Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
NTPG.Q07.B3 Pháp-Hạnh Trí-Tuệ Ba-La-Mật Bậc Hạ
Trong tích Sambhavajātaka(1) Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama là cậu bé Sambhavakumāra tạo pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ (paññāpāramī). Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức-Phật thuyết về tích Sanbhavajātaka đề cập đến Đức-Bồ-tát Sambhavakumāra tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama tạo pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ. Tích này được bắt nguồn như sau:
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:6051

Các tên gọi khác

Trong tích Sambhavajātaka(1) Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama là cậu bé Sambhavakumāra tạo pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ (paññāpāramī). Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức-Phật thuyết về tích Sanbhavajātaka đề cập đến Đức-Bồ-tát Sambhavakumāra tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama tạo pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ. Tích này được bắt nguồn như sau:

General Information

Danh sách : Liên quan
:
NTPG.Q07.B3 Pháp-Hạnh Trí-Tuệ Ba-La-Mật Bậc Hạ

Pháp-Hạnh Trí-Tuệ Ba-La-Mật Bậc Hạ

Tích Sambhavajātaka (Sam-bha-va cha-tá-ká)

Trong tích Sambhavajātaka(1) Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama cậu bé Sambhavakumāra tạo pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ (paññāpāramī).

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức-Phật thuyết về tích Sanbhavajātaka đề cập đến Đức-Bồ-tát Sambhavakumāra tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama tạo pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ. Tích này được bắt nguồn như sau:

Đức-vua Dhanañcayakorabya vị bà-la-môn thừa- tướng Sucirata là vị quân-sư của Đức-vua, dạy Đức-vua tạo mọi phước-thiện như bố-thí, thọ-trì ngũ-giới, v.v… nghiêm chỉnh thực-hành mười pháp-vương trị vì đất nước cho được thanh bình thịnh vượng, thần dân thiên hạ được sống an cư lạc nghiệp.

Một hôm, Đức-vua Dhanañcayakorabya suy tư về câu hỏi gọi là dhammayāga: (cúng-dường pháp), nên thỉnh vị bà-la-môn thừa-tướng Sucirata lên ngồi trên pháp-tòa, cung-kính lễ bái, rồi bạch hỏi câu hỏi bằng 4 câu kệ có ý nghĩa như sau:

  • Kính bạch vị quân-sư Sucirata, Trẫm đã được lên ngôi vua cao cả trong đất nước này, Trẫm còn muốn ngôi vị cao hơn nữa, được làm lễ suy tôn lên ngôi đại-vương bá chủ trị vì trong tòan trái đất này bằng thiện-pháp, không phải là tà-pháp. Trẫm hoàn toàn không thích bằng tà-pháp.

 
   
 

 

1 Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần Tiṃsanipāta, tích Sambhavajātaka.

 

  • Kính bạch vị quân-sư Sucirata, thật ra, thực hành theo

đúng thiện-pháp, đó phận-sự của Đấng minh-quân.

  • Kính bạch vị quân-sư Sucirata, do nhân nào Trẫm sẽ không bị chê trách trong kiếp hiện-tại này và những kiếp sau nữa, và Trẫm sẽ được tán dương ca tụng cả trong cõi người lẫn trong cõi trời dục-giới? Kính xin vị quân-sư tâu cho Trẫm biết rõ nhân ấy.
  • Kính bạch vị quân-sư Sucirata, Trẫm mong muốn thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo attha dhamma ấy. Trẫm đã bạch hỏi vị quân-sư rồi. Kính xin vị quân-sư tâu cho Trẫm biết rõ attha dhamma ấy.

Giảng Giải

Đức-vua Dhanañcayakorabya ngự tại kinh-thành Inda- patta rộng lớn bảy do-tuần(1), trị vì vùng Kuru rộng lớn 300 do-tuần. Đức-vua còn muốn trở thành ngôi vị đại- vương bá chủ trị vì trong tòan cõi trái đất này bằng thiện- pháp, không phải tà-pháp, bởi vì Đức-vua thực-hành theo thiện-pháp thì thần dân thiên hạ cũng thực-hành thiện- pháp, cho nên, thực-hành thiện-pháp đó là phận sự của đấng minh-quân trong đời.

Đức-vua Dhanañcayakorabya bạch hỏi vị bà-la-môn quốc-sư Sucirata rằng:

“Trẫm nên thực-hành attha dhamma như thế nào? Để Trẫm không bị chê trách trong kiếp hiện-tại và những kiếp vị-lai của Trẫm, không bị tái-sinh kiếp sau tronng cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh).

Khi Trẫm trở thành Đại-vương cao cả, sẽ được tán dương ca tụng trong cõi người và cõi trời dục-giới.

Khi Trẫm thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo attha

dhamma ấy, sẽ dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, và tế độ,

 
   
 

 

1 1 Yojana: do-tuần khoảng 20 cây số.

 

hỗ trợ cho các chúng-sinh khác cũng chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Trẫm đã bạch hỏi vị quân-sư rồi. Kính xin vị quân-sư tâu cho Trẫm biết rõ attha dhamma ấy.

Nghĩa hai pháp attha dhamma

  • Attha có nghĩa là phalavipāka: quả của nhân.
  • Dhamma có nghĩa là tassa atthassa hetubhūtaṃ: nhân của quả ấy.

Sau khi vị bà-la-môn quân-sư Sucirata nghe Đức-vua Dhanañcayakorabya bạch hỏi câu hỏi như vậy, biết đó là câu hỏi vô cùng sâu sắc, câu hỏi này chỉ nên bạch hỏi đến Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mà thôi, nếu không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì chỉ nên bạch hỏi đến Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác mà thôi.

Vị bà-la-môn quân-sư Sucirata suy xét rằng:

“Ta không phải là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, nên không có khả năng giải đáp câu hỏi này được. Ta không thể tự cho mình là paṇḍita (bậc thiện-trí).”

Biết mình không có khả năng giải đáp câu hỏi ấy của Đức-vua, cho nên, vị bà-la-môn quân-sư Sucirata tâu với Đức-vua Dhanañcayakorabya bằng câu kệ rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương, Đại-vương muốn biết thực- hành theo attha dhamma nào, đó là câu hỏi vô cùng sâu sắc, ngoài vị bà-la-môn Vidhura ra, không có vị nào có có khả năng chỉ dạy attha dhamma ấy được.

Thật ra, câu hỏi của Đức-vua Dhanañcayakorabya là câu hỏi rất sâu sắc và vô cùng vi-tế, ngoài khả năng hiểu biết của vị bà-la-môn quân-sư Sucirata. Vì vậy, vị bà-la- môn quân-sư không thấy phần khởi đầu, phần cuối cùng của câu hỏi, giống như người đi vào chỗ tăm tối. Vị bà- la-môn quân-sư biết chỉ có vị bà-la-môn Vidhura có trí-

 

tuệ xuất sắc, là vị quan thừa-tướng của Đức-vua Bārāṇasī mới có khả năng giải đáp được câu hỏi này mà thôi.

Ngoài vị bà-la-môn Vidhura ấy ra, không có vị nào khác có khả năng chỉ dạy attha dhamma rõ ràng được.

Nghe vị bà-la-môn quân-sư Sucirata tâu rõ như vậy, nên Đức-vua Dhanañcayakorabya truyền thưa rằng:

  • Kính thưa vị bà-la-môn quân-sư Sucirata, Trẫm xin phái quân-sư làm sứ giả đem theo một tấm vàng để ghi chép lời attha và dhamma của vị bà-la-môn Pháp-sư Vidhura, và 1000 thỏi vàng làm quà cúng-dường đến vị Pháp-sư. Vị bà-la-môn quân-sư Sucirata ngồi trên chiếc xe sang trọng cùng với nhóm thuộc hạ rời khỏi kinh- thành Indapatta, đi thẳng đến kinh-thành Bārāṇasī.

Vị bà-la-môn quân-sư Sucirata cùng với nhóm thuộc hạ đến tư dinh của vị bà-la-môn Vidhura vào buổi sáng, thấy vị bà-la-môn Vidhura đang dùng bữa ăn sáng.

Nhìn thấy vị bà-la-môn quân-sư Sucirata, vốn là bạn đồng môn cùng học một thầy với nhau trong thời trẻ, nên vị bà-la-môn Vidhura tỏ ra vô cùng hoan hỷ, mời dùng bữa ăn sáng với nhau.

Sau khi dùng bữa ăn sáng xong, hai vị bà-la-môn bạn hữu hàn huyên tâm sự với nhau, vị bà-la-môn Vidhura bèn hỏi rằng:

  • Này bạn thân mến! Bạn đến thăm tôi có việc gì vậy?

Vị bà-la-môn quân-sư Sucirata thưa với vị bà-la-môn Vidhura rằng:

  • Kính thưa vị bà-la-môn Vidhura, tôi là vị bà-la-môn quân-sư của Đức-vua Dhanañcayakorabya, khi Đức-vua truyền hỏi câu hỏi về dhammayāga, tôi không có khả năng giải đáp được câu hỏi về attha dhamma ấy, tôi mới giới thiệu về bạn là người có khả năng giải đáp

 

được câu hỏi về attha dhamma ấy, nên Đức-vua Dhanañcayakorabya phái tôi làm sứ giả tìm đến gặp bạn, xin hỏi câu hỏi về attha dhamma.

Bây giờ, tôi đã hỏi bạn về attha dhamma rồi. Kính xin bạn giải đáp chỉ dạy attha dhamma ấy cho tôi.

Nghe vị bà-la-môn quân-sư Sucirata của Đức-vua Dhanañcayakorabya hỏi câu hỏi về attha dhamma, vị bà-la-môn Vidhura đang bận lo công việc đại sự khác, nên không có cơ-hội giải đáp được câu hỏi về attha dhamma ấy, nên vị bà-la-môn Vidhura thưa với vị bà- la-môn quân-sư Sucirata rằng:

  • Kính thưa vị bà-la-môn quân-sư Sucirata, tôi đang bận công việc đại sự khác, nên bây giờ không có cơ hội giải đáp được câu hỏi về attha dhamma ấy.

Xin bạn thông cảm, tôi có công-tử lớn tên Bhadrakāra là bậc thiện-trí có trí-tuệ hơn cả tôi, công-tử ấy có khả năng giải đáp câu hỏi về attha dhamma ấy. Bạn hãy nên đến tư thất của nó.

Nghe vị bà-la-môn Vidhura giới thiệu đến công-tử như vậy, vị bà-la-môn quân-sư Sucirata tìm đến tư thất của công-tử Bhadrakāra, thấy của công-tử Bhadrakāra đang ngồi trong nhà giữa nhóm người thuộc hạ.

Nhìn thấy vị bà-la-môn quân-sư Sucirata đến, công- tử Bhadrakāra ra đón rước mời vào phòng khách tiếp đãi tử tế niềm nở, cung-kính lễ bái, rồi thưa hỏi nguyên- nhân đến gặp công-tử hôm nay.

Vị bà-la-môn quân-sư Sucirata thưa với công-tử

Bhadrakāra rằng:

  • Thưa công-tử Bhadrakāra, tôi là vị bà-la-môn quân-sư của Đức-vua Dhanañcayakorabya, khi Đức-vua truyền hỏi về dhammayāga, tôi không có khả năng giải

 

đáp được câu hỏi về attha dhamma ấy, Đức-vua Dhanañcayakorabya phái tôi làm sứ giả tìm đến gặp vị bà-la-môn Vidhura là phụ thân của công-tử, xin hỏi câu hỏi về attha dhamma, thì phụ thân của công-tử giới thiệu đến gặp công-tử có khả năng giải đáp được câu hỏi về attha dhamma ấy.

Bây giờ, tôi đã hỏi công-tử câu hỏi về attha dhamma rồi. Kính xin công-tử giải đáp về attha dhamma ấy cho tôi.

Nghe vị bà-la-môn quân-sư của Đức-vua Dhanañcaya- korabya thưa hỏi như vậy, công-tử Bhadrakāra kính thưa rằng:

  • Kính thưa phụ thân Sucirata, con đang bị phiền-não khống chế hằng ngày, nên tâm của con không được sáng suốt. Vì vậy, con không thể giải đáp câu hỏi về attha dhamma ấy cho phụ thân được. Con có người em trai tên Sañjayakumāra là bậc thiện-trí có trí-tuệ hơn con nhiều, em của con có khả năng giải đáp câu hỏi về attha dhamma ấy cho phụ thân được. Xin phụ thân tìm đến tư thất của em con.

Nghe công-tử Bhadrakāra giới thiệu người em như vậy, vị bà-la-môn quân-sư Sucirata rời khỏi tư thất của công-tử Bhadrakāra, tìm đến tư thất của công-tử Sañjayakumāra.

Nhìn thấy vị bà-la-môn quân-sư Sucirata đến, công- tử Sañjayakumāra ra đón rước mời vào phòng khách tiếp đãi tử tế niềm nở, cung-kính lễ bái, rồi thưa hỏi nguyên- nhân đến gặp công-tử hôm nay.

Vị bà-la-môn quân-sư Sucirata thưa với công-tử

Sañjayakumāra rằng:

  • Thưa công-tử Sañjayakumāra, tôi là vị bà-la-môn quân-sư của Đức-vua Dhanañcayakorabya, khi Đức-vua

 

truyền hỏi về dhammayāga, tôi không có khả năng giải đáp được câu hỏi về attha dhamma ấy, Đức-vua Dhanañcayakorabya phái tôi làm sứ giả tìm đến gặp vị bà-la-môn Vidhura là phụ thân của công-tử, xin hỏi câu hỏi về attha dhamma ấy, phụ thân của công-tử không giải đáp câu hỏi mà giới thiệu đến gặp công-tử lớn Bhadrakāra. Công-tử Bhadrakāra cũng không giải đáp câu hỏi mà giới thiệu đến gặp công-tử có khả năng giải đáp được câu hỏi về attha dhamma ấy.

Bây giờ, tôi đã hỏi cậu về attha dhamma ấy rồi. Kính xin cậu giải đáp câu hỏi, chỉ dạy attha dhamma ấy cho tôi.

Nghe vị bà-la-môn quân-sư của Đức-vua Dhanañcaya- korabya thưa như vậy, cậu Sañjayakumāra kính thưa rằng:

  • Kính thưa phụ thân Sucirata, con đang bị ác-nghiệp làm khổ tâm, tử thần theo dõi ngày đêm, nên tâm bị phiền-não làm ô nhiễm. Vì vậy, con không thể giải đáp câu hỏi về attha dhamma ấy cho phụ thân được. Con có người em trai tên Sambhavakumāra mới lên 7 tuổi, nhưng là bậc thiện-trí có trí-tuệ hơn con gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần, em trai của con có khả năng giải đáp câu hỏi về attha dhamma ấy cho phụ thân được. Xin phụ thân tìm đến gặp em của con.

Nghe công-tử Sañjayakumāra giới thiệu người em như vậy, vị bà-la-môn quân-sư Sucirata bảo rằng:

  • Này các người! Câu hỏi về attha dhamma này phi thường đến thế sao?

Tôi đã từng hỏi người cha là vị bà-la-môn Vidhura là bậc thiện-trí có trí-tuệ xuất sắc không giải đáp câu hỏi, mà giới thiệu tôi tìm đến công-tử lớn tên Bhadrakāra, công-tử Bhadrakāra không giải đáp câu hỏi ấy, mà lại giới thiệu tôi tìm đến công-tử Sañjayakumāra. Tôi đã tìm

 

đến công-tử Sañjayakumāra, công-tử cũng không giải đáp câu hỏi ấy, mà lại giới thiệu tôi tìm đến công-tử Sambhavakumāra mới lên bảy tuổi.

Vậy công-tử trẻ Sambhavakumāra mới lên bảy tuổi mà có khả năng giải đáp câu hỏi về attha dhamma này được hay sao?

Nghe vị bà-la-môn quân-sư Sucirata truyền bảo như vậy, công-tử Sañjayakumāra kính thưa với vị bà-la-môn quân-sư Sucirata rằng:

  • Kính thưa phụ thân Sucirata, xin phụ thân không nên nghĩ rằng: “Sambhavakumāra còn thơ ấu”. Nếu phụ thân muốn nghe giải đáp câu hỏi ấy, thì phụ thân hỏi câu hỏi về attha dhamma ấy thì sẽ biết rõ ngay.

Công-tử Sañjayakumāra tán dương ca tụng tài đức của công-tử Sambhavakumāra em trai như sau:

  • Kính thưa phụ thân Sucirata, khi Ngài chưa hỏi công-tử Sambhavakumāra câu hỏi về attha dhamma ấy, thì Ngài không nên nghĩ công-tử còn thơ ấu, khi Ngài hỏi công-tử Sambhavakumāra câu hỏi về attha dhamma ấy rồi, thì Ngài sẽ hiểu biết được attha dhamma ấy rõ ràng.

Như mặt trăng di chuyển trên bầu trời trong sáng không có mây che, ánh trăng tỏa sáng hơn các vì sao như thế nào, tuy công-tử Sambhavakumāra vẫn còn thơ ấu, nhưng trí-tuệ siêu-việt sáng ngời nổi bật hơn hẳn các bậc thiện-trí trong đời cũng như thế ấy.

  • Kính thưa phụ thân Sucirata, khi Ngài chưa hỏi công-tử Sambhavakumāra câu hỏi về attha dhamma ấy, thì Ngài không nên nghĩ công-tử còn thơ ấu, khi Ngài hỏi công-tử Sambhavakumāra câu hỏi về attha dhamma ấy rồi, thì Ngài sẽ hiểu biết được attha dhamma ấy rõ ràng.

 

  • Kính thưa phụ thân Sucirata, tháng 5 trong mùa mát trời đẹp hơn các tháng khác về màu xanh của cây, và các thứ hoa như thế nào, tuy công-tử Sambhavakumāra vẫn còn thơ ấu, nhưng trí-tuệ siêu-việt sáng ngời nổi bật hơn hẳn các bậc thiện-trí trong đời cũng như thế ấy.
  • Kính thưa phụ thân Sucirata, khi Ngài chưa hỏi công-tử Sambhavakumāra câu hỏi về attha dhamma ấy, thì Ngài không nên nghĩ công-tử còn thơ ấu, khi Ngài hỏi công-tử Sambhavakumāra câu hỏi về attha dhamma ấy rồi, thì Ngài sẽ hiểu biết được attha dhamma ấy rõ ràng.
  • Kính thưa phụ thân Sucirata, núi Himavanta (núi Hi-mã-lạp-sơn) gọi là gandhamādana có nhiều loại cây rừng, là chỗ trú ngụ của chư vị thiên-nam, thiên-nữ xinh đẹp có mùi hương thơm tho tỏa khắp mọi nơi với thiên dược như thế nào, tuy công-tử Sambhavakumāra vẫn còn thơ ấu, nhưng trí-tuệ siêu-việt tuyệt vời nổi bật hơn hẳn các bậc thiện-trí trong đời cũng như thế ấy.
  • Kính thưa phụ thân Sucirata, khi Ngài chưa hỏi công-tử Sambhavakumāra câu hỏi về attha dhamma ấy, thì Ngài không nên nghĩ công-tử còn thơ ấu, khi Ngài hỏi công-tử Sambhavakumāra câu hỏi về attha dhamma ấy rồi, thì Ngài sẽ hiểu biết được attha dhamma ấy rõ ràng.
  • Kính thưa phụ thân Sucirata, ngọn lửa rừng cháy dữ dội, các cây nhỏ cây lớn đều làm mồi của lửa không biết chán, cháy lan lên đến đỉnh núi cao vào ban đêm, ánh sáng rực rỡ toả khắp mọi nơi trong rừng như thế nào, tuy công-tử Sambhavakumāra vẫn còn thơ ấu, nhưng trí-tuệ siêu-việt tuyệt vời nổi bật hơn hẳn các bậc thiện- trí trong đời cũng như thế ấy.
  • Kính thưa phụ thân Sucirata, khi Ngài chưa hỏi

 

công-tử Sambhavakumāra câu hỏi về attha dhamma ấy, thì Ngài không nên nghĩ công-tử còn thơ ấu, khi Ngài hỏi công-tử Sambhavakumāra câu hỏi về attha dhamma ấy rồi, thì Ngài sẽ hiểu biết được attha dhamma ấy rõ ràng.

    • Kính thưa phụ thân Sucirata, mọi người biết được ngựa báu do nhờ bốn chân ngựa phi đường xa, không phải là hình dáng màu sắc, mọi người biết được bò khỏe mạnh cao quý do nhờ chuyên chở hàng hóa trên đường xa, mọi người biết được bò sữa tốt do nhờ có nhiều sữa tốt, chư bậc thiện-trí biết được bậc thiện-trí cao thượng do nhờ đàm đạo về chánh-pháp với nhau như thế nào, tuy công-tử Sambhavakumāra vẫn còn thơ ấu, nhưng trí-tuệ siêu-việt tuyệt vời nổi bật hơn hẳn các bậc thiện- trí trong đời cũng như thế ấy.
    • Kính thưa phụ thân Sucirata, khi Ngài chưa hỏi công-tử Sambhavakumāra câu hỏi về attha dhamma ấy, thì Ngài không nên nghĩ công-tử còn thơ ấu, khi Ngài hỏi công-tử Sambhavakumāra câu hỏi về attha dhamma ấy rồi, thì Ngài sẽ hiểu biết được attha dhamma ấy rõ ràng.

Khi công-tử Sañjayakumāra tán dương ca tụng tài đức của công-tử Sambhavakumāra em trai mới lên bảy tuồi như vậy, vị bà-la-môn quân-sư Sucirata hỏi rằng:

    • Này công-tử Sañjayakumāra! Công-tử Sambhava- kumāra em trai của công-tử hiện nay ở đâu vậy?

Khi ấy, công-tử Sañjayakumāra đứng dậy dẫn vị bà- la-môn quân-sư Sucirata đi đến cánh cửa sổ, rồi chỉ xuống dưới có công-tử Sambhavakumāra, có màu da trong sáng như màu vàng, đang chơi đùa với các bạn trẻ gần cửa ra vào lâu đài.

 

    • Xin mời Ngài đi xuống gặp công-tử Sambhava- kumāra hỏi câu hỏi về attha dhamma ấy, công-tử Sambhavakumāra sẽ giải đáp câu hỏi của Ngài, rồi Ngài sẽ hiểu biết rõ về attha dhamma ấy.

Sau khi nghe công-tử Sañjayakumāra chỉ dẫn như vậy, vị bà-la-môn quân-sư Sucirata bước xuống lâu đài, đi thẳng về phía công-tử Sambhavakumāra đang đứng vui chơi với các bạn trẻ.

Thấy vị bà-la-môn quân-sư Sucirata đứng trước mặt, nên công-tử Sambhavakumāra bèn thưa rằng:

    • Kính thưa vị bà-la-môn, Ngài đến đây có việc gì không?

Vị bà-la-môn quân-sư Sucirata kính thưa rằng:

    • Kính thưa công-tử Sambhavakumāra, tôi là vị bà-la- môn quân-sư của Đức-vua Dhanañcayakorabya, khi Đức- vua truyền hỏi về dhammayāga như vậy, tôi không có khả năng giải đáp được câu hỏi về attha dhamma ấy. Đức-vua Dhanañcayakorabya phái tôi làm sứ giả tìm đến gặp vị bà-la-môn Vidhura là phụ thân của công-tử, xin hỏi câu hỏi về attha dhamma ấy, thì phụ thân của công-tử không giải đáp câu hỏi mà giới thiệu đến gặp công-tử Bhadrakāra. Công-tử Bhadrakāra không giải đáp câu hỏi mà giới thiệu đến công-tử Sañjayakumāra. Công-tử Sañjayakumāra cũng không giải đáp câu hỏi mà giới thiệu đến công-tử có khả năng giải đáp được câu hỏi về attha dhamma ấy. Đó là nguyên-nhân tôi tìm đến gặp công-tử hôm nay, kính xin công-tử giải đáp hỏi

câu hỏi dhammayāga ấy.

    • Kính thưa công-tử Sambhavakumāra, Đức-vua Dhanañcayakorabya bạch hỏi tôi câu hỏi như sau:
    • “Này quân-sư Sucirata, Trẫm đã được lên ngôi vua cao cả trong đất nước này, Trẫm còn muốn ngôi vị cao

 

hơn nữa, được làm lễ suy tôn lên ngôi đại-vương bá chủ trị vì trong toàn trái đất này bằng thiện-pháp, không phải là tà-pháp. Trẫm hoàn toàn không thích bằng tà-pháp.

    • Này quân-sư Sucirata, thật ra, thực-hành theo đúng thiện-pháp, đó là phận-sự của Đấng minh-quân.
    • Này quân-sư Sucirata, do nhân nào Trẫm sẽ không bị chê trách trong kiếp hiện-tại này và những kiếp sau nữa, và Trẫm sẽ được tán dương ca tụng cả trong cõi người lẫn trong cõi trời dục-giới? Xin vị quân-sư tâu cho Trẫm biết rõ nhân ấy.
    • Này quân-sư Sucirata, Trẫm mong muốn thực hành nghiêm chỉnh đúng theo attha dhamma ấy. Trẫm đã bạch hỏi vị quân-sư rồi. Kính xin vị quân-sư tâu cho Trẫm biết rõ attha dhamma ấy.”

Đó là câu hỏi của Đức-vua Dhanañcayakorabya mà tôi không có khả năng giải đáp được, tôi cũng đã hỏi câu hỏi này đến vị bà-la-môn Vidhura phụ thân của công-tử, đến công-tử Bhadrakāra, đến công-tử Sañjayakumāra là huynh của công-tử đều không giải đáp câu hỏi của tôi. Đó là nguyên-nhân tôi tìm đến gặp công-tử hôm nay.

    • Kính xin công-tử giải đáp câu hỏi dhammayāga ấy, chỉ rõ về attha dhamma ấy cho tôi.

Khi ấy, công-tử Bồ-Tát Sambhavakumāra, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đang đứng giữa đường nhận lời sẽ giải đáp câu hỏi ấy với giọng nói phát ra âm thanh vang khắp kinh-thành Bārāṇasī khoảng 12 do-tuần. Đức- vua và các quan trong triều đình cùng tòan thể dân chúng trong kinh-thành Bārāṇasī đều đến tụ hội nghe công-tử Bồ-Tát Sambhavakumāra đứng giữa đám đông đại chúng trả lời câu hỏi ấy.

    • Kính thưa phụ thân Sucirata, xin phụ thân hãy lắng nghe, tôi sẽ giải đáp câu hỏi của Ngài bằng lời của bậc

 

thiện-trí, còn Đức-vua Dhanañcayakorabya hiểu biết được attha dhamma ấy, rồi có thực-hành theo đúng attha dhamma ấy được hay không, điều ấy không biết.

Công-tử Bô-tát Sambhavakumāra giải đáp câu hỏi của vị bà-la-môn quân-sư Sucirata rằng:

    • Kính thưa phụ thân Sucirata, Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác giải đáp câu hỏi ấy như thế nào, tôi sẽ giải đáp câu hỏi ấy cũng như thế ấy, để cho Đức-vua của Ngài hiểu biết được, sau khi Đức-vua đã hiểu biết được attha dhamma ấy, rồi Đức-vua có thự- hành hoặc không thực hành theo attha dhamma ấy, điều ấy tùy thuộc vào khả năng của Đức-vua của Ngài, tôi không có lỗi.

Công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra, tiền-kiếp của Đức- Phật Gotam,a giải đáp câu hỏi dhammayāga bằng năm câu kệ như sau:

    • Kính thưa phụ thân Sucirata, nếu Đức-vua của phụ thân truyền hỏi các quan rằng:

“Hôm nay, chúng ta nên tạo mọi phước-thiện.” Nếu các quan tâu rằng:

    • Muôn tâu Bệ-hạ, ngày mai, chúng ta sẽ tạo mọi

phước-thiện.

Đức-vua của Ngài thuộc dòng dõi Yudhiṭṭhila không để cho ngày hôm ấy trôi qua với sự dể duôi (thất niệm) khi đại-thiện-tâm phát sinh. Vì vậy, Đức-vua không nên nghe theo lời tâu của vị quan ấy.

    • Kính thưa phụ thân Sucirata, nếu khi Đức-vua truyền hỏi câu hỏi, thì phụ thân chỉ nên tâu rằng: ngũ- uẩn chấp-thủ đều có trạng-thái vô-thường mà thôi.

Người phàm-nhân si mê không biết suy xét, nên có ác- tâm nghĩ trong tà-kiến. Còn Đức-vua của phụ thân

 

đại-thiện-tâm nghĩ trong chánh-kiến, chỉ nên thực-hành 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý mà thôi.

Phụ thân nên tâu lên Đức-vua như vậy.

    • Kính thưa phụ thân Sucirata, Ngài nên tâu lên Đức- vua rằng: Không nên coi thường kiếp người đang sinh sống trong cõi thiện-giới, không nên tạo ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong bốn cõi ác-giới, không nên hành-ác bằng thân, khẩu, ý, không nên có tà-kiến, không nên tạo mọi ác-nghiệp cho quả khổ.
    • Kính thưa phụ thân Sucirata, con đã giải đáp câu hỏi dhammayāga ấy, Đức-vua nào mong muốn thực- hành đúng theo attha là quả của nhân, dhamma là nhân sinh quả ấy, thì Đức-vua ấy sẽ có mọi thiện-pháp được tăng trưởng như vầng trăng sáng trong thời-kỳ trăng lên như vậy.

Đức-vua ấy được hoàng tộc yêu mến, được các quan quân trong triều cùng với thần dân thiên hạ trong nước đều kính yêu.

Sau khi Đức-vua ấy băng hà, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam cao- thượng trên cõi trời dục-giới ấy, hưởng mọi sự an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ.

Chú-Giải Ý Nghĩa Bài Kệ

Trong phần Chú-giải giảng giải về ý nghĩa các bài kệ:

    • Kính thưa phụ thân Sucirata, nếu Đức-vua của phụ thân truyền hỏi các quan rằng:

“Hôm nay chúng ta nên tạo phước-thiện bố-thí, giữ- giới, thọ-trì bát-giới uposathasīla.”

Nếu có vị quan tâu lên Đức-vua rằng:

 

    • Muôn tâu Bệ-hạ, hôm nay chúng ta nên sát sinh để ăn thịt, uống rượu, hưởng dục lạc, rồi ngày mai chúng ta sẽ tạo mọi phước-thiện.

Đức-vua của Ngài thuộc dòng dõi Yudhiṭṭhila, không nên nghe theo lời tâu của vị quan ấy, không nên sống trong ngày hôm ấy mà để thời gian trôi qua với sự dể duôi (thất niệm) (taṃ divasaṃ pamādena vītināmento mā avasi), khi đại-thiện-tâm phát sinh không để cho hoại, chỉ nên cố gắng tinh-tấn làm cho mọi thiện-pháp tăng trưởng mà thôi.

Trong kinh Bhaddekarattasutta, Đức-Phật dạy rằng:

“Ajjeva kiccamātappaṃ, ko jaññā maraṇaṃ suve.”(1)

Bậc thiện-trí nên tinh-tấn hoàn thành xong phận-sự ngay trong ngày hôm nay, ai biết được sự chết sẽ xảy ra trong ngày mai.

Trong Dhammapadaṭṭhakathā, Đức-Phật dạy câu kệ về

pháp dể duôi rằng:

“Appamādo amtaṃ padaṃ, pamādo maccuno padaṃ. Appamattā na mīyanti, ye pamattā yathā matā.”(2)

Bậc thiện-trí không có dể duôi trong mọi thiện-pháp (có chánh-niệm) là con đường dẫn đến Niết-bàn bất tử.

Người thiểu-trí có dể duôi trong mọi thiện-pháp là con đường dẫn đến sự chết.

Chư bậc thiện-trí nào không có dể duôi trong mọi thiện-pháp, chư bậc thiện-trí ấy dù có chết cũng như không chết.

Những người thiểu-trí nào dể duôi trong mọi thiện-pháp, những người thiểu-trí ấy dù còn sống cũng như đã chết.

 
   
 

 

1 Ma. Uparipaṇṇāsapāḷi, Bhaddekarattasutta.

2 Dhammapadagâthâ thứ 21.

 

Khi Đức-vua Dhanañcayakorabya của Ngài truyền hỏi rằng:

    • Này quân-sư Sucirata! Khi khanh hỏi câu hỏi dhammyāga, công-tử Sambhavapaṇḍita giải đáp thế nào?
    • Kính thưa phụ thân Sucirata, xin Ngài tâu lên Đức- vua của Ngài về pháp bên trong đó là ngũ-uẩn chấp-thủ (sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) là pháp vô-thường có rồi lại không có bằng câu kệ rằng:

“Sabbe saṅkhārā aniccā’ti, yadā paññāya passati. Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā.”(1)

Khi nào hành-giả phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ rằng: tất cả các pháp-hữu-vi sắc-pháp, danh- pháp ngũ-uẩn chấp-thủ đều có trạng-thái vô-thường.

Khi thấy rõ biết rõ sự-thật như vậy, phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán trong khổ-đế, trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán ấy là đạo thanh-tịnh giải thoát khổ.

“Aniccā vata saṅkhārā, uppādavayadhammino. Uppajjitvā nirujjhanti, tesaṃ vūpasamo sukho.”(2)

Sự-thật, các pháp-hữu-vi sắc-pháp, danh-pháp đều là vô-thường, có trạng-thái sinh rồi diệt là thường.

Sau khi sinh rồi tất cả đều diệt, sự diệt tận của các pháp ấy là an-lạc thật sự.

    • Kính thưa phụ thân Sucirata, hạng phàm-nhân si- mê không biết nên có mọi tà-kiến. Ngài nên tâu với Đức-vua của Ngài, Đức-vua có trí-tuệ hiểu biết, không nên có tà-kiến như vậy, nên thực-hành mười đại-thiện- nghiệp bằng thân, khẩu, ý.

 
   
 

 

1 Dhammapadagāthā thứ 277.

2 Dī. Mahāvaggapāḷi, Mahāparinibbānasuttapāḷi. Parnibbutakathā.

 

Đức-vua không nên coi thường kiếp người đang sinh sống trong cõi thiện-giới, những người nào bỏ qua ba pháp hành-thiện bằng thân, khẩu, ý trong cõi người, mà tạo ba pháp hành-ác bằng thân, khẩu, ý.

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong bốn cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh). Cho nên, Đức-vua không nên tạo ba pháp hành-ác bằng thân, khẩu, ý ấy.

Đức-vua không nên có mọi tà-kiến, không nên tạo mọi ác-nghiệp cho quả khổ.

    • Kính thưa phụ thân Sucirata, con đã giải đáp câu hỏi dhammayāga ấy, nếu Đức-vua nào mong muốn thực- hành đúng theo attha là quả của nhân, dhamma là nhân sinh quả ấy. thì Đức-vua ấy phải có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, có trí-tuệ sáng suốt, sẽ có được mọi phước- thiện dược tăng trưởng như vầng trăng sáng trong thời- kỳ trăng lên như vậy.

Công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra, tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama, giải đáp câu hỏi dhammayāga của vị bà-la- môn quân-sư Sucirata của Đức-vua Dhanañcayakorabya rõ ràng ví như lời giải đáp của Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, giống như mặt trăng hiện trên bầu trời trong sáng không có mây che phủ.

Tòan thể hội chúng đều tán dương ca tụng nói lên lời sādhu vang rền cả không gian, Đức-vua Bārāṇasī cúng- dường pháp bằng những phẩm vật cao quý đến công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra, cùng với mọi người cúng- dường pháp bằng các vật quý báu của mình.

Riêng vị bà-la-môn quân-sư Sucirata của Đức-vua Dhanañcayakorabya cúng-dường 1000 lượng vàng, liền ghi chép tòan lời giải đáp câu hỏi dhammayāga trên tấm biển vàng.

 

Vị bà-la-môn quân-sư Sucirata đảnh lễ, xin bái biệt công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra, rồi lên đường trở về kinh thành Indapatta, xin vào đảnh lễ yết kiến Đức-vua Dhanañcayakorabya tâu trình tấm biển vàng ghi chép tòan lời giải đáp câu hỏi dhammayāga của công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra lên Đức-vua.

Đức-vua Dhanañcayakorabya nghiêm chỉnh thực-hành

đúng theo lời dạy của công-tử Bồ-tát Sambhavapaṇḍita.

Đức-Thế-Tôn thuyết giảng Sambhavajātaka tích công- tử Bồ-tát Sambhavakumāra tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama xong, Đức-Phật truyền dạy chư tỳ-khưu rằng:

    • Này chư tỳ-khưu! Nay kiếp hiện-tại Như-lai là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu việt đó không phải là điều phi thường, dù trong những tiền-kiếp của Như-lai khi còn là Đức-Bồ-tát cũng vẫn có trí-tuệ siêu-việt vậy.

Tích Sabhavajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện-Tại

Trong tích Sambhavajātaka này, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh làm công-tử Bồ-tát Sambhava- kumāra trong thời quá khứ. Đến khi Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Sambhavajātaka ấy liên quan đến kiếp hiện-tại của những nhân vật ấy như sau:

    • Đức-vua Dhanañcayakorabya, nay kiếp hiện-tại

Ngài Trưởng-lão Ānanda.

    • Vị bà-la-môn quân-sư Sucirata, nay kiếp hiện-tại

Ngài Trưởng-lão Anuruddha.

    • Vị bà-la-môn Vidhura, nay kiếp hiện-tại là Ngài Trưởng lão Ariyakassapa.
    • Công-tử Bhadara, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại- Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

 

    • Công-tử Sañjaya, nay kiếp hiện-tại là Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta.
    • Công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra nay kiếp hiện- tại là Đức-Phật Gotama.

Mười Pháp-Hạnh Ba-La-Mật

Tóm lược tích Công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama mới lên bảy tuổi đã tạo pháp- hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ, ngoài ra, có 8 pháp-hạnh ba-la-mật phụ khác cũng đồng thời thành tựu như sau:

    • Công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra tạo mọi phước thiện bố-thí pháp, đó là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật.
    • Công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra giữ gìn giới, đó

pháp-hạnh giữ-giới ba-la-mật.

    • Công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra có sự tinh-tấn không ngừng, đó là pháp-hạnh tinh-tấn ba-la-mật.
    • Công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra có đức nhẫn-nại,

đó là pháp-hạnh nhẫn-nại ba-la-mật.

    • Công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra nói lời chân-thật,

đó là pháp-hạnh chân-thật ba-la-mật.

    • Công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra phát-nguyện bằng lời chân thật, đó là pháp-hạnh phát-nguyện ba-la-mật.
    • Công-tử Bồ-tát Sambhvakumāra có tâm-từ đối với mọi người, mọi chúng-sinh, đó là pháp-hạnh tâm-từ ba- la-mật.
    • Công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra có tâm-xả đối với mọi chúng-sinh, đó là pháp-hạnh tâm-xả ba-la-mật.

Đó là tám pháp-hạnh ba-la-mật phụ đồng thời thành tựu cùng với pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ này.

Nhận Xét Về Công-Tử Bồ-Tát Sambhavakumāra

Trong tích Sambhavajātaka này, Đức-Bồ-tát công-tử

 

Sambhavakumāra là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, mới lên bảy tuổi tạo pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ (paññāpāramī).

Khi công-tử Bồ-tát Sambhavakumāra mới lên bảy tuổi có trí-tuệ siêu-việt nổi bật hơn hẳn đối với tất cả mọi bậc thiện-trí có trí-tuệ trong đời, không có một ai sánh được.

Pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ là một trong mười pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, cũng là một trong 30 pháp-hạnh ba-la-mật mà Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải thực-hành cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức-Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha).

Trí-tuệ ba-la-mật đó là trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp.

Trí-tuệ vốn có đối với các hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) từ khi đầu thai làm người trong lòng mẹ, cho nên, khi sinh ra đời, tuy còn thơ ấu, nhưng đứa bé có trí-tuệ hiểu biết đặc biệt xuất sắc hơn người, bởi vì trong vô số tiền-kiếp của đứa bé đã từng tích-luỹ nhiều trí-tuệ hiểu biết trong những kiếp quá-khứ, nên kiếp hiện-tại này là quả của đại-thiện-nghiệp mà những tiền- kiếp của đứa bé đã tạo và đã được tích-lũy và được lưu- trữ ở trong tâm của đứa bé ấy. Cho nên, đứa bé có trí-tuệ hiểu biết đặc biệt xuất sắc hơn người, đó là sự-thật hiển nhiên, sự-thật này đối với bậc thiện-trí chỉ có tin nghiệp và quả của nghiệp mà thôi.

Ví dụ: những tiền-kiếp của một người nào đã từng tích-luỹ nhiều sự hiểu biết về lĩnh vực chuyên môn nào thuộc về đại-thiện-nghiệp (không phải là ác-nghiệp).

Sau khi người ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy trong

đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh

 

kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm ấy gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai trở lại làm người.

Khi sinh ra đời, tuy đứa bé còn thơ ấu, nhưng khi đứa bé ấy tiếp xúc với lĩnh vực chuyên môn ấy mà những tiền-kiếp của đứa bé đã được tích-lũy và được lưu-trữ ở trong tâm, nên trở thành đứa bé có tài xuất sắc hơn vị thầy dạy của nó, và cũng có khả năng hơn hẳn những người khác đã từng trải qua nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên môn ấy. Cho nên, đứa bé ấy được phần đông mọi người tán dương ca tụng là đứa bé thiên- tài do thiên phú.

Vậy, sự-thật có phải là do trời phú cho hay không?

Theo quan niệm của Phật-giáo, đứa bé có tài xuất chúng đó là do quả của đại-thiện-nghiệp mà tiền-kiếp của đứa bé ấy đã tạo trong những kiếp quá-khứ. Đó là sự-thật về đại-thiện-nghiệp và quả tốt của đại-thiện- nghiệp ấy.

Thật vậy, Đức-Phật dạy về nghiệp và quả của nghiệp

như sau:

“Kammassako’mhi, kammadāyādo, kammayoni, kammabandhu, kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa dāyādo bhavissāmi.”(1)

Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp của ta, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’ ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp ấy hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.

 
   
 

 

1 Aṅg. Pañcakanipāta, Abhiṇhapaccavekkhitabbaṭhānasutta.

 

“Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp của ta” như thế nào, mỗi chúng-sinh dù lớn dù nhỏ trong ba giới (dục-giới, sắc-giới và vô-sắc- giới gồm có 31 cõi-giới) và bốn loài chúng-sinh (thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hoá-sinh) cũng như thế ấy.

Mỗi chúng-sinh có nghiệp là của riêng mình, mỗi chúng-sinh là người thừa hưởng quả của nghiệp của mình, …

Các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật đều có đức- tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp của mình. Cho nên, bậc thiện-trí nào tin nghiệp và quả của nghiệp của mình, bậc thiện-trí ấy có chánh-kiến sở- nghiệp (kammassakatā sammādiṭṭhi) đó là chánh-kiến cơ bản ban đầu trong năm loại chánh-kiến trong Phật-giáo.

Nghiệp và quả của nghiệp một trong bốn pháp bất khả tư nghì mà các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật không nên suy nghĩ, mà chỉ nên tin nghiệp và quả của nghiệp mà thôi. Chỉ có Đức-Phật mới thấy rõ, biết rõ thấu suốt nghiệp và quả của nghiệp của tất cả mọi chúng-sinh lớn hoặc nhỏ trong vô số kiếp quá-khứ và vô số kiếp vị-lai mà thôi.

Cho nên, kiếp hiện-tại của mỗi chúng-sinh dù lớn dù nhỏ cũng đều là quả của nghiệp của chúng-sinh ấy trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp quá-khứ.

 

(Xong pháp-hạnh trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ)

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications