, của danh-pháp như vậy, nên trí-tuệ tâm-sở (paññācetasika), gọi là minh (vijjā) phát sinh làm hiện rõ thật-tánh hiển nhiên của sắc-pháp, của danh-pháp.

Phương pháp ngăn ngừa minh, cho minh phát sinh

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ luôn luôn có yonisomanasikāra hiểu biết đúng trong tâm với trí-tuệ đúng 4 trạng-thái: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh của sắc-pháp, của danh-pháp, nên ngăn ngừa được vô-minh không phát sinh, đồng thời làm nguyên nhân gần phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ (vipassananā), gọi là minh (vijjā) làm hiện rõ thật-tánh hiển nhiên của sắc-pháp, của danh-pháp tam- giới là:

  • Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ trạng-thái-riêng của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp.
  • Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh hiển nhiên của sắc-pháp, của danh-pháp.
  • Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt

của sắc-pháp, của danh-pháp.

  • Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, của sắc-pháp, của danh-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế.
  1. Giai đọan diệt tận vô-minh bằng cách nào?

Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có yonisomanasikāra hiểu biết đúng trong tâm với trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 4 trạng-thái: Trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới làm

 

nguyên nhân gần phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới (lokiyavipassanā) cho đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới (lokittaravipassanā) chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả- tâm và Niết-bàn.

4 Thánh-đạo-tuệ (Maggañāṇa) trong 4 Thánh-đạo- tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, nên diệt tận được vô-minh đó là si tâm-sở (mohacetasika) đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm theo khả năng của mỗi Thánh-đạo- tuệ như sau:

  1. Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được vô-minh đó là si tâm-sở (mohacetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến 1 si-tâm hợp với hoài- nghi, gồm có 5 si-tâm-sở trong 5 bất-thiện-tâm không còn dư sót.
  2. Nhất-lai Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được vô-minh đó là si tâm-sở (mohacetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến loại thô trong cõi dục-giới, với 2 sân-tâm loại thô không còn dư sót.
  3. Bất-lai Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được vô-minh đó là si tâm-sở (mohacetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến loại vi-tế trong cõi dục- giới, với 2 sân-tâm loại vi-tế không còn dư sót.
  4. A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt tận được vô-minh đó là si tâm-sở (mohacetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến và 1 si-tâm hợp với phóng-tâm, gồm có 5 si tâm-sở trong 5 bất-thiện- tâm còn lại không còn dư sót.

Bậc Thánh A-ra-hán hoàn toàn không còn vô-minh và cũng không còn tham-ái, phiền-não nào nữa.

 

* Ba pháp che phủ 3 trạng-thái-chung, phương pháp diệt 3 pháp che phủ

Ba trạng-thái-chung của sắc-pháp, của danh-pháp là:

  1. Aniccalakkhaṇa: Trạng-thái vô-thường.
  2. Dukkhalakkhaṇa: Trạng-thái khổ.
  3. Anattalakkhaṇa: Trạng-thái vô-ngã.

Ba trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp tam- giới là sự thật hiển nhiên. Sở dĩ 3 trạng-thái-chung này không hiện rõ là vì bị che phủ bởi 3 pháp đó là:

  1. Santati: Dòng sinh diệt liên tục vô cùng mau lẹ làm che phủ trạng-thái vô-thường không hiện rõ.
  2. Iriyāpatha: Các oai-nghi thay đổi làm che phủ

trạng-thái khổ không hiện rõ.

  1. Ghana: Ngã-tưởng đồng-nhất làm che phủ trạng- thái vô-ngã không hiện rõ.

Giảng giải

  1. Santati: Dòng sinh diệt liên tục vô cùng mau lẹ làm che phủ trạng-thái vô-thường không hiện rõ như thế nào?

Đức-Phật dạy:

“Sabbe saṅkhārā aniccā.”

Tất cả các pháp-hữu-vi đều có trạng-thái vô-thường.

Pháp-hữu-vi đó là sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, ngũ- uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu), v.v… đều trạng-thái vô- thường, bởi vì mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp sinh rồi diệt liên tục không ngừng vô cùng mau lẹ, có rồi lại không.

Như vậy, trạng-thái vô-thường của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới là sự thật hiển nhiên, do nguyên nhân nào làm cho trạng-thái vô-thường không hiện rõ?

 

Trong bộ Visuddhimagga, Thanh-Tịnh-đạo giải rằng:

“Aniccalakkhaṇaṃ tāva udayabbayānaṃ amanasikārā santatiyā paṭicchannattā na upaṭṭhāti.”(1)

Trước hết, trạng-thái vô-thường không hiện rõ, vì dòng sinh diệt liên tục (santati) vô cùng mau lẹ của danh- pháp, sắc-pháp tam-giới, làm che phủ trạng-thái vô- thường, do không có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới.

Dòng sinh diệt liên tục (santati) che phủ trạng-thái vô-thường như thế nào?

Ví dụ thô thiển dễ hiểu để so sánh như:

  • Khi ta thấy những hình ảnh trên màn hình chiếu phim, cứ 1 giây đồng hồ có khoảng 24 tấm hình liên tục quay nhanh qua máy chiếu phim, ta thấy hình ảnh những tài tử diễn viên có những cử chỉ, hành động, lời nói tự nhiên bình thường. Ta không thể thấy từng tấm phim cách khoảng nhau và cũng không nghe từng tiếng nói cách khoảng nhau.

Đó là sự liên tục của cuộn phim quay nhanh.

  • Khi ta thấy bóng đèn đang cháy sáng, cứ mỗi giây đồng hồ có khoảng 50-60 lần dòng điện tắt rồi cháy sáng liên tục không ngừng trong suốt thời gian bóng đèn cháy sáng. Ta không thể thấy bóng đèn cháy sáng rồi tắt liên tục.

Đó là sự liên tục của dòng điện tắt rồi cháy sáng.

Còn sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp tam- giới thì vô cùng mau lẹ phi thường.

Trong Chú-giải giảng giải rằng:

 
   
 

 

1 Bộ Visuddhimagga, phần Paṭipadāñāṇadassanavisuddhiniddesa.

 

“Ekaccharakkhaṇe koṭisatasahassasaṅkhā uppajitvā nirujjhati.”(1)

“Chỉ một lần búng đầu ngón tay, tâm với tâm-sở (danh-pháp) sinh rồi diệt liên tục 1.000 tỷ lần.”

Như vậy, chỉ trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 gọi udayabbayā- nupassanāñāṇa sắc bén nhanh nhạy có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại mà thôi.

Nếu không có trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayā- nupassanāñāṇa thì không thấy rõ, biết rõ được sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại, nên chắc chắn không thể cắt đứt santati: Dòng sinh diệt liên tục của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại.

Vì vậy, hành-giả không thể thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại.

Sở dĩ, hành-giả không thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô- thường của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại là vì dòng sinh diệt liên tục vô cùng mau lẹ của sắc- pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại, làm che phủ trạng-thái vô-thường của sắc-pháp, của danh-pháp tam- giới hiện-tại.

Phương pháp làm cho trạng-thái vô-thường hiện

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí- tuệ thiền-tuệ thứ 4 gọi là udayabbayānupassanāñāṇa phát sinh sắc bén nhanh nhạy thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại, mới có khả năng cắt đứt dòng sinh diệt liên tục vô cùng mau lẹ của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại, thì sự

 
   
 

 

1 Bộ Sam. Khandhavaggaṭṭhakathā, Kinh Pheṇapiṇḍūpamāsuttavaṇṇanā

 

thật hiển nhiên trạng-thái vô-thường của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện rõ.

Như bộ Visuddhimagga giải rằng:

“Udayabbayampana pariggahetvā santatiyā vikopitāya aniccalakkhaṇaṃ yathāvasarasato upaṭṭhāti.”(1)

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, khi trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại, mới có khả năng cắt đứt dòng sinh diệt liên tục của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại. Khi ấy, trạng-thái vô- thường của sắc-pháp, của danh-pháp hiển nhiên hiện rõ sự thật của nó.

Trí-tuệ thiền-tuệ nào có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp?

Trong 16 loại trí-tuệ thiền-tuệ theo tuần tự của pháp- hành thiền-tuệ, thì đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 gọi là udayabbayānupassanāñāṇa có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp của danh-pháp tam-giới hiện-tại.

Thật vậy, trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupas- sanāñāṇa này là trí-tuệ thiền-tuệ bắt đầu thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại là:

  • Danh-pháp nào sinh, do nhân-duyên nào sinh,
  • Danh-pháp ấy diệt, do nhân-duyên ấy diệt.
  • Sắc-pháp nào sinh, do nhân-duyên nào sinh,
  • Sắc-pháp ấy diệt, do nhân-duyên ấy diệt.

Cho nên trí-tuệ thiền-tuệ thứ tư udayabbayānupas- sanāñāṇa này chính thức được gọi là trí-tuệ thiền-tuệ,

 
   
 

 

1 Bộ Visuddhimagga, phần Paṭipadāñāṇadassanavisuddhiniddesa.

 

bởi trí-tuệ thiền-tuệ thứ udayabbayānupassanāñāṇa có khả năng cắt đứt dòng sinh diệt liên tục (santati) mau lẹ không ngừng của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại, nên hiện rõ trạng-thái vô-thường của sắc-pháp, của danh-pháp hiện-tại.

Như vậy, sự thật trạng-thái vô-thường của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại được hiển nhiên hiện rõ.

Thật ra, không chỉ trạng-thái vô-thường của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại được hiển nhiên hiện rõ, mà còn trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại cũng được hiển nhiên hiện rõ, bởi vì 3 trạng-thái-chung này có sự liên quan với nhau.

Bắt đầu từ trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupas- sanāñāṇa này cho đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 12 gọi là saccānulomañāṇa đều có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện- tại, nên hiện rõ trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái-vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

Nếu hành-giả nào là hạng người tam-nhân (tihetuka- puggala) thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có khả năng phát sinh đến trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới hiện-tại, thì hành-giả ấy thật là cao quý.

Như trong Dhammapadagāthā, Đức-Phật dạy rằng:

“Yo ca vassasataṃ jīve, apassaṃ udaybbayaṃ. Ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo, passato udaybbayaṃ.”(1) Người nào dù sống đến trăm năm,

Mà không có trí-tuệ thiền-tuệ,

Không thấy sự sinh và sự diệt.

 
   
 

 

1 Dhammapadagāthā thứ 113.

 

Không bằng hành-giả sống một ngày, Có trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh,

Thấy rõ sự sinh và sự diệt,

Của sắc-pháp danh-pháp hiện-tại, Cuộc đời cao quý biết dường nào!

  1. Iriyāpatha: Các oai-nghi thay đổi làm che phủ

trạng-thái khổ không hiện rõ như thế nào?

Đức-Phật dạy rằng:

“Sabbe saṅkhārā dukkhā.”

Tất cả các pháp-hữu-vi đều có trạng-thái khổ.

Pháp-hữu-vi đó là sắc-pháp, danh-pháp, ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu), … đều có trạng-thái khổ.

Như vậy, trạng-thái khổ của sắc-pháp, của danh-pháp là sự thật hiển nhiên, do nguyên nhân nào làm cho trạng- thái khổ không hiện rõ?

Trong bộ Visuddhimagga Thanh-Tịnh-Đạo giải rằng:

“Dukkhalakkhaṇaṃ abhiṇhasampaṭipīḷanassa amanasikārā iriyāpathehi paṭicchannattā na upaṭṭhāti.”(1)

Trạng-thái khổ không hiện rõ, vì các oai-nghi thay đổi che phủ, do không có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt, trạng-thái vô-thường của sắc-pháp, các oai-nghi luôn luôn hành hạ.

Các oai-nghi làm che phủ trạng-thái khổ không hiện rõ như thế nào?

Tứ-oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi- ngồi, oai-nghi nằm và các oai-nghi phụ là bước tới trước, bước lui sau, quay bên phải, quay bên trái, co tay vào, co chân vào, duỗi tay ra, duỗi chân ra, v.v…

 
   
 

 

1 Bộ Visuddhimagga, phần Paṭipadāñāṇadassanavisuddhiniddesa.

 

Tứ-oai-nghi và các oai-nghi phụ thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa), có sự sinh, sự diệt liên tục không ngừng, có trạng-thái vô-thường luôn luôn hành hạ các oai-nghi, nên oai-nghi có trạng-thái khổ.

Thế mà mỗi khi có oai-nghi nào phát sinh khổ, theo thói quen liền thay đổi từ oai-nghi cũ ấy sang oai-nghi mới ngay, mà không có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của oai-nghi cũ ấy, nên không có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết trạng-thái khổ của oai-nghi ấy.

Vì vậy, oai-nghi mới làm che phủ trạng-thái khổ của oai-nghi cũ.

Phương pháp làm cho trạng-thái khổ hiện

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trước khi thay đổi mỗi oai-nghi, cần phải có trí-tuệ thiền-tuệ biết rõ nguyên nhân chính đáng, đó là sự khổ bắt buộc phải thay đổi từ oai-nghi cũ sang oai-nghi mới.

Khi thay đổi oai-nghi, hành-giả có trí-tuệ thiền-tuệ theo dõi nhất cử nhất động từ oai-nghi cũ sang oai-nghi mới, trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của các sắc-pháp oai-nghi cũ ấy, nên hiện rõ trạng-thái vô- thường luôn luôn hành hạ các oai-nghi cũ ấy.

Vì vậy, trạng-thái khổ của sắc-pháp các oai-nghi ấy hiện rõ.

Như bộ Visuddhimagga giải rằng:

“Abhiṇhapaṭisampaṭipīḷanaṃ manasikatvā iriyāpathe ugghāṭite dukkhalakkhaṇaṃ yathāvasarasato upaṭṭhāti.”(1)

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, khi trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp oai-nghi ấy, nên hiện rõ trạng-thái vô-thường luôn luôn

 
   
 

 

1 Bộ Visuddhimagga, phần Paṭipadāñāṇadassanavisuddhiniddesa.

 

hành hạ oai-nghi ấy, nên diệt được các oai-nghi che phủ trạng-thái khổ.

Khi ấy, trạng-thái khổ của sắc-pháp oai-nghi ấy hiển nhiên hiện rõ sự thật của nó.

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí- tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp oai- nghi, mỗi danh-pháp hiện-tại, hiện rõ trạng-thái vô- thường luôn luôn hành hạ, nên trạng-thái khổ của sắc- pháp oai-nghi, của danh-pháp biết oai-nghi ấy hiển nhiên hiện rõ sự thật của nó.

  1. Ghana: Ngã-tưởng đồng-nhất làm che phủ trạng- thái vô-ngã không hiện rõ như thế nào?

Đức-Phật dạy rằng:

“Sabbe dhammā anattā.”

Tất cả các pháp đều có trạng-thái vô-ngã.

Dhammā đó là pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp, ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu), v.v… đều có trạng- thái vô-ngã, bởi vì các pháp-hữu-vi ấy đều có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, nên có trạng-thái vô-ngã.

Như vậy, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh- pháp là sự thật hiển nhiên, do nguyên nhân nào trạng- thái vô-ngã không hiện rõ?

Trong bộ Visuddhimagga Thanh-Tịnh-Đạo giải rằng:

“Anattalakkhaṇaṃ nānādhātuvinibhogassa amanasi- kārā ghanena paṭicchannattā na upaṭṭhāti.”(1)

Trạng-thái vô-ngã không hiện rõ, vì ngã-tưởng đồng- nhất che phủ, do không có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ, phân tích rõ thật-tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh- pháp riêng biệt với nhau.

 
   
 

 

1 Bộ Visuddhimagga, phần Paṭipadāñāṇadassanavisuddhiniddesa.

 

Ngã-tưởng đồng-nhất che phủ trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp, như thế nào?

Ghana: Ngã-tưởng đồng-nhất có 3 loại:

  1. Samūhaghana: Ngã-tưởng đồng-nhất tổng-hợp là gom mọi danh-pháp và mọi sắc-pháp lại cho là ta.
  2. Kiccaghana: Ngã-tưởng đồng-nhất phận sự là gom mọi phận sự của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp lại cho ta.
  3. Ārammaṇaghana: Ngã-tưởng đồng-nhất đối-tượng

là gom mọi đối-tượng lại cho là ta.

Sự thật theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma)

thì mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp được phân biệt như sau:

  • Danh-pháp (nāmadhamma) đó là tâm với tâm-sở:
  • Tâm (citta) gồm có 89 hoặc 121 tâm.
  • Tâm-sở (cetasika) gồm có 52 tâm-sở.
  • Sắc-pháp (rūpadhamma) gồm có 28 sắc-pháp.
  • Mỗi tâm, tâm-sở đều có trạng thái riêng, có phận sự riêng, có đối-tượng riêng.
  • Mỗi sắc-pháp có trạng thái riêng, v.v…

Thế mà, ngã-tưởng đồng-nhất do tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp gom lại cho là ta theo 3 loại ngã-tưởng đồng-nhất: Ngã-tưởng đồng-nhất tổng-hợp, ngã-tưởng đồng-nhất phận sự, ngã-tưởng đồng-nhất đối-tượng, nên che phủ trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp như sau:

  1. Samūhaghana: Ngã-tưởng đồng-nhất tổng-hợp là gom mọi danh-pháp và mọi sắc-pháp lại cho là ta như thế nào?

Ví dụ: Sở dĩ gọi là chiếc xelà vì có các bộ phận được lắp ráp lại với nhau. Nếu tháo rời mỗi bộ phận ra riêng rẽ thì không còn thấy chiếc xe nữa.

 

Gọi là ngôi nhàvì được xây bằng cát, xi-măng cốt sắt. Nếu phá vỡ ra thành mảnh vụn thì không còn thấy ngôi nhà nữa, như thế nào

Cũng như vậy, sở dĩ gọi là con ngườigọi là ta là vì có ngũ-uẩn: Sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn nương nhờ, liên kết lại lẫn nhau. Nếu có trí-tuệ phân tích ra mỗi uẩn riêng rẽ thì không có uẩn nào gọi là con người cũng không gọi là ta nữa.

Ngũ-uẩn có 5 uẩn:

  • Sắc-uẩn đó là 28 sắc-pháp.
  • Thọ-uẩn đó là thọ tâm-sở đồng sinh với tâm.
  • Tưởng-uẩn đó là tưởng tâm-sở đồng sinh với tâm.
  • Hành-uẩn đó là 50 tâm-sở còn lại (trừ thọ tâm-sở

tưởng tâm-sở) đồng sinh với tâm.

  • Thức-uẩn đó là tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm.

Trong 5 uẩn này:

  • Phần sắc-uẩn thuộc về sắc-pháp gọi là thân người.
  • Phần thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn gồm có 4 uẩn này thuộc về danh-pháp (tâm với tâm-sở) luôn luôn nương nhờ lẫn nhau, không thể tách rời được.

Tuy nhiên, trong trường-hợp khi con người hết tuổi thọ (chết), thì 4 danh-uẩn (tâm với tâm-sở) tách rời ra khỏi sắc-uẩn (thân). Khi ấy, thân trở thành tử thi rồi theo thời gian sẽ trở thành bột.

  1. Kiccaghana: Ngã-tưởng đồng-nhất phận sự là gom mọi phận sự của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp lại cho là ta như thế nào?

Theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), mỗi tâm với tâm-sở có mỗi phận sự như sau:

  • Cakkhuviññāṇa: Nhãn-thức-tâm có 2 tâm làm phận sự thấy đối-tượng sắc.

 

  • Sotaviññāna: Nhĩ-thức-tâm có 2 tâm làm phận sự nghe đối-tượng thanh.
  • Ghānaviññāna: Tỷ-thức-tâm có 2 tâm làm phận sự ngửi đối-tượng hương.
  • Jivhāviññāna: Thiệt-thức-tâm có 2 tâm làm phận sự nếm đối-tượng vị.
  • Kāyaviññāna: Thân-thức-tâm có 2 tâm làm phận sự xúc-giác đối-tượng xúc.
  • Manoviññāna: Ý-thức-tâm có 79 tâm (trừ 10 thức- tâm) làm phận sự biết đối-tượng pháp.

Thế mà, ngã-tưởng đồng-nhất phận sự cho là ta thấy, ta nghe, ta ngửi, ta nếm, ta xúc-giác, ta biết, nên che phủ trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.

  1. Ārammaṇaghana: Ngã-tưởng đồng-nhất đối-tượng là gom mọi đối-tượng lại cho là ta như thế nào?

Theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), đối-tượng có 6 loại, mỗi đối-tượng được biết bằng mỗi loại tâm riêng biệt như sau:

  • Đối-tượng sắc được thấy bằng nhãn-thức-tâm.
  • Đối-tượng thanh được nghe bằng nhĩ-thức-tâm.
  • Đối-tượng hương được ngửi bằng tỷ-thức-tâm.
  • Đối-tượng vị được nếm bằng thiệt-thức-tâm.
  • Đối-tượng xúc được xúc-giác bằng thân-thức-tâm.
  • Đối-tượng pháp được thấy bằng ý-thức-tâm.

Sáu loại đối-tượng này vốn thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), thế mà, ngã-tưởng đồng-nhất đối- tượng cho là ta biết các đối-tượng ấy theo chế-định-pháp (paññattidhamma), nên che phủ trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.

 

Phương pháp làm cho trạng-thái vô-ngã hiện

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí- tuệ thiền-tuệ thứ 4 phát sinh gọi là uddayabbayānupassanā- ñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.

Như bộ Visuddhimagga giải rằng:

“Nānādhātuyo vinibbhujitvā ghanavinibbhoge kate anattalakkhaṇaṃ yathāvasarasato upaṭṭhāti.”(1)

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, khi trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ, phân-tích, phân-biệt rõ thật- tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp khác nhau, nên ngã-tưởng đồng-nhất bị tách rời ra từng mỗi tâm khác nhau, phận sự của mỗi tâm khác nhau, mỗi tâm biết mỗi đối-tượng khác nhau, nên trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, nên trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp hiển nhiên hiện rõ sự thật của nó.

Trạng-thái-chung của sắc-pháp, của danh-pháp 3 là:

  • Trạng-thái vô-thường (aniccalakkhaṇa).
  • Trạng-thái khổ (dukkhalakkhaṇa).
  • Trạng-thái vô-ngã (anattalakkhaṇa).

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, đến khi trí- tuệ thiền-tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh- pháp hiện-tại, nên hiện rõ trạng-thái vô-thường, trạng- thái khổ, trạng-thái vô-ngã.

 
   
 

 

1 Bộ Visuddhimagga, phần Paṭipadāñāṇadassanavisuddhiniddesa.

 

Thật ra, trong 3 trạng-thái-chung này, trí-tuệ thiền- tuệ thứ 4 udayabbayānupassanāñāṇa thấy rõ, biết rõ 1 trạng-thái-chung nào của sắc-pháp nào, danh-pháp nào hiện rõ, 2 trạng-thái-chung kia không hiện rõ.

Tuy 2 trạng-thái-chung kia không hiện rõ, nhưng chắc chắn tiềm năng của trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 uddayabbayā- nupassanāñāṇa này cũng có khả năng diệt được 3 pháp- đảo-điên (vipallāsa), bởi vì 3 trạng-thái-chung có sự liên quan lẫn nhau.

  • Nếu khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 thấy rõ, biết rõ trạng- thái vô-thường của sắc-pháp, của danh-pháp thì diệt được tưởng-đảo-điên, tâm-đảo-điên, tà-kiến-đảo-điên cho rằng: Sắc-pháp, danh-pháp là thường (nicca).
  • Nếu khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 thấy rõ, biết rõ trạng- thái khổ của sắc-pháp, của danh-pháp thì diệt được tưởng-đảo-điên, tâm-đảo-điên, tà-kiến-đảo-điên cho rằng: Sắc-pháp, danh-pháp là lạc (sukha).
  • Nếu khi trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 thấy rõ, biết rõ trạng- thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp thì diệt được tưởng-đảo-điên, tâm-đảo-điên, tà-kiến-đảo-điên cho rằng: Sắc-pháp, danh-pháp là ngã (attā).

Do sự liên quan của 3 trạng-thái-chung, nên trạng- thái-chung nào hiện rõ đều có khả năng diệt được tưởng- đảo-điên, tâm-đảo-điên, tà-kiến-đảo-điên cho rằng: Sắc- pháp, danh-pháp là thường, lạc, ngã.

Giảng giải về tâm, phận sự, đối-tượng

Tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm chia ra làm 6 loại tâm có 14 phận sự biết 6 đối-tượng như sau:

  • Nhãn-thức-tâm có 2 tâm chỉ có 1 phận sự thấy 1

đối-tượng sắc hiện-tại, các hình dạng mà thôi.

 

Ngoài ra, nhãn-thức-tâm không có phận sự biết các

đối-tượng khác.

  • Nhĩ-thức-tâm có 2 tâm chỉ có 1 phận sự nghe 1 đối- đối-tượng thanh hiện-tại, các âm thanh mà thôi.

Ngoài ra, nhĩ-thức-tâm không có phận sự biết các đối- tượng khác.

  • Tỷ-thức-tâm có 2 tâm chỉ có 1 phận sự ngửi 1 đối- tượng hương hiện-tại, các loại mùi hương mà thôi.

Ngoài ra, tỷ-thức-tâm không có phận sự biết các đối- tượng khác.

  • Thiệt-thức-tâm có 2 tâm chỉ có 1 phận sự nếm 1 đối- tượng vị hiện-tại, các thứ vị mà thôi.

Ngoài ra, thiệt-thức-tâm không có phận sự biết các

đối-tượng khác.

  • Thân-thức-tâm 2 tâm chỉ 1 phận sự xúc giác 1 đối- tượng xúc hiện-tại, cứng mềm, nóng lạnh, v.v… mà thôi.

Ngoài ra, thân-thức-tâm không có phận sự biết các

đối-tượng khác.

  • Ý-thức-tâm gồm 79 hoặc 111 tâm (trừ 10 thức-tâm) nhiều phận sự biết cả 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) trong quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, đặc biệt biết đối-tượng siêu-tam-giới Niết-bàn, và chế-định-pháp nữa.

(Tìm hiểu rõ 14 phận sự của mỗi tâm trong bộ Abhi- dhammatthasaṅgaha: Vi-diệu-pháp yếu-nghĩa, trong chương 3, phần Pakiṇakasaṅgaha.)

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, cốt để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, để thấy rõ, biết rõ 3 trạng- thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng- thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

 

Trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh theo tuần tự từ trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới (lokiyavipassanā) đến trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới (lokuttaravipassanā) trải qua 16 loại trí- tuệ thiền-tuệ.

Trí-tuệ thiền-tuệ thứ 4 gọi udayabbayānunupassanā- ñāṇa mới có khả năng thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp, bắt đầu chính thức gọi là trí-tuệ thiền-tuệ (vipassanāñāṇa).

Đến trí-tuệ thiền-tuệ thứ 13 gọi là gotrabhuñāṇa có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, tiếp theo trí-tuệ thiền- tuệ siêu-tam-giới thứ 14 gọi là Maggañāṇa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ.

 

 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications