Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
NTPG.Q04.B05 Phần IV - Pākaṭṭhānacatukka phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo cõi-giới
Pākaṭṭhānacatukka phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo cõi-giới, có 4 loại nghiệp: 4.1- Akusalakamma: Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, loài ngạ-quỷ, loài súc-sinh. 4.2- Kāmāvacarakusalakamma: Dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) trong 8 dục-giới thiện-tâm (đại-thiện-
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:6032

Các tên gọi khác

Pākaṭṭhānacatukka phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo cõi-giới, có 4 loại nghiệp: 4.1- Akusalakamma: Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, loài ngạ-quỷ, loài súc-sinh. 4.2- Kāmāvacarakusalakamma: Dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) trong 8 dục-giới thiện-tâm (đại-thiện-

General Information

Danh sách : Liên quan
:
NTPG.Q04.B05 Phần IV - Pākaṭṭhānacatukka phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo cõi-giới

 

 

  1. Pākaṭṭhānacatukka phần nghiệp phân chia theo nghiệp cho quả theo cõi-giới, có 4 loại nghiệp:

4.1- Akusalakamma: Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, loài ngạ-quỷ, loài súc-sinh.

4.2- Kāmāvacarakusalakamma: Dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) trong 8 dục-giới thiện-tâm (đại-thiện-

 

tâm) cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới.

4.3- Rūpāvacarakusalakamma: Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh trên 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên.

4.4- Arūpavacarakusalakamma: Vô-sắc-giới thiện- nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh trên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.

Giải thích 4 loại nghiệp cho quả theo cõi-giới

4.1- Akusalakamma: Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp)

Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm).

Bất-thiện-tâm (Akusalacitta) có 12 tâm chia ra 3 loại:

  1. Lobhacitta: tham-tâm có 8 tâm.
  2. Dosacitta: sân-tâm có 2 tâm.
  3. Mohacitta: si-tâm có 2 tâm.
  1. Lobhacitta: tham-tâm có 8 tâm:
    1. Somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

Tham-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà- kiến, không cần tác-động.

    1. Somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.

Tham-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với tà- kiến, cần tác-động.

    1. Somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

Tham-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động.

 

    1. Somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.

Tham-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.

    1. Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

Tham-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với tà- kiến, không cần tác-động.

    1. Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.

Tham-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với tà- kiến, cần tác-động.

    1. Upesahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

Tham-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, không cần tác-động.

    1. Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.

Tham-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với tà-kiến, cần tác-động.

  1. Dosacitta: sân-tâm có 2 tâm:
    1. Domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

Sân-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, không cần tác-động.

    1. Domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.

Sân-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ ưu, hợp với hận, cần tác-động.

 

  1. Mohacitta: si-tâm có 2 tâm:(1)
    1. Upekkhāsahagataṃ vicikicchāsampayuttaṃ.

Si-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ xả, hợp với hoài-nghi. 2- Upekkhāsahagataṃ uddhaccasampayuttaṃ.

Si-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ xả, hợp với phóng-tâm.

Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) tạo 10 bất-thiện- nghiệp (10 ác-nghiệp) phát sinh do nương nhờ nơi 3 môn là thân-môn, khẩu-môn, ý-môn như sau:

4.1.1- Ác-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi thân- môn gọi là thân ác-nghiệp, có 3 loại:

  • Ác-nghiệp sát-sinh.
  • Ác-nghiệp trộm-cắp.
  • Ác-nghiệp tà-dâm.

Ba thân-ác-nghiệp này còn gọi là 3 thân-hành-ác (kāyaduccarita).

4.1.2- Ác-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi khẩu- môn gọi là khẩu ác-nghiệp, có 4 loại:

  • Ác-nghiệp nói-dối.
  • Ác-nghiệp nói lời chia rẽ.
  • Ác-nghiệp nói lời thô tục.
  • Ác-nghiệp nói lời vô ích.

Bốn khẩu-ác-nghiệp này còn gọi là 4 khẩu-nói-ác

(vacīduccarita).

4.1.3- Ác-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi ý-môn gọi là ý ác-nghiệp có 3 loại:

  • Ác-nghiệp tham lam tài sản của người khác.

 
   
 

 

1 Xem phần giảng giải trong quyển “Vi-diệu-pháp hiện-thực trong cuộc sống” 8 tham-tâm trang 14, 2 sân-tâm trang 43, 2 si-tâm trang 51, cùng soạn giả.

 

  • Ác-nghiệp thù hận người khác.
  • Ác-nghiệp tà-kiến thấy sai chấp lầm.

Ba ý-ác-nghiệp này còn gọi là 3 ý-nghĩ-ác (mano- duccarita).

Giải thích 10 ác-nghiệp theo 3 môn

4.1.1- Thân ác-nghiệp ác-nghiệp phần nhiều được biểu hiện ra ở thân-hành-ác, có 3 loại ác-nghiệp:

  1. Ác-nghiệp sát-sinh.
  2. Ác-nghiệp trộm-cắp.
  3. Ác-nghiệp tà-dâm.
  1. Ác-nghiệp sát-sinh

Ác-nghiệp sát-sinh là giết hại chúng-sinh, cắt đứt sinh-mạng của chúng-sinh.

Mỗi chúng-sinh đều phải chết do 4 nguyên-nhân:

  1. Chúng-sinh chết vì hết tuổi thọ.
  2. Chúng-sinh chết vì hết nghiệp hỗ trợ.
  3. Chúng-sinh chết vì hết tuổi thọ và hết nghiệp hỗ trợ.
  4. Chúng-sinh chết vì nghiệp khác cắt đứt sinh-mạng.

Nếu chúng-sinh nào chết vì 1 trong 3 trường hợp (1, 2, 3) thì chúng-sinh ấy chết hợp thời (kālamaraṇa).

Nếu chúng-sinh nào bị người nào giết hại chúng-sinh ấy chết trước khi hết tuổi thọ, hoặc chết trước khi hết nghiệp hỗ trợ, thì chúng-sinh ấy chết vì trường-hợp thứ 4 không hợp thời (akālamaraṇa), người ấy đã tạo ác- nghiệp sát-sinh giết hại chúng-sinh ấy.

Chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh

Để biết có tạo ác-nghiệp sát-sinh hay không, cần phải căn cứ vào 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh:

 

  1. Pāṇo: Chúng-sinh còn sinh-mạng.
  2. Pāṇasaññitā: Biết rõ chúng-sinh còn sinh-mạng.
  3. Vadhakacittaṃ: Ác-tâm nghĩ sẽ giết hại chúng-sinh.
  4. Payogo: Cố gắng giết hại chúng-sinh.
  5. Tena maraṇaṃ: Chúng-sinh ấy bị chết do sự cố gắng ấy.

Nếu người nào hội đủ 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát- sinh này, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp sát-sinh hội đủ chi-pháp, nhưng nếu không hội đủ 5 chi-pháp này, thì người ấy tạo ác-nghiệp sát-sinh không hội đủ chi-pháp.

Quả của 2 loại ác-nghiệp sát-sinh này có sự khác biệt:

  • Nếu tạo ác-nghiệp sát-sinh hội đủ 5 chi-pháp này thì ác-nghiệp sát-sinh ấy có nhiều năng lực, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Nếu tạo ác-nghiệp sát-sinh không hội đủ 5 chi-pháp này thì ác-nghiệp sát-sinh ấy có ít năng lực, không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla), mà có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

Cố gắng tạo ác-nghiệp sát-sinh

Người cố gắng tạo ác-nghiệp sát-sinh bằng 6 cách:

  1. Sāhatthikapayoga: Tự mình cố gắng tạo ác-nghiệp sát-sinh, nghĩa là tự mình sử dụng khí giới, dùng sức mạnh cố gắng giết hại chúng-sinh ấy, chúng-sinh ấy bị chết do chính mình. Như vậy gọi là tự mình cố gắng tạo ác-nghiệp sát-sinh.
  2. Āṇattikapayoga: Cố gắng sai khiến người khác tạo ác-nghiệp sát-sinh bằng lời nói, hoặc bằng chữ viết gởi

 

đến nhờ người khác, sai khiến họ tạo ác-nghiệp giết hại chúng-sinh ấy.

  1. Nissaggiyapayoga: Cố gắng dùng khí giới như phóng lao, ném đá, bắn cung tên, bắn súng, ném chất nổ,

... để giết hại chúng-sinh ấy.

  1. Thāvarapayoga: Cố gắng làm ra những thứ vũ khí để giết hại chúng-sinh có tính cách lâu dài như đào hầm, đặt bẫy, rèn gươm giáo, đúc súng đạn, làm bom, chất nổ, thuốc độc, v.v... Hễ khi nào có người sử dụng những thứ ấy để giết hại chúng-sinh, thì người làm ra những thứ ấy cũng gọi là tạo ác-nghiệp sát-sinh, bởi vì người ấy có tác-ý ác-tâm giết hại chúng-sinh có tính cách lâu dài.
  2. Vijjāmayapayoga: Cố gắng sử dụng bùa chú, phù phép trù ếm, v.v... làm cho chúng-sinh ấy chết.
  3. Iddhimayapayoga: Cố gắng sử dụng phép thuật của mình để giết hại chúng-sinh ấy.

Đó là 6 cách cố gắng tạo ác-nghiệp sát-sinh.

Ác-nghiệp sát-sinh nhẹ hoặc nặng

Người đã tạo ác-nghiệp sát-sinh nhẹ hoặc nặng căn cứ vào tác-ý tâm-sở trong ác-tâm trong các đối-tượng chúng-sinh bị giết chết như sau:

  • Chúng-sinh là loài súc-sinh
  • Nếu người nào giết hại loài súc-sinh có thân hình nhỏ bé như con muỗi, con kiến, v.v... thì người ấy tạo ác- nghiệp nhẹ, vì có sự cố gắng ít.
  • Nếu người nào giết hại loài súc-sinh có thân hình to lớn như con voi, con bò, con trâu, con heo, v.v... thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng, vì có sự cố gắng nhiều.

 

  • Chúng-sinh là loài người
  • Nếu người nào giết hại người không có giới, người ác thì người ấy tạo ác-nghiệp nhẹ.
  • Nếu người nào giết hại người có giới-đức, bậc-thiện- trí, bậc Thánh-nhân thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng.
  • Người nào giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra- hán thì người ấy có ác-nghiệp cực kỳ nặng thuộc về ác- nghiệp vô-gián trọng-tội (ānantariyakamma).

Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa- ngục Avīci, mà không có nghiệp nào ngăn cản được, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài nhiều đại-kiếp trái đất, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.

  • Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp sát-sinh rồi, về sau, người ấy biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết ăn năn hối lỗi, tránh xa mọi ác-nghiệp, từ bỏ mọi ác- nghiệp, rồi cố gắng tinh-tấn tạo mọi thiện-nghiệp tùy theo khả năng của mình, thì người ấy dù đã tạo ác- nghiệp nặng nào rồi, cũng có thể làm giảm bớt tiềm năng cho quả của ác-nghiệp nặng ấy, còn nếu ác-nghiệp nhẹ thì làm cho ác-nghiệp nhẹ ấy không có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau (nhưng không phải là tạo thiện-nghiệp rồi sẽ xóa được ác-nghiệp).
  • Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp sát-sinh giết súc vật hằng ngày, mà không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không từ bỏ ác-nghiệp sát-sinh, vẫn cứ tiếp tục tạo ác-nghiệp sát-sinh hằng ngày, như người đồ tể giết bò, giết heo, giết gà, giết vịt, v.v... để bán thịt nuôi mạng, thì người ấy dù đã tạo ác-nghiệp nhẹ lâu ngày cũng trở thành ác-nghiệp nặng, bởi vì đó là thường- hành ác-nghiệp (āciṇṇakusalakamma).

 

Giết hại chúng-sinh như thế nào?

Danh từ gọi chúng-sinh là danh từ chế-định, do căn cứ vào “ngũ-uẩn”. Ngũ-uẩn là sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong mỗi chúng-sinh.

  • Sắc-uẩn đó là thân, thân thể thuộc về sắc-pháp.

Sắc-pháp gồm có 28 sắc-pháp

Ví dụ: Chúng-sinh là loài người, mỗi người bình thường có đầy đủ chỉ có 27 sắc-pháp mà thôi.

  • Nếu là người nam thì trừ sắc-nữ-tính.
  • Nếu là người nữ thì trừ sắc-nam-tính.
  • Nếu người nào bị mắt mù, tai điếc, … thì sắc-pháp bị giảm theo khuyết tật ấy.

Sắc-uẩn có 27 sắc-pháp thuộc về phần thân có trạng-thái sinh rồi diệt liên tục không ngừng, luôn luôn diễn biến từ nhỏ đến lớn, từ trẻ đến già cho đến chết.

Trong sắc-uẩn này có sắc-mạng-chủ (jīvitindriya- rūpa) có phận sự giữ gìn, bảo hộ các sắc-pháp, duy trì mỗi kiếp chúng-sinh cho đến khi hết tuổi thọ, hoặc hết quả của hỗ-trợ-nghiệp, khi ấy sắc-mạng-chủ bị đứt (chết), kết thúc kiếp mỗi chúng-sinh ấy cách bình thường, gọi là chết hợp thời (kālamaraṇa).

Còn phần thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn và thức- uẩn đó là các tâm-sở và tâm như sau:

  • Thọ-uẩn đó là thọ tâm-sở.
  • Tưởng-uẩn đó là tưởng tâm-sở.
  • Hành-uẩn đó là các tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở.
  • Thức-uẩn đó là tâm, gồm có 4 uẩn này gọi là 4 danh-uẩn thuộc về phần tâm.

Như vậy, phần tâm gồm có các tâm-sở và tâm.

 

Các tâm-sở (cetasika) có 4 trạng-thái

  • Đồng sinh với tâm (ekuppāda).
  • Đồng diệt với tâm (ekanirodha).
  • Đồng đối-tượng với tâm (ekālambana).
  • Đồng nơi sinh với tâm (ekavatthuka).

Cho nên, tâm với tâm-sở không thể tách rời nhau được. Hễ có tâm nào phát sinh thì ắt có một số tâm-sở tương xứng đồng sinh với tâm ấy.(1)

Tâm với các tâm-sở đó là 4 danh-uẩn có trạng-thái sinh rồi diệt liên tục không ngừng, dù mỗi kiếp chúng- sinh, phần thân bị thay đổi tùy theo nghiệp và quả của nghiệp của chúng-sinh ấy, còn phần tâm với các tâm-sở vẫn sinh rồi diệt liên tục không ngừng, từ kiếp này sang kiếp kia, trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

Trong tâm với các tâm-sở danh-mạng-chủ tâm-sở (jīvitindriyacetasika) có phận sự giữ gìn, bảo hộ tâm với tâm-sở đồng sinh được duy trì mãi mãi.

Như vậy, mỗi kiếp chúng-sinh ở trong 11 cõi dục-giới và chư phạm-thiên ở trong 15 tầng trời sắc-giới phạm- thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên) đều có đủ ngũ-uẩn.

Mỗi kiếp chúng-sinh đang hiện hữu do nhờ sắc- mạng-chủ (jīvitindriyarūpa) và danh-mạng-chủ tâm-sở (jīvitindriyacetasika).

  • Nếu chúng-sinh nào chết vì hết tuổi thọ hoặc mãn nghiệp hỗ trợ, thì gọi là chúng-sinh ấy chết hợp thời (kālamaraṇa).
  • Nếu chúng-sinh nào chết do nghiệp khác cắt đứt sinh-mạng, mà tuổi thọ vẫn còn hoặc nghiệp hỗ trợ vẫn

 
   
 

 

1 Nên tìm hiểu trong quyển “Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống” cùng soạn giả.

 

chưa mãn, thì gọi là chúng-sinh ấy chết không hợp thời (akālamaraṇa).

Tự sát có phải tạo ác-nghiệp sát-sinh hay không?

Tự sát là tác-ý tự giết hại mình, do nguyên nhân nào đó, còn tạo ác-nghiệp sát-sinh hay không cần phải căn cứ vào 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh như sau:

  1. Chúng-sinh còn có sinh-mạng, đó là chính mình.
  2. Biết rõ chúng-sinh còn sinh mạng (paṇasaññitā), chi-pháp này ám chỉ đến chúng-sinh khác, không phải chính mình.
  3. Tâm nghĩ sẽ tự giết hại mình.
  4. Cố gắng tự giết hại mình bằng cách nào đó.
  5. Mình chết do sự cố gắng của chính mình.

Xét theo 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát-sinh, thì tự sát thiếu chi-pháp thứ 2 là biết rõ chúng-sinh còn sinh mạng, bởi vì chi-pháp này ám chỉ đến chúng-sinh khác, không phải chính mình. Cho nên, tự sát không đủ 5 chi- pháp của ác-nghiệp sát-sinh.

Vậy, tự sát không phải tạo ác-nghiệp sát-sinh.

Thật vậy, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải tạo đầy đủ 30 pháp-hạnh ba-la-mật (10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la- mật bậc thượng):

  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ:

Khi tạo pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ nào, Đức-Bồ- tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải hy sinh những của cải, tài sản, ngôi báu, vợ con, v.v… những gì thuộc về bên ngoài thân thể của mình, để tạo pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ ấy.

 

  • 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung:

Khi bồi bổ pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung nào, Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải hy sinh những bộ phận trong thân thể như đôi mắt, v.v… để bồi bổ pháp- hạnh ba-la-mật bậc trung ấy.

  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng:

Khi bồi bổ pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng nào, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải hy sinh sinh- mạng của mình, để bồi bổ pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng ấy cho được thành tựu.

Đối với Chư Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ sáng suốt dám hy sinh sinh-mạng của mình, vì mục đích cứu cánh cao cả nhất, để mong trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Như vậy, pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng là đại- thiện-nghiệp bậc thượng, chắc chắn không phải là ác- nghiệp sát-sinh được.

Tuy nhiên, trong đời đối với số người có sân-tâm tuyệt vọng cùng cực, không muốn sống trên đời này nữa, nên họ tự sát do sân-tâm chán ngán cuộc đời.

Xét theo nhân quả thì sân-tâm tuyệt vọng cùng cực là nhân đã phát sinh trước, rồi dẫn đến quả là tự sát. Tuy hành động tự sát này không phải là ác-nghiệp sát-sinh vì không hội đủ 5 chi-pháp của ác-nghiệp sát-

sinh, nhưng người ấy chết do sân-tâm chán ngán cuộc đời, cho nên sau khi người ấy chết khó tránh khỏi tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới.

Người nào gặp hoàn cảnh tuyệt vọng cùng cực, chán ngán không muốn sống do năng lực của sân-tâm là nguyên nhân dẫn đến tự sát, nên lúc lâm chung tâm bị ô nhiễm,

 

chính ý ác-nghiệp phát sinh lúc lâm chung ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi ác-giới, không phải do ác-nghiệp tự sát.

Tạo ác-nghiệp sát-sinh

Nếu người ác nào có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác- tâm cắt đứt sinh-mạng của chúng-sinh ấy chết, khi tuổi thọ vẫn còn hoặc nghiệp hỗ trợ vẫn chưa mãn, thì gọi người ấy đã tạo ác-nghiệp sát-sinh.

Người đã tạo ác-nghiệp sát-sinh sự thật như thế nào?

Người ấy đã tạo ác-nghiệp sát-sinh sự thật là người ấy có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm chỉ có thể cắt đứt sắc-mạng-chủ (jīvitindriyarūpa) của chúng-sinh ấy thuộc về phần thân mà thôi, nghĩa là phá hoại, làm tan rã sắc- uẩn kết thúc kiếp hiện-tại của chúng-sinh ấy chết, song phần tâm của chúng-sinh ấy gồm có 4 danh-uẩn (thọ- uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) có danh-mạng- chủ tâm-sở giữ gìn, bảo hộ tâm với các tâm-sở vẫn còn sinh rồi diệt liên tục làm duyên cho nghiệp của chúng- sinh ấy có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau như sau:

  • Sau khi chúng-sinh ấy chết, nếu ác-nghiệp trong ác-tâm (của chúng-sinh ấy) có cơ hội cho quả trong thời- kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp ấy gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự cho quả tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ- quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát khỏi cõi ác-giới ấy.
  • Sau khi chúng-sinh ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm (của chúng-sinh ấy) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm

 

phận sự cho quả tái-sinh kiếp sau 1 trong 7 cõi thiện-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, mới rời khỏi cõi thiện-giới ấy.

Ví dụ: Ông A có tác-ý trong ác-tâm tạo ác-nghiệp “giết ông B chết” nghĩa là ông A cắt đứt sắc-mạng-chủ trong thân của ông B, kết thúc kiếp hiện-tại của ông B (chết).

  • Sau khi ông B chết, nếu ác-nghiệp nào có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp ấy gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới làm loài súc-sinh có đủ ngũ-uẩn kiếp hiện-tại, chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát khỏi cõi ác-giới ấy.
  • Hoặc sau khi ông B chết, nếu đại-thiện-nghiệp nào có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭi- sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người, hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục- giới, hưởng mọi sự an-lạc cho đến khi mãn quả của đại- thiện-nghiệp ấy, mới rời khỏi cõi thiện-giới ấy.

Cho nên, trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, nếu chúng-sinh nào chưa phải là bậc Thánh A-ra- hán, có đủ ngũ-uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành- uẩn, thức-uẩn, thì phần thân (sắc-uẩn) của mỗi kiếp bị tản rã do quả của nghiệp (chết), còn phần tâm (4 danh- uẩn) của mỗi chúng-sinh có liên quan đến nghiệp của chúng-sinh ấy cho quả tái-sinh kiếp sau.

Quả xấu của ác-nghiệp sát-sinh

Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp sát-sinh, giết hại sinh-mạng của chúng-sinh dù lớn dù nhỏ, thì sau khi

 

người ấy chết, nếu ác-nghiệp sát-sinh ấy trong 11 bất- thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng-tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác- nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

  • Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả này là quả của ác-nghiệp trong tham-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái-sinh kiếp sau thì hóa-sinh làm loài ngạ-quỷ hoặc loài a-su-ra, 2 loài chúng-sinh này thường có tham-tâm thèm khát.
  • Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả này là quả của ác-nghiệp trong sân-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái-sinh kiếp sau thì hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục, loài chúng-sinh trong cõi địa-ngục này thường bị hành hạ nên có sân-tâm không hài lòng.
  • Nếu suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả này là quả của ác-nghiệp trong si-tâm có nhiều năng lực làm phận sự tái-sinh kiếp sau thì tái-sinh làm loài súc-sinh, loài chúng-sinh này có tính si-mê.

Sau khi thoát ra khỏi cõi ác-giới, nếu có đại-thiện- nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có đại-quả- tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái- sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

  • Và trường hợp, người nào đã tạo ác-nghiệp sát-sinh nhẹ, sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp sát-sinh nhẹ ấy không có cơ hội cho quả thì đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-

 

sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

Cả 2 trường hợp ấy, người ấy còn phải chịu 23 quả xấu của ác-nghiệp sát-sinh mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong quá-khứ là:

Kiếp hiện-tại của người ấy:

  1. Có thân hình tật nguyền.
  2. Có thân hình không cân đối, xấu xí.
  3. Là người chậm chạp.
  4. Có lòng bàn tay và dưới lòng bàn chân lõm sâu.
  5. Có thân hình xấu xí, đầy sẹo.
  6. Có sắc diện tối tăm.
  7. Có da thịt sần sùi.
  8. Có tính hay sợ hãi.
  9. Có sức khỏe yếu đuối.
  10. Có tật cà lăm, lời nói lặp đi lặp lại, không suôn sẻ.
  11. Bị mọi người ghét bỏ.
  12. Có những thuộc hạ tùy tùng bị chia rẽ.
  13. Có tính hay giật mình, hoảng sợ.
  14. Thường bị tai nạn do khí giới, thuốc độc,
  15. Là người si mê, ngu dốt.
  16. Có rất ít bạn bè.
  17. Có thân hình dị hợm, đáng ghê sợ.
  18. Có thân hình kỳ dị.
  19. Là người hay bệnh hoạn ốm đau.
  20. Là người thường sầu não, lo sợ.
  21. Có con cháu thường xa lánh.
  22. Là người thường bị chết yểu.
  23. Là người bị người khác giết chết.

Đó là 23 quả xấu của ác-nghiệp sát-sinh mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong kiếp quá-khứ.

 

  1. Ác-nghiệp trộm-cắp

Trộm-cắp là ác-nghiệp chiếm đoạt của cải, tài sản, đất đai, nhà cửa, v.v… mà người chủ không sẵn lòng cho.

Người tạo ác-nghiệp trộm-cắp bằng nhiều cách:

  • Lén vào nhà trộm-cắp của cải, tài sản của chủ nhà.
  • Dùng sức mạnh cướp đoạt của cải, tài sản, đất đai, nhà cửa, … của người khác.
  • Dùng quyền lực hăm dọa, bắt buộc người khác trao của cải, tài sản, … cho mình.
  • Lừa gạt, dối trá để chiếm đoạt của cải, tài sản, … của người khác.
  • Dùng phép thuật thôi miên khiến cho người khác làm theo ý đồ xấu xa của mình; làm cho người khác không còn biết tự chủ mà trao của cải, tài sản, … của họ đến cho mình.
  • Hành vi tham nhũng, tham ô chiếm đoạt của cải, tài sản tư nhân; của cải, tài sản của tập thể; của cải, tài sản của nhà nước; v.v…

Người nào sử dụng mọi thủ đoạn xảo trá, mọi mánh lới khôn khéo để chiếm đoạt của cải, tài sản, … của người khác một cách bất hợp pháp, người ấy đã tạo ác- nghiệp trộm-cắp.

Chi-pháp của ác-nghiệp trộm-cắp

Để biết có tạo ác-nghiệp trộm-cắp hay không, cần phải căn cứ vào 5 chi-pháp của ác-nghiệp trộm-cắp:

  1. Parapariggahitaṃ: Của cải có chủ-nhân giữ gìn.
  2. Parapariggahitasaññitā: Biết rõ của cải, tài sản có chủ-nhân giữ gìn.
  3. Theyyacittaṃ: Tâm nghĩ trộm-cắp.
  4. Payogo: Cố gắng để trộm-cắp.

 

  1. Avahāro: Chiếm được của cải, tài sản ấy bằng sự cố gắng ấy.

Nếu người nào hội đủ 5 chi-pháp của ác-nghiệp trộm- cắp này, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp trộm-cắp hội đủ chi-pháp, nhưng nếu không hội đủ 5 chi-pháp này, thì người ấy tạo ác-nghiệp trộm-cắp không hội đủ chi-pháp.

Quả của 2 loại ác-nghiệp trộm-cắp này có sự khác biệt:

  • Nếu tạo ác-nghiệp trộm-cắp hội đủ 5 chi-pháp này thì ác-nghiệp trộm-cắp ấy có nhiều năng lực, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Nếu tạo ác-nghiệp trộm-cắp không hội đủ 5 chi- pháp này thì ác-nghiệp trộm-cắp ấy có ít năng lực, không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau, mà có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp hiện-tại. Nếu kiếp hiện-tại được sinh làm người thì người ấy có khi còn phải chịu quả xấu của ác-nghiệp trộm-cắp mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo.

Để biết ác-nghiệp trộm-cắp có hội đủ các chi-pháp hay không hội đủ các chi-pháp, thì căn cứ vào 5 chi- pháp của ác-nghiệp trộm-cắp như sau:

Nếu người nào hội đủ 5 chi-pháp của ác-nghiệp trộm- cắp này thì người ấy tạo ác-nghiệp trộm-cắp hội đủ chi-pháp, nhưng nếu không hội đủ 5 chi-pháp này thì người ấy tạo ác-nghiệp trộm-cắp không hội đủ chi-pháp.

Quả của 2 loại ác-nghiệp trộm-cắp này có sự khác biệt nhau như sau:

  • Nếu ác-nghiệp trộm-cắp hội đủ 5 chi-pháp này thì ác-nghiệp trộm-cắp ấy có năng lực, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và có

 

hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti- kāla), kiếp hiện-tại.

  • Nếu ác-nghiệp trộm-cắp không hội đủ 5 chi-pháp này, thì ác-nghiệp trộm-cắp ấy có ít năng lực, nếu có cơ hội thì chỉ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại mà thôi.

Cố gắng tạo ác-nghiệp trộm-cắp

Người cố gắng tạo ác-nghiệp trộm-cắp bằng 6 cách:

  1. Sāhatthikapayoga: Tự mình cố gắng tạo ác-nghiệp trộm-cắp, nghĩa là tự mình cố gắng bằng nhiều cách để chiếm đoạt của cải, tài sản, v.v… của người khác một cách bất hợp pháp.
  2. Āṇattikapayoga: cố gắng sai khiến người khác tạo ác-nghiệp trộm-cắp bằng lời nói, hoặc bằng chữ viết gửi cho người khác, sai khiến họ tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… của người khác.
  3. Nissaggiyapayoga: cố gắng ném hàng hóa qua cửa khẩu, hoặc cất giấu hàng hóa qua cửa khẩu để trốn thuế.
  4. Thāvarapayoga: cố gắng sai khiến thuộc hạ rằng: “Nếu có cơ hội lúc nào, chúng mày hãy cố gắng trộm- cắp, chiếm đoạt của cải, tài sản, v.v… của người khác cho bằng được” thời gian mau hoặc lâu không hạn định.
  5. Vijjāmayapayoga: cố gắng sử dụng bùa chú, phù phép làm cho chủ-nhân mê, rồi chiếm đoạt của cải, tài sản, v.v… của họ, hoặc dùng phép thuật thôi miên điều khiển chủ-nhân theo ý đồ xấu của mình, bằng cách sai khiến, bắt buộc chủ-nhân trao của cải, tài sản, v.v… cho mình một cách bất hợp pháp.
  6. Iddhimayapayoga: cố gắng sử dụng phép thần thông của mình để lấy một thứ nào đó mà không gây ra sự thiệt hại cho chủ-nhân.

 

Ác-nghiệp trộm-cắp nặng hoặc nhẹ

Người đã tạo ác-nghiệp trộm-cắp nhẹ hoặc tạo ác- nghiệp nặng, cần phải căn cứ vào tác-ý trong ác-tâm chiếm đoạt của cải, tài sản, v.v… và chủ-nhân.

  • Nếu người nào tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… có giá trị ít, thì người ấy tạo ác-nghiệp trộm- cắp nhẹ.
  • Nếu người nào tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… có giá trị nhiều, thì người ấy tạo ác-nghiệp trộm-cắp nặng.
  • Nếu người nào tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… của người không có giới-đức trong sạch, thì người ấy tạo ác-nghiệp trộm-cắp nhẹ.
  • Nếu người nào tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… của người có giới-đức trong sạch, của bậc Thánh-nhân thì người ấy tạo ác-nghiệp trộm-cắp nặng.
  • Nếu người nào tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… của riêng cá nhân, thì người ấy tạo ác-nghiệp trộm-cắp nhẹ.
  • Nếu người nào tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… của chung trong tập thể, của nhà nước, ... thì người ấy tạo ác-nghiệp trộm-cắp nặng, ...
  • Chủ-nhân có 4 hạng:
  • Của cải, tài sản, v.v… của người tại-gia, của tập thể, của nhà nước.
  • Của cải vật dụng của bậc xuất gia là tu-nữ, sa-di, tỳ-khưu.
  • Của cải, các thứ vật dụng của nhóm là tỳ-khưu, sa-di từ 2-3 vị.
  • Của cải, các thứ vật dụng của chư tỳ-khưu-Tăng.

 

Trong 4 hạng chủ-nhân này:

  • Nếu người nào tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… của người tại-gia, của cải, tài sản, v.v… của nhà nước thì người ấy tạo ác-nghiệp trộm-cắp nhẹ hơn tạo ác-nghiệp trộm cắp các thứ vật dụng của bậc xuất gia là tu-nữ, sa-di, tỳ-khưu.
  • Nếu người nào trộm-cắp các thứ vật dụng của cá nhân người tu nữ, vị sa-di, vị tỳ-khưu thì người ấy tạo ác-nghiệp trộm-cắp nhẹ hơn tạo ác-nghiệp trộm-cắp các thứ vật dụng của nhóm tu-nữ, nhóm sa-di, của nhóm tỳ- khưu từ 2 - 3 vị.
  • Nếu người nào tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, vật dụng của chư tỳ-khưu-Tăng thì người ấy tạo ác- nghiệp nặng nhất.
  • Chủ-nhân còn có 5 hạng:

Chủ-nhân là hạng phàm-nhân và bậc Thánh-nhân nên phân loại có 5 hạng:

  • Của cải, tài sản, … của các hạng phàm-nhân.
  • Của cải, tài sản, … của bậc Thánh Nhập-lưu.
  • Của cải, tài sản, … của bậc Thánh Nhất-lai.
  • Của cải, tài sản, … của bậc Thánh Bất-lai.
  • Của cải vật dụng của bậc Thánh A-ra-hán.

Trong 5 hạng chủ-nhân này:

  • Nếu người nào tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… của hạng phàm-nhân, thì người ấy tạo ác- nghiệp trộm-cắp nhẹ hơn tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v…của bậc Thánh Nhập-lưu.
  • Nếu người nào tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… của bậc Thánh Nhân càng cao thì người ấy tạo ác-nghiệp càng nặng nhiều.

 

Tóm lại, người nào tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… có giá trị càng nhiều thì người ấy tạo ác- nghiệp trộm-cắp càng nặng, còn tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… của người có giới-đức trong sạch hoàn toàn, thì người ấy tạo ác-nghiệp trộm-cắp nặng nhất.

Trộm-cắp hoặc không trộm-cắp căn cứ vào tác-ý

  • Nếu tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm chiếm đoạt của cải, tài-sản,… của người khác một cách bất hợp pháp thì tạo ác-nghiệp trộm-cắp
  • Nếu tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không chiếm đoạt dụng cụ… của người khác, tự tiện lấy thì không tạo ác-nghiệp trộm-cắp.

Ví dụ: Ông A đến nhà ông B quen biết, mượn dụng cụ nào đó, nhưng không gặp ông B ở nhà, ông A tự tiện lấy dụng cụ ấy đem về sử dụng, mà ông B chủ-nhân không hề biết.

Khi sử dụng dụng cụ ấy, ông A thấy dụng cụ ấy rất tốt khó có được, nên ông A không muốn trả lại dụng cụ ấy cho ông B, mà muốn chiếm đoạt dụng cụ ấy thuộc về của mình.

Suy xét thấy, * ban đầu, ông A có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm mượn dụng cụ ấy, dù tự tiện lấy dụng cụ ấy đem về sử dụng, nhưng có tác-ý trả lại dụng cụ ấy cho ông B, nên ông A chưa gọi là tạo ác-nghiệp trộm-cắp.

  • Về sau, ông A có tác-ý tâm-sở đồng sinh với tham- tâm muốn chiếm đoạt dụng cụ ấy của ông B, cho nên, ông A tạo ác-nghiệp trộm-cắp.
  • Trường hợp vị sa-di đến gặp vị Long-vương trông coi hồ nước để xin nước uống. Vị Long-vương không

 

chịu cho nước, nên vị sa-di sử dụng thần-thông bay lên hư không, rồi đáp xuống giữa hồ lấy bát múc nước uống. Việc uống nước của sa-di không gọi là ác-nghiệp trộm- cắp, bởi vì số lượng nước uống quá ít không gây thiệt hại đáng kể so với số lượng nước trong hồ.

  • Trường hợp Đức-vua-trời Sakka bậc Thánh Nhập-lưu trị vì trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, có giới hạnh hoàn toàn trong sạch. Đức-vua-trời Sakka với thiên-nhãn tự nhiên nhìn thấy ông Bà-la-môn Doṇa đứng ra phân chia Xá-lợi của Đức-Phật Gotama cho 8 Đức- vua của 8 nước.

Ông Bà-la-môn thỉnh Xá-lợi Răng Nhọn giấu trong búi tóc trên đầu của ông. Đức-vua-trời Sakka suy xét rằng: “Vị Bà-la-môn Doṇa không có khả năng xây ngôi Bảo- tháp xứng đáng để tôn thờ Xá-lợi Răng Nhọn của Đức- Phật Gotama, ta nên thỉnh Xá-lợi Răng Nhọn của Đức- Phật đem về tôn thờ trong ngôi Bảo tháp Cūḷāmaṇi tại cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

Sau khi suy xét đúng đắn xong, Đức-vua-trời Sakka hiện xuống thỉnh Xá-lợi Răng Nhọn của Đức-Phật Gotama đem vể đặt vào trong một cái hộp bằng vàng, rồi tôn thờ trong ngôi Bảo-tháp Cūḷāmaṇī tại cung trời Tam-thập-tam-thiên.

Đức-vua-trời Sakka không phải tạo ác-nghiệp trộm cắp, bởi vì Đức-vua-trời có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch tôn kính Xá-lợi Răng Nhọn của Đức-Phật Gotama. Đức-vua-trời muốn Xá-lợi Răng nhọn của Đức-Phật Gotama được tôn thờ tại ngôi Bảo-tháp xứng đáng.

Trường hợp những người bạn xuất gia đồng phạm- hạnh được phép sử dụng những thứ vật dụng chung với nhau không gọi là trộm-cắp.

 

Trong gia đình gồm có những người thân yêu được phép sử dụng những đồ vật dụng chung với nhau không gọi là trộm-cắp.

Quả xấu của ác-nghiệp trộm-cắp

Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp trộm-cắp của cải, tài sản, v.v… của người khác dù ít, dù nhiều, thì sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp trộm-cắp trong 11 bất- thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác- nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Sau khi thoát ra khỏi cõi ác-giới, * trường-hợp nếu có đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

  • Và trường hợp, người nào tạo ác-nghiệp trộm-cắp nhẹ. Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp trộm-cắp ấy không có cơ hội cho quả thì đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

Cả 2 trường hợp ấy, người ấy còn phải chịu 11 quả xấu của ác-nghiệp trộm-cắp mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong quá-khứ là

Kiếp hiện-tại của người ấy:

 

  1. Là người không thể có những thứ của cải quý giá.
  2. Là người thiếu thốn những nhu yếu phẩm như lúa gạo, tiền bạc, đồ dùng, v.v…
  3. Là người nghèo khổ túng thiếu của cải.
  4. Là người không phát triển được những thứ của cải.
  5. Là người khi làm ra được của cải quý giá, thì không giữ gìn được lâu dài.
  6. Là người không thể có được thứ của cải mà mình mong muốn.
  7. Là người khi có được của cải, thì thường bị thiệt hại do lửa thiêu cháy, do nước lũ cuốn trôi, do kẻ trộm cướp chiếm đoạt, do nhà nước tịch thu, v.v...
  8. Là người có được của cải thì cũng liên quan đến nhiều người, không riêng cho mình được.
  9. Là người khó chứng đắc được pháp siêu-tam-giới (4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn)
  10. Là người thường nghe đến danh từ ‘không ’.
  11. Là người sống không được an-lạc.

Đó là 11 quả xấu của ác-nghiệp trộm-cắp mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong thời quá-khứ.

 

  1. Ác-nghiệp tà-dâm

Tà-dâm là sự quan hệ tình dục với người khác mà không phải là vợ, là chồng của nhau. Tà-dâm là một hành vi xấu xa, bất chính, thấp hèn mà chư thiện-trí chê trách. Vì vậy, tà-dâm gọi là ác-nghiệp tà-dâm.

Nếu người đàn ông với người đàn bà là vợ là chồng của nhau, đúng theo phong tục tập quán, được hai bên cha mẹ, bà con dòng họ công nhận, được chính quyền chấp thuận đúng theo luật pháp hiện hành, được mọi người đều công nhận, … thì sự quan hệ tình dục giữa vợ

 

chồng của nhau không gọi là tà-dâm, bởi vì đó là việc bình thường của những người tại-gia, cũng không bị ai chê trách.

Chi-pháp của ác-nghiệp tà-dâm

Để biết có tạo ác-nghiệp tà-dâm hay không, cần phải căn cứ vào 4 chi-pháp của ác-nghiệp tà-dâm:

  1. Agamaniyavatthu: Đối tượng là người nữ không

được phép quan hệ tình dục.

  1. Tasmiṃ sevanacittaṃ: Tham-tâm muốn quan hệ tình dục.
  2. Payogo: Cố gắng quan hệ tình dục.
  3. Maggenamaggapaṭipatti addhivāsaṃ: Tâm thỏa thích trong sự tiếp xúc giữa hai bộ phận sinh dục của người nam với người nữ.

Nếu người nào hội đủ 4 chi-pháp của ác-nghiệp tà- dâm này, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp tà-dâm hội đủ chi-pháp, nhưng nếu không hội đủ 4 chi-pháp này, thì người ấy tạo ác-nghiệp tà-dâm không hội đủ chi-pháp.

Quả của 2 loại ác-nghiệp tà-dâm này có sự khác biệt:

  • Nếu tạo ác-nghiệp tà-dâm hội đủ 4 chi-pháp này thì ác-nghiệp tà-dâm ấy có nhiều năng lực, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Nếu tạo ác-nghiệp tà-dâm không hội đủ 4 chi-pháp này thì ác-nghiệp tà-dâm ấy có ít năng lực, không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisadhi- kāla), mà có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái- sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

 

Giảng giải về chi-pháp của ác-nghiệp tà-dâm

Đối tượng có 20 hạng người nữ mà người nam không

được phép quan hệ tình dục là:

  1. Con gái có mẹ trông nom (cha chết hay ở xa).
  2. Con gái có cha trông nom (mẹ chết hay ở xa).
  3. Con gái có mẹ cha trông nom.
  4. Con gái có chị hoặc em gái trông nom.
  5. Con gái có anh hoặc em trai trông nom.
  6. Con gái có bà con trông nom.
  7. Con gái có dòng họ trông nom (nếu con gái sống

ngoại quốc, thì có người cùng nòi giống trông nom).

  1. Con gái hành phạm hạnh có thầy, bạn trông nom.
  2. Con gái đã được Đức-vua hoặc người có quyền thế đến mai mối rồi.
  3. Con gái đã nhận lễ hứa hôn của đằng nhà trai.
  4. Con gái đã được người đàn ông chuộc về làm vợ.
  5. Con gái đã ưng thuận đi theo người mình yêu, để

làm vợ.

  1. Con gái đã ưng thuận làm vợ của một người đàn ông với hy vọng có được của cải.
  2. Con gái đã ưng thuận làm vợ của một người đàn ông với hy vọng có được đồ trang sức.
  3. Con gái đã làm lễ thành hôn với một người đàn ông đúng theo phong tục tập quán.
  4. Con gái nghèo buôn bán, đã được một người đàn ông thương yêu, rồi đem về nuôi, để làm vợ.
  5. Con gái là tù nhân đã được người đàn ông lấy làm vợ.
  6. Con gái làm trong công sở đã được người chủ sở lấy làm vợ.
  7. Con gái tôi tớ trong nhà đã được người chủ nhà lấy làm vợ.

 

  1. Con gái chịu làm vợ trong thời gian ngắn (như các cô kỹ-nữ).

Trong 20 hạng con gái ấy, có 8 hạng con gái phần đầu kể từ “con gái có mẹ trông nom” cho đến “con gái là người hành phạm-hạnh” tuy có người thân trông nom bảo vệ, nhưng người thân này không phải là chủ cuộc đời của họ. 8 hạng con gái này là người chưa có chồng, chưa có người đàn ông nào làm chủ cuộc đời của họ.

Do đó, nếu 8 hạng con gái này tự ý lén lút yêu thương một người con trai còn độc thân, và hai người này đã có quan hệ tình dục với nhau.

* Nếu xét về nghiệp, thì người con gái ấy tạo ác- nghiệp tà-dâm không hội đủ 4 chi-pháp, chỉ có người con trai tạo ác-nghiệp tà-dâm mà thôi vì hội đủ 4 chi-pháp, bởi vì người con trai ấy đã xúc phạm đến hạng người con gái mà người thân của cô ấy chưa cho phép, không hợp với thuần phong mỹ tục, nên bị bậc thiện-trí chê trách.

Tuy người con gái không tạo ác-nghiệp tà-dâm vì không hội đủ 4 chi-pháp, nhưng đó là một hành vi xấu xa không đúng theo thuần phong mỹ tục của xứ sở của chúng ta, nên cha mẹ, bà con dòng họ bị mang tiếng xấu, nên người con gái bị mọi người chê trách. Cho nên, người con gái cảm thấy hổ thẹn, hối hận về hành vi xấu xa của mình, làm cho tâm bị ô nhiễm bởi phiền-não, thuộc về ý-ác-nghiệp.

Sau khi người con gái chết, nếu ác-nghiệp có cơ hội thì cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc- sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy.

Còn lại 12 hạng con gái, kể từ hạng con gái thứ 9 cho

đến hạng con gái thứ 20 là người con gái đã có chồng,

 

đã có người đàn ông làm chủ cuộc đời của họ (cô kỹ-nữ ưng thuận làm vợ của một người đàn ông trong thời gian ngắn, cô vẫn được xem như đã có chồng).

Trong 12 hạng con gái này, nếu người con gái nào tự ý ngoại tình và có quan hệ tình dục với một người đàn ông nào khác (không phải là chồng của mình), thì người con gái ấy đã phạm điều-giới tà-dâm tạo ác-nghiệp tà- dâm hội đủ 4 chi-pháp. Và người đàn ông có quan hệ tình dục với 12 hạng người con gái này cũng phạm điều- giới tà-dâm tạo ác-nghiệp tà-dâm hội đủ 4 chi-pháp.

Như vậy, người con trai không được phép quan hệ tình dục với 20 hạng con gái này. Nếu người con trai nào có quan hệ tình dục với 1 trong 20 hạng người con gái này, thì người con trai ấy tạo ác-nghiệp tà-dâm.

Và người đàn ông nào đã có vợ (dù là vợ chưa cưới), người vợ ấy đã là chủ cuộc đời của ông, nếu người đàn ông ấy tự ý ngoại tình và có quan hệ tình dục với một người đàn bà nào khác (không phải là vợ của mình), thì người đàn ông ấy tạo ác-nghiệp tà-dâm.

Sự cố gắng hành dâm

Sự cố gắng tà-dâm là hành vi của thân-môn, không phải lời nói từ khẩu-môn. Do đó, người tạo ác-nghiệp tà- dâm chính tự thân mình, không phải sai khiến người khác. Cho nên ác-nghiệp tà-dâm chỉ được tạo do chính tự mình mà thôi, không do người khác. Còn ác-nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp trộm-cắp, v.v... được tạo do chính mình và do sai khiến người khác.

Ác-nghiệp tà-dâm nặng hoặc nhẹ

  • Người nào tạo ác-nghiệp tà-dâm với người có giới-

đức, thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng.

 

  • Người nào tạo ác-nghiệp tà-dâm với người không có giới-đức, thì người ấy tạo ác-nghiệp nhẹ.
  • Người nào tạo ác-nghiệp tà-dâm bằng cách hiếp- dâm, dù với người không có giới, thì người ấy vẫn tạo ác-nghiệp nặng.
  • Người nào tạo ác-nghiệp tà-dâm giữa hai bên nam nữ cùng thỏa thuận với nhau, thì người ấy tạo ác-nghiệp nhẹ.
  • Người nào tạo ác-nghiệp tà-dâm với bậc Thánh-nhân thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng hơn tạo ác-nghiệp tà-dâm với hạng phàm-nhân.
  • Người nào tạo ác-nghiệp tà-dâm với bậc Thánh- nhân càng cao, thì người ấy tạo ác-nghiệp càng nặng.
  • Người nào hiếp-dâm bậc Thánh nữ A-ra-hán, thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng nhất.

Như trường hợp tên Nanda hiếp-dâm Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā, là bậc Thánh A-ra-hán. Tên Nanda đã phạm ác-nghiệp trọng-tội nặng làm cho mặt đất nứt nẻ ra, hút y vào sâu trong lòng đất.

Sau khi tên Nanda chết, ác-nghiệp trọng-tội ấy cho quả tái-sinh vào cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài trải qua nhiều đại-kiếp trái đất.

Vấn đề liên quan đến tà-dâm

Người đàn bà nào đã có chồng, nghĩa là người đàn bà đã có người đàn ông làm chủ và cũng đã chấp thuận làm vợ của người đàn ông ấy rồi. Như vậy, người đàn bà ấy đã có chủ, bà ấy cần phải giữ gìn một lòng chung thuỷ với người chồng của bà mà thôi.

Nếu người đàn bà ấy ngoại tình với người đàn ông nào khác, có quan hệ tình dục với người đàn ông khác thì người đàn bà ấy đã phạm điều-giới tà-dâm, tạo ác- nghiệp tà-dâm.

 

Cũng tương tự như vậy, người đàn ông nào đã có vợ, nghĩa là người đàn ông đã có người đàn bà làm chủ và cũng đã chấp thuận làm chồng của người đàn bà ấy rồi. Nếu người đàn ông ấy ngoại tình và người đàn bà khác, có quan hệ tình dục với người đàn bà khác, thì người đàn ông ấy đã tạo ác-nghiệp tà-dâm.

Quả xấu của ác-nghiệp tà-dâm

Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp tà-dâm với vợ, chồng, con người khác, thì sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp tà-dâm ấy trong 11 bất-thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Sau khi thoát ra khỏi cõi ác-giới, * trường-hợp nếu có đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

* Và trường hợp, người nào tạo ác-nghiệp tà-dâm nhẹ. Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp tà-dâm ấy không có cơ hội cho quả thì đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

 

Cả 2 trường-hợp này, người ấy còn phải chịu 11 quả xấu của ác-nghiệp tà-dâm mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong quá-khứ là:

Kiếp hiện-tại của người ấy:

  1. Là người có nhiều người oan trái.
  2. Là người có nhiều người thù ghét.
  3. Là người nghèo khổ, thiếu thốn.
  4. Là người ngủ không được an-lạc.
  5. Là người thức không được an-lạc.
  6. Là người khó tránh khỏi 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh).
  7. Là người ái nam, ái nữ (không phải đàn ông, cũng không phải đàn bà).
  8. Là người có tính hay nóng giận.
  9. Là người sinh vào dòng họ thấp hèn, hạng người thấp hèn.
  10. Là người có tính không minh bạch, hay che giấu tội lỗi.
  11. Là người có thân hình tật nguyền, xấu xí.
  12. Là người có sắc diện mặt mày sầu não, khổ tâm.
  13. Là người bị mọi người coi thường khinh bỉ, không tin tưởng.
  14. Là người khuyết tật: đui mù, câm điếc, ...
  15. Sinh làm người đàn (tiền-kiếp người đàn ông).
  16. Là người có nhiều chứng bệnh đáng ghê sợ.
  17. Là người không biết đủ, sống khổ cực.
  18. Là người sống nơi nào cũng không được an-lạc.
  19. Là người thường gặp tai hoạ, hay oan trái với nhiều người.
  20. Là người sống xa người thân yêu, hay bị ruồng bỏ.

Đó là 20 quả xấu của ác-nghiệp tà-dâm mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong thời quá-khứ.

 

Tóm lại, thân ác-nghiệp là ác-nghiệp phần nhiều được tạo bằng thân-môn hành động, còn gọi là thân hành-ác, có 3 loại ác-nghiệp:

  • Ác-nghiệp sát-sinh.
  • Ác-nghiệp trộm-cắp.
  • Ác-nghiệp tà-dâm.

Ác-nghiệp sát-sinh ác-nghiệp trộm-cắp không chỉ được tạo phần nhiều bằng thân-môn hành động, mà còn có thể được tạo bởi khẩu-môn sai khiến, ra lệnh, truyền lệnh người khác sát-sinh, trộm-cắp theo lời nói của người ấy.

Như vậy, tuy ác-nghiệp sát-sinh ác-nghiệp trộm- cắp cũng được tạo bằng khẩu, nhưng không thuộc về khẩu ác-nghiệp mà thuộc về thân ác-nghiệp là vì 2 ác- nghiệp này phần nhiều được tạo bằng thân-môn hơn là bằng khẩu-môn.

Ác-nghiệp tà-dâm chỉ được tạo bằng thân-môn do tự mình hành động mà thôi. Ác-nghiệp tà-dâm này không phải tạo bằng khẩu-môn sai khiến người khác.

 

4.1.2- Khẩu ác-nghiệp:

Khẩu ác-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác- tâm được biểu hiện ra ở khẩu-môn nói ác còn gọi là khẩu hành-ác, có 4 loại ác-nghiệp:

  1. Ác-nghiệp nói-dối.
  2. Ác-nghiệp nói lời chia rẽ.
  3. Ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).
  4. Ác-nghiệp nói lời vô ích.
  1. Ác-nghiệp nói-dối

Nói-dối là nói lời không thật với tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm để lừa dối người nghe tin cho là sự thật.

 

* Nói-dối như thế nào?

  • Điều mình thấy, nói-dối rằng: “Tôi không thấy.
  • Điều mình không thấy, nói-dối rằng: “Tôi có thấy.
  • Điều mình nghe, nói-dối rằng: “Tôi không nghe.
  • Điều mình không nghe, nói-dối rằng: “Tôi có nghe.
  • Điều mình biết, nói-dối rằng: “Tôi không biết.
  • Điều mình không biết, nói-dối rằng: “Tôi có biết.”…
  • Vật nào mình có, nói-dối rằng: “Tôi không có vật ấy.
  • Vật nào mình không có, nói-dối rằng: Tôi vật ấy.” v.v,…

Người nào nói dối không đúng theo sự thật, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm lừa dối người nghe tin theo cho là sự thật, làm thiệt hại cho người tin theo, thì người nói-dối ấy tạo ác-nghiệp nói-dối.

Chi-pháp của ác-nghiệp nói-dối

Để biết có tạo ác-nghiệp nói-dối hay không, cần phải căn cứ vào 4 chi-pháp của ác-nghiệp nói-dối:

    1. Atthavatthu: Điều không thật, vật không có.
    2. Visaṃvādacittatā: ác-tâm nghĩ lừa dối.
    3. Payoga: Cố gắng lừa dối bằng lời nói hoặc bằng thân cử động theo ác-tâm nghĩ lừa dối của mình.
    4. Tadattha vijānanaṃ: Người nghe tin theo sự lừa dối ấy.

Nếu người nào hội đủ 4 chi-pháp của ác-nghiệp nói- dối này, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nói-dối hội đủ chi-pháp, nhưng nếu không hội đủ 4 chi-pháp này, thì người ấy tạo ác-nghiệp nói-dối không hội đủ chi-pháp.

Quả của 2 loại ác-nghiệp nói-dối này có sự khác biệt:

  • Nếu tạo ác-nghiệp nói-dối hội đủ 4 chi-pháp này thì ác-nghiệp nói-dối ấy có nhiều năng lực, có cơ hội

 

cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

  • Nếu tạo ác-nghiệp nói-dối không hội đủ 4 chi-pháp này thì ác-nghiệp nói-dối ấy có ít năng lực, không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau, mà có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp hiện-tại.

Cố gắng tạo ác-nghiệp nói-dối

Người tạo ác-nghiệp nói-dối bằng lời nói hoặc bằng thân hành động có 4 cách:

  1. Tự mình cố gắng lừa dối bằng lời nói, bằng thân cử động, lắc đầu phủ nhận điều có thật, hoặc gật đầu khẳng định điều không có thật.
  2. Sai khiến người khác lừa dối bằng khẩu.
  3. Viết chuyện không có thật trong thư, trên báo, nói trong đài phát thanh, v.v… lan truyền cho độc giả, thính giả tin theo cho là sự-thật.
  4. Viết sách nội dung không có thật, ghi âm thanh vào băng, đĩa, phim ảnh, v.v… có tính cách lâu dài, để lừa dối độc giả, thính giả, khán giả,… tin theo cho là sự-thật.

Người nào có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm lừa dối người khác, nếu người khác tin theo sự lừa dối ấy cho là sự-thật thì người ấy tạo ác-nghiệp nói-dối hợp đủ 4 chi- pháp. Nhưng nếu người khác không tin theo sự lừa dối thì người ấy tạo ác-nghiệp nói-dối không hợp đủ chi-pháp.

Ác-nghiệp nói-dối nặng hoặc nhẹ

Người tạo ác-nghiệp nói-dối tạo ác-nghiệp nói-dối nặng hoặc tạo ác-nghiệp nói-dối nhẹ được căn cứ vào sự thiệt hại nhiều hoặc sự thiệt hại ít đến cho người tin theo sự nói-dối ấy.

 

  • Nếu người tạo ác-nghiệp nói-dối đã làm thiệt hại nhiều đến cho người tin theo lời nói-dối, thì người nói- dối ấy tạo ác-nghiệp nói-dối nặng có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh).
  • Nếu người tạo ác-nghiệp nói-dối không làm thiệt hại nào đáng kể đến cho người tin theo sự nói-dối ấy thì người nói-dối ấy tạo ác-nghiệp nhẹ, không có khả năng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), nhưng nếu có cơ hội thì cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

* Trường-hợp nếu người nào nói dối khiến người nghe tin theo cho là sự-thật, thì người nói-dối ấy có thể phạm điều-giới nói-dối, nhưng không làm thiệt hại nào cho người nghe cả, thậm chí còn đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho người nói dối và cả người tin theo lời nói-dối ấy nữa. Như vậy, người nói-dối có phước, không có tội.

Quả xấu của ác-nghiệp nói-dối

Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp nói-dối gây ra sự thiệt hại nặng đến cho người khác, thì sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nói-dối ấy trong 11 bất-thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng-tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét- tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác- nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Sau khi thoát ra khỏi cõi ác-giới, * trường-hợp nếu

đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho

 

quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau thì có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái- sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

* Và trường hợp, người nào tạo ác-nghiệp nói-dối nhẹ. Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nói-dối ấy không có cơ hội cho quả thì đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

Cả 2 trường-hợp này, người ấy còn phải chịu 14 quả xấu của ác-nghiệp nói-dối mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong quá-khứ là:

Kiếp hiện-tại của người ấy:

  1. Là người có ngũ quan (5 giác quan của con người) không trong sáng.
  2. Là người có giọng nói không rõ, khó nghe.
  3. Là người có đôi hàm răng không đều đặn, xấu xí.
  4. Là người có thân hình quá mập, dị kỳ.
  5. Là người có thân hình quá ốm,
  6. Là người có thân hình quá thấp,
  7. Là người có thân hình quá cao,
  8. Là người có da thịt sần sùi, xấu xí.
  9. Là người mà trong miệng thường thoát ra mùi hôi khó chịu.
  10. Là người nói không ai tin theo.
  11. Là người nói không ai muốn nghe.
  12. Là người có cái lưỡi cứng và ngắn.
  13. Là người có tâm thường thoái chí nản lòng.
  14. Là người có tật nói cà lăm, hoặc bị câm điếc.

Đó là 14 quả xấu của ác-nghiệp nói-dối mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong thời quá-khứ.

 

  1. Ác-nghiệp nói lời chia rẽ

Nói lời chia rẽ là nói lời làm cho 2 người thân thiết chia rẽ nhau, để có lợi cho mình.

Người nói lời chia rẽ bằng cách nào?

Ví dụ: Cậu A và cô B là hai người bạn thân thiết với nhau, thường giúp đỡ lẫn nhau. Nhìn thấy 2 người thân thiết với nhau như vậy, cô C sinh tâm ganh tỵ, nên đặt điều nói xấu để làm cho cậu A và cô B nghi ngờ lẫn nhau, rồi dẫn đến ghét bỏ chia rẽ nhau, như vậy cô C được lợi từ 2 người.

Cô C lén tìm đến gặp cậu A nói rằng:

  • Này anh A! Em nói cho anh biết, cô B lén lút quan hệ với người con trai khác, anh nên thận trọng là hơn.

Ban đầu cậu A không tin, nhưng do cô C nói nhiều lần khiến cho cậu A phát sinh tâm nghi ngờ về cô B. Từ nghi ngờ nên mỗi khi gặp cô B, cậu A thường có thái độ dè dặt.

Lúc khác cô C lén tìm đến gặp cô B khuyên rằng:

  • Này em B! Chị nói cho em biết, cậu A lén lút quan hệ với người con gái khác, em hãy thận trọng trong việc quan hệ với cậu ấy, để tránh sự hối hận về sau.

Ban đầu cô B không tin, nhưng do cô C nói nhiều lần khiến cho cô B phát sinh tâm nghi ngờ về cậu A. Từ nghi ngờ, nên cô B có thái độ dè dặt, bắt đầu để ý, dò xét thấy gần đây cậu A có thái độ không thân mật tự nhiên như trước. Cô B tin lời nói của cô C là thật và nghĩ rằng:

Chị C thật tâm thương mình nên nhắc nhở.

Về phía cậu A, từ khi nghe lời cô C, cậu A cũng dò xét, để ý thấy cô B gần đây có thái độ bớt thân thiết như trước, đáng nghi ngờ, nên nghĩ rằng:

 

“Chắc có lẽ điều mà cô C nói là sự thật.”

Một hôm, bất ngờ cậu A nhìn thấy cô B đang nói cười vui vẻ với một người con trai khác ở một nơi nào đó. Cậu A lẫn tránh không cho cô B nhìn thấy, rồi nghĩ rằng: “Cô C thật là tốt với ta, cô ấy không muốn ta thất vọng.”

Chuyện gì sẽ xảy ra?

Cậu A tìm đến gặp cô B, mắng nhiếc cô B rằng:

  • Cô là con người lừa dối, không thật tâm với tôi.

Khi nghe cậu A mắng như vậy, cô B do bị xúc phạm quá nặng và vì quá oan ức, nên cô cũng phản ứng gay gắt rằng:

  • Anh cũng không có tốt gì đâu!

Hai người tin theo lời nói chia rẽ của cô C, nên làm cho cậu A và cô B hiểu lầm nhau, ghét bỏ chia rẽ nhau, rồi xa lánh nhau.

Như vậy, cô C đã tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ.

Nói lời chia rẽ do khẩu là chính, nhưng cũng có trường hợp thuộc về phần thân: Không nói mà có cử chỉ, hành động, hoặc viết thư gửi cho hai người khiến cho họ hiểu lầm nhau, ghét bỏ chia rẽ nhau, rồi xa lánh nhau.

Chi-pháp của ác-nghiệp nói lời chia rẽ

Để biết có tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ hay không, cần phải căn cứ vào 4 chi-pháp của ác-nghiệp nói lời chia rẽ như sau:

  1. Bhinditabbo: Những người bị chia rẽ.
  2. Bhedapurakkhāro: Tác-ý ác làm cho hai người ấy chia rẽ nhau.
  3. Payogo: Cố gắng bằng khẩu và bằng thân để hai người ấy chia rẽ.

 

  1. Tadatthajānanaṃ: Những người nghe hiểu rõ ý nghĩa lời nói chia rẽ ấy.

Hai người ghét bỏ lẫn nhau, rồi chia rẽ xa lánh nhau.

  • Nếu người nào hội đủ 4 chi-pháp của ác-nghiệp nói lời chia rẽ này, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ hội đủ chi-pháp, nhưng nếu không hội đủ 4 chi- pháp này, thì người ấy tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ không hội đủ chi-pháp.

Quả của 2 loại ác-nghiệp nói lời chia rẽ này có sự khác biệt:

  • Nếu tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ hội đủ 4 chi-pháp này thì ác-nghiệp nói lời chia rẽ ấy có nhiều năng lực, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Nếu tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ không hội đủ 4 chi-pháp này thì ác-nghiệp nói lời chia rẽ ấy có ít năng lực, không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), mà chỉ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

Cố gắng tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ

Người cố gắng tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ bằng thân, bằng khẩu:

* Ác-nghiệp biểu hiện chia rẽ bằng thân là sử dụng 2 tay ra dấu để cho người khác hiểu biết ý nghĩa của mình.

Ví dụ: Đôi vợ chồng sống với nhau, người chồng đi làm, người vợ lén đi sang nhà bên cạnh đánh bài bạc. Khi người chồng trở về nhà không thấy vợ, hỏi người bà con trong nhà. Người bà con vốn không ưa cháu dâu, muốn cho cặp vợ chồng gây xích mích chia rẽ nhau, nên lấy 2 tay ra dấu đánh bài bạc ở nhà bên cạnh.

 

Hiểu biết người vợ của mình như vậy, người chồng không thích người vợ ham chơi bài bạc. Cho nên, khi người vợ trở về nhà, người chồng la mắng người vợ một cách thậm tệ, rồi đôi vợ chồng ly dị, chia rẽ nhau.

Đó là ác-nghiệp biểu hiện chia rẽ bằng thân.

* Ác-nghiệp biểu hiện chia rẽ bằng khẩu là sử dụng lời nói đặt điều nói xấu người kia cho người này biết, rồi đến nói xấu người này cho người kia biết, để cho 2 người hiểu lầm với nhau, rồi ghét bỏ, chia rẽ nhau.

Chuyện kể rằng: Đôi vợ chồng rất thương yêu nhau tha thiết, người chồng là người địa phương giàu có sang trọng, còn người vợ là người từ nơi khác đến.

Cô gái trong địa phương sinh tâm ganh tỵ, nên đặt điều nói xấu để gây sự hiểu lầm giữa 2 vợ chồng với nhau, ghét nhau, rồi vợ chồng chia rẽ nhau.

Một hôm, *cô gái địa phương lén đến gặp riêng người

đàn ông là chồng của cô gái, nói cho biết rằng:

  • Này anh! Người vợ của anh có dạ-xoa nhập, ban đêm khi anh ngủ say, dạ-xoa nhập vào vợ anh, trước khi đi kiếm ăn đồ dơ, nó bước qua người anh, làm cho anh mê, rồi nó xuất ra ngoài kiếm ăn xong, trở về bước lại người anh, làm cho anh trở lại bình thường.

Nếu anh không tin thì anh để ý dò xét sẽ rõ.

* Cô gái địa phương lén đến gặp riêng người đàn bà là vợ của người đàn ông, nói cho biết rằng:

  • Này cô em! Người chồng của em không phải là người bình thường đâu! Anh ta là dạ-xoa hóa ra người.

Nếu em không tin thì em sờ dưới xương cụt có cái đuôi ngắn lòi ra bên ngoài, em sẽ rõ.

Một đêm nọ, người chồng giả vờ ngủ say, tưởng

 

chồng đã ngủ say, nên người vợ ngồi dậy lấy tay vừa chuẩn bị sờ vào xương cụt của chồng. Khi ấy, chồng nghĩ rằng:

“Người vợ là dạ-xoa nhập chuẩn bị bước qua thân người của ta, để xuất ra đi kiếm ăn đồ dơ.”

Do nghĩ như vậy, người chồng đạp mạnh vào người vợ rơi xuống nền đau điếng. Người vợ ngồi dậy mắng chồng là dạ-xoa hung ác.

Người chồng cũng mắng vợ là loài dạ-xoa ăn đồ dơ.

Đôi vợ chồng gây gổ với nhau, ghét nhau, rồi vợ chồng chia rẽ nhau, bởi vì tin theo lời đặt điều nói xấu chia rẽ của cô gái địa phương.

Ác-nghiệp nói lời chia rẽ nặng hoặc nhẹ

Tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ nặng hoặc ác-nghiệp nói lời chia rẽ nhẹ tùy thuộc vào đối tượng người có giới- đức hoặc người không có giới-đức.

Nếu người nào có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác- tâm nói lời chia rẽ giữa hai người có giới-đức thì người ấy tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ nặng.

Nếu người nào có tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm nói lời chia rẽ giữa hai người không có giới-đức, thì người ấy tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ nhẹ.

* Quả xấu của ác-nghiệp nói lời chia rẽ:

Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ gây ra sự chia rẽ giữa 2 người thân yêu với nhau, thì sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nói lời chia rẽ nặng ấy trong 11 bất-thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả

 

là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi- citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Sau khi thoát ra khỏi cõi ác-giới, * trường-hợp nếu có đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

* Và trường hợp, người nào tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ nhẹ. Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nói-lời chia rẽ ấy không có cơ hội cho quả thì đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

Cả 2 trường-hợp này, người ấy còn phải chịu 6 quả xấu của ác-nghiệp nói lời chia rẽ mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong quá-khứ là:

Kiếp hiện-tại của người ấy:

  1. Là người thường bất hòa với bạn bè, vợ chồng, anh em, bà con, với mọi người.
  2. Là người thường bị người khác đánh đập, bị tàn tật.
  3. Là người không có bạn bè thân thiết.
  4. Có bạn bè không lâu sẽ bỏ nhau.
  5. Có nhiều người không ưa thích, không thân thiết.
  6. Sống khổ tâm, bị phiền-não làm ô nhiễm,

Đó là 6 quả xấu của ác-nghiệp nói lời chia rẽ mà tiền- kiếp của người ấy đã tạo trong thời quá-khứ.

 

  1. Ác-nghiệp nói lời thô tục

Nói lời thô tục là nói lời chửi rủa, mắng nhiếc với tác-ý tâm-sở đồng sinh với sân-tâm để làm khổ người mình không ưa thích, oán ghét.

Trường hợp tác-ý tâm-sở đồng sinh với sân-tâm dù nói lời thô tục chua chát, hoặc dù nói lời ngọt ngào, nghe êm tai với mục đích muốn tiêu diệt đối-phương vẫn gọi là ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).

Ví dụ: Một người có sân-tâm muốn giết người khác, nhưng nói bằng lời lẽ ngọt ngào rằng:

Tôi sẽ giúp anh được yên giấc nghìn thu, hoặc tôi sẽ đưa anh về nơi chín suối, hoặc tôi sẽ gửi anh lên chầu trời, v.v…

Như vậy, cũng gọi là ác-nghiệp nói lời thô tục, bởi vì tác-ý tâm-sở đồng sinh với sân-tâm muốn làm khổ người, muốn hại người.

Chi-pháp của ác-nghiệp nói lời thô tục

Để biết có tạo ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) hay không, cần phải căn cứ vào 3 chi-pháp của ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc):

  1. Kopo: Sân-tâm tức giận.
  2. Upakuṭṭho: Có người bị chửi rủa, mắng nhiếc.
  3. Akkosanā: Nói lời chửi rủa, mắng nhiếc.

Nếu người nào hội đủ 3 chi-pháp của ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) này, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) hội đủ chi-pháp, nhưng nếu không hội đủ 3 chi-pháp này, thì người ấy tạo ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) không hội đủ chi-pháp.

 

Quả của 2 loại ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) này có sự khác biệt:

  • Nếu tạo ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) hội đủ 3 chi-pháp này thì ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) ấy có nhiều năng lực, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) và có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái- sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Nếu tạo ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) không hội đủ 3 chi-pháp này thì ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) ấy có ít năng lực, không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), mà chỉ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

Thật ra, ác-nghiệp hoặc đại-thiện-nghiệp căn cứ vào

tác-ý tâm-sở chính.

  • Trong Chú-giải Aṭṭhasālinī giảng giải về lời nói thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) rằng:

Cha mẹ rầy la con, hoặc thầy rầy la học trò, … là cốt để dạy dỗ, khuyên răn, hăm dọa, ... Những lời rầy la ấy hoàn toàn không có tác-ý trong ác-tâm làm hại con cái, làm hại học trò.”

Như vậy, khi cha mẹ, thầy rầy la đã tạo ác-nghiệp nói lời thô tục không hội đủ các chi-pháp của ác-nghiệp nói lời thô tục. Cho nên ác-nghiệp nói lời thô tục này không có năng lực cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), nếu có cơ hội thì chỉ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

  • Trong Phụ-Chú-giải (Ṭikā) của Trường-bộ-kinh và Chi-bộ-kinh giảng giải về lời nói thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) rằng:

 

Người nào nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) có tác-ý tâm-sở đồng sinh với sân-tâm dù không có người oán thù nghe, hoặc người thù ghét đã chết, người ấy vẫn tạo ác-nghiệp nói lời thô tục hợp đủ 3 chi-pháp.

Ác-nghiệp nói lời thô tục bằng 2 môn

  • Nói lời thô tục bằng khẩu-môn.
  • Nói lời thô tục bằng thân-môn.

Nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) phần nhiều bằng khẩu-môn, nhưng cũng có thể bằng thân-môn như hành vi cử chỉ thô tục; hoặc viết thư, viết sách đồi trụy… bằng những lời lẽ thô tục.

Ác-nghiệp nói lời thô tục nặng hoặc nhẹ

Nếu người nào tạo ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) đến cha mẹ, thầy tổ, những bậc Trưởng- lão, chư tỳ-khưu, sa-di có giới-đức trong sạch, chửi rủa mắng nhiếc xúc phạm đến Đức-Phật Độc-Giác, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì người ấy tạo ác-nghiệp trọng tội.

Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp nói lời thô tục ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi địa-ngục.

Nếu người nào tạo ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) đến người không có giới-đức trong sạch thì người ấy tạo ác-nghiệp nhẹ.(1)

Quả xấu của ác-nghiệp nói lời thô tục

Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp nói lời thô tục nặng

đến Bậc có giới-đức trong sạch, thì sau khi người ấy

1 Xem đầy đủ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển III Pháp-Hành- Giớicùng soạn giả.

 

chết, nếu ác-nghiệp nói lời thô tục ấy trong 11 bất- thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác- nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Sau khi thoát ra khỏi cõi ác-giới, * trường-hợp nếu có đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

  • Và trường hợp, người nào tạo ác-nghiệp nói lời thô tục nhẹ. Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nói-lời thô tục ấy không có cơ hội cho quả thì đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

Cả 2 trường-hợp này người ấy còn phải chịu 6 quả xấu của ác-nghiệp nói lời thô tục mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong quá-khứ là:

Kiếp hiện-tại của người ấy:

  1. Là người thường nghe những lời không hài lòng như lời chửi rủa, mắng nhiếc, v.v...
  2. Là người có nhiều người ghét.
  3. Là người thường bị chê trách, bị vu oan giá họa.
  4. Là người ít được nghe những lời ngon ngọt.
  5. Là người có cuộc sống nghèo nàn khổ cực.
  6. Là người bị tàn tật, câm điếc, đui .

 

Đó là 6 quả xấu của ác-nghiệp nói lời thô tục mà tiền- kiếp của người ấy đã tạo trong thời quá-khứ.

  • Tích Ngài Trưởng-lão Jambuka(1) Người tạo ác-nghiệp nói lời thô tục

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha, Khi ấy Đức-Thế- Tôn đề cập đến tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Jambuka đã tạo ác-nghiệp nói lời thô tục đến bậc Thánh A-ra-hán trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa được tóm lược như sau:

Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, một người thí chủ giàu nhiều của cải có đức-tin nơi Tam-bảo, cho xây cất một ngôi chùa xong, rồi thỉnh vị tỳ-khưu làm trụ trì tại ngôi chùa ấy và xin hộ độ 4 thứ vật dụng: y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc trị bệnh, ...

Hằng ngày, vị tỳ-khưu trụ trì đến độ vật thực tại nhà thí chủ. Một hôm, một Ngài Trưởng-lão khách-Tăng bậc Thánh A-ra-hán đi khất thực đến đứng trước cổng nhà người thí chủ ấy, Ngài Trưởng-lão có cẩn trọng ngũ-môn thanh-tịnh thật đáng tôn kính.

Nhìn thấy Ngài Trưởng-lão khách-Tăng, người thí chủ liền phát sinh đức-tin trong sạch nơi Ngài Trưởng- lão, người thí chủ ra tận cổng, kính thỉnh Ngài Trưởng- lão vào trong nhà, thỉnh Ngài Trưởng-lão ngồi chỗ cao quý, rồi kính dâng vật thực đến Ngài Trưởng-lão khách- Tăng một cách cung-kính.

Nhìn thấy tấm y của Ngài Trưởng-lão đã cũ, người thí chủ xin phép kính dâng đến Ngài Trưởng-lão tấm y mới. Thấy tóc Ngài Trưởng-lão hơi dài, người thí chủ xin phép gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho Ngài

1 Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, Tích Jambukattheravatthu.

 

Trưởng-lão. Người thí chủ kính thỉnh Ngài Trưởng-lão đến nghỉ tại chùa, và xin phép mang một chiếc giường đến kính dâng lên Ngài Trưởng-lão.

Vị tỳ-khưu trụ trì đang ngồi trong nhà thí chủ, theo dõi nhìn thấy người thí chủ hết lòng thành kính đối với Ngài Trưởng-lão khách-Tăng như vậy, nên phát sinh tâm ganh tỵ, nghĩ rằng:

Mới gặp vị khách-Tăng này, người thí chủ hết lòng tôn kính và ân cần phục vụ đến như thế. Còn ta đến đây độ vật thực mỗi ngày, mà ta đâu có được người thí chủ tôn kính ân cần phục vụ như vậy đâu.

Người thí chủ kính thỉnh Ngài Trưởng-lão khách- Tăng đến nghỉ tại ngôi chùa, cung-kính tiễn đưa Ngài Trưởng-lão khách-Tăng vị tỳ-khưu trụ trì trở về chùa, người thí chủ kính dâng một tấm y mới đến Ngài Trưởng-lão khách-Tăng, gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho Ngài Trưởng-lão khách-Tăng, kính dâng đến Ngài Trưởng-lão khách-Tăng một chiếc giường nằm, rồi kính thỉnh Ngài Trưởng-lão khách-Tăng sử dụng chiếc giường ấy, để cho thí chủ có được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

Người thí chủ kính đảnh lễ Ngài Trưởng-lão khách- Tăng, xin phép trở về. Người thí-chủ đến đảnh lễ vị tỳ- khưu trụ trì, kính thỉnh vị tỳ-khưu trụ trì và Ngài Trưởng-lão khách-Tăng ngày hôm sau đến tư gia độ vật thực, rồi xin phép trở về nhà.

Theo dõi thấy người thí chủ hết lòng tôn kính và ân cần phục vụ chu đáo Ngài Trưởng-lão khách-Tăng, vị tỳ- khưu trụ trì phát sinh tâm ganh tỵ không sao chịu nổi được, nên vội vàng đến chỗ ở của Ngài Trưởng-lão, buông lời chửi mắng Ngài Trưởng-lão là bậc Thánh A- ra-hán 4 điều là:

 

- Này ông khách-Tăng!

*Ông nên ăn phẩn hơn là độ vật thực của nhà thí chủ.

  • Ông nên ở truồng hơn là mặc tấm y của nhà thí chủ.
  • Ông nên nằm trên mặt đất hơn là nằm trên giường của nhà thí chủ.

*Ông nên tự nhổ tóc hơn là để cho người thí chủ gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho ông.

Nghe lời chửi mắng như vậy, Ngài Trưởng-lão khách- Tăng rải tâm từ đến vị trụ trì rằng:

Xin cho vị tỳ-khưu trụ trì này đừng có bị tai-hại.”

Ngài Trưởng-lão khách-Tăng nghỉ lại một đêm tại ngôi chùa ấy, khi thức dậy, từ sáng sớm Ngài Trưởng- lão đã lặng lẽ đi ra khỏi chùa du hành đến nơi khác.

Sáng hôm ấy, sau khi làm mọi công việc trong chùa xong, đến giờ đi khất thực, vị tỳ-khưu trụ trì dùng ngón tay búng nhẹ vào cái chuông báo hiệu giờ đi khất thực, rồi một mình đi đến nhà người thí chủ.

Người thí chủ đảnh lễ vị tỳ-khưu trụ trì xong, bèn bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài, Ngài đến đây một mình, còn Ngài Trưởng-lão khách-Tăng sao chưa thấy đến. Bạch Ngài.

Vị tỳ-khưu trụ trì bảo rằng:

  • Này ông thí chủ! Xin ông đừng nhắc đến vị ấy nữa. Hôm qua, sau khi ông trở về, vị khách-Tăng ấy vào phòng ngủ. Sáng nay, sư thức dậy sớm làm mọi công việc quét dọn sạch sẽ bên trong, bên ngoài chùa, lấy nước uống, nước dùng… xong, đến giờ đi khất thực bần sư đã đánh chuông báo hiệu, mà vẫn chưa thấy vị ấy thức dậy, cho nên một mình sư đến đây.

Người thí chủ nghĩ rằng:

 

Ngài Trưởng-lão khách-Tăng là Bậc có Tăng tướng thanh-tịnh, đáng tôn kính như vậy, thì chắc chắn không phải là Bậc mê ngủ như vị tỳ-khưu trụ trì đã nói. Có lẽ vị tỳ-khưu trụ trì thấy ta hết lòng tôn kính, ân cần phục vụ chu đáo đặc biệt Ngài Trưởng-lão khách-Tăng, cho nên vị tỳ-khưu trụ trì phát sinh tâm ganh tỵ mà nói xấu Ngài Trưởng-lão khách-Tăng ấy.

Người thí chủ kính dâng vật thực đến vị tỳ-khưu trụ trì độ xong, đem bát rửa sạch sẽ, rồi để vật thực ngon vào đầy bát, mang đến kính dâng vị tỳ-khưu trụ trì và bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài, kính xin Ngài hoan hỷ mang bát vật thực này về chùa dâng lại cho Ngài Trưởng-lão khách- Tăng. Bạch Ngài.

Vị tỳ-khưu trụ trì nhận lấy bát đầy vật thực, trên

đường về chùa vị tỳ-khưu trụ trì nghĩ rằng:

Nếu vị ấy có được vật thực ngon như thế này, thì sẽ ở mãi ngôi chùa của ta, không dễ gì chịu đi nơi khác.”

Nghĩ xong, vị tỳ-khưu trụ trì đem cái bát đầy vật thực

ấy đổ bỏ, rồi mang cái bát không trở về chùa.

Khi đến chùa, vị tỳ-khưu trụ trì đi vào chỗ ở không thấy Ngài Trưởng-lão khách-Tăng nữa.

Từ đó về sau, vị tỳ-khưu trụ trì phát sinh tâm ăn năn hối hận, nóng nảy khổ tâm, cho nên thực-hành pháp- hành thiền-định, hoặc pháp-hành thiền-tuệ không thể phát triển được, bởi vì vị tỳ-khưu trụ trì đã tạo ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) xúc phạm đến Ngài Trưởng-lão khách-Tăng là bậc Thánh A-ra-hán.

Vị tỳ-khưu trụ trì đã tạo ác-nghiệp nói lời thô tục, đã tạo khẩu ác-nghiệp nói lời mắng nhiếc, nên phát sinh tâm ăn năn hối hận nóng nảy khổ tâm rồi chết.

 

Sau khi vị tỳ-khưu trụ trì ấy chết, khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục mắng nhiếc cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới ấy.

Quả của khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục mắng nhiếc bậc Thánh A-ra-hán còn dư sót

Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu-kiếp của vị tỳ-khưu trụ trì ấy, nhờ đại-thiện- nghiệp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp chót đầu thai vào một gia đình khá giả ở trong kinh-thành Rājagaha.

Đứa trẻ sinh ra đời được đặt tên là Jambuka, khi bé Jambuka lớn lên biết đi, nó có những tính cá biệt như:

  • Nó chỉ thích ăn phẩn của nó mà thôi, không chịu ăn món vật thực nào khác.

Cha mẹ nó tưởng rằng:

“Trẻ con còn nhỏ dại không biết nên ăn bậy.”

  • Nó chỉ thích nằm dưới đất mà thôi, không chịu nằm trên giường.
  • Nó chỉ thích ở trần truồng mà thôi, không chịu mặc quần áo gì cả (mặc dù trời lạnh hay trời nóng).

Khi trưởng thành, cậu Jambuka thích ăn phẩn, không chịu ăn các món ăn nào khác; thích ở trần truồng, không chịu mặc quần áo; vẫn thích nằm trên mặt đất, không chịu nằm trên giường. (đó là quả xấu của ác- nghiệp nói lời thô tục mắng nhiếc đến bậc Thánh A-ra- hán, còn dư sót trong tiền-kiếp của cậu Jambuka).

 

Cha mẹ của cậu bàn tính với nhau rằng:

“Jambuka đã lớn rồi, nhưng không biết hổ thẹn, không biết mắc cỡ, nó thích ở trần truồng, không chịu mặc quần áo. Chúng ta nên cho Jambuka xuất gia theo phái tu-sĩ đạo lõa thể, thì sẽ thích hợp với nó hơn là sống tại gia với chúng ta.”

Cha mẹ dẫn cậu Jambuka đến chùa phái tu-sĩ đạo lõa thể, xin cho cậu Jambuka được xuất gia theo phái này.

Phái tu-sĩ đạo lõa thể đồng ý chấp thuận cho cậu Jambuka xuất gia trở thành tu-sĩ trong phái họ, với điều kiện bắt buộc Jambuka phải nhổ tóc cho sạch, không được cạo tóc.

Cậu Jambuka chấp nhận điều kiện ấy, tự mình nhổ sạch tóc, rồi được xuất gia trở thành tu-sĩ lõa thể.

Cha mẹ của tu sĩ Jambuka mời tất cả tu-sĩ lõa thể đến nhà ông để dùng cơm vào ngày hôm sau.

Sáng ngày hôm sau, tất cả nhóm tu-sĩ đều đến nhà cha mẹ của Jambuka, nhưng tu-sĩ Jambuka xin phép ở lại tu viện một mình.

Thấy tất cả nhóm tu-sĩ vừa đi ra khỏi tu viện, tu-sĩ Jambuka đến hầm cầu dùng 2 bàn tay hốt phẩn ăn no đủ.

Khi nhóm tu-sĩ trở về, có mang một phần ăn về cho Jambuka, nhưng Jambuka không thọ nhận, thưa rằng:

Con đã dùng vật thực no đủ rồi.

Và những ngày kế tiếp, … Jambuka vẫn xin phép ở lại tu viện một mình ăn phẩn no đủ. Nhóm tu-sĩ mang một phần ăn về cho Jambuka, nhưng lần nào Jambuka cũng không nhận phần ăn ấy, mà thưa rằng:

Con đã dùng vật thực no đủ rồi.

Nhóm tu-sĩ phát sinh tâm hoài-nghi rằng:

 

Tại sao tu-sĩ Jambuka không dùng vật thực mà chúng ta đem về? Vật thực nào mà Jambuka dùng mấy hôm vừa qua có từ đâu?

Chúng ta nên cho người dò xét xem để biết sự thật.

Cũng như mọi ngày, tất cả nhóm tu-sĩ lõa thể ra khỏi tu viện đi khất thực, nhưng đặc biệt hôm ấy còn hai vị tu-sĩ lõa thể ở lại ẩn vào một chỗ kín đáo làm phận sự theo dõi tu-sĩ Jambuka có vật thực từ đâu.

Thấy tất cả tu-sĩ loã thể đã đi ra khỏi tu viện, tu-sĩ Jambuka đi đến hầm cầu dùng 2 tay hốt phẩn ăn no đủ rồi đi ra, không hề hay biết có người đang theo dõi mình.

Khi nhóm tu-sĩ đi khất thực trở về, hai vị tu-sĩ làm phận sự theo dõi tu-sĩ Jambuka trình bày sự thật, mà họ đã tận mắt nhìn thấy cho các tu-sĩ loã thể nghe biết.

Nghe xong như vậy, nhóm tu-sĩ lõa thể bàn tính với nhau rằng:

“Nếu chúng ta để Jambuka ở lại nơi đây, không sớm thì muộn đệ tử của Samôn Gotama hay biết, chắc chắn chúng ta sẽ mất uy tín, tiếng xấu sẽ lan tỏa ra khắp mọi nơi. Vậy chúng ta nên đuổi Jambuka ra khỏi tu viện.”

Tu-sĩ Jambuka bị đuổi ra khỏi tu viện, đi đến trú

một nơi gần tảng đá, chỗ để cho mọi người đi đại tiện.

Buổi tối, tu-sĩ lõa thể Jambuka lén đến nơi đó lấy phẩn ăn, còn ban ngày y đứng một chân, một chân kia chống vào đầu gối, và một tay vịn vào tảng đá há miệng ngửa mặt nhìn trời.

Một số đông người qua lại gặp tu-sĩ lõa thể Jambuka thực-hành hạnh lạ thường, đảnh lễ xong, bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài, tại sao Ngài đứng miệng như vậy?

Tu-sĩ Jambuka đáp rằng:

 

  • Này quý vị! Ta là người dùng vật thực bằng gió, chỉ có gió là vật thực của ta mà thôi. Ngoài vật thực gió ra ta không dùng một thứ vật thực nào khác.
  • Kính bạch Ngài, tại sao Ngài đứng một chân, còn một chân kia chống vào đầu gối như vậy?
  • Này quý vị! Ta là người thực-hành hạnh cao thượng, hạnh này có nhiều thần-lực. Nếu ta đứng cả 2 chân trên mặt đất thì sẽ làm cho mặt đất này rung chuyển. Vì vậy, ta chỉ đứng một chân mà thôi, còn chân kia chống vào đầu gối, suốt ngày đêm không ngồi, không nằm như vậy.

Một số đông người thiểu trí, mê tín tin theo lời của tu- sĩ Jambuka, họ tán dương ca tụng cho đó là hạnh phi thường chưa từng thấy bao giờ.

Một số đông dân chúng xứ Aṅga và xứ Magadha đem nhiều phẩm vật đến cúng dường, nhưng tu-sĩ Jambuka không nhận một thứ nào cả.

Tu-sĩ Jambuka ở trần truồng, ăn phẩn, nằm trên mặt

đất, nhổ tóc trải qua suốt 55 năm ròng rã.

Đức-Phật ngự đến tế độ tu-sĩ Jambuka

Vào canh chót đêm ấy, Đức-Phật sau khi xả đại-bi thiền, suy xét với tâm đại bi xem chúng-sinh nào có duyên lành nên tế độ. Đức-Phật thấy tu-sĩ Jambuka hiện rõ trong màng lưới trí-tuệ của Ngài. Đức-Phật suy xét thấy tu-sĩ Jambuka có duyên lành trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ-tuệ-phân-tích, đồng thời có 84.000 chúng-sinh cũng được chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả Niết-bàn cùng với tu-sĩ lõa thể Jambuka.

Sáng hôm ấy, Đức-Thế-Tôn ngự vào kinh-thành Rājagaha cùng chư tỳ-khưu-Tăng để khất thực, khi trở về Đức-Phật gọi Ngài Trưởng-lão Ānanda dạy rằng:

 

  • Này Ānanda! Như-Lai sẽ ngự đi một mình đến tế độ

tu-sĩ Jambuka.

Chư-thiên biết Đức-Thế-Tôn sẽ ngự đến chỗ ở dơ bẩn của tu-sĩ Jambuka, cho nên, chư-thiên làm một trận mưa lớn để rửa sạch nơi ấy, làm cho các loại cây đều trổ hoa tạo một phong cảnh sạch mát, xinh đẹp.

Buổi chiều hôm ấy, Đức-Thế-Tôn ngự đến gặp tu- sĩ Jambuka xin nghỉ trọ một đêm. Tu-sĩ Jambuka một mực khước từ, y nói rằng:

  • Thưa Sa-môn, nơi đây không có chỗ cho Sa-môn nghỉ trọ một đêm đâu, xin Sa-môn hãy đi đến nơi khác.

Đức-Thế-Tôn bèn hỏi Jambuka rằng:

  • Này Jambuka! Ngươi có phải là tu-sĩ lõa thể không?

Tu-sĩ Jambuka khẳng định trả lời rằng:

  • Thưa Sa-môn, tôi là tu-sĩ đạo lõa thể.
  • Này Jambuka! Những thứ vật dụng của tu-sĩ đạo lõa thể của ngươi để đâu mà Như-Lai không thấy?

Nghe Đức-Thế-Tôn hỏi như vậy, tu-sĩ Jambuka nổi giận, nói như xua đuổi rằng:

  • Này Sa-môn! Nơi đây không có chỗ để Sa-môn nghỉ trọ đâu.
  • Này Jambuka! Xin đừng nổi giận, xin ngươi chỉ cho Như-Lai một chỗ ở.
  • Này Sa-môn! Tùy Sa-môn tự tìm chỗ ở.

Đức-Thế-Tôn ngự đến một nơi không xa chỗ ở của tu- sĩ Jambuka, Đức-Thế-Tôn trải tọa cụ ngồi nhập thiền.

Canh đầu đêm, Tứ đại thiên-vương từ 4 hướng cùng nhau đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, ánh sáng hào quang của Tứ đại-thiên-vương tỏa ra khắp một vùng. Tu-sĩ Jambuka nhìn thấy cảnh lạ thường chưa từng thấy, nên nghĩ rằng:

 

“Ánh sáng hào quang gì vậy, 4 vị chư-thiên ấy là vị nào mà đến hầu đảnh lễ Sa-môn ấy. Vị Sa-môn này phải là Bậc cao thượng.

Canh giữa đêm, Đức-vua trời Sakka cõi Tam-thập tam-thiên ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, ánh sáng hào quang tỏa ra khắp vùng rộng lớn hơn canh đầu đêm.

Tu-sĩ Jambuka nhìn thấy cảnh lạ thường chưa từng thấy, nên nghĩ rằng:

“Ánh sáng hào quang này lớn hơn lần trước, vị chư- thiên ấy là vị nào mà có oai lực hơn 4 vị chư-thiên trước. Vị Sa-môn này phải là Bậc cao thượng.

Vào canh chót đêm, một vị Đại-Phạm-thiên đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, ánh sáng hào quang lần này gấp bội hơn hai lần trước làm sáng tỏa cả khu rừng rộng lớn.

Tu-sĩ Jambuka nhìn thấy cảnh lạ thường chưa từng thấy, nên nghĩ rằng:

“Ánh hào quang lần này gấp bội hơn hai lần trước, vị chư-thiên ấy là vị nào mà đến hầu đảnh lễ Sa-môn, có nhiều oai lực hơn các vị trước. Chắc chắn vị Sa-môn này phải là Bậc cao thượng.”

Sáng hôm sau, tu-sĩ Jambuka đến hầu đảnh lễ Đức- Thế-Tôn bèn bạch rằng:

  • Kính thưa Đại-Sa-môn, canh đầu đêm hôm qua, 4 vị chư-thiên nào từ 4 hướng đến hầu đảnh lễ Ngài, 4 vị chư-thiên ấy có ánh hào quang tỏa ra một vùng như vậy? Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

  • Này Jambuka! 4 vị ấy là tứ đại-thiên-vương từ 4 hướng của cõi trời Tứ-đại thiên-vương.
  • Kính thưa Đại-Sa-môn, như vậy Ngài cao thượng hơn cả tứ đại-thiên-vương.

 

  • Này Jambuka! Như-Lai là Bậc cao thượng hơn tứ đại-thiên-vương, cho nên, tứ đại-thiên-vương đến hầu hạ Như-Lai.
  • Kính thưa Đại-Sa-môn, canh giữa đêm hôm qua, vị chư-thiên nào đến hầu đảnh lễ Ngài, vị chư-thiên ấy có ánh hào quang tỏa ra một vùng rộng lớn như vậy? Bạch Ngài.
  • Này Jambuka! Vị ấy là Đức-vua trời Sakka trị vì cõi trời Tam-thập-Tam-thiên.
  • Kính thưa Đại-Sa-môn, như vậy Ngài cao thượng hơn Đức-vua trời Sakka.
  • Này Jambuka! Như-Lai là Bậc cao thượng hơn Đức- vua trời Sakka, cho nên, Đức-vua trời Sakka như người nuôi bệnh của Như-Lai, hay như một sa-di nhỏ hầu hạ Như-Lai.
  • Kính thưa Đại-Sa-môn, canh chót đêm hôm qua, vị chư-thiên nào đến hầu đảnh lễ Ngài, vị ấy có ánh hào quang tỏa khắp một vùng rộng lớn như vậy? Bạch Ngài.
  • Này Jambuka! Vị ấy là vị Đại-Phạm-thiên.
  • Kính thưa Đại-Samôn, như vậy Ngài cao thượng hơn cả Đại-Phạm-thiên.
  • Này Jambuka! Như-Lai là bậc cao thượng hơn cả vị Đại-Phạm-thiên.
  • Kính thưa Đại-Sa-môn, Ngài là Bậc cao thượng nhất, tôi thực-hành hạnh cao thượng, chỉ đứng một chân, còn chân bên kia chống vào đầu gối, không ngồi, không nằm, ngửa mặt lên trời dùng gió làm vật thực trải qua 55 năm rồi, mà không có một chư-thiên nào đến hầu hạ tôi cả.

Khi ấy, Đức Thế Tôn truyền dạy tu-sĩ Jambuka rằng:

 

  • Này Jambuka! Ngươi lừa dối được những người mê tín, nhưng ngươi không thể lừa dối được Như-Lai đâu!

Có phải trải qua suốt 55 năm, hằng ngày ngươi phải ăn phẩn, nằm trên mặt đất, ở trần truồng, tự nhổ sạch tóc. Thế mà ngươi đã lừa dối những người mê tín rằng:

“Ngươi ăn vật thực bằng gió, đứng một chân, không ngồi, không nằm.”

Nay, ngươi còn muốn lừa dối cả Như-Lai nữa hay sao?

Tiền-kiếp của ngươi đã tạo khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục mắng nhiếc bậc Thánh A-ra-hán, nên kiếp hiện-tại này ngươi phải chịu quả khổ của khẩu ác-nghiệp ấy còn dư sót, cho nên, ngươi phải ăn phẩn, nằm trên mặt đất, ở trần truồng, tự nhổ sạch tóc.

Bây giờ ngươi còn chấp-thủ do tà-kiến thấp hèn như vậy được nữa hay sao?

Nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, tu-sĩ Jambuka kính thỉnh Đức-Thế-Tôn rằng:

  • Kính bạch Đại-Sa-môn, khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục nào mà con đã tạo trong tiền-kiếp quá khứ của con? Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn thuyết giảng về tiền-kiếp của tu-sĩ Jambuka được tóm lược như sau:

Tiền-kiếp của tu-sĩ Jambuka đã từng là vị tỳ-khưu trụ trì một ngôi chùa, đã tạo khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục, mắng nhiếc bậc Thánh A-ra-hán trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa rằng:

  • Ông nên ăn phẩn hơn là độ vật thực của nhà thí chủ.
  • Ông nên ở truồng hơn là mặc tấm y của nhà thí chủ.
  • Ông nên nằm trên mặt đất hơn là nằm trên giường của nhà thí chủ.

 

  • Ông nên tự nhổ tóc hơn là để cho người thí chủ gọi người thợ hớt tóc đến cạo tóc cho ông.

Lắng nghe về khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục mắng nhiếc bậc Thánh A-ra-hán của mình như vậy, tu-sĩ Jambuka phát sinh động tâm và vô cùng hổ-thẹn tội-lỗi của mình, liền ngồi xuống.

Đức-Phật trao cho một tấm vải choàng tắm đến tu-sĩ Jambuka, tu-sĩ cung-kính nhận tấm vải rồi mặc vào, đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Đức-Thế-Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ.

Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ Jambuka. Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp xong, tu-sĩ Jambuka liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, cùng với tứ-tuệ-phân-tích, lục-thông.

Đặc biệt đồng thời ngay khi ấy, khẩu ác-nghiệp nói lời thô tục mắng nhiếc bậc Thánh A-ra-hán trong thời- kỳ Đức-Phật Kassapa cũng mãn quả ác-nghiệp ấy, hết hiệu lực cho quả xấu nữa.

Tu-sĩ Jambuka kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép xuất gia sa-di, tỳ-khưu trong giáo pháp của Ngài.

Đức-Thế-Tôn thấy rõ, biết rõ tu-sĩ Jambuka có đầy đủ đại-thiện-nghiệp pháp-hạnh ba-la-mật đã được tích-lũy từ vô số kiếp trong quá-khứ, đặc biệt có lời phát nguyện xin cho 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu được phát sinh như thần thông, nên Đức-Thế-Tôn đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ, rồi truyền dạy rằng:

“Ehi bhikkhu! Cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.(1)

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Tich Jambukattheravatthu.

 

  • Này Jambuka! Con hãy đến đây, con được trở thành tỳ-khưu theo ý nguyện. Con nên thực-hành phạm hạnh cao thượng dẫn đến tận cùng của sự khổ sinh.

Sau khi Đức-Thế-Tôn truyền dạy vừa dứt, tướng mạo của tu-sĩ Jambuka liền biến mất. Và ngay khi ấy, Jambuka trở thành tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu phát sinh như thần-thông, và có tăng tướng trang nghiêm như một Ngài Đại-đức có 60 hạ.

Như mọi ngày, dân chúng xứ Aṅga và xứ Magadha

đem những lễ vật đến cúng dường tu-sĩ Jambuka.

Hôm ấy, mọi người đến gặp Đức-Thế-Tôn tại nơi ấy, nên họ nghĩ rằng:

Không biết Sa-môn Gotama cao thượng hơn tu-sĩ Jambuka, hay tu-sĩ Jambuka vị thầy của chúng ta cao thượng hơn Sa-môn Gotama?

Biết được sự hoài-nghi của người dân chúng xứ Aṅga và xứ Magadha tại nơi ấy, Ngài Trưởng-lão Jambuka xin Đức-Thế-Tôn cho phép Ngài nhập đệ tứ thiền, biến hóa phép thần-thông bay lên hư không cao khoảng một cây thốt nốt, đứng kính bạch rằng:

“Satthā me Bhante Bhagavā, sāvako’hamasmi.”

  • Kính bạch Đức Thế Tôn, Ngài là vị Tôn-sư của con, và con là hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn.

Khi bạch xong, Ngài Trưởng-lão Jambuka đáp xuống

đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Đức-Thế-Tôn.

Một lần nữa, Ngài Trưởng-lão Jambuka bay lên cao khoảng 2 cây thốt nốt, 3 cây thốt nốt, … 7 cây thốt nốt,

… rồi bạch như lần trước xong, đáp xuống đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Đức-Thế-Tôn.

Tại nơi ấy, mọi người đã thấy và nghe rõ lời của Ngài Trưởng-lão Jambuka, cho nên không còn hoài-nghi nữa,

 

mọi người đồng tán dương ca tụng ân-Đức-Phật thật là phi thường.

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết một bài kệ, vừa chấm dứt bài kệ, 84.000 chúng-sinh đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn tùy theo năng lực của pháp-hạnh ba-la-mật 5 pháp- chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định- pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.

 

  1. Ác-nghiệp nói lời vô ích

Nói lời vô ích là nói lời không đem lại sự lợi ích với tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm làm cho người nghe, người đọc say mê theo lời nói của mình, làm mất sự lợi ích, sự an-lạc đối với họ. Như vậy, gọi là người ấy tạo ác-nghiệp nói lời vô ích (samphappalāpa).

  • Trường hợp người nói, người viết những chuyện không có thật, để làm ví dụ trong việc giảng dạy, giúp cho người nghe, người đọc dễ hiểu theo lời dạy ấy, thì lời nói của người ấy không gọi là lời nói vô ích.
  • Trường hợp người nói hoặc người viết trình bày những câu chuyện có thật, đúng theo sự thật, nhưng không đem lại lợi ích gì cho người nghe hoặc người đọc, thì lời nói của người ấy không gọi là lời nói vô ích.
  • Trường hợp người nói hoặc người viết những câu chuyện nhảm nhí, hoang đường, không có thật để làm cho người nghe, người đọc say mê tiêu khiển trong chốc lát, làm mất thời gian mà không đem lại sự lợi ích, gọi là lời nói vô ích (samphappalāpa) không gọi là lời nói-dối (musāvāda), bởi vì người nói hoặc người viết không có tác-ý ác-tâm nói-dối làm cho người nghe, người đọc tin theo rồi gây ra sự tai hại.

 

  • Nhưng nếu người nói hoặc người viết những chuyện nhảm nhí, hoang đường, không có thật để làm cho người nghe, người đọc say mê tin theo, làm mất sự lợi ích, gây ra sự tai hại đến với họ, thì người nói hoặc người viết tạo ác-nghiệp nói lời vô ích ác-nghiệp nói-dối nữa.

Chi-pháp của ác-nghiệp nói lời vô ích

Để biết có tạo ác-nghiệp nói lời vô ích hay không, cần phải căn cứ vào 2 chi-pháp của ác-nghiệp nói lời vô ích như sau:

  1. Niratthakathāpurakkhāro: Tác-ý nói lời vô ích.
  2. Kathanaṃ: Nói lời vô ích.

Nếu người nào hội đủ 2 chi-pháp của ác-nghiệp nói lời vô ích này thì người ấy đã tạo ác-nghiệp nói lời vô ích hội đủ chi-pháp, nhưng nếu không hội đủ 2 chi-pháp này thì người ấy tạo ác-nghiệp nói lời vô ích không hội đủ chi-pháp.

Quả của 2 loại ác-nghiệp nói lời ích này sự khác biệt

  • Nếu tạo ác-nghiệp nói lời vô ích hội đủ 2 chi-pháp này thì ác-nghiệp nói lời vô ích ấy có nhiều năng lực, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) và có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Nếu tạo ác-nghiệp nói lời vô ích không hội đủ 2 chi- pháp này thì ác-nghiệp nói lời vô ích ấy có ít năng lực, không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), mà chỉ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

Ác-nghiệp nói lời vô ích nặng hoặc nhẹ

Nếu người nào hằng ngày nói lời vô ích trở thành thói quen như các diễn viên hài; người viết chuyện vui cười,

 

nhảm nhí, hoang đường, không có thật làm cho người nghe, người đọc say mê, làm mất lợi ích, v.v… thì người ấy tạo ác-nghiệp nói lời vô ích, tạo ác-nghiệp nặng.

Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nói lời vô ích ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) thì sinh trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh).

Nếu người nào thỉnh thoảng, đôi khi vui đùa nói lời vô ích thì người ấy tạo ác-nghiệp nói lời vô ích nhẹ. Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp nói lời vô ích ấy không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla), nếu có cơ hội thì ác-nghiệp nói lời vô ích ấy chỉ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti- kāla), kiếp hiện-tại.(1)

Quả xấu của ác-nghiệp nói lời vô ích

Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp nói lời vô ích làm mất sự lợi ích cho những người khác, thì sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nói lời vô ích ấy trong 11 bất- thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác- nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Sau khi thoát ra khỏi cõi ác-giới, * trường-hợp nếu có đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì

1 Xem đầy đủ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển III Pháp-Hành- Giớiphần phạm điều-giới nói lời vô ích, cùng soạn giả.

 

đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

  • Và trường hợp, người nào tạo ác-nghiệp nói lời vô ích nhẹ. Sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nói lời vô ích nhẹ ấy không có cơ hội cho quả thì đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong cõi người này.

Cả 2 trường-hợp ấy, người ấy còn phải chịu 7 quả xấu của ác-nghiệp nói lời vô ích mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong quá-khứ là:

Kiếp hiện-tại của người ấy:

  1. Là người có nhiều người không tin lời nói của mình.
  2. Là người có nhiều người không ưa thích.
  3. Là người không được nhiều người kính trọng.
  4. Là người không thể nói cho người khác tin theo.
  5. Là người nghèo khổ.
  6. Là người không có quyền lực.
  7. Là người thiểu trí (ngu dốt).

Đó là 7 quả xấu của ác-nghiệp nói lời vô ích mà tiền- kiếp của người ấy đã tạo trong thời quá-khứ.

  • Nói lời vô ích

Nói lời vô ích là nói những lời nói không đem lại sự lợi ích cho sự thực-hành pháp-hành thiền-định, pháp- hành thiền-tuệ, không dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, không diệt tận được tham-ái, phiền-não, không giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

 

Trong kinh Sāmaññaphalasutta(1) Đức-Phật thuyết giảng có 32 chuyện không đem lại sự lợi ích cho sự giải thoát khổ gọi là tiracchānakathā, đó là:

  1. Rājakathā: Nói chuyện về Đức-vua, Hoàng tộc, ...
  2. Mahāmattakathā: Nói chuyện về các quan trong triều đình, trong chính-phủ.
  3. Corakathā: Nói chuyện về bọn trộm cướp.
  4. Senākathā: Nói chuyện về quân đội.
  5. Bhayakathā: Nói chuyện về tai họa.
  6. Yuddhakathā: Nói chuyện về chiến tranh.
  7. Annakathā: Nói chuyện về vật thực: cơm, gạo, ...
  8. Pānakathā: Nói chuyện về đồ uống.
  9. Vatthakathā: Nói chuyện về vải, quần áo.
  10. Mālākathā: Nói chuyện về các loại hoa, vòng hoa.
  11. Sayanakathā: Nói chuyện về chỗ nằm, chỗ ở.
  12. Ghandhakathā: Nói chuyện về mùi thơm, dầu thơm.
  13. Ñātikathā: Nói chuyện về bà con, dòng họ.
  14. Yānakathā: Nói chuyện về xe cộ.
  15. Gāmakathā: Nói chuyện về xóm làng.
  16. Nigamakathā: Nói chuyện về quận, huyện.
  17. Nagarakathā: Nói chuyện về thành phố.
  18. Janapadakathā: Nói chuyện về vùng quê,
  19. Itthikathā: Nói chuyện về đàn bà.
  20. Purisakathā: Nói chuyện về đàn ông.
  21. Kumārakathā: Nói chuyện về những chàng trai.
  22. Kumārīkathā: Nói chuyện về những cô gái.
  23. Surakathā: Nói chuyện về sự can đảm.
  24. Visikhākathā: Nói chuyện về đường xá.
  25. Kumbaṭṭhānakathā: Nói chuyện về bến nước.
  26. Pubbapetakathā: Nói chuyện về bà con đã qua đời.
  27. Nānattakathā: Nói những chuyện nhảm nhí.

1 Dīghanikāya, Sīlakkhandhavagga. Kinh Sāmaññaphalasutta.

 

  1. Lokakkhāyika: Nói chuyện về thế giới tạo thiên lập địa.
  2. Samuddakkhāyika: Nói chuyện về đại dương.
  3. Itibhavābhavakathā: Nói chuyện về kiếp nhỏ, kiếp lớn luân hồi.
  4. Araññakathā: Nói chuyện về rừng.
  5. Pabbatakathā: Nói chuyện về núi, ...

Đó là 32 chuyện nói lời vô ích không đem lại sự lợi ích cho người nghe, không làm duyên dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

Tóm lại, khẩu ác-nghiệp ác-nghiệp phần nhiều được tạo bằng khẩu-môn nói ác còn gọi là khẩu hành- ác, có 4 loại ác-nghiệp:

  • Ác-nghiệp nói-dối.
  • Ác-nghiệp nói lời chia rẽ.
  • Ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc).
  • Ác-nghiệp nói lời vô ích.

Khẩu ác-nghiệp này không chỉ được tạo bằng khẩu- môn nói ác, mà còn có thể tạo bằng thân-môn với hành vi cử chỉ ác, nhưng không gọi là thân ác-nghiệp, bởi vì 4 ác-nghiệp này phần nhiều được tạo bằng khẩu-môn hơn là thân-môn.

 

4.1.3- Ý ác-nghiệp:

Ý ác-nghiệp tác-ý tâm-sở đồng sinh với ác-tâm phát sinh bên trong ý môn, chưa biểu hiện ra bên ngoài thân-môn hoặc khẩu-môn, còn gọi là ý-hành-ác (mano- ducaritta).

Ý ác-nghiệp có 3 loại ác-nghiệp:

  1. Ác-nghiệp tham-lam của cải, tài sản của người khác.

 

  1. Ác-nghiệp thù hận người khác.
  2. Ác-nghiệp tà-kiến, thấy sai chấp lầm.
  1. Ác-nghiệp tham lam tài sản của người khác

Ý ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác như thế nào?

Phàm phần đông hạng phàm-nhân, khi tiếp xúc với những đối-tượng tốt đáng vừa lòng như sắc đẹp, âm thanh hay, hương thơm, vị ngon, xúc êm ấm, pháp vừa lòng, thì thường phát sinh tham-tâm muốn các đối-tượng ấy thuộc về của mình.

Tham-tâm phát sinh đối với 2 hạng người:

  • Hạng người nào nếu phát sinh tham-tâm muốn được thứ báu vật quý giá, … của người khác một cách hợp pháp, thì người ấy không tạo ý ác-nghiệp nghĩ tham lam của cải, tài sản của người khác.
  • Hạng người nào nếu phát sinh tham-tâm muốn được thứ báu vật quý giá, …của người khác một cách bất hợp pháp, thì người ấy tạo ý ác-nghiệp nghĩ tham lam của cải, tài sản của người khác.
  • Hạng người phát sinh tham-tâm muốn được của cải tài-sản của người khác một cách hợp pháp như thế nào?

Nếu người nào phát sinh tham-tâm muốn thứ báu vật quý giá nào của người khác thuộc về của mình, bằng cách mua lại, hoặc trao đổi, hoặc xin chủ nhân nhường lại, … bằng mọi cách làm cho chủ nhân của thứ báu vật quý giá ấy đồng ý ưng thuận trao thứ báu vật quý giá ấy cho mình, thì người ấy phát sinh tham-tâm muốn thứ báu vật quý giá của người khác một cách hợp pháp, người ấy không tạo ý ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác.

 

  • Hạng người phát sinh tham-tâm muốn được của cải tài-sản của người khác một cách không hợp pháp như thế nào?

Nếu người nào phát sinh tham-tâm muốn được thứ báu vật quý giá nào của người khác thuộc về của mình, bằng cách trộm-cắp, hoặc lừa đảo, hoặc dùng thế lực bắt buộc người chủ trao thứ báu vật quý giá ấy cho mình, thì người ấy phát sinh tham-tâm muốn món đồ quý giá của người khác một cách không hợp pháp, người ấy tạo ý ác- nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác.

Chi-pháp của ý ác-nghiệp tham lam tài sản của người khác

Để biết có tạo ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác hay không, cần phải căn cứ vào 2 chi- pháp của ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác như sau:

  1. Parabhaṇḍaṃ: Của cải, tài sản của người khác.
  2. Attanopariṇāmanaṃ: Tâm nghĩ tham lam muốn được của cải, tài sản ấy thuộc về của riêng mình một cách bất hợp pháp.

Nếu người nào hội đủ 2 chi-pháp của ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác này, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác hội đủ chi-pháp, nhưng nếu không hội đủ 2 chi-pháp này, thì người ấy tạo ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác không hội đủ chi-pháp.

Quả của 2 loại ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác này có sự khác biệt:

  • Nếu tạo ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác hội đủ 2 chi-pháp này thì ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác ấy có nhiều năng

 

lực, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

- Nếu tạo ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác không hội đủ 2 chi-pháp này thì ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác ấy có ít năng lực, không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), mà chỉ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

Chi-pháp parabhaṇḍaṃ: của cải, tài sản của người khác, có nghĩa rộng gồm có những thứ của cải, tài sản là những thứ vật dụng, thuộc về vật chất và tinh thần, các loài gia súc, gia cầm, con người, v.v… thuộc về của cải, tài sản có chủ.

Ngoài ra, nếu những thứ của cải, tài sản không thuộc về người chủ, chưa có chủ, thì không phải là chi-pháp parabhaṇḍaṃ này.

Ví dụ: Trong 20 hạng con gái, có 8 hạng con gái con gái có mẹ trông nom, con gái có cha trông nom, con gái có cha mẹ trông nom, con gái có chị hoặc em gái trông nom, con gái có anh hoặc em trai trông nom, con gái có bà con trông nom, con gái có dòng họ trông nom, con gái hành phạm hạnh có thầy bạn trông nom. 8 hạng con gái này, tuy có người thân trông nom, bảo vệ, nhưng những người thân này không phải là chủ cuộc đời của 8 hạng con gái này, 8 hạng con gái này chưa có chồng, chưa có người đàn ông nào làm chủ cuộc đời của họ.

Cho nên, nếu người con trai nào phát sinh tham-tâm muốn lấy 1 trong 8 cô gái ấy làm vợ của mình một cách hợp pháp thì người con trai ấy không tạo ý ác-nghiệp tham lam người con gái của người khác.

 

Ác-nghiệp tham lam của cải của người khác nặng - nhẹ

  • Nếu người nào phát sinh tham-tâm muốn chiếm đoạt của cải, tài sản của người có giới-đức thì người ấy đã tạo ý ác-nghiệp tham lam của cải tài sản của người khác nặng.

Sau khi người ấy chết, ý ác-nghiệp tham lam của cải tài-sản của người khác ấy trong 11 bất-thiện-tâm (trừ si- tâm hợp với phóng-tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong tham- tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh trong loài ngạ-quỷ hoặc loài a-su-ra, chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác- nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

  • Nếu người nào phát sinh tham-tâm, muốn chiếm đoạt của cải, tài sản của người không có giới-đức thì người ấy đã tạo ý ác-nghiệp tham lam của cải tài-sản của người khác nhẹ. Sau khi người ấy chết, ác-nghiệp tham lam của cải tài-sản của người khác nhẹ ấy không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla), mà có đại-thiện-nghiệp nào có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người thì người ấy sẽ là người nghèo khổ, thiếu thốn mọi nhu cầu cần thiết trong cuộc sống, ...

 

  1. Ác-nghiệp thù hận người khác

Ý ác-nghiệp thù hận người khác như thế nào?

Người nào có tính hay giận dữ, không tiếp xúc thân mật với người khác, không thích gần gũi giúp đỡ, v.v… như vậy người ấy có sân-tâm bình thường, không phải là ý ác-nghiệp thù hận người khác.

 

Người nào phát sinh sân-tâm tìm cách phá hoại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc của người khác, rồi người ấy luôn luôn nghĩ tìm cách làm hại người khác. Đó là sân- tâm tạo ác-nghiệp thù hận người khác.

Chi-pháp của ác-nghiệp thù hận người khác

Để biết có tạo ác-nghiệp thù hận người khác hay không, cần phải căn cứ vào 2 chi-pháp của ác-nghiệp thù hận người khác:

  1. Parasatto: Người khác.
  2. Vināsacintā: Sân-tâm nghĩ tìm cách phá hoại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc của người khác.

Nếu người nào hội đủ 2 chi-pháp của ác-nghiệp thù hận người khác này, thì người ấy đã tạo ác-nghiệp thù hận người khác hội đủ chi-pháp, nhưng nếu không hội đủ 2 chi-pháp này, thì người ấy tạo ác-nghiệp thù hận người khác không hội đủ chi-pháp.

Quả của 2 loại ác-nghiệp thù hận người khác này có sự khác biệt:

  • Nếu tạo ác-nghiệp thù hận người khác hội đủ 2 chi- pháp này thì ác-nghiệp thù hận người khác ấy có nhiều năng lực, có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Nếu tạo ác-nghiệp thù hận người khác không hội đủ 2 chi-pháp này thì ác-nghiệp thù hận người khác ấy có ít năng lực, không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), mà chỉ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

Người nào có ý ác-nghiệp thù hận người có giới-đức, sau khi người ấy chết, nếu ý ác-nghiệp thù hận người có giới-đức ấy trong 11 bất-thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với

 

phóng-tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong sân-tâm gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.

  • Nếu người nào có ý ác-nghiệp thù hận người không có giới, thì sau khi người ấy chết, ý ác-nghiệp thù hận người khác nhẹ ấy không có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), mà có đại-thiện- nghiệp nào có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người thì người ấy sẽ là người có thân hình xấu xí, kỳ dị đáng ghê sợ, mọi người xa lánh.

 

  1. Ác-nghiệp tà-kiến

Ý ác-nghiệp tà-kiến tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm.

Tà-kiến đó là tâm-sở tà-kiến (diṭṭhicetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm.

Người có ý ác-nghiệp tà-kiến thấy sai, chấp lầm từ

chủ-thể bên trong của mình đến các đối-tượng bên ngoài.

Tà-kiến có 2 loại

  1. Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ.
  2. Niyatamicchādiṭṭhi: Tà-kiến cố-định chấp-thủ.

Ngũ-uẩn chấp-thủ có 5 uẩn là:

  1. Sắc-uẩn chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp thuộc về

sắc-pháp.

 

2 - Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm

  1. Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm .
  2. Hành-uẩn chấp-thủ gồm có 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.
  3. Thức-uẩn chấp-thủ gồm 81 tam-giới-tâm.

(Thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn thuộc về

danh-uẩn).

Trong bộ Paṭisambhidāmagga, phần diṭṭhikathā trình bày tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ có 20 loại.

1- Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn

Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ cho là ta (ngã).

  1. Tà-kiến chấp ngã trong sắc-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
  • Sắc-uẩn là ta.       - Ta có sắc-uẩn.
  • Sắc-uẩn trong ta. - Ta trong sắc-uẩn.
  1. Tà-kiến chấp ngã trong thọ-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
  • Thọ-uẩn là ta.       - Ta có thọ-uẩn.
  • Thọ-uẩn trong ta. - Ta trong thọ-uẩn.
  1. Tà-kiến chấp ngã trong tưởng-uẩn chấp-thủ 4 loại:
  • Tưởng-uẩn là ta.       - Ta có tưởng-uẩn.
  • Tưởng-uẩn trong ta. - Ta trong tưởng-uẩn.
  1. Tà-kiến chấp ngã trong hành-uẩn chấp-thủ có 4 loại:
  • Hành-uẩn là ta.       - Ta có hành-uẩn.
  • Hành-uẩn trong ta. - Ta trong hành-uẩn.
  1. Tà-kiến chấp ngã trong thức-uẩn chấp-thủ 4 loại:
  • Thức-uẩn là ta.       - Ta có thức-uẩn.
  • Thức-uẩn trong ta. - Ta trong thức-uẩn.

 

Đó là 20 loại tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ: sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp-thủ, thức-uẩn chấp-thủ đối với tất cả các hàng chúng-sinh thuộc về hạng phàm-nhân (chưa phải bậc Thánh-nhân) trong tam-giới.

  • Tất cả chúng-sinh có ngũ-uẩn trong 11 cõi dục-giới.
  • Tất cả phạm-thiên có ngũ-uẩn trong 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên).
  • Tất cả phạm-thiên có nhất-uẩn sắc-uẩn trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên.
  • Tất cả phạm-thiên có tứ-uẩn là thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.

Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ cho là ta này có ảnh hưởng thế nào đối với mọi chúng-sinh?

Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta đó là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.

Đối với tất cả mọi chúng-sinh còn là phàm nhân đều có loại sakkāyadiṭṭhi: tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ cho là ta này. Sakkāyadiṭṭhi này không có ảnh hưởng, không có cản trở nào đối với những người tạo mọi phước-thiện như phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ- giới, phước-thiện hành-thiền, v.v…, cũng không cản trở đối với các hành-giả thực hành pháp-hành thiền-định, không cản trở sự chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện- tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, cũng không cản trở chứng đắc 5 phép thần-thông thế-gian (lokiya abhiññā).

 

Cho nên, tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta không cản trở dục-giới thiện-nghiệp trong 8 dục-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới; không cản trở sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên; không cản trở vô-sắc-giới thiện- nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 4 tầng trời vô- sắc-giới phạm-thiên.

Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn cản trở pháp-hành thiền-tuệ

Sakkāyadiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp- thủ cho là ta, ngã này chỉ có cản trở đối với các hành- giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ mà thôi, bởi vì đối- tượng thiền-tuệ ngũ-uẩn chấp-thủ: sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng-uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp- thủ, thức-uẩn chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) có thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp rõ ràng đều là pháp- vô-ngã, không phải là ta, không phải là người, không phải là đàn ông, không phải là đàn bà, không phải là chúng-sinh,… nhưng tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ cho là ta, là người, là đàn ông, là đàn bà, chúng-sinh, v.v… cho nên, tà-kiến chấp ngã trong ngũ- uẩn chấp-thủ làm cản trở đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.

* Tà-kiến chấp ngã trong ngũ-uẩn chấp-thủ

  1. Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong sắc-uẩn chấp-thủ

cho là ta như thế nào?

Sắc-uẩn chấp-thủ đó là thân gồm có 28 sắc-pháp:

 

  • Sắc-uẩn chấp-thủ trong thân của người nam gồm

27 sắc-pháp (trừ sắc-nữ-tính).

- Sắc-uẩn chấp-thủ trong thân của người nữ gồm

27 sắc-pháp (trừ sắc-nam-tính).

Ví dụ: Khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, …Đúng theo sự-thật của chân-nghĩa-pháp (paramatthasacca) thì chỉ có thân đi, thân đứng, thân ngồi, thân nằm mà thôi.

Thân thuộc về sắc-uẩn (sắc-pháp) nên gọi là sắc đi, sắc đứng, sắc ngồi, sắc nằm mà thôi.

- Nếu khi thân đi hoặc sắc đi thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi cho là ta đi.

Ta đi vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa- pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có sắc đi mà thôi.

Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta đi là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi cho là ta đi.

Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.

Như vậy, ngã (ta) vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.

Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đi thuộc về sắc-uẩn đó là sắc-pháp cho là ta đi.

Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.

Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ

 

chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà- kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài- nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong sắc-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 danh-uẩn) cho ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.

Cũng tương tự như vậy,

  • Khi thân đứng hoặc sắc đứng, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc đứng cho là ta đứng nữa.
  • Khi thân ngồi hoặc sắc ngồi, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc ngồi cho là ta ngồi nữa.
  • Khi thân nằm hoặc sắc nằm, bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc nằm cho là ta nằm nữa, …
  1. Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thọ-uẩn chấp-thủ

cho là ta như thế nào?

Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở (vedanācetasika) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm. Thọ tâm-sở có trạng-thái cảm thọ trong đối-tượng, có 3 loại thọ:

  • Dukkhavedanā: thọ khổ là cảm thọ khổ khó chịu trong đối-tượng xấu.
  • Sukhavedanā: thọ lạc là cảm thọ lạc dễ chịu trong

đối-tượng tốt.

  • Adukkhamasukhavedanā: thọ không khổ không lạc là cảm thọ không khổ không lạc trong đối-tượng không xấu không tốt.

 

Ba loại thọ này là thọ-uẩn thuộc về danh-pháp.

  • Nếu khi cảm thọ khổ (dukkhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ khổ cho là ta khổ.
  • Nếu khi cảm thọ lạc (sukhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ lạc cho là ta an-lạc.
  • Nếu khi cảm thọ không khổ không lạc (adukkha- masukhavedanā) thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ không khổ không lạc cho là ta không khổ không lạc.

Ta khổ, ta an-lạc,… vốn không có thật, sự thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có thọ-uẩn cảm thọ mà thôi.

Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta khổ, ta an- lạc,… là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà- kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ-uẩn chấp-thủ cho là ta khổ, ta an-lạc,…

Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi danh-pháp đều

pháp-vô-ngã (anattā), không ngã.

Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.

Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thọ-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta khổ, ta an-lạc. …

Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.

Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ

 

chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thọ-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.

  1. Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong tưởng-uẩn chấp- thủ cho là ta như thế nào?

Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở (saññā- cetasika) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.

Tưởng tâm-sở có trạng-thái tưởng nhớ trong 6 đối- tượng đó là:

  • Rūpasaññā: sắc tưởng là tưởng nhớ đối-tượng sắc.
  • Saddasaññā: tưởng thanh là tưởng nhớ đối-tượng âm-thanh.
  • Gandhasaññā: hương tưởng là tưởng nhớ đối-tượng hương.
  • Rasasaññā: vị tưởng là tưởng nhớ đối-tượng vị.
  • Phoṭṭhabbasaññā: xúc tưởng là tưởng nhớ đối-tượng xúc.
  • Dhammasaññā: pháp tưởng là tưởng nhớ đối-tượng các pháp.

Sáu loại tưởng này tưởng-uẩn thuộc về danh-pháp.

  • Nếu khi tưởng nhớ đến đối-tượng sắc thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi sắc tưởng cho là ta tưởng sắc .

Ta tưởng sắc vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có tưởng- uẩn mà thôi.

 

Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta tưởng là vì tà- kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tưởng-uẩn chấp-thủ cho là ta tưởng.

Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.

Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.

Sở sự chấp ngã tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi

tưởng-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho ta tưởng.

Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.

Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong tưởng-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.

  1. Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong hành-uẩn chấp-thủ

cho là ta như thế nào?

Hành-uẩn chấp-thủ đó 50 tâm-sở (cetasika) (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm.

 

Trong 50 tâm-sở có tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) dẫn

đầu tạo thiện-nghiệp hoặc tạo ác-nghiệp.

  • Nếu khi tạo thiện-nghiệp thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ cho là ta tạo thiện-nghiệp.
  • Nếu khi tạo ác-nghiệp thì tà-kiến thấy sai chấp lầm

nơi hành-uẩn chấp-thủ cho là ta tạo ác-nghiệp.

Ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp,…vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramattha- dhamma) thì chỉ có hành-uẩn tạo thiện-nghiệp, tạo ác- nghiệp mà thôi.

Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta tạo thiện- nghiệp, ta tạo ác-nghiệplà vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành- uẩn chấp-thủ cho là ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác- nghiệp, …

Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi danh-pháp, mọi sắc-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.

Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.

Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi hành-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho là ta tạo thiện-nghiệp, ta tạo ác-nghiệp,…

Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.

Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ

 

chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong hành-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.

  1. Tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thức-uẩn chấp-thủ

cho là ta như thế nào?

Thức-uẩn chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm chia ra 6 loại thức tâm:

  1. Cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm có 2 tâm.
  2. Sotaviññāṇa: nhĩ-thức-tâm có 2 tâm.
  3. Ghānaviññāṇa: tỷ-thức-tâm có 2 tâm.
  4. Jivhāviññāṇa: thiệt-thức-tâm có 2 tâm.
  5. Kāyaviññāṇa: thân-thức-tâm có 2 tâm.
  6. Manoviññāṇa: ý-thức-tâm có 71 tâm.

Sáu loại tâm này gọi là thức-uẩn thuộc về danh-pháp.

  • Nếu khi nhãn-thức-tâm có phận sự thấy đối-tượng sắc thì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm cho là ta thấy sắc.

Ta thấy sắc vốn không có thật, sự-thật đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có nhãn- thức-tâm thấy sắc mà thôi, nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn.

Sở dĩ có sự thấy sai chấp lầm cho là ta thấy sắc là vì tà-kiến đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn cho là ta thấy sắc.

 

Đúng theo thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã (anattā), không có ngã.

Như vậy, ngã vốn không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã được.

Sở dĩ có sự chấp ngã là vì tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhãn-thức-tâm thuộc về thức-uẩn chấp-thủ thuộc về danh-pháp cho ta thấy sắc.

Như vậy, tà-kiến có thật, nên chắc chắn có phương pháp diệt tà-kiến được.

Thật vậy, hành-giả thuộc về hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến, và hoài-nghi (vicikicchā) trong si-tâm hợp với hoài-nghi, không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Nhập- lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm trong thức-uẩn chấp-thủ (cùng với 4 uẩn còn lại) cho ta, là ngã, đồng thời không còn thấy sai chấp lầm cho là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.

Cũng tương tự như vậy,

  • Nếu khi nhĩ-thức-tâm nghe âm-thanh, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi nhĩ- thức-tâm cho là ta nghe âm-thanh nữa.
  • Nếu khi tỷ-thức-tâm ngửi mùi hương, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi tỷ- thức-tâm cho là ta ngửi mùi hương nữa.

 

  • Nếu khi thiệt-thức-tâm nếm vị, thì bậc Thánh Nhập- lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thiệt-thức- tâm cho là ta nếm vị nữa.
  • Nếu khi thân-thức-tâm xúc-giác cứng mềm,… thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi thân-thức-tâm cho là ta xúc-giác cứng mềm nữa.
  • Nếu khi ý-thức-tâm biết các pháp, thì bậc Thánh Nhập-lưu không còn tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi ý- thức-tâm cho là ta biết các pháp nữa.

 

  1. Niyatamicchādiṭṭhi: tà-kiến cố-định là tà-kiến chấp-thủ cố-định, không thay đổi.

Tà-kiến cố-định có 3 loại:

    1. Natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến.
    2. Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến.
    3. Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến.
  1. Vô-quả tà-kiến như thế nào?

Natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến cố-định là tà kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có quả của nghiệp”.

Người có vô-quả tà-kiến cố-định này thấy sai chấp lầm rằng: “Không có quả khổ của ác-nghiệp, cũng không có quả an-lạc của thiện-nghiệp. Người đã tạo ác-nghiệp hoặc đã tạo thiện-nghiệp rồi đều không quả khổ của ác- nghiệp, cũng không có quả an-lạc của thiện-nghiệp.

Tất cả chúng-sinh chết rồi là hết, không có nghiệp nào cho quả tái-sinh kiếp sau”.

Người có vô-quả tà-kiến cố-định này còn gọi là đoạn- kiến (ucchedadiṭṭhi) chết là hết, không có kiếp sau.

 

Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta(1) vị Đạo-sư ngoại-đạo Ajitakesakambala có tà thuyết natthikadiṭṭhi: vô-quả tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng:“không có quả của nghiệp” như sau:

  1. Natthi dinnaṃ: tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện bố-thí không có quả tốt, an-lạc.
  2. Natthi yiṭṭhaṃ: tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện cúng dường không có quả tốt, an-lạc.
  3. Natthi hutaṃ: tà-kiến thấy sai rằng: Phước-thiện cúng dường, đón rước cũng không có quả tốt, an-lạc.
  4. Natthi sukatadukkatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipākaṃ: tà-kiến thấy sai rằng: Đã tạo thiện-nghiệp, ác- nghiệp rồi, không có quả an-lạc của thiện-nghiệp, không có quả khổ của ác-nghiệp.
  5. Natthi ayaṃ loko: tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi giới này nghĩa là không có chúng-sinh tái-sinh đến cõi giới này.
  6. Natthi paro loko: tà-kiến thấy sai rằng: Không có cõi giới khác nghĩa là chúng-sinh chết rồi là hết, không có tái-sinh kiếp sau trong cõi giới khác.
  7. Natthi mātā: tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước, tạo tội đối với mẹ của mình, không có quả tốt, quả xấu.
  8. Natthi pitā: tà-kiến thấy sai rằng: Tạo phước, tạo tội đối với cha của mình, không có quả tốt, quả xấu.
  9. Natthi sattā opapātikā: tà-kiến thấy sai rằng: Không có các loài chúng-sinh hóa-sinh to lớn ngay tức thì, như chư-thiên cõi dục-giới, chư phạm-thiên cõi sắc- giới, chúng-sinh địa-ngục, loài ngạ-quỷ, loài a-su-ra.
  10. Natthi loke samaṇabrahmaṇā samaggatā sam-

1 Dī. Sīlakkhandhavagga, kinh Sāmaññaphalasutta.

 

māpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: tà-kiến thấy sai rằng: Trong đời này, không có các Sa-môn, Bà-la-môn thực-hành pháp- hành thiền-định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc- giới, các bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần- thông; thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thấy rõ, biết rõ cõi giới này, các cõi giới khác.

Người có vô-quả tà-kiến cố-định này là người phủ nhận quả của ác-nghiệp, quả của thiện-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận nhân ác-nghiệp, thiện-nghiệp.

  1. Vô-nhân tà-kiến như thế nào?

Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có nhân là không có nghiệp”.

Người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Không có nghiệp sinh cho quả (janakahetu), cũng không có nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp. Nghĩa là không có thiện-nghiệp cho quả an-lạc, không có ác- nghiệp cho quả khổ; cũng không có thiện-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp, không có ác-nghiệp hỗ trợ cho quả của nghiệp”.

Như vậy, người có vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Tất cả mọi chúng-sinh hiện hữu trong cõi đời này theo tự nhiên, không do quả của thiện- nghiệp, không do quả của ác-nghiệp nào cả. Tất cả mọi chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, đến thời kỳ được trong sạch thanh-tịnh tự nhiên. Cho nên, tất cả mọi chúng-sinh là người ác và người thiện; kẻ ngu và bậc trí, trải qua tử sinh luân-hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời-kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy”.

 

Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta(1) vị Đạo-sư ngoại đạo Makkhaligosāla có tà thuyết Ahetukadiṭṭhi: vô-nhân tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có nhân là không có nghiệp” như sau:

  • Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm. Tất cả chúng-sinh bị ô nhiễm tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.
  • Không có nhân nào, không có duyên nào làm cho tất cả chúng-sinh được trong sạch thanh-tịnh. Tất cả chúng- sinh được trong sạch thanh-tịnh tự nhiên, không do nhân nào, duyên nào cả.
  • Không có nghiệp riêng của mình, không có nghiệp của người khác. Tất cả chúng-sinh sống tùy thuộc vào sự may, sự rủi, thọ khổ tự nhiên, thọ lạc tự nhiên.
  • Tất cả chúng-sinh là người ác, người thiện; kẻ ngu, bậc trí, trải qua tử sinh luân-hồi nhiều đời nhiều kiếp, đến thời-kỳ nào đó cũng đều giải thoát khổ cả thảy.

Người có vô-nhân tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả an-lạc của thiện-nghiệp, quả khổ của ác-nghiệp.

  1. Vô-hành tà-kiến như thế nào?

Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến cố-định là tà-kiến thấy sai chấp lầm cố-định, không thay đổi rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện”.

Người có vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai chấp lầm rằng: “Người tạo ác-nghiệp không có hành ác, người tạo thiện-nghiệp không có hành thiện. Hành chỉ là hành mà thôi, không có hành ác, không có hành thiện”.

1 Dī. Sīlakkhandhavagga, kinh Sāmaññaphalasutta.

 

Như trong bài kinh Sāmaññaphalasutta vị Đạo-sư ngoại đạo Puraṇakassapa có tà thuyết Akiriyadiṭṭhi: vô-hành tà-kiến cố-định thấy sai, chấp lầm rằng: “Không có hành ác, không có hành thiện” như sau:

* Tự mình hành ác, sai khiến hành ác đều không có hành ác như:

  • Tự mình sát-sinh, sai khiến người khác sát-sinh đều không có hành ác sát-sinh.
  • Tự mình trộm-cắp, sai khiến người khác trộm-cắp

đều không có hành ác trộm-cắp, v.v…

  • Tự mình bố-thí, khuyên dạy người khác bố-thí đều không có hành thiện bố-thí.
  • Tự mình cúng-dường, khuyên dạy người khác cúng- dường đều không có hành thiện cúng-dường, v.v…

Người có vô-hành tà-kiến cố-định này là người phủ nhận nhân đó là thiện-nghiệp, ác-nghiệp, cũng có nghĩa là phủ nhận quả của thiện-nghiệp, quả của ác-nghiệp.

Ba loại tà-kiến cố-định này là ác-nghiệp cực kỳ nặng hơn 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, bởi vì, người có loại tà-kiến cố-định này hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp của họ.

Tuy người ấy không tin nghiệp và quả của nghiệp, nhưng sự thật, người ấy đã tạo ác-nghiệp cực kỳ nặng, nên sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định ấy có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, phải chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, không có hạn định.

 

* Tính chất của 3 ác-nghiệp tà-kiến cố-định

Trong tất cả mọi loại ác-nghiệp, chỉ có 3 loại ác- nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này là trọng-tội cực kỳ nặng mà thôi, không có ác-nghiệp nào tội nặng hơn 3 loại ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này.

5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật và chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng, cũng không nặng bằng 3 loại ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này, bởi vì người có ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này hoàn toàn phủ nhận nghiệp và quả của nghiệp, hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp.

Cho nên, họ không chịu lắng nghe lời giáo huấn của chư bậc thiện-trí, không thực-hành theo lời giáo huấn của chư bậc thiện-trí.

Tuy họ thường hành ác-nghiệp, nhưng họ không tin ác-nghiệp sẽ cho quả khổ trong kiếp hiện-tại lẫn nhiều kiếp vị-lai, nên họ không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, không biết ăn năn sám hối tội-lỗi của mình, nên không từ bỏ ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố- định này.

Cho nên, chính do tâm tà-kiến chấp-thủ cố-định này, nên họ càng ngày càng lún sâu vào tội-lỗi.

Người có ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định này, tuy họ không tin có kiếp sau, nhưng sau khi họ chết, chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định có quyền ưu tiên, có cơ hội ưu tiên cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhikāla) trong cõi đại-địa-ngục Avīci, mà không có nghiệp nào có khả năng ngăn cản được, phải chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định ấy suốt thời gian lâu dài trải qua nhiều đại-kiếp trái đất, không có thời hạn.

 

Người có ác-nghiệp tà-kiến cố-định chấp-thủ sống trong kiếp hiện-tại như thế nào?

Người có ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố-định là người hoàn toàn không tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, nghĩa là không tin rằng:

Ác-nghiệp cho quả khổ, còn thiện-nghiệp cho quả an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Đối với người có ác-nghiệp tà-kiến chấp-thủ cố- định thì sự khổ hoặc sự an-lạc trong cuộc sống chỉ là điều rủi, điều may mà thôi. Cho nên, trong kiếp sống hiện-tại, nếu khi có cơ hội thì người ấy có thể tạo mọi ác-nghiệp, bởi vì họ hoàn toàn không tin rằng: “làm ác tội, làm thiện phước, nghiệp của riêng mình.”

Người ấy không dám làm ác, không phải là họ sợ tội- lỗi, mà họ sợ vi phạm pháp luật của nhà nước, thì họ bị bắt phạt, bắt giam trong tù, hoặc e ngại người khác chê trách mà lánh xa họ.

Nếu nghề nào không phạm pháp, được nhà nước cho phép ví như làm nghề sát-sinh giết mổ gia súc, gia cầm để bán thịt thì người ấy hăng hái giết mổ các loài gia súc, các loài gia cầm bán thịt, cốt để thu được nhiều lợi, rồi họ nộp thuế cho nhà nước, sống hợp pháp.

Nếu xét về nghiệp thì người ấy đã tạo ác-nghiệp sát- sinh, thuộc về tà-nghiệp, sống tà-mạng kiếp hiện-tại.

Nếu người ấy là người giàu có thì tham gia vào những việc từ thiện, đem của cải, tài sản của mình giúp đỡ cứu trợ những người gặp cảnh thiên tai bão lụt, ... những người gặp hoạn nạn, những người tàn tật, nghèo khổ, … không phải có tác-ý tạo phước-thiện bố-thí (vì họ không tin phước), mà có lòng thương người, muốn giúp đỡ cứu trợ người trong cảnh khổ, để được danh thơm tiếng tốt được mọi người biết đến họ trong kiếp hiện-tại này.

 

Tà-kiến (micchādiṭṭhi)

Tà-kiến phát sinh do nhân nào?

Trong Chi-bộ-kinh, phần pháp 2 chi, Đức-Phật thuyết dạy tà-kiến (micchādiṭṭhi) phát sinh do 2 nhân-duyên:

“Dveme      Bhikkhave,      paccayā      micchādiṭṭhiyā uppādāya. Katame dve?

Parato ca ghoso, ayoniso ca manasikāro.

Ime   kho   bhikkhave,   dve   paccayā   micchādiṭṭhiyā uppādāya”.

  • Này chư tỳ-khưu! Do 2 nhân-duyên làm phát sinh tà- kiến. Hai nhân-duyên ấy là gì?
    1. Parato ca ghoso: Lắng nghe tà-pháp từ hạng người có tà-kiến.
    2. Ayoniso ca manasikāro: Biết trong tâm với si-tâm không biết đúng 4 trạng-thái của các pháp hữu vi.
  • Này chư tỳ-khưu! Do 2 nhân-duyên ấy làm phát sinh tà-kiến.

Giải Thích

Ayoniso ca manasikāro: biết trong tâm với si-tâm không biết đúng 4 trạng-thái của tất cả sắc-pháp, danh- pháp tam-giới như sau:

  • Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-thường (anicca) thì do si-tâm biết đảo ngược cho là thường (nicca).
  • Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái khổ (dukkha) thì do si-tâm biết đảo ngược cho là lạc (sukha).
  • Sắc-pháp, danh-pháp có trạng-thái vô-ngã (anattā) thì do si-tâm biết đảo ngược cho là ngã (attā).
  • Sắc-pháp, danh-pháp trạng-thái bất-tịnh (asubha) thì do si-tâm biết đảo ngược cho là tịnh (subha).

Ayonisomanasikāra: biết trong tâm với si-tâm biết đảo ngược 4 trạng-thái của tất cả sắc-pháp, danh-pháp tam-

 

giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh làm nhân-duyên phát sinh micchādiṭṭhi : tà-kiến, cũng làm nhân-duyên phát sinh vipallāsa: pháp-đảo-điên.

Vipallāsa: pháp-đảo-điên có 3 loại:

  1. Diṭṭhivipallāsa: tà-kiến đảo-điên thấy đảo ngược nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là thường, lạc, ngã, tịnh.
  2. Cittavipallāsa: tâm đảo-điên biết đảo ngược nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là thường, lạc, ngã, tịnh.
  3. Saññāvipallāsa: tưởng đảo-điên tưởng đảo ngược nơi sắc-pháp, danh-pháp cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

Như vậy, pháp-đảo-điên có 3 loại, mà mỗi loại có 4 pháp, cho nên, gồm có 12 pháp-đảo-điên làm nhân- duyên phát sinh tà-kiến.

Vấn: * Tại sao trong 10 ác-nghiệp không có tên riêng

ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say?

Đáp: Uống rượu, bia và các chất say là 1 trong ngũ- giới, trong bát-giới uposathasīla, trong cửu-giới uposatha- sīla, trong thập-giới uposathasīla, trong sa-di-giới, trong tỳ-khưu-giới, nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, thì chắc chắn người ấy tạo ác- nghiệp uống rượu, bia và các chất say.

Sở dĩ không có tên gọi là ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say là vì ác-nghiệp này có tính chất bất định.

Nếu người nào phạm điều-giới uống rượu, bia và các chất say, rồi tạo ác-nghiệp nào, thì ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say của người ấy được ghép vào ác-nghiệp ấy, cho nên, ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say liên quan với 10 ác-nghiệp.

Vì vậy, ác-nghiệp uống rượu, bia và các chất say có tính chất bất định, nên không có tên gọi ác-nghiệp riêng

 

biệt, ác-nghiệp này tùy thuộc vào ác-nghiệp nào mà nó liên quan thì nó có tên chung với ác-nghiệp ấy.(1)

Giải thích nguồn gốc phát sinh mỗi ác-nghiệp

  • 3 ác-nghiệp là ác-nghiệp tà-dâm, ác-nghiệp tham lam, ác-nghiệp tà-kiến, cả 3 loại ác-nghiệp này được phát sinh do từ gốc tham-tâm (lobhamūlacitta).
  • 3 ác-nghiệp là ác-nghiệp sát-sinh, ác-nghiệp nói lời thô tục, ác-nghiệp thù hận, cả 3 loại ác-nghiệp này được phát sinh do từ gốc sân-tâm (dosamūlacitta).
  • 4 ác-nghiệp là ác-nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp nói- dối, ác-nghiệp nói lời chia rẽ, ác-nghiệp nói lời vô ích, cả 4 loại ác-nghiệp này được phát sinh khi thì do từ gốc tham-tâm, khi thì do từ gốc sân-tâm như sau:
  • Ác-nghiệp trộm-cắp được phát sinh do từ gốc tham- tâm, nghĩa là trộm-cắp của cải, tài sản của người khác đem về làm của riêng mình.
  • Ác-nghiệp trộm-cắp được phát sinh do từ gốc sân- tâm, nghĩa là trộm-cắp của cải, tài sản của người khác, không phải muốn lấy làm của riêng mình, mà chỉ để phá hoại của cải, tài sản của người ấy, bởi vì, người ấy là kẻ thù của mình.
  • Ác-nghiệp nói-dối được phát sinh do từ gốc tham- tâm, nghĩa là nói-dối, lừa gạt người khác để có lợi cho mình.
  • Ác-nghiệp nói-dối được phát sinh do từ gốc sân-tâm, nghĩa là nói-dối vu oan giá họa người ấy để làm khổ người ấy, bởi vì thù ghét người ấy.

1 Tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển III, Pháp-Hành-Giới, trang 80, cùng soạn giả.

 

  • Ác-nghiệp nói lời chia rẽ được phát sinh do từ gốc tham-tâm, nghĩa là nói lời chia rẽ giữa người này với người kia, để muốn cho hai người ấy nghi kỵ lẫn nhau, rồi ghét bỏ xa lánh nhau, đồng thời để cho hai người ấy tin cậy nơi mình, mà thương yêu mình.
  • Ác-nghiệp nói lời chia rẽ được phát sinh do từ gốc sân-tâm, nghĩa là nói lời chia rẽ hai người thân nhau, để cho hai người ấy nghi kỵ lẫn nhau, rồi ghét bỏ nhau, chia rẽ nhau, bởi vì không muốn hai người ấy thân yêu với nhau, cốt để trả thù.
  • Ác-nghiệp nói lời vô ích được phát sinh do từ gốc tham-tâm, nghĩa là nói lời vô ích, hoặc viết những câu chuyện hài hước, v.v… để vui cười, để đem lại sự lợi ích cho mình.
  • Ác-nghiệp nói lời vô ích được phát sinh do từ gốc sân-tâm, nghĩa là nói lời vô ích, hoặc viết những câu chuyện hoang đường không có thật, có tác-ý làm cho người nghe, người đọc mất lợi ích, gây ra sự tai hại đến với họ.

Đó là ác-nghiệp riêng biệt được phát sinh trực tiếp từ gốc tham-tâm hoặc gốc sân-tâm. Còn 10 ác-nghiệp nói chung được phát sinh đều có gốc si-tâm trong mỗi ác- nghiệp ấy.

10 loại ác-nghiệp do thân, khẩu, ý

  • Thân ác-nghiệp có 3 loại:
    • Ác-nghiệp sát-sinh.
    • Ác-nghiệp trộm-cắp.
    • Ác-nghiệp tà-dâm.
  • Khẩu ác-nghiệp có 4 loại:
    • Ác-nghiệp nói-dối.
    • Ác-nghiệp nói lời chia rẽ.

 

    • Ác-nghiệp nói lời thô tục.
    • Ác-nghiệp nói lời vô ích.
  • Thân ác-nghiệp có 3 loại:
  • Ác-nghiệp tham lam của cải, tài sản của người khác.
  • Ác-nghiệp thù hận người khác.
  • Ác-nghiệp tà-kiến thấy sai chấp lầm.

30 loại ác-nghiệp tính theo 3 thời-kỳ tác-ý

10 loại ác-nghiệp này nếu tính theo 3 thời-kỳ tác-ý thì có 30 loại ác-nghiệp như sau:

  1. Pubbacetanā: Tác-ý ác-tâm phát sinh trước khi tạo 10 ác-nghiệp.
  2. Muñcacetanā: Tác-ý ác-tâm phát sinh đang khi tạo

10 ác-nghiệp.

  1. Aparacetanā: Tác-ý ác-tâm phát sinh sau khi đã tạo 10 ác-nghiệp.

Như vậy, 10 loại ác-nghiệp nhân với 3 thời-kỳ tác-ý ác-tâm thành 30 loại ác-nghiệp.

40 loại ác-nghiệp tính theo 4 hạng người

10 loại ác-nghiệp này tính theo 4 hạng người thì

40 loại ác-nghiệp như sau:

  1. Sāhatthikaduccarita: Tự mình tạo 10 ác-nghiệp.
  2. Āṇattikaduccarita: Sai khiến người tạo 10 ác-nghiệp.
  3. Vaṇṇabhāsanaduccarita: Tán dương ca tụng người tạo 10 ác-nghiệp.
  4. Samanuññāduccarita: Tâm hài lòng hoan hỷ trong

10 ác-nghiệp.

Ví dụ: Tạo ác-nghiệp sát-sinh

  1. Người tự mình sát hại chúng-sinh.
  2. Sai khiến, ra lệnh người khác sát hại chúng-sinh.
  3. Người tán dương ca tụng người sát hại chúng-sinh.

 

  1. Người phát sinh ác-tâm hoan hỷ khi thấy, khi nghe người khác sát hại chúng-sinh.

Người tự mình sát hại chúng-sinh ấy, hoặc người sai khiến người khác sát hại chúng-sinh ấy, hoặc người tán dương ca tụng người sát hại chúng-sinh ấy, cả 3 hạng người ấy đã tạo ác-nghiệp sát-sinh hội đủ 5 chi-pháp.

Còn hạng người nào phát sinh ác-tâm hoan hỷ khi thấy, nghe người khác sát hại chúng-sinh ấy, người ấy cũng đã tạo ác-nghiệp sát-sinh không hội đủ chi-pháp.

Như vậy, 10 loại ác-nghiệp nhân với 4 hạng người

thành 40 loại ác-nghiệp.

Quả của thân hành-ác và khẩu hành-ác

Trong kinh Duccaritavipākasutta(1) Đức-Phật thuyết dạy về quả của thân hành-ác và quả của khẩu hành-ác:

  • Này chư tỳ-khưu! Người nào đã tạo ác-nghiệp sát- sinh, thường sát-sinh, sát-sinh nhiều, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp sát-sinh ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, trong loài súc-sinh, trong loài ngạ-quỷ.

Nếu ác-nghiệp sát-sinh nhẹ không có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau (trong cõi ác-giới), mà do nhờ đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau làm người, thì người ấy sẽ là người chết yểu.

  • Này chư tỳ-khưu! Người nào đã tạo ác-nghiệp trộm- cắp, thường trộm-cắp, trộm-cắp nhiều, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp trộm-cắp ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, trong loài súc-sinh, trong loài ngạ-quỷ.

Nếu ác-nghiệp trộm-cắp nhẹ không có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau (trong cõi ác-giới), mà do nhờ đại-

1 Aṅguttaranikāya, Aṭṭhakanipāta, kinh Duccaritavipākasutta.

 

thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau làm người, thì người ấy sẽ là người có của cải, tài sản bị khánh kiệt, nghèo khổ thiếu thốn.

  • Này chư tỳ-khưu! Người nào đã tạo ác-nghiệp tà- dâm, thường tà-dâm, tà-dâm nhiều, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp tà-dâm ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, trong loài súc-sinh, trong loài ngạ-quỷ.

Nếu ác-nghiệp tà-dâm nhẹ không có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau (trong cõi ác-giới), mà do nhờ đại- thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau làm người, thì người ấy sẽ là người có nhiều người thù, có nhiều người oan trái.

  • Này chư tỳ-khưu! Người nào đã tạo ác-nghiệp nói- dối, thường hay nói-dối, nói-dối nhiều lần, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp nói-dối ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, trong loài súc-sinh, trong loài ngạ-quỷ.

Nếu ác-nghiệp nói-dối nhẹ không có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau (trong cõi ác-giới), mà do nhờ đại- thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau làm người thì người ấy sẽ là người thường bị vu oan giá họa với những điều không có thật.

  • Này chư tỳ-khưu! Người nào đã tạo ác-nghiệp nói lời chia rẽ, thường hay nói lời chia rẽ, nói lời chia rẽ nhiều lần, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp nói lời chia rẽ ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, trong loài súc- sinh, trong loài ngạ-quỷ.

Nếu ác-nghiệp nói lời chia rẽ nhẹ không có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau (trong cõi ác-giới), mà do nhờ đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau làm người thì người ấy sẽ là người thường bị bạn bè xa lánh.

 

  • Này chư tỳ-khưu! Người nào đã tạo ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc), thường hay nói lời thô tục, nói lời thô tục nhiều lần, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp nói lời thô tục ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, trong loài súc-sinh, trong loài ngạ-quỷ.

Nếu ác-nghiệp nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) nhẹ không có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau (trong cõi ác-giới), mà do nhờ đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau làm người thì người ấy sẽ là người thường nghe những lời nói cay độc.

  • Này chư tỳ-khưu! Người nào đã tạo ác-nghiệp nói lời vô ích, thường hay nói lời vô ích, nói lời vô ích nhiều lần, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp nói lời vô ích ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, trong loài súc-sinh, trong loài ngạ-quỷ.

Nếu ác-nghiệp nói lời vô ích nhẹ không có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau (trong cõi ác-giới), mà do nhờ đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau làm người thì người ấy sẽ là người nói điều gì cũng không ai tin tưởng, thường bị chống đối.

  • Này chư tỳ-khưu! Người nào đã tạo ác-nghiệp uống rượu và các chất say, thường hay uống rượu và các chất say, uống rượu và các chất say nhiều lần, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp uống rượu và các chất say ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, trong loài súc-sinh, trong loài ngạ-quỷ.

Nếu ác-nghiệp uống rượu và các chất say nhẹ không có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau (trong cõi ác- giới), mà do nhờ đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh kiếp sau làm người thì người ấy sẽ là người điên loạn trí.

(Xong bài kinh Duccaritavipākasutta)

 

Ý ác-nghiệp có nhiều năng lực nhất

Trong 3 loại nghiệp: thân ác-nghiệp, khẩu ác-nghiệp ý ác-nghiệp này, thì ý ác-nghiệp có nhiều năng lực hơn thân ác-nghiệp khẩu ác-nghiệp.

Thật vậy, tìm hiểu bài kinh Upālisutta(1) được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại khu rừng xoài của phú hộ Pāvārika gần thành Nālandā. Khi ấy, vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta cùng nhóm đệ-tử trú tại xứ Nālandā. Một hôm, người đệ-tử của vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta tên là Dīghatapassī đi vào thành Nālandā khất thực, sau khi thọ thực xong, tu-sĩ Dīghatapassī đến hầu viếng Đức-Thế-Tôn tại khu vườn xoài của phú hộ Pāvārika, sau khi thăm hỏi xong ngồi một nơi hợp lẽ, Đức-Thế-Tôn truyền hỏi tu-sĩ Dīghatapassī rằng:

  • Này Tapassī! Vị Nigaṇṭha Nāṭaputta chế định nghiệp, tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp có bao nhiêu loại?

Tu-sĩ Dīghatapassī bạch rằng:

Dī: - Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta không chế định nghiệp, mà thường chế định “daṇḍa: hành hạ”.

ĐP: - Này Tapassī! Vị Nigaṇṭha Nāṭaputta chế định sự hành hạ trong việc tạo ác-nghiệp trở thành ác-nghiệp có bao nhiêu loại?

Dī: - Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta chế định sự hành hạ trong việc tạo ác-nghiệp trở thành ác-nghiệp có 3 loại là:

  1. Kāyadaṇḍa: Sự hành hạ bằng thân.
  2. Vacīdaṇḍa: Sự hành hạ bằng khẩu.

1 Majjhimanikāya, Majjhimapaṇṇāsa, kinh Upālisutta.

 

  1. Manodaṇḍa: Sự hành hạ bằng ý.

ĐP: - Này Tapassī! Trong 3 loại hành hạ là sự hành hạ bằng thân, sự hành hạ bằng khẩu, sự hành hạ bằng ý; vị Nigaṇṭha Nāṭaputta đã chế định sự hành hạ nào có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp?

Dī: - Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, trong 3 loại hành hạ khác nhau ấy, vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta đã chế định “loại hành hạ bằng thân (kāyadaṇḍa)” có tội- ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp. Và chế định hành hạ bằng khẩu và hành hạ bằng ý không có tội-ác nghiêm trọng trong việc tạo ác- nghiệp, trở thành ác-nghiệp bằng sự hành hạ bằng thân. Bạch Ngài.

Đức-Phật đã hỏi lại 3 lần, vị tu-sĩ Dīghatapassī cũng khẳng định lại 3 lần như trước, rồi tu-sĩ Dīghatapassī bạch hỏi Đức-Phật rằng:

Dī: - Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, Ngài chế định “sự hành hạ (daṇḍa)” trong việc tạo ác-nghiệp trở thành ác-nghiệp có bao nhiêu loại? Bạch Ngài.

ĐP: - Này Tapassī! Như-Lai không chế định“sự hành hạ (daṇḍa)” mà thường chế định “nghiệp (kamma).”

Dī: - Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, Ngài chế định “nghiệp (kamma)” trong việc tạo ác-nghiệp trở thành ác-nghiệp có bao nhiêu loại? Bạch Ngài.

ĐP: - Này Tapassī! Như-Lai chế định nghiệp (kamma) trong việc tạo ác-nghiệp trở thành ác-nghiệp có 3 loại:

  • Thân ác-nghiệp (kāya-akusalakamma).
  • Khẩu ác-nghiệp (vacī-akusalakamma).
  • Ý ác-nghiệp (mano-akusalakamma).

Dī: - Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, trong 3 loại

 

ác-nghiệp là thân ác-nghiệp, khẩu ác-nghiệp, ý ác- nghiệp, Ngài đã chế định loại ác-nghiệp nào có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp? Bạch Ngài.

ĐP: - Này Tapassī! Trong 3 loại ác-nghiệp khác nhau ấy, Như-Lai đã chế định loại ý ác-nghiệp có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp, và chế định loại thân ác-nghiệp khẩu ác- nghiệp không có tội-ác nghiêm trọng trong việc tạo ác- nghiệp, trở thành ác-nghiệp bằng ý ác-nghiệp.

Tu-sĩ Dīghatapassī bạch hỏi lại Đức-Thế-Tôn 3 lần, Đức-Thế-Tôn cũng khẳng định lại 3 lần như trước, rồi tu-sĩ Dīghatapassī xin phép từ giã Đức-Thế-Tôn trở về gặp vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta.

Khi ấy, vị Đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta đang ngồi tại hội trường giữa nhóm đệ-tử tu-sĩ và cư-sĩ có ông phú hộ Upāli là người trưởng nhóm cư-sĩ.

Nhìn thấy Dīghatapassī từ xa trở về, vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta hỏi rằng:

Nig- Này Tapassī! Con từ đâu trở về lúc này vậy?

Tu-sĩ Dīghatapassī thưa rằng:

Dī: - Kính thưa Thầy, con từ nơi tu viện của Ngài Sa- môn Gotama trở về. Thưa Ngài.

Nig: - Này Tapassī! Con có đàm luận với Ngài Sa- môn Gotama về vấn đề gì hay không?

Dī: - Kính thưa Thầy, con có đàm luận với Ngài Sa- môn Gotama.

Vị tu-sĩ Dīghatapassī liền tường thuật đầy đủ cuộc đàm luận giữa y với Đức-Phật cho vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta nghe. Sau khi nghe xong, vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta tán dương ca tụng rằng:

 

  • Này Tapassī! Những điều mà con đã trình bày với Ngài Sa-môn Gotama là đúng, con thật xứng đáng là một người đệ-tử tài giỏi hiểu rõ, biết rõ đúng theo lời dạy của thầy.

Thật ra, sự hành hạ bằng ý có đáng gì so với sự hành- hạ bằng thân. Sự thật, chỉ có sự hành hạ bằng thân mới có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác- nghiệp, trở thành ác-nghiệp mà thôi. Còn sự hành hạ bằng khẩu và sự hành hạ bằng ý không có tội-ác nghiêm trọng trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp bằng sự hành hạ bằng thân đâu!

Phú hộ Upāli xin phép đi đấu trí với Đức-Phật

Khi nghe vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta dạy như vậy, Ông phú hộ Upāli liền kính thưa với vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta rằng:

  • Kính thưa Thầy, vị Dīghatapassī đã trình bày đúng, tài giỏi thật! Những điều mà vị Dīghatapassī đã trình bày với Ngài Sa-môn Gotama đúng theo điều con đã nghe Thầy dạy. Vị Dīghatapassī là một người đệ-tử tài giỏi, hiểu rõ, biết rõ đúng theo lời dạy của Thầy.

Thật ra, sự hành hạ bằng ý quá nhẹ không đáng gì so với sự hành hạ bằng thân quá nặng. Sự thật, chỉ có sự hành hạ bằng thân mới có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp mà thôi. Còn sự hành hạ bằng khẩu và sự hành hạ bằng ý không có tội-ác nghiêm trọng trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp bằng sự hành hạ bằng thân đâu!

  • Kính thưa Thầy, như vậy, con sẽ đi đến đấu trí về vấn đề này với Ngài Sa-môn Gotama.

Nếu Ngài Sa-môn Gotama vẫn khẳng định với con như

 

đã khẳng định với vị Dīghatapassī như vậy, thì con sẽ hỏi vặn, hỏi vẹo, hỏi xuôi, hỏi ngược, hỏi qua, hỏi lại, bằng lời lẽ của con đối đáp lại lời lẽ của Ngài Sa-môn Gotama, ví như một người đàn ông khoẻ mạnh nắm bộ lông dài của con cừu non kéo qua kéo lại như vậy.

Con sẽ bắt bẻ, hỏi vặn vẹo bằng lời lẽ của con đối đáp lại lời lẽ của Ngài Sa-môn Gotama, ví như một người đàn ông khoẻ mạnh làm việc trong xưởng nấu rượu, nhúng cái vợt vớt rác xuống nồi rượu kéo qua kéo lại như vậy.

Con sẽ vặn, chà xát, bóp chặt bằng lời lẽ của con đối đáp lại lời lẽ của Ngài Sa-môn Gotama, ví như người đàn ông khoẻ mạnh là người nghiện rượu, cầm chén rượu nghiêng qua ngửa lại như vậy, v.v…

  • Kính thưa Thầy, con xin đến gặp Ngài Sa-môn Gotama, để đấu trí về vấn đề này bằng lời lẽ của con đối đáp lại với lời lẽ của Ngài Sa-môn Gotama.

Vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta động viên khuyến khích ông phú hộ Upāli rằng:

  • Này ông phú hộ! Ngươi nên đi, ngươi là người nên đi đấu trí về vấn đề này bằng lời lẽ của ngươi đối đáp lại với lời lẽ của Ngài Sa-môn Gotama.

Khi nghe vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta động viên khuyến khích như vậy, vị tu-sĩ Dīghatapassī thưa với vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta rằng:

  • Kính thưa Thầy, điều mà Thầy động viên khuyến khích ông phú hộ Upāli đến gặp Ngài Sa-môn Gotama để đấu trí bằng lời lẽ của mình đối đáp lại với lời lẽ của Ngài Sa-môn Gotama ấy, con không hài lòng chút nào, con không yên tâm chút nào, bởi vì Ngài Sa-môn Gotama là Bậc có nhiều xảo thuật kỳ-diệu, cho nên đã

 

có nhiều người đệ-tử ngoại-đạo chịu bái phục, rồi xin làm đệ-tử của Ngài Sa-môn Gotama.

Vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta tin tưởng chắc chắn rằng điều đó không thể xảy ra đối với ông phú hộ Upāli, cho nên, vị đạo-sư quả quyết bảo rằng:

  • Này Tapassī! Điều mà phú hộ Upāli sẽ trở thành đệ- tử của Ngài Sa-môn Gotama đó là điều không phải là nhân, không phải duyên có thể xảy ra được, nhưng ngược lại, điều mà Ngài Sa-môn Gotama khâm phục phú hộ Upāli, đó là điều có thể xảy ra được.
  • Này ông phú hộ Upāli! Ngươi nên đi, ngươi là người nên đi đấu trí về vấn đề này bằng lời lẽ của ngươi đối đáp lại với lời lẽ của Ngài Sa-môn Gotama.

Tuy người đệ-tử Dīghatapassī khuyên can vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta không nên cho ông phú hộ Upāli đi đầu trí với Ngài Sa-môn Gotama đến 3 lần, nhưng vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta không quan tâm đến lời khuyên của người đệ-tử Dīghatapassī của mình, mà vẫn động viên khuyến khích ông phú hộ Upāli đi đấu trí về vấn đề ấy bằng lời lẽ của ông đối đáp lại với lời lẽ của Ngài Sa-môn Gotama.

Phú hộ Upāli đến gặp Đức-Phật

Được sự động viên khuyến khích của vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta, ông phú hộ Upāli lễ bái vị Đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta, rồi xin phép đi đến khu rừng xoài của ông phú hộ Pāvārika gặp Đức-Phật. Ông phú hộ Upāli cung-kính đảnh lễ Đức-Phật xong, ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch hỏi Đức-Phật rằng:

  • Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, vị tu-sĩ Dīgha- tapassī có đến nơi đây hay không? Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

 

  • Này phú hộ Upāli! Vị tu-sĩ Dīghatapassī có đến tại nơi đây.
  • Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, Ngài Sa-môn có đàm luận với vị tu-sĩ Dīghatapassī về vấn đề gì hay không? Bạch Ngài.
  • Này phú hộ Upāli! Như-Lai có đàm đạo với vị tu-sĩ Dīghatapassī.

Đức-Thế-Tôn thuật lại cho ông phú hộ Upāli cuộc

đàm luận giữa Ngài với vị tu sĩ Dīghatapassī.

Khi nghe Đức-Thế-Tôn thuật lại xong, ông phú hộ Upāli bèn bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:

Upā: - Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, vị tu-sĩ Dīgha- tapassī thật là tài giỏi! Những điều mà vị tu-sĩ Dīghatapassī đã trình bày với Ngài Sa-môn là đúng như những điều mà tôi đã nghe, đã học hỏi từ vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta.

Vị tu-sĩ Dīghatapassī là một người đệ-tử tài giỏi đã hiểu rõ, biết rõ đúng theo lời dạy của vị đạo-sư Nigaṇṭha Nāṭaputta.

Thật ra, sự hành hạ bằng thân mới có nhiều năng lực nghiêm trọng nhất, còn sự hành hạ bằng ý có ít năng lực, không có tội đáng kể.

  • Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, sự thật, chỉ có sự hành hạ bằng thân mới có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp mà thôi. Còn sự hành hạ bằng khẩu sự hành hạ bằng ý không thể có tội-ác nghiêm trọng trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp bằng sự hành hạ bằng thân đâu!

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Nếu nhà ngươi quả quyết, khẳng định những điều đó là đúng, thì Như-Lai và nhà ngươi sẽ đàm luận về vấn đề này.

 

Upā: - Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, con xin quả quyết, khẳng định những điều đó là đúng.

Vậy, con xin tranh luận với Ngài Sa-môn về vấn đề này.

Đức-Phật hỏi những câu hỏi

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Nhà ngươi nhận thức thế nào về điều này:

Trong đời này, người đệ-tử của Nigaṇṭha bị lâm bệnh nặng, đau khổ, bệnh trầm trọng, mà bệnh nhân ấy bị cấm không được uống nước lạnh, chỉ được phép uống nước nóng mà thôi. Bệnh nhân ấy đã bị chết vì không được uống nước lạnh.

  • Này phú hộ Upāli! Vị Nigaṇṭha Nāṭaputta chế định sự tái-sinh kiếp sau của người đệ-tử của Nigaṇṭha ấy trong cõi giới nào?

Upā: - Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, vị Nigaṇṭha Nāṭaputta chế định trong cõi chư-thiên có tên là cõi Manosatta (chư-thiên có tâm dính mắc),” bởi vì trong lúc lâm chung, người đệ-tử Nigaṇṭha có tâm dính mắc trong cõi chư-thiên manosatta, cho nên, sau khi người đệ-tử Nigaṇṭha bệnh nhân chết, do tâm dính mắc trong cõi chư-thiên manosatta, nên tái-sinh kiếp sau trong cõi chư-thiên manosatta ấy.

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Nhà ngươi nên suy xét kỹ, nên thận trọng trả lời, đừng để cho lời nói sau trái với lời nói trước, hoặc đừng để lời nói trước nghịch với lời nói sau.

  • Này phú hộ Upāli! Chính nhà ngươi đã bạch với Như-Lai rằng: “Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, sự thật, chỉ có sự hành hạ bằng thân mới có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp mà thôi. Còn sự hành hạ bằng khẩu sự hành hạ

 

bằng ý không thể có tội-ác nghiêm trọng trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp bằng sự hành hạ bằng thân đâu! Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, con xin quả quyết, khẳng định những điều đó là đúng.

Vậy, con xin tranh luận với Ngài Sa-môn về vấn đề này.”

Upā: - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài đã thuyết dạy lời lẽ đúng sự thật. Mặc dù vậy, đối với con chỉ có sự hành hạ bằng thân này có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp mà thôi.

Còn sự hành hạ bằng khẩu và sự hành hạ bằng ý không thể có tội-ác nghiêm trọng trong việc tạo ác- nghiệp, trở thành ác-nghiệp bằng sự hành hạ bằng thân.

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Nhà ngươi nhận thức thế nào về điều này:

Trong đời này, người đệ-tử Nigaṇṭha là người phải nên cẩn trọng 4 điều cấm:

  • Hoàn toàn không được phép uống nước lạnh(1) (còn có nghĩa là tránh xa mọi tội-ác).
  • Hoàn toàn không được làm các điều-ác.
  • Phải diệt mọi tội-ác bằng cách tránh xa hoàn toàn hành-ác.
  • Khi tiếp xúc, hoàn toàn không làm mọi tội-ác.”

Vậy, khi bước tới trước, khi bước lui lại sau, đạp nhằm những chúng-sinh (sinh vật) nhỏ bé bị chết.

  • Này ông phú hộ Upāli, như vậy, vị Nigaṇṭha Nāṭa- putta chế định quả của nghiệp ấy như thế nào đối với người đệ-tử Nigaṇṭha ấy.

Upā:- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vị Nigaṇṭha Nāṭaputta không chế định nghiệp trong hành động không có tác-ý. Nếu không có tác-ý thì không có tội-ác nặng nào cả.

1 Bởi vì trong nước lạnh có sinh-vật.

 

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Nếu có tác-ý thì sao?

Upā: - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, nếu có tác-ý thì có tội-ác nặng.

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Vị Nigaṇṭha Nāṭaputta chế định khi hành động có tác-ý thì thuộc về loại daṇḍa (sự hành hạ) nào trong 3 loại hành hạ?

Upā:- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vị Nigaṇṭha Nāṭaputta chế định khi hành động có tác-ý thì thuộc về sự hành hạ bằng ý (manodaṇḍa).

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Nhà ngươi nên suy xét kỹ, nên thận trọng trả lời, đừng để cho lời nói sau trái với lời nói trước, hoặc đừng để lời nói trước nghịch với lời nói sau.

  • Này phú hộ Upāli! Chính nhà ngươi đã bạch với Như-Lai rằng: “Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, sự thật, chỉ có sự hành hạ bằng thân mới có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp mà thôi. Còn sự hành hạ bằng khẩu sự hành hạ bằng ý không thể có tội-ác nghiêm trọng trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp bằng sự hành hạ bằng thân đâu! Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, con xin quả quyết, khẳng định những điều đó là đúng.

Vậy, con xin tranh luận với Ngài Sa-môn về vấn đề này.”

Upā: - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài đã thuyết dạy lời lẽ đúng sự thật. Mặc dù vậy, đối với con chỉ có sự hành hạ bằng thân này có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp mà thôi.

Còn sự hành hạ bằng khẩu và sự hành hạ bằng ý không thể tội-ác nghiêm trọng trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp bằng sự hành hạ bằng thân.

 

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Nhà ngươi nhận thức thế nào về điều này:

Thành-phố Nālandā là thành phố rất trù phú, rất phát triển, có nhiều loài chúng-sinh, có nhiều người đông đúc, có phải không?

Upā: - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đúng vậy! Thành phố Nālandā là thành phố rất trù phú, rất phát triển, có nhiều loài chúng-sinh, có nhiều người đông đúc. Bạch Ngài.

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Nhà ngươi nhận thức thế nào về điều này:

Trong thành-phố Nālandā này, có một người đàn ông cầm dao rồi tuyên bố rằng: “Tôi sẽ làm thịt tất cả mọi loài chúng-sinh, mọi người và chúng-sinh hết thảy trong thành phố Nālandā này, rồi bằm nát gom lại thành một đống thịt to lớn chỉ trong một khoảnh khắc (sát-na), một chớp nhoáng mà thôi.

  • Này phú hộ Upāli! Nhà ngươi nhận thức thế nào? Người đàn ông ấy có thể làm thịt tất cả mọi loài chúng- sinh, mọi người và chúng-sinh hết thảy trong thành phố Nālandā này, rồi bằm nát gom lại thành một đống thịt to lớn chỉ trong một khoảnh khắc (sát-na), một chớp nhoáng được hay không?

Upā: - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, dù có 10 người đàn ông, 20 người đàn ông, 30 người đàn ông, 40 người đàn ông, 50 người đàn ông hay nhiều người đàn ông hơn nữa cũng không thể làm thịt tất cả mọi loài chúng-sinh, mọi người và chúng-sinh hết thảy trong thành phố Nālandā này, rồi bằm nát gom lại thành một đống thịt to lớn chỉ trong một khoảnh khắc (sát-na), một chớp nhoáng, huống hồ chỉ có một người đàn ông thì làm sao mà làm nổi được! (chắc chắn là không làm được).

 

ĐP:- Này phú hộ Upāli! Nhà ngươi nhận thức thế nào? Một vị Sa-môn hoặc một vị Bà-la-môn có phép thần- thông phi thường, là bậc thuần thục trong phép thần-

thông. Đến thành phố Nālandā này, vị Sa-môn hoặc một

vị Bà-la-môn ấy tuyên bố rằng:

Ta sẽ làm cho thành-phố Nālandā này trở thành tro bụi với chỉ một sân-tâm phát sinh nghĩ tiêu diệt mà thôi.

  • Này phú hộ Upāli! Nhà ngươi nhận thức thế nào? Vị Sa-môn hoặc một vị Bà-la-môn ấy có phép thần-

thông phi thường, là bậc thuần thục trong phép thần-

thông, có thể làm cho thành phố Nālandā này trở thành tro bụi với chỉ một sân-tâm phát sinh nghĩ tiêu diệt được hay không?

Upā: - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, dù có 10 thành phố, 20 thành phố, 30 thành phố, 40 thành phố, 50 thành phố như thành phố Nālandā này, vị Sa-môn hoặc một vị Bà- la-môn ấy có phép thần-thông phi thường, là bậc thuần thục trong phép thần-thông, cũng có thể làm cho những thành phố ấy trở thành tro bụi với chỉ một sân-tâm phát sinh nghĩ tiêu diệt, huống hồ chỉ có một thành-phố Nālandā này mà thôi, sao mà không trở thành tro bụi được! (chắc chắn trở thành tro bụi mà thôi). Bạch Ngài.

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Nhà ngươi nên suy xét kỹ, nên thận trọng trả lời, đừng để cho lời nói sau trái với lời nói trước, hoặc đừng để lời nói trước nghịch với lời nói sau.

  • Này phú hộ Upāli! Chính nhà ngươi đã bạch với Như-Lai rằng: “Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, sự thật, chỉ có sự hành hạ bằng thân mới có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp mà thôi. Còn sự hành hạ bằng khẩu sự hành hạ

 

bằng ý không thể có tội-ác nghiêm trọng trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp bằng sự hành hạ bằng thân đâu! Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, con xin quả quyết, khẳng định những điều đó là đúng.

Vậy, con xin tranh luận với Ngài Sa-môn về vấn đề này.”

Upā: - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài đã thuyết dạy lời lẽ đúng sự thật. Mặc dù vậy, đối với con chỉ có sự hành-tội bằng thân này có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp mà thôi.

Còn sự hành hạ bằng khẩu và sự hành hạ bằng ý không thể có tội-ác nghiêm trọng trong việc tạo ác- nghiệp, trở thành ác-nghiệp bằng sự hành hạ bằng thân.

ĐP: - Này ông phú hộ Upāli, nhà ngươi nhận thức thế nào về điều này?

Khu rừng Daṇḍakī, khu rừng Kāliṅga, khu rừng Mejjha, khu rừng Mātaṅga, những khu rừng ấy trước khi trở thành khu rừng, nhà ngươi đã có nghe câu chuyện xảy ra như thế nào hay không?

Upā: - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đúng như vậy, khu rừng Daṇḍakī, khu rừng Kāliṅga, khu rừng Mejjha, khu rừng Mātaṅga, những khu rừng ấy trước khi trở thành khu rừng, con đã từng nghe câu chuyện xảy ra. Bạch Ngài.

ĐP: - Này ông phú hộ Upāli! Nhà ngươi đã từng nghe thế nào. Khu rừng Daṇḍakī, khu rừng Kāliṅga, khu rừng Mejjha, khu rừng Mātaṅga, những khu rừng ấy trước khi trở thành khu rừng.

Do nguyên nhân nào trở thành những khu rừng ấy?

Upā: - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con đã từng nghe kể lại rằng:

Sở dĩ trở thành khu rừng Daṇḍakī, khu rừng Kāliṅga, khu rừng Mejjha, khu rừng Mātaṅga, là vì con người

 

phát sinh ác-tâm làm khổ vị đạo-sĩ, làm hại vị đạo-sĩ, nên chư-thiên phát sinh sân-tâm nghĩ tiêu diệt con người, trở thành những khu rừng.

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Nhà ngươi nên suy xét kỹ, nên thận trọng trả lời, đừng để cho lời nói sau trái với lời nói trước, hoặc đừng để lời nói trước nghịch với lời nói sau.

  • Này phú hộ Upāli! Chính nhà ngươi đã bạch với Như-Lai rằng: “Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, sự thật, chỉ có sự hành hạ bằng thân mới có tội-ác nghiêm trọng nhất trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp mà thôi. Còn sự hành hạ bằng khẩu sự hành hạ bằng ý không thể có tội-ác nghiêm trọng trong việc tạo ác-nghiệp, trở thành ác-nghiệp bằng sự hành hạ bằng thân đâu! Kính bạch Ngài Sa-môn Gotama, con xin quả quyết, khẳng định những điều đó là đúng.

Vậy, con xin tranh luận với Ngài Sa-môn về vấn đề này.”

Phú hộ Upāli kính xin thọ phép quy y

Upā: - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn, ngay điều ví dụ đầu tiên, nhưng con rất tha thiết muốn nghe tài ứng đáp lưu loát bằng nhiều cách, những ví dụ khác nhau vô cùng sâu sắc của Đức-Thế-Tôn. Do đó con đã làm ra vẻ như cứng đầu, khó dạy, đối lập với Đức-Thế-Tôn, thực ra trong tâm của con hết lòng tôn kính Đức-Thế-Tôn.

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, lời giáo huấn của Ngài thật rõ ràng quá! Ví như lật ngửa ra vật bị che đậy, hoặc mở ra vật bị đóng chặt, hoặc chỉ đường cho người đang đi lạc đường, hoặc rọi đèn soi sáng vào nơi tăm tối để cho người có đôi mắt sáng được thấy rõ tất cả mọi

 

vật hiện hữu như thế nào, Đức-Thế-Tôn đã thuyết giảng giáo pháp bằng nhiều cách cũng như thế ấy.

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn,
  • Con nguyện đem hết lòng thành kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn.
  • Con nguyện đem hết lòng thành kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp.
  • Con nguyện đem hết lòng thành kính xin quy-y nương nhờ nơi chư tỳ-khưu-Tăng.

Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nam đã thọ phép quy-y Tam-bảo kể từ nay cho đến trọn đời.

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Con nên suy xét kỹ lưỡng chu đáo trước, rồi mới nói lên bằng lời, người có tiếng tăm như con càng phải nên đắn đo cân nhắc kỹ lưỡng, rồi mới nói nên bằng lời. Đó là điều hay.

Upā: - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con vô cùng ngạc nhiên nghe Ngài khuyên dạy con rằng: “Này phú hộ Upāli, con nên suy xét kỹ lưỡng chu đáo trước rồi mới nói lên bằng lời, người có tiếng tăm như con càng phải nên đắn đo cân nhắc kỹ lưỡng, rồi mới nói nên bằng lời. Đó là điều hay.

Với lời khuyên dạy của Đức-Thế-Tôn càng làm cho con vô cùng hoan hỷ, vô cùng tôn kính Ngài hơn nữa.

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, nhóm ngoại đạo được con là đệ-tử của họ, họ sẽ cầm cờ reo hò đi khắp thành-phố Nālandā này thông báo cho mọi người biết rằng:

Từ nay, phú hộ Upāli là đệ-tử của chúng tôi.Nhưng còn Đức-Thế-Tôn lại khuyên dạy con rằng: “Này phú hộ Upāli! Con nên suy xét kỹ lưỡng chu đáo

 

trước, rồi mới nói lên bằng lời, người có tiếng tăm như con càng phải nên đắn đo cân nhắc kỹ lưỡng, rồi mới nói nên bằng lời. Đó là điều hay.

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, một lần nữa,
  • Con nguyện đem hết lòng thành kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn.
  • Con nguyện đem hết lòng thành kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp.
  • Con nguyện đem hết lòng thành kính xin quy-y nương nhờ nơi Chư Tỳ-khưu Tăng, lần thứ nhì.

Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nam đã thọ phép quy y Tam-bảo kể từ nay cho đến trọn đời.

ĐP: - Này phú hộ Upāli! Đã từ lâu, gia đình của con đã thường hộ độ, cúng dường các thứ vật dụng cho nhóm Nigaṇṭha, gia đình con như là một giếng nước đối với họ. Từ nay về sau, gia đình con cũng nên tiếp tục hộ độ, cúng dường họ, mỗi khi họ đến gia đình con.

Upā: - Kính bạch Đức-Thế-Tôn, một lần nữa, con vô cùng ngạc nhiên nghe Ngài khuyên dạy con rằng: “Đã từ lâu, gia đình của con đã thường hộ độ, cúng dường các thứ vật dụng cho nhóm Nigaṇṭha, gia đình con như là một giếng nước đối với họ. Từ nay về sau, gia đình con cũng nên tiếp tục hộ độ, cúng dường họ, mỗi khi họ đến gia đình con.”

Với lời khuyên dạy của Đức-Thế-Tôn càng làm cho con vô cùng hoan hỷ, vô cùng tôn kính Ngài hơn nữa.

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con đã từng nghe rằng: “Ngài Sa-môn Gotama khuyên dạy rằng:
  • Chỉ nên tạo phước-thiện bố-thí đến Như-Lai mà thôi, không nên tạo phước-thiện bố-thí đến các vị đạo-sư khác.

 

  • Chỉ nên tạo phước-thiện bố-thí đến các hàng thanh- văn đệ-tử của Như-Lai mà thôi, không nên tạo phước- thiện bố-thí đến các hàng đệ-tử của các phái khác.
  • Phước-thiện bố-thí mà thí chủ dâng cúng dường đến Như-Lai chắc chắn có quả báu nhiều, còn phước-thiện bố-thí mà thí chủ đã dâng cúng dường đến vị đạo-sư khác không có quả báu nhiều.
  • Phước-thiện bố-thí mà thí chủ đã dâng cúng đến các hàng thanh-văn đệ-tử của Như-Lai mới có quả báu nhiều, còn phước-thiện bố-thí mà thí chủ đã dâng cúng đến các hàng đệ-tử của các phái khác không có quả báu nhiều.”

Nhưng sự thật, Đức-Thế-Tôn khuyên dạy con nên tiếp tục tạo phước-thiện bố-thí hộ độ, cúng dường cho nhóm Nigaṇṭha.

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con sẽ biết tùy thời nên tạo phước-thiện bố-thí.
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, một lần nữa,
  • Con nguyện đem hết lòng thành kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn.
  • Con nguyện đem hết lòng thành kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp.
  • Con nguyện đem hết lòng thành kính xin quy-y nương nhờ nơi chư tỳ-khưu-Tăng, lần thứ ba.

Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận con là người cận- sự-nam đã thọ phép quy-y Tam-bảo kể từ nay cho đến trọn đời.

Phú hộ Upāli chứng đắc thành bậc Thánh Nhập-lưu

Tiếp theo, Đức-Thế-Tôn thuyết pháp Anupubbi- kathā để tế độ phú hộ Upāli, thuyết pháp theo tuần tự đó là: phước-thiện bố-thí, phước-thiện giữ-giới, các cõi giới

 

của chư-thiên, tội-lỗi của 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) làm cho tâm ô nhiễm, quả báu trong sự xa lánh 5 đối-tượng ấy.

Biết rõ tâm của phú hộ Upāli trong sáng dễ dạy, khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết-pháp nâng đỡ tâm của phú hộ Upāli bằng pháp tứ-đế khổ-đế (ngũ-uẩn chấp-thủ), nhân sinh khổ-đế (tham-ái), diệt khổ-đế (Niết-bàn), pháp-hành dẫn đến diệt khổ-đế (bát-chánh-đạo).

Ví như tấm vải trắng sạch sẽ không còn chất dơ bẩn, nên dễ nhuộm thấm màu tốt đẹp như thế nào, do đại- thiện-tâm trong sạch của phú hộ Upāli làm nền tảng phát sinh pháp-nhãn (dhammacakkhu) trong sáng thanh-tịnh cũng như thế ấy, thấy rõ rằng:

Tất cả các pháp nào trong tam-giới có trạng-thái- sinh, thì tất cả các pháp ấy đều có trạng-thái-diệt.

Khi ấy, phú hộ Upāli đã phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, đã biết rõ đúng theo chân-lý tứ Thánh-đế, đã thấu rõ, thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, nên đã diệt tận hoàn toàn mọi điều hoài-nghi nơi Đức-Phật, nơi Đức-Pháp, nơi Đức-Tăng, không còn hoài-nghi nào nữa, với trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới của mình đã thấy rõ, biết rõ đúng theo lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn, nên không còn tin nơi người nào khác nữa.

Phú hộ Upāli đã trở thành bậc Thánh Nhập-lưu

trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama tại nơi ấy.

Phú hộ Upāli thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép trở về nhà.

Tóm lại, trong 3 loại ác-nghiệp được phát sinh do nương nhờ nơi 3 môn đó là thân ác-nghiệp, khẩu ác- nghiệp, ý ác-nghiệp, thì ý ác-nghiệp là ác-nghiệp nặng hơn thân ác-nghiệp, khẩu ác-nghiệp.

 

Ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp

  • Quả của ác-nghiệp trong kiếp hiện-tại

Ác-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với 12 ác-tâm có cơ hội cho quả có 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng xấu, không đáng hài lòng trong kiếp hiện-tại:

7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm

  1. Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của ác- nghiệp, nhìn thấy đối-tượng sắc xấu, không đáng hài lòng. 2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của ác- nghiệp, nghe đối-tượng âm-thanh dở, không đáng hài lòng. 3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của ác-

nghiệp, ngửi đối-tượng hương mùi hôi, không đáng hài lòng. 4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của

ác-nghiệp, nếm đối-tượng vị dở, không đáng hài lòng.

5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ khổ, quả của ác- nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc thô, không đáng hài lòng. 6- Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của ác-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị,

xúc) xấu, không đáng hài lòng.

7- Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của ác- nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) xấu, không đáng hài lòng.

Paṭisandhikāla Pavattikāla

Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) cho quả trong 2 thời-kỳ:

  1. Paṭisandhikāla: thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.
  2. Pavattikāla: thời-kỳ sau khi đã tái-sinh,kiếp hiện-tại.

 

1- Paṭisandhikāla:Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau:

Trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), ác- nghiệp trong 11 bất-thiện-tâm (ác-tâm) (trừ si-tâm hợp với phóng-tâm (1)) cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) chỉ có 1 quả-tâm suy-xét-tâm hợp với thọ xả thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) 1 sát-na-tâm 1 trong 4 cõi ác-giới là địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.

  • Nếu suy-xét-tâm hợp với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong tham-tâm có nhiều năng lực thì làm phận sự tái- sinh kiếp sau hóa-sinh làm loài ngạ-quỷ hoặc loài a-su- ra, 2 loài chúng-sinh này thường có tham-tâm thèm khát,

...

  • Nếu suy-xét-tâm hợp với thọ xả là quả của ác-nghiệp trong sân-tâm có nhiều năng lực thì làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục, thường bị hành hạ đau khổ.
  • Nếu suy-xét-tâm hợp với thọ xả là quả của ác- nghiệp trong si-tâm có nhiều năng lực thì làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm loài súc-sinh có tính si-mê.
  1. Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp hiện-tại, tất cả ác-nghiệp trong 12 ác-tâm đều có khả năng cho quả là 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của ác-nghiệp.

Bất-thiện-quả vô-nhân-tâm có 7 tâm:

  1. Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của ác- nghiệp, nhìn thấy đối-tượng sắc xấu.

1 Ác-nghiệp trong si-tâm hợp với phóng-tâm có năng lực yếu không có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau, nhưng khả năng cho quả sau khi đã tái-sinh.

 

  1. Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của ác- nghiệp, nghe đối-tượng âm-thanh dở.
  2. Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của ác- nghiệp, ngửi đối-tượng hương mùi hôi.
  3. Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của ác-nghiệp, nếm đối-tượng vị dở.
  4. Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ khổ, là quả của ác- nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc thô.
  5. Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của ác-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng xấu (sắc, thanh, hương, vị, xúc xấu).
  6. Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của ác- nghiệp, suy xét 5 đối-tượng xấu (sắc, thanh, hương, vị, xúc xấu).

7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của bất-thiện- nghiệp (ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm), tiếp xúc biết các đối-tượng xấu trong cuộc sống kiếp hiện-tại của chúng-sinh ấy.

Trong 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm ấy, suy-xét-tâm hợp với thọ xả nào thuộc về bất-thiện-quả vô-nhân-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) 1 sát-na-tâm rồi diệt, tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính suy-xét-tâm hợp với thọ xả ấy lại trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự giữ gìn kiếp chúng-sinh ấy cho đến mãn kiếp, rồi cuối cùng, cũng chính suy-xét-tâm hợp với thọ xả ấy trở thành tử- tâm (cuticitta) làm phận sự chết, kết thúc kiếp hiện-tại của chúng-sinh ấy.

Ác-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới:

 

* 4 cõi ác-giới:

  1. Cõi địa-ngục (Niraya): chúng-sinh ở trong cõi địa- ngục thuộc về loại chúng-sinh hóa-sinh không có sự an- lạc, mà chỉ chịu quả khổ của ác-nghiệp, luôn luôn bị hành hạ đến chết rồi hóa-sinh trở lại như vậy mà thôi.

Cõi địa-ngục có 8 cõi đại-địa-ngục và 449 tiểu-địa- ngục, gồm có 457 cõi địa-ngục lớn nhỏ.(1)

Người nào đã tạo ác-nghiệp nặng nào sau khi người ấy chết, nếu ác-nghiệp nặng ấy có cơ hội cho quả thì tái- sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục chịu quả khổ của ác- nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục này, rồi ác-nghiệp ấy lại còn cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi tiểu-địa-ngục khác, rồi cứ như vậy, từ cõi tiểu-địa- ngục này đến cõi tiểu địa-ngục kia, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.

Cho nên, chúng-sinh trong cõi địa-ngục không có tuổi thọ nhất định.

  1. Cõi ngạ-quỷ (Peta): Loài ngạ-quỷ không có cõi riêng biệt, sống chung trong cõi người, nơi rừng núi, nơi nghĩa địa, v.v… Loài ngạ-quỷ thuộc về chúng-sinh hóa- sinh có thân hình rất vi tế mà mắt thường của con người không thể nhìn thấy được, chỉ hành-giả nào có thiên- nhãn-thông mới có khả năng nhìn thấy loài ngạ-quỷ được mà thôi, hoặc nếu loài ngạ-quỷ biến hóa trở thành thân hình thô để cho con người nhìn thấy được.

Loài ngạ-quỷ có nhiều nhóm, mỗi nhóm có nhiều loài ngạ-quỷ khác nhau, có thân hình kỳ dị, ghê tởm, thường chịu cảnh đói khát, lạnh lẽo, v.v… (1)

1 Tìm hiểu trong quyển “Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống” phần cõi địa-ngục, trang 306, cùng soạn giả.

 

Nếu loài ngạ-quỷ nào đến khi ác-nghiệp nhẹ dần thì loài ngạ-quỷ ấy hóa-sinh trở thành loài ngạ-quỷ có tên là paradattupajīvikapeta sống gần gũi loài người, chờ cơ hội hoan-hỷ phần phước-thiện bố-thí của thí-chủ.

Khi bà con thân quyến, hoặc các thí-chủ đã tạo phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng (Saṃghadānakusala) xong, rồi hồi-hướng phần phước- thiện (pattidānakusala) ấy đến cho các loài ngạ-quỷ.

Nếu loài ngạ-quỷ nào hay biết có thân quyến hoặc thí- chủ hồi hướng phần phước-thiện bố-thí đến các loài ngạ- quỷ thì hiện đến, loài ngạ-quỷ ấy phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ nói lên lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Ngạ-quỷ ấy hoan-hỷ nhận phần phước-thiện bố-thí ấy, ngay tức thì thoát khỏi kiếp loài ngạ-quỷ, hóa- sinh trở thành vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy.

Cho nên, loài ngạ-quỷ không có tuổi thọ nhất định.

  1. Cõi A-su-ra (Asura): Loài a-su-ra là nhóm chúng- sinh sống khổ tâm, khổ thân, cuộc sống thiếu thốn. Loài a-su-ra thuộc về chúng-sinh hóa-sinh có thân hình rất vi tế mà mắt thường của con người không thể nhìn thấy.

Loài A-su-ra có 3 loại:

  1. Deva-a-su-ra: A-su-ra là chư-thiên.
  2. Petti-a-su-ra: A-su-ra là loài ngạ-quỷ.
  3. Niraya-a-su-ra: A-su-ra là chúng-sinh địa-ngục.

A-su-ra là chúng-sinh địa-ngục bị đói khát lần mò đi kiếm ăn, nếu khi chúng gặp nhau, tưởng là vật thức, nên 2 bên nhào đến cắn xé nhau ăn thịt lẫn nhau, 2 bên đều chết, rồi hóa-sinh trở lại loài a-su-ra.

 

1 Tìm hiểu trong quyển “Vi-Diệu-Pháp Hiện Thực Trong Cuộc Sống” phần cõi ngạ-quỷ, trang 329, cùng soạn giả.

 

Cho nên, loài a-su-ra không có tuổi thọ nhất định.

  1. Loài súc-sinh (Tiracchāna): Loài súc-sinh gồm có các loài chúng-sinh lớn hoặc nhỏ khác nhau, không có cõi riêng biệt, sinh sống chung trong cõi người.

Loài súc-sinh được phân loại có 4 nhóm súc-sinh:

  1. Apada tiracchāna: nhóm loài súc-sinh không có chân như con rắn, con lươn, con cá, v.v…
  2. Dvipada tiracchāna: nhóm loài súc-sinh có 2 chân

như con gà, con chim, v.v…

  1. Catupada tiracchāna: nhóm loài súc-sinh có 4 chân như con voi, con ngựa, con trâu, con bò, v.v….
  2. Bahupada tiracchāna: nhóm loài súc-sinh có nhiều chân như con rít, con cuốn chiếu, v.v…

Tuy nhiên, loài súc-sinh có số như con voi báu, ngựa báu, con chó, con mèo tinh khôn, v.v… được con người nuôi nấng, chăm sóc chu đáo.

Tuy những con súc vật quý báu ấy được sinh ra do quả của ác-nghiệp của chúng trong kiếp quá-khứ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), nhưng những con súc vật quý báu ấy được đại-thiện- nghiệp của chúng trong kiếp quá-khứ hỗ trợ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện- tại, nên con voi báu, con ngựa báu, con chó, con mèo tinh khôn ấy được các gia đình giàu sang phú quý nuôi nấng chăm sóc chu đáo.

Chúng-sinh trong cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ- quỷ, súc-sinh) đến khi mãn quả của ác-nghiệp của chúng-sinh ấy, mới thoát khỏi cõi ác-giới, rồi tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác tùy theo nghiệp và quả của nghiệp của chúng-sinh ấy như sau:

 

  • Sau khi thoát khỏi cõi ác-giới, nếu đại-thiện-nghiệp nào có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh làm người trong cõi người, hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an- lạc trong cõi ấy.
  • Sau khi thoát khỏi cõi ác-giới, ác-nghiệp nào có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong loài ngạ-quỷ sống gần gũi với loài người, trông mong những người bà con thân quyến, hoặc những thí-chủ khác làm phước-thiện, rồi hồi-hướng đến cho loài ngạ-quỷ, nếu loài ngạ-quỷ ấy hay biết hiện đến phát sinh đại-thiện-tâm hoan-hỷ nhận phần phước-thiện ấy, thì loài ngạ-quỷ ấy được thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, liền hóa-sinh trở thành vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc.

Thật ra, các chúng-sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh) chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra cõi ác-giới ấy, để có đại-thiện-nghiệp nào có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, đó thật là điều rất khó được.

Như Đức-Phật dạy rằng:

“ Manussattabhāvo dullabho.”

Được sinh làm người là điều rất khó được.

Nay, chúng ta đã có diễm phúc được sinh làm người rồi, chúng ta nên biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi tránh xa mọi ác-nghiệp, cố gắng tinh-tấn tạo mọi thiện- nghiệp tùy theo khả năng của mình, sau khi chết, đại- thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới, làm người trong cõi người, hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện-giới ấy.

 

4.2-Kāmāvacarakusalakamma: Dục-giới thiện-nghiệp

Phần bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) và 10 bất-thiện- nghiệp (10 ác-nghiệp) đã giải thích xong, tiếp theo giải thích dục-giới thiện-nghiệp gọi là đại-thiện-nghiệp và quả của đại-thiện-nghiệp.

Dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp)

Đức-Phật dạy:

Cetanā’haṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā.(1)

- Này chư tỳ-khưu! Sau khi đã có tác-ý, rồi mới tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.

Vì vậy, Như-Lai dạy “tác-ý gọi là nghiệp.” Tác-ý đó là tác-ý tâm-sở (cetanācetasika).

Dục-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới thiện-tâm tạo dục-giới thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.

Dục-giới thiện-tâm gọi là mahākusalacitta: đại-thiện- tâm có 8 tâm:

  1. Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí- tuệ, không cần tác-động.

  1. Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí- tuệ, cần tác-động.

  1. Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

1 Aṅguttaranikāya, Chakkanipāta, Kinh Nibbedhikasutta.

 

Đại-thiện-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

  1. Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

  1. Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí- tuệ, không cần tác-động.

  1. Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí- tuệ, cần tác-động.

  1. Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

  1. Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ.

Đại-thiện-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm tạo 2 loại

đại-thiện-nghiệp:

  • 10 đại-thiện-nghiệp do thân, khẩu, ý.
  • 10 phước-thiện (puññakriyāvatthu).
      1. - 10 đại-thiện-nghiệp

Tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm tạo 10

đại-thiện-nghiệp do 3 môn: thân-môn, khẩu-môn, ý-môn:

        • Thân đại-thiện-nghiệp là đại-thiện-nghiệp do thân- môn, 3 thân đại-thiện-nghiệp:

 

  1. Đại-thiện-nghiệp không sát-sinh.
  2. Đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp.
  3. Đại-thiện-nghiệp không tà-dâm.

3 thân đại-thiện-nghiệp này còn gọi 3 thân-hành- thiện (kāyasucarita).

        • Khẩu đại-thiện-nghiệp là đại-thiện-nghiệp do khẩu- môn, 4 khẩu đại-thiện-nghiệp:
  1. Đại-thiện-nghiệp không nói-dối.
  2. Đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ.
  3. Đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục.
  4. Đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích.

4 khẩu đại-thiện-nghiệp này còn gọi 4 khẩu-hành- thiện (vacīsucarita).

        • Ý đại-thiện-nghiệp là đại-thiện-nghiệp do ý-môn,

3 ý đại-thiện-nghiệp:

  1. Đại-thiện-nghiệp không tham lam của cải, tài sản của người khác.
  2. Đại-thiện-nghiệp không thù hận người khác.
  3. Đại-thiện-nghiệp chánh-kiến thấy đúng, hiểu đúng theo thật-tánh của các pháp.

3 ý đại-thiện-nghiệp này còn gọi 3 ý-hành-thiện

(manosucarita).

10 đại-thiện-nghiệp này trong 8 đại-thiện-tâm gọi là manussadhamma: pháp của con người, bởi vì người thật sự cần phải có đầy đủ 10 đại-thiện-nghiệp này, để thân, khẩu, ý được trong sạch.

Chi-pháp của 10 đại-thiện-nghiệp

        • Chi-pháp của 3 thân đại-thiện-nghiệp hoặc 3 thân- hành-thiện có 2 pháp là:
  • Sammākammantacetasika: Chánh-nghiệp tâm-sở.

 

  • Sammā-ājīvacetasika: Chánh-mạng tâm-sở.
        • Chi-pháp của 4 khẩu đại-thiện-nghiệp hoặc 4 khẩu- hành-thiện có 2 pháp là:
  • Sammāvācācetasika: Chánh-ngữ tâm-sở.
  • Sammā-ājīvacetasika: Chánh-mạng tâm-sở.
        • Chi-pháp của 3 ý đại-thiện-nghiệp hoặc 3 ý-hành- thiện có 3 pháp là:
  • Chi-pháp của ý đại-thiện-nghiệp không tham lam hoặc ý-hành-thiện không tham lam alobhacetasika: vô- tham tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm.
  • Chi-pháp của ý đại-thiện-nghiệp không thù hận hoặc ý-hành-thiện không thù hận adosacetasika: vô-sân tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm.
  • Chi-pháp của ý đại-thiện-nghiệp chánh-kiến hoặc ý- hành-thiện chánh-kiến paññācetasika: trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với tịnh-hảo-tâm hợp với trí-tuệ.

Danh từ gọi thân đại-thiện-nghiệp, khẩu đại-thiện-nghiệp

  • Thân đại-thiện-nghiệp có 3 loại là đại-thiện-nghiệp không sát-sinh, đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp, đại- thiện-nghiệp không tà-dâm.
  • Khẩu đại-thiện-nghiệp có 4 loại là đại-thiện-nghiệp không nói-dối, đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ, đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục, đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích.

Thật ra, 3 thân đại-thiện-nghiệp, 4 khẩu đại-thiện- nghiệp này phần nhiều phát sinh do nương nhờ nơi tâm, mà không liên quan trực tiếp đến thân-môn khẩu-môn, bởi vì, 2 loại đại-thiện-nghiệp này phát sinh do tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm tránh xa 3 thân ác- nghiệp, tránh xa 4 khẩu ác-nghiệp.

 

Vì vậy, gọi là 3 thân đại-thiện-nghiệp hoặc 3 thân- hành-thiện, 4 khẩu đại-thiện-nghiệp hoặc 4 khẩu-hành- thiện không nương nhờ nơi thân-môn khẩu-môn.

        • Thân ác-nghiệp khác với thân đại-thiện-nghiệp

như thế nào?

        • Khẩu ác-nghiệp khác với khẩu đại-thiện-nghiệp

như thế nào?

        • Thân ác-nghiệp có 3 loại là ác-nghiệp sát-sinh, ác- nghiệp trộm-cắp, ác-nghiệp tà-dâm. 3 thân ác-nghiệp này phát sinh do nương nhờ phần nhiều nơi thân-môn hành động, nên khác với thân đại-thiện-nghiệp, 3 loại là đại-thiện-nghiệp không sát-sinh, đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp, đại-thiện-nghiệp không tà-dâm. 3 thân đại-thiện-nghiệp này phát sinh do tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm nương nhờ nơi tâm, mà không liên quan trực tiếp đến thân-môn.

Đó là điều khác biệt giữa thân ác-nghiệp với thân

đại-thiện-nghiệp.

        • Khẩu ác-nghiệp có 4 loại là ác-nghiệp nói-dối, ác- nghiệp nói lời chia rẽ, ác-nghiệp nói lời thô tục, ác- nghiệp nói lời vô ích. 4 khẩu ác-nghiệp này phát sinh do nương nhờ phần nhiều nơi khẩu-môn nói lời, nên khác với khẩu đại-thiện-nghiệp, có 4 loại là đại-thiện-nghiệp không nói-dối, đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ, đại-thiện-nghiệp không lời thô tục, đại-thiện-nghiệp không lời vô ích. 4 khẩu đại-thiện-nghiệp này phát sinh do tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm nương nhờ nơi ý-môn, mà không liên quan trực tiếp đến khẩu-môn.

Đó là điều khác biệt giữa khẩu ác-nghiệp khẩu

đại-thiện-nghiệp.

 

        • Trường hợp nào thân đại-thiện-nghiệp, khẩu đại- thiện-nghiệp liên quan trực tiếp với thân-môn hành động, khẩu-môn nói lời hay không?

Tuy thân đại-thiện-nghiệp, khẩu đại-thiện-nghiệp được phát sinh phần nhiều do tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm nương nhờ nơi ý-môn, nhưng cũng có những trường hợp thân đại-thiện-nghiệp, khẩu đại-thiện-nghiệp được phát sinh do nương nhờ đến thân-môn hành động, khẩu-môn nói lời trong những trường hợp như sau:

        • Thân đại-thiện-nghiệp không sát-sinh:

Một người cận-sự-nữ tự mình làm món đồ ăn. Khi bắt con cá lên làm thịt, thấy con cá còn cử động chưa chết, người cận-sự-nữ bắt con cá ấy thả xuống sông, hồ.

Đó là thân đại-thiện-nghiệp không sát-sinh liên quan

đến thân.

        • Tích tiền-kiếp của bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sujā(1) sinh làm con cò giữ gìn ngũ-giới.

Một hôm, con cò đi kiếm ăn, nhìn thấy một con cá nằm trên bãi sông, đưa mỏ kẹp con cá thì con cá liền vẫy vùng. Con cò biết con cá còn sống, nên kẹp nhẹ con cá đem xuống bỏ dưới nước cho nó bơi đi nơi khác, v.v…

Đó là trường hợp thân đại-thiện-nghiệp không sát- sinh được phát sinh do nương nhờ nơi thân-môn, liên quan đến thân-môn hành động.

        • Thân đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp:

Một người cận-sự-nam đi trên đường bắt gặp một gói tiền mà người đã đánh rơi. Người cận-sự-nam ấy nhặt

1 Bà Sujā là Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua-trời Sakka trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

 

lên, thấy một số tiền khá lớn, đem gói tiền đến trao trạm công an, nhờ ra thông báo để chủ-nhân đến nhận lại gói tiền ấy, v.v…

Đó là trường hợp thân đại-thiện-nghiệp không trộm- cắp được phát sinh do nương nhờ nơi thân-môn, liên quan đến thân-môn hành động.

        • Thân đại-thiện-nghiệp không tà-dâm:

Một cô gái đã từng là kỹ-nữ. Về sau, cô ấy đã nhận lời hứa hôn với một người con trai, hai người chờ ngày làm lễ thành hôn.

Một hôm, cô gái này gặp lại một người đàn ông mà cô đã từng phục vụ, nhưng lần này cô chỉ tiếp đón người đàn ông ấy như một người khách đến thăm viếng mà thôi. Đó là trường hợp thân đại-thiện-nghiệp không tà- dâm phát sinh do nương nhờ nơi thân-môn, liên quan đến thân-môn hành động.

Đó là những trường hợp thân đại-thiện-nghiệp được phát sinh do nương nhờ nơi thân-môn, liên quan đến thân-môn hành động, có chi-pháp là chánh-nghiệp tâm- sở, chánh-mạng tâm-sở tùy theo mỗi đối-tượng của mỗi thân đại-thiện-nghiệp.

        • Khẩu đại-thiện-nghiệp không nói-dối:

Một người đàn ông có thói quen nghề nghiệp hay nói- dối người khác. Về sau, người đàn ông ấy gặp bậc thiện- trí trong Phật-giáo, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện- trí, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, nhận thức thấy rõ, biết rõ rằng: nói-dối là điều tội lỗi, là ác-nghiệp đáng sợ.

Người đàn ông ấy kính xin Ngài hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, trở thành cận-sự-

 

nam. Từ đó về sau, người cận-sự-nam ấy giữ gìn ngũ giới cho được trong sạch và trọn vẹn, trong đó có điều- giới tránh xa sự nói-dối, chỉ nói lời chân thật.

        • Khẩu đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ:

Một người đàn bà vốn có tính hay ganh tỵ. Khi nhìn thấy một người đàn ông và một người đàn bà thân thiết với nhau, người đàn bà ấy phát sinh tâm ganh tỵ nên lén lút tìm đến gặp người đàn ông kia để nói lời chia rẽ, rồi lén lút tìm đến người đàn bà cũng để nói lời chia rẽ, cốt làm cho người đàn ông và người đàn bà kia ngờ vực lẫn nhau rồi ghét bỏ nhau, chia tay nhau.

Về sau, người đàn bà ấy có duyên lành gặp bậc thiện- trí trong Phật-giáo, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện- trí, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, nhận thức thấy rõ, biết rõ rằng: nói lời chia rẽ là điều tội lỗi, là ác- nghiệp đáng sợ, bởi vì, quả của ác-nghiệp ấy có hại trong kiếp hiện-tại và nhiều kiếp trong vị-lai.

Người đàn bà ấy kính xin Ngài hướng dẫn thọ phép quy y Tam- bảo và thọ trì bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla, trở thành cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Từ đó về sau, người cận-sự-nữ ấy giữ gìn bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla (1) cho được trong sạch và trọn vẹn, trong đó có điều-giới tránh xa sự nói lời chia rẽ, chỉ nói lời hòa hợp đối với mọi người.

        • Khẩu đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục:

Một người đàn bà vốn có tính hay nói lời thô tục với người khác mỗi khi nổi cơn giận dữ.

 

1 Tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển III: “Pháp-Hành- Giới” cùng soạn giả.

 

Một hôm, người đàn bà ấy có duyên lành gặp bậc thiện-trí trong Phật-giáo, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, nhận thức thấy rõ, biết rõ rằng: nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) là điều tội lỗi, là ác-nghiệp đáng sợ, bởi vì, quả của ác-nghiệp ấy có hại trong kiếp hiện-tại và nhiều kiếp trong vị-lai.

Người đàn bà ấy kính xin Ngài hướng dẫn thọ phép quy y Tam-bảo và thọ trì bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla, trở thành cận-sự-nữ trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Từ đó về sau, người cận-sự-nữ ấy giữ gìn bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla cho được trong sạch và trọn vẹn, trong đó có điều-giới tránh xa sự nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc), chỉ nói lời dịu ngọt, nghe êm tai.

        • Khẩu đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích:

Một người đàn ông vốn có tính hay nói lời vô ích nhảm nhí, hoang đường, … làm cho người nghe mất thì giờ không đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc nào.

Một hôm, người đàn ông ấy có duyên lành gặp bậc thiện-trí trong Phật-giáo, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, nhận thức biết rằng: nói lời vô ích là điều tội lỗi, là ác-nghiệp đáng sợ, bởi vì, quả của ác-nghiệp ấy có hại trong kiếp hiện-tại và nhiều kiếp trong vị-lai.

Người đàn ông ấy kính xin Ngài hướng dẫn thọ phép quy y Tam-Bảo và thọ trì bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla, trở thành cận-sự-nam trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Từ đó về sau, người cận-sự-nam ấy giữ gìn bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla cho được trong sạch và trọn vẹn, trong đó có điều-giới tránh xa sự nói lời vô ích, chỉ nói

 

lời hữu ích đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho người nghe.

Đó là những trường hợp khẩu đại-thiện-nghiệp được phát sinh do nương nhờ nơi khẩu-môn, liên quan đến khẩu-môn nói lời, có chi-pháp là chánh-ngữ tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở tùy theo mỗi đối tượng của mỗi khẩu đại-thiện-nghiệp.

Như vậy, 3 thân đại-thiện-nghiệp 4 khẩu đại-thiện- nghiệp này không chỉ phát sinh do tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm nương nhờ nơi ý-môn, mà còn có trường-hợp phát sinh do nương nhờ nơi thân-môn, nơi khẩu-môn nữa như đã trình bày.

        • Vậy phân biệt thân đại-thiện-nghiệp khẩu đại- thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi ý-môn với thân đại-thiện-nghiệp, khẩu đại-thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi thân-môn, nơi khẩu-môn như thế nào?

Để phân biệt thân đại-thiện-nghiệp khẩu đại- thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi ý-môn với đại- thiện-nghiệp, khẩu đại-thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi thân-môn, nơi khẩu-môn, cần phải căn cứ vào chi-pháp của mỗi đại-thiện-nghiệp ấy.

  • Nếu chi-pháp chỉ có tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với đại-thiện-tâm thì thân đại-thiện-nghiệp, và khẩu đại-thiện-nghiệp ấy phát sinh do nương nhờ nơi ý- môn, không liên quan trực tiếp đến thân-môn, khẩu-môn.
  • Nếu chi-pháp là chánh-nghiệp tâm-sở (sammākam- mantacetasika), chánh-ngữ tâm-sở (sammāvācācetasika) chánh-mạng tâm-sở (sammā-ājīvacetasika), thì thân đại-thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi thân-môn, và khẩu đại-thiện-nghiệp phát sinh do nương nhờ nơi khẩu-môn.

 

        • Quả của 10 đại-thiện-nghiệp

Đại-thiện-nghiệp có 10 loại tính theo 3 môn: thân- môn có 3 đại-thiện-nghiệp, khẩu-môn có 4 đại-thiện- nghiệp, ý-môn có 3 đại-thiện-nghiệp.

        • Thân đại-thiện-nghiệp là đại-thiện-nghiệp do thân- môn, 3 thân đại-thiện-nghiệp:
  1. Đại-thiện-nghiệp không sát-sinh.
  2. Đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp.
  3. Đại-thiện-nghiệp không tà-dâm.
        • Khẩu đại-thiện-nghiệp là đại-thiện-nghiệp do khẩu- môn 4 khẩu đại-thiện-nghiệp:
  1. Đại-thiện-nghiệp không nói-dối.
  2. Đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ.
  3. Đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục.
  4. Đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích.
        • Ý đại-thiện-nghiệp là đại-thiện-nghiệp do ý-môn,

3 ý đại-thiện-nghiệp:

  1. Đại-thiện-nghiệp không tham lam của cải, tài sản của người khác.
  2. Đại-thiện-nghiệp không thù hận người khác.
  3. Đại-thiện-nghiệp chánh-kiến thấy đúng, hiểu đúng theo sự-thật chân-lý.

Trong 10 đại-thiện-nghiệp, mỗi đại-thiện-nghiệp có đối-tượng khác nhau, có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm tạo mỗi đại-thiện-nghiệp khác nhau, cho nên, quả của mỗi đại-thiện-nghiệp khác nhau:

  1. Quả của đại-thiện-nghiệp không sát-sinh

Người thiện nào là người biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, tránh xa ác- nghiệp sát-sinh, tạo đại-thiện-nghiệp không sát-sinh.

 

Sau khi người thiện ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp không sát-sinh trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại- quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành người ấy có 23 quả-báu của đại-thiện-nghiệp không sát-sinh trong kiếp quá-khứ của người ấy.

Trong Chú-giải Khuddakapātha giảng giải 23 quả báu của đại-thiện-nghiệp không sát sinh trong kiếp quá-khứ của người ấy như sau:

Kiếp hiện-tại của người ấy:

  1. có thân hình không tật nguyền, đầy đủ các bộ phận lớn nhỏ trong cơ thể.
  2. có thân hình cân đối xinh đẹp.
  3. là người nhanh nhẹn.
  4. có lòng bàn tay, lòng bàn chân đầy đặn.
  5. có thân hình xinh đẹp, không tỳ vết.
  6. có da thịt mềm mại, hồng hào.
  7. có thân hình sạch sẽ, trong sáng.
  8. có đại-thiện-tâm dũng cảm, không sợ hãi.
  9. có sức khỏe dồi dào.
  10. có giọng nói thanh tao, lời nói ngọt ngào, suôn sẻ.
  11. được mọi người quý mến.
  12. có thuộc hạ tùy tùng, bạn bè đoàn kết thương yêu.
  13. thân tâm được an-lạc tự tại, không hoảng sợ.
  14. không bị tai nạn do khí giới, thuốc độc…
  15. có trí-tuệ sáng suốt.
  16. có nhiều bạn bè thân thiết.
  17. có thân hình đẹp đẽ, đáng quý mến.
  18. có các bộ phận lớn nhỏ trong thân thể đẹp đẽ.
  19. là người ít bệnh hoạn ốm đau.

 

  1. là người có tâm thường an-lạc.
  2. là người thường được sống gần gũi với con cháu.
  3. là người được trường thọ, sống lâu.
  4. không có một ai có thể mưu sát được.

Đó là 23 quả báu tốt của đại-thiện-nghiệp không sát- sinh mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong kiếp quá-khứ.

  1. Quả của đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp

Người thiện nào là người biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, tránh xa ác- nghiệp trộm-cắp, tạo đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp.

Sau khi người thiện ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại- quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành người ấy có 11 quả-báu của đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp trong kiếp quá-khứ của người ấy.

Trong Chú-giải Khuddakapātha giảng giải 11 quả báu của đại-thiện-nghiệp không trộm-cắp trong kiếp quá-khứ của người ấy như sau:

Kiếp hiện-tại của người ấy:

  1. người nhiều của cải quý giá, giàu sang.
  2. có đầy đủ của cải, tài sản như lúa gạo, vàng bạc, châu báu, ...
  3. là người có nhiều của cải, tài sản lớn lao, giàu sang phú quý, tiêu dùng không sao hết được.
  4. nếu chưa có thứ của cải nào thì sẽ có thứ của cải ấy.
  5. đã có những thứ của cải quý giá nào như vàng bạc, ngọc ngà, châu báu,… rồi, thì những thứ của cải quý giá ấy được giữ gìn duy trì bền vững lâu dài.

 

  1. mong muốn những thứ của cải quý giá nào, thì chắc chắn mau chóng thành tựu như ý.
  2. có được những thứ của cải, tài sản lớn lao mà không bị thiệt hại do lửa thiêu cháy, không do nước lũ cuốn trôi, không do kẻ trộm cướp chiếm đoạt, không do nhà vua tịch thu, không do người không ưa thích chiếm đoạt.
  3. khi đã có của cải tài-sản rồi, chính mình là người sở hữu của cải tài-sản ấy, không có liên quan với người khác. 9- là người có khả năng chứng đắc được pháp siêu-

tam-giới (4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn).

  1. là người không thường nghe đến danh từ “không có”, bởi muốn thứ nào thì ngay thứ ấy.
  2. là người sống được an-lạc.

Đó là 11 quả báu tốt của đại-thiện-nghiệp không trộm- cắp mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong kiếp quá-khứ.

  1. Quả của đại-thiện-nghiệp không tà-dâm

Người thiện nào là người biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê- sợ tội-lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, tránh xa ác- nghiệp tà-dâm, tạo đại-thiện-nghiệp không tà-dâm.

Sau khi người thiện ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp không tà-dâm trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại- quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành người ấy có 20 quả-báu của đại-thiện-nghiệp không tà-dâm trong kiếp quá-khứ của người ấy.

Trong Chú-giải Khuddakapātha giảng giải về 20 quả báu của đại-thiện-nghiệp không tà-dâm trong kiếp quá- khứ như sau:

 

Kiếp hiện-tại của người ấy:

  1. là người không có người oan trái.
  2. người được mọi người thương yêu quý mến.
  3. người nhiều của cải giàu sang phú quý.
  4. là người ngủ được an-lạc.
  5. là người thức được an-lạc.
  6. là người có thể tránh được 4 cõi ác-giới.
  7. sinh làm người đàn ông hoàn toàn 100%.
  8. là người có tính nhẫn-nại, ít nóng giận.
  9. là người sinh ra trong dòng họ cao quý, có tính khiêm nhường.
  10. là người có tính minh bạch rõ ràng, không che giấu tội-lỗi.
  11. là người không có tật nguyền, có thân hình xinh

đẹp, đáng ngưỡng mộ.

  1. là người có sắc diện trong sáng.
  2. là người được mọi người tin tưởng.
  3. là người có ngũ-quan (5 giác-quan của con người)

đầy đủ và tốt đẹp.

  1. là người có tư cách đáng kính.
  2. người không chứng bệnh đáng ghê sợ.
  3. là người có trí-tuệ, đời sống được an-lạc.
  4. là người sống nơi nào cũng được an-lạc.
  5. người không tai-hại, không oan trái.
  6. là người thường được sống gần gũi với người thân.

Đó là 20 quả báu tốt của đại-thiện-nghiệp không tà- dâm mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong kiếp quá-khứ.

  1. Quả của đại-thiện-nghiệp không nói-dối

Người thiện nào là người biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, tránh xa ác- nghiệp nói-dối, tạo đại-thiện-nghiệp không nói-dối.

 

Sau khi người thiện ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp không nói-dối trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại- quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành người ấy có 14 quả báu của đại-thiện-nghiệp không nói-dối trong kiếp khứ khứ của người ấy.

Trong Chú-giải Khuddakapātha giảng giải về 14 quả báu của đại-thiện-nghiệp không nói-dối trong kiếp quá- khứ như sau:

Kiếp hiện tại của người ấy:

  1. là người có ngũ-quan (5 giác-quan của con người) trong sáng.
  2. là người có giọng nói ngọt ngào, dễ nghe.
  3. là người có đôi hàm răng đều đặn, đẹp đẽ.
  4. là người có thân hình không mập quá.
  5. là người có thân hình không ốm quá.
  6. là người có thân hình không thấp quá.
  7. là người có thân hình không cao quá.
  8. là người có da thịt mịn màng, mềm mại.
  9. là người mà trong miệng có mùi thơm tho thoát ra dễ chịu như mùi hoa sen.
  10. là người nói được nhiều người tin theo, không có ai ganh tỵ.
  11. người nói được nhiều người muốn nghe.
  12. là người có cái lưỡi mềm mỏng, màu hồng như cánh hoa sen đỏ.
  13. là người có định tâm vững vàng.
  14. là người có lời nói rõ ràng, ý nghĩa sâu sắc, được nhiều người tin tưởng và tôn trọng.

 

Đó là 14 quả báu tốt của đại-thiện-nghiệp không nói- dối mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong kiếp quá-khứ.

  1. Quả của đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ

Người thiện nào là người biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, tránh xa ác- nghiệp nói lời chia rẽ, tạo đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ.

Sau khi người thiện ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại- quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành người ấy có 6 quả- báu của đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ trong kiếp quá-khứ của người ấy.

Kiếp hiện tại của người ấy:

  1. là người hoà thuận với vợ chồng, anh chị em, bà con, với mọi người.
  2. là người không bị người khác gây gổ, không bị tật.
  3. là người có nhiều bạn bè thân thiết.
  4. có tình bằng hữu thân thiết bền vững.
  5. có nhiều người thương yêu quý mến.
  6. sống được an-lạc, ít khổ tâm.

Đó là 6 quả báu tốt của đại-thiện-nghiệp không nói lời chia rẽ mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong kiếp quá-khứ.

  1. Quả của đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục

Người thiện nào là người biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, tránh xa ác- nghiệp nói lời thô tục, tạo đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục.

 

Sau khi người thiện ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại- quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành người ấy có 6 quả- báu của đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục trong kiếp quá-khứ của người ấy.

Kiếp hiện tại của người ấy:

  1. là người thường được nghe những lời nói ngọt ngào đáng hài lòng.
  2. là người được nhiều người thương yêu quý mến.
  3. là người thường được nghe lời tán dương ca tụng, không bị vu oan giá hoạ.
  4. là người thường được nghe những lời thân thiết.
  5. là người sống an-lạc.
  6. là người có giọng nói rất hay, dễ mến.

Đó là 6 quả báu tốt của đại-thiện-nghiệp không nói lời thô tục mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong kiếp quá-khứ.

  1. Quả của đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích

Người thiện nào là người biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, tránh xa ác- nghiệp nói lời vô ích, tạo đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích.

Sau khi người thiện ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại- quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong lòng mẹ.

 

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành người ấy có 7 quả- báu của đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích trong kiếp quá-khứ của người ấy.

Kiếp hiện tại của người ấy:

  1. là người có nhiều người tin theo lời nói của mình.
  2. là người có nhiều người thương yêu quý mến.
  3. là người được nhiều người kính trọng.
  4. là người có khả năng nói cho nhiều người tin theo.
  5. là người sống hạnh phúc an-lạc.
  6. là người có nhiều quyền lực trong đời.
  7. là người có nhiều trí-tuệ, có khả năng đối đáp rất nhanh nhẹn.

Đó là 7 quả báu tốt của đại-thiện-nghiệp không nói lời vô ích mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong kiếp quá-khứ.

    • Quả của đại-thiện-nghiệp không uống rượu, bia và các chất say

Người thiện nào là người biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, tránh xa ác- nghiệp uống rượu, bia và các chất say, tạo đại-thiện- nghiệp không uống rượu, bia và các chất say.

Sau khi người thiện ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp không uống rượu, bia và các chất say trong đại-thiện- tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành người ấy có 30 quả báu của đại-thiện-nghiệp không uống rượu, bia và các chất say trong kiếp quá-khứ của người ấy.

 

Trong Chú-giải Khuddakapātha giảng giải về 30 quả báu của đại-thiện-nghiệp không uống rượu, bia và các chất say trong kiếp quá-khứ như sau:

Kiếp hiện-tại của người ấy:

  1. là người có trí-tuệ sáng suốt, hiểu biết mọi công việc đã làm, đang làm và sẽ làm.
  2. là người thường có trí nhớ.
  3. là người không loạn trí, điên cuồng.
  4. là người có trí-tuệ, thông minh, nhạy bén.
  5. là người có sự tinh-tấn không ngừng.
  6. là hạng người có tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) từ khi đầu thai.
  7. là người không bị câm điếc, từ khi đầu thai.
  8. người trí-tuệ sáng suốt, không muội.
  9. là hạng người không dể duôi trong mọi thiện-pháp.
  10. là hạng người đa-văn túc-trí, học nhiều hiểu rộng.
  11. là người có thân hình đầy đủ, cân đối các bộ phận lớn nhỏ xinh đẹp.
  12. là người ít gặp tai nạn.
  13. là người ít có sầu não, khổ tâm.
  14. người thường nói lời chân-thật, đáng tin.
  15. là người không nói lời chia rẽ, không nói lời thô tục, không nói lời vô ích.
  16. là người có sự tinh-tấn không ngừng ngày đêm trong mọi công việc phước-thiện.
  17. là người có lòng biết ơn và biết đền ơn đối với người ân nhân của mình.
  18. là người hiểu biết mọi công việc đã làm.
  19. là người không có tính keo kiệt, bủn xỉn của cải của mình.
  20. là người có tâm hoan hỷ trong việc tạo phước- thiện bố-thí của cải đến cho người khác.

 

  1. là người có giới hạnh đầy đủ và trọn vẹn.
  2. người trung thực với mình mọi người.
  3. là người ít sinh tâm sân hận.
  4. là người biết hổ-thẹn tội-lỗi, không dám làm ác.
  5. là người biết ghê-sợ tội-lỗi, không dám làm ác.
  6. là người có chánh-kiến thấy đúng, có khả năng thấy rõ, biết rõ thật-tánh của các pháp.
  7. là người có nhiều phước-thiện cao thượng.
  8. người nhiều trí-tuệ, hiểu biết các pháp.
  9. là bậc thiện-trí hiểu biết phân biệt được điều lợi,

điều hại, điều chánh, lẽ tà,…

  1. là bậc thiện-trí biết sự lợi ích kiếp hiện-tại, sự lợi ích kiếp vị-lai, sự lợi ích tối-thượng Niết-bàn.

Đó là 30 quả báu tốt của đại-thiện-nghiệp không uống rượu, bia và các chất say mà tiền-kiếp của người ấy đã tạo trong kiếp quá-khứ.

Đại-thiện-nghiệp quả của đại-thiện-nghiệp

    • Đại-thiện-nghiệp cho quả trong kiếp hiện-tại.

Đại-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong kiếp hiện-tại, có 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng tốt.

Thiện-quả vô-nhân-tâm 8 tâm

Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm là quả của đại- thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm:

1- Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của

đại-thiện-nghiệp, thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng. 2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-

thiện-nghiệp, nghe đối-tượng âm-thanh hay, đáng hài lòng.

3- Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại- thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm, đáng hài lòng.

 

4- Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của

đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon, đáng hài lòng. 5- Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc, là quả của

đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc an-lạc, đáng

hài lòng.

  1. Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
  2. Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại- thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
  3. Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ, là quả của đại- thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.

Trong kiếp hiện-tại, đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả có 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng tốt đáng hài lòng.

Paṭisandhikāla Và Pavattikāla

Đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

  • Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.
  • Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp hiện-tại.
  1. Paṭisandhikāla: Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau:

Đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) 8 đại-quả-tâm 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp gồm có 9 quả-tâm gọi là dục- giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) trong 7 cõi thiện-dục-giới cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới.

 

9 dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta)

9 dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) đó là 8 đại- quả-tâm và 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của 8 đại-thiện-nghiệp:

Đại-quả-tâm có 8 tâm

8 đại-quả-tâm mỗi đại-quả-tâm tương xứng 8 đại- thiện-tâm về thọ, về trí-tuệ, về tác-động như sau:

  1. Đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động,
  2. Đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động,
  3. Đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động,
  4. Đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động,
  5. Đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động,
  6. Đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động,
  7. Đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động,
  8. Đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

8 đại-quả-tâm có 2 loại quả-tâm:

  • 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ.
  • 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ.
  1. Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại- thiện-nghiệp bậc thấp trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm.

 

Như vậy, 9 dục-giới tái-sinh-tâm làm phận sự tái- sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới.

* Cõi người Nam-thiện-bộ-châu là cõi người mà chúng ta đang sinh sống.

  • 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm 1-Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

Người thiện nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-

lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, tránh xa 10 ác-nghiệp, tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Sau khi người thiện ấy chết,

  • Nếu đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ nào có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ- tính và hadayavatthurūpa: sắc ý căn) làm phận sự tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) đầu thai làm người tam- nhân (tihetukapuggala) trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người tam-nhân ấy

vốn có trí-tuệ.

  • Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền- định, thì có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép-thần-thông thế-gian (lokiya abhiññā).
  • Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền- tuệ, thì khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.

 

  1. Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại

Đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 sát-na- tâm, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti- kāla) kiếp hiện-tại, chính đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) tiếp tục làm phận sự hộ trì, giữ gìn kiếp người tam-nhân ấy cho đến khi hết tuổi thọ, và cuối cùng cũng chính đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của người tam- nhân ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả có 8 đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô- nhân-tâm gồm có 16 quả-tâm.

  • 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi tái-sinh-tâm 1-Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

Người thiện nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-

lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, tránh xa 10 ác-nghiệp, tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Sau khi người thiện ấy chết,

  • Nếu đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ nào có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc ý căn) làm phận sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) đầu thai làm người nhị-nhân (dvihetukapuggala) trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người nhị-nhân ấy

vốn không có trí-tuệ.

 

  • Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền- định, thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc- giới nào cả.
  • Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, thì không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

2-Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại

Đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ nào gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 sát-na-tâm, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) tiếp tục làm phận sự hộ trì, giữ gìn kiếp người nhị-nhân ấy cho đến khi hết tuổi thọ, và cuối cùng cũng chính đại- quả-tâm hợp với trí-tuệ ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của người nhị-nhân ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả có 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm gồm có 12 quả-tâm.

  • Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện- nghiệp bậc thấp gọi là tái-sinh-tâm
  1. Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

* Người thiện nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội- lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, tránh xa 10 ác-nghiệp, tạo 10 đại-thiện-nghiệp bậc thấp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Sau khi người thiện ấy chết,

  • Nếu đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ nào có cơ hội cho quả trong thời- kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) thì có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp gọi

 

tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ- tính và hadayavatthurūpa: sắc ý căn) làm phận sự tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) đầu thai làm người vô- nhân cõi thiện-giới (sugati ahetukapuggala) đui mù, câm điếc, tật nguyền, … từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người vô-nhân cõi thiện-giới ấy là người đui mù, câm điếc, tật nguyền, … chỉ biết tầm thường trong cuộc sống.

  1. Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại

Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả nào gọi là tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 sát- na-tâm, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) tiếp tục làm phận sự hộ trì, giữ gìn kiếp người vô-nhân cõi thiện-giới ấy cho đến khi hết tuổi thọ, và cuối cùng cũng chính suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả ấy trở thành tử- tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả chỉ có 8 thiện-quả vô- nhân-tâm mà thôi

Loài người trong cõi người Nam-thiện-bộ-châu có tuổi thọ không nhất định.

  • Nếu thời-kỳ các thiện-pháp tăng trưởng thì tuổi thọ con người tăng thì tăng dần lên cho đến tột đỉnh là a- tăng-kỳ (1)năm.

1 Asaṅkhyeyya: a-tăng-kỳ là đơn vị số lượng thì số 1 có 140 số 0 theo sau.

 

  • Nếu thời-kỳ các thiện-pháp giảm dần thì tuổi thọ con người cũng giảm dần cho đến tột cùng chỉ còn 10 năm mà thôi.

9 quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm trên 6 cõi trời dục-giới

  1. Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trên 6 cõi trời dục-giới

Người thiện nào biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội- lỗi, tin nghiệp và quả của nghiệp, tránh xa 10 ác-nghiệp, tạo 10 đại-thiện-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Sau khi người thiện ấy chết.

  • Nếu đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) thì có 9 quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi- citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên- nam hoặc vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới như sau:

* 6 Cõi trời dục-giới

  1. Cõi trời Tứ-đại-thiên-vương
  • Nếu 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái- sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân, hoặc vị thiên-nữ tam-nhân, hoặc
  • Nếu 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời Tứ-đại-thiên- vương, hưởng quả an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ 500 tuổi trời, bằng 9 triệu năm tại cõi người (bởi vì 1 ngày 1 đêm trên cõi trời này bằng 50 năm tại cõi người), hoặc
  • 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại- thiện-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam vô- nhân cõi thiện-giới, hoặc vị thiên-nữ vô-nhân cõi thiện-

 

giới nhóm bhummaṭṭhadevatā: chư-thiên trên mặt đất

thuộc Tứ-đại-thiên-vương, hưởng quả an-lạc tầm thường.

  1. Cõi trời Tam-thập-tam-thiên
  • Nếu 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái- sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân, hoặc vị thiên-nữ tam-nhân, hoặc
  • 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời Tam-thập-tam- thiên hưởng quả an-lạc cao quý hơn cõi trời Tứ-đại- thiên-vương, cho đến khi hết tuổi thọ 1.000 tuổi trời, bằng 36 triệu năm tại cõi người (bởi vì 1 ngày 1 đêm trên cõi trời này bằng 100 năm tại cõi người).
  1. Cõi trời Dạ-ma-thiên
  • Nếu 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái- sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân, hoặc vị thiên-nữ tam-nhân, hoặc
  • Nếu 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời Dạ-ma-thiên, hưởng quả an-lạc cao quý hơn cõi trời Tam-thập-tam- thiên, cho đến khi hết tuổi thọ 2.000 tuổi trời, bằng 144 triệu năm tại cõi người (bởi vì 1 ngày 1 đêm trên cõi trời này bằng 200 năm tại cõi người).
  1. Cõi trời Đâu-xuất-đà-thiên
  • Nếu 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái- sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân, hoặc vị thiên-nữ tam-nhân, hoặc
  • Nếu 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân,

 

hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời Đâu-xuất-đà- thiên, hưởng quả an-lạc cao quý hơn cõi trời Dạ-ma- thiên, cho đến khi hết tuổi thọ 4.000 tuổi trời, bằng 576 triệu năm tại cõi người (bởi vì 1 ngày 1 đêm trên cõi trời này bằng 400 năm tại cõi người).

  1. Cõi trời Hóa-lạc-thiên
  • Nếu 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái- sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân, hoặc vị thiên-nữ tam-nhân, hoặc
  • Nếu 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời Hóa-lạc-thiên hưởng quả an-lạc cao quý hơn cõi trời Đâu-xuất-đà- thiên, cho đến khi hết tuổi thọ 8.000 tuổi trời, bằng

2.304 triệu năm tại cõi người (bởi vì 1 ngày 1 đêm trên cõi trời này bằng 800 năm tại cõi người).

  1. Cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên
  • Nếu 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái- sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân, hoặc vị thiên-nữ tam-nhân, hoặc
  • Nếu 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời Tha-hóa-tự-tại- thiên, hưởng quả an-lạc cao quý hơn cõi trời Hóa-lạc- thiên, cho đến khi hết tuổi thọ 16.000 tuổi trời, bằng

9.216 triệu năm tại cõi người (bởi vì 1 ngày 1 đêm trên cõi trời này bằng 1600 năm tại cõi người).

  1. Pavattikāla: Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh

Đại-quả-tâm nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta)

làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 sát-na-tâm, liền tiếp theo

 

thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính đại-quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅga- citta) tiếp tục làm phận sự hộ trì, giữ gìn kiếp vị thiên- nam hoặc vị thiên-nữ ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại cõi trời dục-giới ấy, và cuối cùng cũng chính đại-quả-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ ấy tại cõi trời dục-giới ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, của vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ ấy, đại-thiện- nghiệp trong đại-thiện-tâm cho quả có 8 đại-quả-tâm và 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tùy theo đại-thiện-nghiệp trong mỗi đại-thiện-tâm.

Phận sự của 9 quả-tâm gọi là dục-giới tái-sinh-tâm

Trong 16 quả-tâm là quả của đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm ấy 9 quả-tâm 8 đại-quả-tâm 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm gọi là 9 dục-giới tái-sinh-tâm.

Trong 9 dục-giới tái-sinh-tâm ấy, nếu quả-tâm nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 sát-na-tâm rồi diệt, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính quả- tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự hộ kiếp, bảo hộ, giữ gìn kiếp người hoặc kiếp vị thiên-nam hoặc kiếp vị thiên-nữ ấy cho đến mãn kiếp hết tuổi thọ, rồi cuối cùng, cũng chính quả-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chết, kết thúc kiếp hiện- tại của kiếp người hoặc kiếp vị thiên-nam hoặc kiếp vị thiên-nữ ấy trong cõi trời dục-giới ấy.

Ví dụ: sau khi chúng-sinh nào chết, nếu có đại-quả- tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ,

 

không cần tác-động” gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi- citta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc ý căn) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân, hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện- tại, chính đại-quả-tâm thứ nhất ấy trở thành hộ-kiếp- tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự hộ kiếp, bảo hộ, giữ gìn kiếp người tam-nhân hoặc kiếp vị thiên-nam tam- nhân hoặc kiếp vị thiên-nữ tam-nhân ấy cho đến mãn kiếp hết tuổi thọ, rồi cuối cùng, cũng chính đại-quả-tâm thứ nhất ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chết, kết thúc kiếp hiện-tại kiếp người tam-nhân hoặc kiếp vị thiên-nam nhân-nhân hoặc kiếp vị thiên-nữ ấy trong cõi trời dục-giới ấy.

Như vậy, mỗi kiếp chúng-sinh nói chung, mỗi kiếp người nói riêng chỉ có 1 quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm, (paṭisandhicitta), trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) rồi trở thành tử-tâm (cuticitta) (tâm chết) cùng 1 loại quả-tâm giống nhau, chỉ có khác nhau về 3 khoảng thời gian mà thôi.

  • Thời gian đầu gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau chỉ có 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt, liền tiếp theo sau
  • Khoảng thời gian giữa trở thành hộ-kiếp-tâm (bha- vaṅgacitta) làm phận sự hộ trì, bảo hộ, giữ gìn suốt kiếp hiện-tại cho đến giây phút cuối cùng, tiếp theo sau
  • Thời gian cuối cùng trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (gọi là chết) kết thúc kiếp hiện-tại chỉ có 1 sát-na-tâm mà thôi.

 

Tuy nhiên, mỗi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng, trong vòng tử sinh luân-hồi từ kiếp này sang kiếp kia, tử-tâm (cuticitta) (tâm chết) của kiếp hiện-tại (kiếp cũ) diệt, kết thúc mỗi kiếp chúng-sinh và tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) kiếp sau (kiếp mới) sinh, bắt đầu mỗi kiếp chúng-sinh, tuy 2 kiếp chúng-sinh chỉ cách nhau có 1 sát-na-tâm (trước và sau), trong cùng một cận tử lộ- trình-tâm (maraṇāsannavīthi), nhưng chắc chắn 2 loại quả-tâm này là hoàn toàn khác biệt nhau, bởi vì 2 kiếp chúng-sinh khác nhau.

 

4.2.2- 10 phước-thiện (puññakriyāvatthu)(1)

Dục-giới thiện-nghiệp gọi là đại-thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm tạo 10 phước- thiện (puññakriyāvatthu) là:

  1. Dānakusala: phước-thiện bố-thí.
  2. Sīlakusala: phước-thiện giữ giới.
  3. Bhāvanā kusala: phước-thiện hành-thiền.
  4. Apaccāyanakusala: phước-thiện cung-kính.
  5. Veyyāvaccakusala: phước-thiện hỗ trợ trong mọi việc thiện.
  6. Pattidānakusala: phước-thiện hồi hướng phần phước-thiện.
  7. Pattānumodanākusala: phước-thiện hoan hỷ phần phước-thiện.
  8. Dhammassavanakusala: Phước-thiện nghe pháp.
  9. Dhammadesanākusala: phước-thiện thuyết pháp.
  10. Diṭṭhujukammakusala: phước-thiện chánh-kiến.

10 phước-thiện được gom lại thành 3 nhóm:

1 Tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng Phật-Giáo quyển V: Phước-Thiện.

 

  • Nhóm phước-thiện bố-thí.
  • Nhóm phước-thiện giữ giới.
  • Nhóm phước-thiện hành thiền.
  1. Nhóm phước-thiện bố-thí gồm có 3 pháp:
  • Phước-thiện bố-thí.
  • Phước-thiện hồi-hướng.
  • Phước-thiện hoan-hỷ.
  1. Nhóm phước-thiện giữ giới gồm có 3 pháp:
  • Phước-thiện giữ-giới.
  • Phước-thiện cung-kính.
  • Phước-thiện hỗ trợ trong mọi việc thiện.
  1. Nhóm phước-thiện hành-thiền gồm có 4 pháp:
  • Phước-thiện hành-thiền.
  • Phước-thiện nghe pháp.
  • Phước-thiện thuyết-pháp.
  • Phước-thiện chánh-kiến.

Tuy nhiên, phước-thiện chánh-kiến đó là kammas- sakatāsammādiṭṭhi: chánh-kiến hiểu biết đúng về nghiệp là của riêng mình là rất cần thiết cho cả 3 nhóm, để hỗ trợ tạo mỗi phước-thiện nào với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, có đủ

3 thiện-nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si (trí-tuệ), để cho phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp.

Phước-thiện và quả của 10 phước-thiện

Đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm tạo 10 phước- thiện (puññakriyāvatthu).

Đại-thiện-tâm (mahākusalacitta) có 8 tâm:

  1. Đại-thiện-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.

 

  1. Đại-thiện-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
  2. Đại-thiện-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
  3. Đại-thiện-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
  4. Đại-thiện-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
  5. Đại-thiện-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, với trí- tuệ, cần tác-động.
  6. Đại-thiện-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
  7. Đại-thiện-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

8 đại-thiện-tâm này phân chia theo trí-tuệ có 2 loại:

  • 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
  • 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ.

10 phước-thiện mà mỗi phước-thiện được thành-tựu

đều trải qua 3 thời-kỳ tác-ý:

  1. Pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm phát sinh trước khi tạo phước-thiện, không có thời gian nhất định.
  2. Muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm phát sinh khi đang tạo phước-thiện ấy.
  3. Aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện xong, thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí trải qua thời gian nhiều năm sau.

Trong 3 thời-kỳ tác-ý này, mỗi thời-kỳ tác-ý có vai trò quan trọng để trở thành đại-thiện-nghiệp như sau:

 

Năng lực của muñcacetanā

Thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm phát sinh khi đang tạo phước-thiện nào, phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp hoặc nhị-nhân đại-thiện-nghiệp như sau:

  • Người thiện nào nếu có muñcacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ kammas- sakatāñāṇa khi đang tạo phước-thiện nào có diṭṭhi- jukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ trợ phước-thiện ấy, thì người thiện ấy tạo phước-thiện ấy với đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ có đủ 3 thiện-nhân là vô-tham, vô- sân, vô-si, nên phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại- thiện-nghiệp (tihetukakusalakamma).
  • Người thiện nào nếu có muñcacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ kammassakatāñāṇa khi đang tạo phước-thiện nào không có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ trợ phước- thiện ấy, thì người thiện ấy tạo phước-thiện ấy với đại- thiện-tâm không hợp với trí-tuệ chỉ có 2 thiện-nhân là vô-tham và vô-sân, không có vô-si, nên phước-thiện ấy trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp (dvihetukakusala- kamma).

Tam-nhân đại-thiện-nghiệp nhị-nhân đại-thiện- nghiệp phân-loại theo năng lực của 2 thời-kỳ tác-ý: thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm phát sinh trước khi tạo phước-thiện nào và thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện nào xong, mỗi loại đại-thiện-nghiệp có 2 bậc:

  • Ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao.
  • Omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp.

 

  1. Ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao như thế nào?

Người thiện nào tạo phước-thiện bố-thí nào hoặc phước-thiện giữ-giới nào, hoặc phước-thiện hành-thiền nào,… nếu thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn và nhất là thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch, sau khi đã tạo phước-thiện nào, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, thì người ấy tạo phước-thiện bố-thí ấy hoặc phước- thiện giữ-giới ấy, hoặc phước-thiện hành-thiền ấy trở thành tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao, và dvihetuka-ukkaṭṭhakusala- kamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao.

  1. Omakakusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp như thế nào?

Người thiện nào tạo phước-thiện bố-thí nào hoặc phước-thiện giữ-giới nào, hoặc phước-thiện hành-thiền nào,… nếu thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch trước khi tạo phước- thiện ấy, bởi vì có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, và nhất là thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện nào, bởi vì có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì người ấy tạo phước-thiện bố-thí ấy hoặc phước-thiện giữ-giới ấy, hoặc phước-thiện hành-thiền ấy trở thành tihetuka-omakakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện nghiệp bậc thấp.

 

Năng lực của aparacetanā

Trong 2 thời-kỳ tác-ý: thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trước khi tạo phước- thiện nào và thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện nào theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, để quyết định phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao hoặc bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao hoặc bậc thấp, thì thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi có vai trò quan trọng hơn là thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm phát sinh trước khi tạo phước-thiện ấy, bởi vì chưa thành-tựu phước-thiện ấy.

Thật vậy, dù cho thời-kỳ pubbacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch trước khi tạo phước-thiện nào, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, nhưng nếu thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm với đại-thiện-tâm trong sạch hoan hỷ trong phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà- kiến phát sinh xen lẫn, không làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì phước-thiện ấy vẫn trở thành ukkaṭṭhakusala- kamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao.

Dù cho thời-kỳ pubbacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm trong sạch trước khi tạo phước-thiện ấy, không có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn, nhưng nếu thời-kỳ aparacetanā tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm không trong sạch sau khi đã tạo phước-thiện bố-thí ấy xong rồi, theo thời gian sau nhiều

 

ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm với đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, thì phước-thiện ấy, trở thành omakakusalakamma: đại- thiện-nghiệp bậc thấp.

Cho nên, aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, theo thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm có tầm quan trọng quyết-định đại-thiện- nghiệp ấy trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: đại-thiện- nghiệp bậc cao hoặc omakakusalakamma: đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

Phân loại đại-thiện-nghiệp theo ukkaṭṭhakusalakamma và omakakusalakamma

Phân loại tihetukakusalakamma và dvihetukakusala- kamma theo ukkaṭṭhakusalakamma omakakusala- kamma có 4 bậc như sau:

  • Tihetukakusalakamma có 2 bậc:
  1. Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao.
  2. Tihetuka-omakakusalakamma: tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.
  • Dvihetukakusalakamma có 2 bậc:
  1. Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện nghiệp bậc cao,
  2. Dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, mỗi đại-thiện- nghiệp có tầm quan trọng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh

 

kiếp sau (paṭisandhikāla) làm người hoặc làm vị thiên- nam,vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại của người hoặc của chư vị thiên-nam, vị thiên nữ.

Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp

Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp và nhị- nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp gồm có 4 bậc như sau:

  1. Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao.
  2. Tihetuka-omakakusalakamma: tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.
  3. Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao.
  4. Dvihetuka-omakakusalakamma: nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp.

Thời-kỳ paṭisandhikāla và thời-kỳ pavattikāla

Đại-thiện-nghiệp có 4 loại là tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao và nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp, mỗi bậc đại-thiện-nghiệp có cơ- hội cho quả trong 2 thời-kỳ:

    • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
    • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.

Đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đầu thai làm người, có 3 hạng người trong đời này, hoặc hóa-sinh làm vị thiên- nam hoặc vị thiên-nữ trên 6 cõi trời dục-giới, cũng có 3 hạng chư-thiên.

 

Mỗi hạng người, mỗi hạng thiên-nam, hạng thiên-nữ có khả năng khác nhau do quả của mỗi đại-thiện-nghiệp như sau:

  1. Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao:

Tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma là tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí- tuệ có cơ hội cho quả trong 2 thời-kỳ:

    • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
    • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
    1. Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

Người thiện nào có giới trong sạch trọn vẹn, đã tạo phước-thiện bố-thí nào, phước-thiện giữ-giới nào, phước-thiện hành-thiền nào, v.v…

Sau khi người thiện ấy chết, nếu tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāya- rūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc ý căn) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người tam-nhân (tihetuka- puggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người tam-nhân

ấy(1) vốn có trí-tuệ.

    • Nếu người tam-nhân ấy là hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-định thì có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép-thần-thông (lokiya abhiññā)(1).

1 Người tam-nhân là người có tái-sinh-tâm đủ 3 thiện-nhân.

 

    • Nếu người tam-nhân ấy là hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ thì có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.

Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trên cõi trời dục-giới. Nếu vị thiên- nam tam-nhân, vị thiên-nữ tam-nhân có cơ hội đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, thì vị thiên-nam tam-nhân, vị thiên-nữ tam-nhân có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.

    1. Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Tam-nhân đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ nào gọi là tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 sát-na-tâm, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính tam-nhân đại-quả- tâm hợp với trí-tuệ ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅga- citta) tiếp tục làm phận sự hộ trì, giữ gìn kiếp người tam- nhân ấy cho đến khi hết tuổi thọ, và cuối cùng cũng chính tam-nhân đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của người tam-nhân ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại- thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, 16 quả-tâm đó

    • Hữu-nhân đại-quả-tâm có 8 quả-tâm
    • Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm.

 

1 Xem bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển VII, tập 1 Pháp-Hành Thiền-Định. và quyển VII, tập 2 Pháp-Hành Thiền-Tuệ, cùng soạn giả.

 

    • Hữu-nhân đại-quả-tâm có 8 tâm

Hữu-nhân đại-quả-tâm đó là đại-quả-tâm có 8 tâm mà mỗi tâm tương xứng với mỗi tâm trong 8 đại-thiện- tâm như sau:

  1. Đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
  2. Đại-quả-tâm thứ nhì đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
  3. Đại-quả-tâm thứ ba đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
  4. Đại-quả-tâm thứ tư đồng sinh với thọ hỷ, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
  5. Đại-quả-tâm thứ năm đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
  6. Đại-quả-tâm thứ sáu đồng sinh với thọ xả, hợp với trí-tuệ, cần tác-động.
  7. Đại-quả-tâm thứ bảy đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, không cần tác-động.
  8. Đại-quả-tâm thứ tám đồng sinh với thọ xả, không hợp với trí-tuệ, cần tác-động.

Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 tâm:

Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm là quả của đại- thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm:

  1. Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của

đại-thiện-nghiệp, thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng. 2- Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-

thiện-nghiệp, nghe đối-tượng âm-thanh hay, đáng hài lòng.

  1. Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại- thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm, đáng hài lòng.
  2. Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của

đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon, đáng hài lòng.

 

  1. Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc, là quả của đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc an-lạc, đáng hài lòng.
  2. Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
  3. Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của đại- thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
  4. Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ, là quả của đại- thiện-nghiệp, suy xét 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.

Như vậy, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 đại-quả- tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam- nhân hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân, vị thiên-nữ tam-nhân trên 6 cõi trời dục-giới và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti- kāla), kiếp hiện-tại gồm có 16 quả-tâm 8 đại-quả-tâm 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng tốt đáng hài lòng trong cuộc sống kiếp hiện-tại của người tam-nhân ấy, hoặc của vị thiên-nam tam-nhân hoặc vị thiên-nữ tam-nhân ấy trong cõi trời dục-giới ấy.

  1. Tihetuka-omakakusalakamma là tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp với
  2. Dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma là nhị-nhân

đại-thiện-nghiệp bậc cao.

    • Tihetuka-omakakusalakamma tam-nhân đại-

 

thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí- tuệ với dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma là nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, 2 loại đại-thiện-nghiệp này cho quả tương đương với nhau trong 2 thời-kỳ:

    • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
    • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
    1. Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

Người thiện nào có giới trong sạch trọn vẹn, đã tạo phước-thiện bố-thí nào, phước-thiện giữ-giới nào, phước-thiện hành-thiền nào, v.v…

Sau khi người thiện ấy chết, nếu tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ tuột xuống tương đương với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ (2 loại đại-thiện-nghiệp này) có cơ hội cho quả tương đương trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại- quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc-pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadaya- vatthurūpa: sắc ý căn) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người nhị-nhân(1) (dvihetukapuggala) từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người nhị-nhân ấy vốn không có trí-tuệ.

    • Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-

định thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền nào cả.

    • Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ

thì không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

1 Người nhị-nhân là người có tái-sinh-tâm chỉ có 2 thiện-nhân là vô-tham và vô-sân (không có vô-si).

 

Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân trên cõi trời dục-giới. Nếu vị thiên- nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị-nhân có cơ hội đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức- Phật, thì vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên-nữ nhị- nhân không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

    1. Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Nhị-nhân đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 sát-na-tâm, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính nhị-nhân đại- quả-tâm không hợp với trí-tuệ ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) tiếp tục làm phận sự hộ trì, giữ gìn kiếp người tam-nhân ấy cho đến khi hết tuổi thọ, và cuối cùng cũng chính nhị-nhân đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của người nhị- nhân ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí- tuệ cho quả tương đương với nhau trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, 12 quả-tâm đó

    • Hữu-nhân đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ có 4 quả-tâm và
    • Thiện-quả vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm.

Như vậy, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ tuột xuống tương đương với nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại- thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong

 

thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 4 đại-quả- tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭi- sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người nhị-nhân hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị- nhân, vị thiên-nữ nhị-nhân trên 6 cõi trời dục-giới và tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ tuột xuống tương đương với nhị- nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại gồm có 12 quả-tâm 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp xúc biết các đối-tượng không tốt không xấu trong cuộc sống kiếp hiện-tại của người nhị- nhân ấy, hoặc của vị thiên-nam nhị-nhân hoặc vị thiên- nữ nhị-nhân ấy trên cõi trời dục-giới ấy.

Nhận xét về tihetuka-omakakusalakamma với dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma

Tihetuka-omakakusalakamma là tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, nên không đủ năng lực cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ, nên bị tuột xuống tương đương với dvihetuka-ukkaṭṭha- kusalakamma là nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) 4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người thuộc về hạng người dvihetukapuggala: hạng người nhị-nhân từ khi tái-sinh đầu thai làm người hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam nhị-nhân, vị thiên-nữ nhị- nhân trên 6 cõi trời dục-giới.

 

  1. Dvihetuka-omakakusalakamma là nhị-nhân đại- thiện-nghiệp bậc thấp

Dvihetuka-omakakusalakamma là nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí- tuệ cho quả trong 2 thời-kỳ:

    • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
    • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
    1. Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

Người thiện nào có giới trong sạch trọn vẹn, đã tạo phước-thiện bố-thí nào, phước-thiện giữ-giới nào, phước-thiện hành-thiền nào, v.v…

Sau khi người thiện ấy chết, nếu nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp thuộc về thiện-quả vô-nhân- tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) cùng với 3 sắc- pháp (kāyarūpa: thân, bhāvarūpa: sắc nam-tính hoặc sắc nữ-tính và hadayavatthurūpa: sắc ý căn) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm hạng người vô-nhân cõi thiện-giới(1)(sugati ahetukapuggala) là người đui mù, câm điếc, tật nguyền, … từ khi đầu thai trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người vô-nhân ấy vốn là người đui mù, câm điếc, tật nguyền,… chỉ biết thông thường trong cuộc sống hằng ngày mà thôi.

Hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam vô-nhân hoặc vị thiên-nữ vô-nhân trong nhóm bhummaṭṭhadevatā: chư thiên ở trên mặt đất thuộc về cõi trời Tứ-đại-thiên- vương.

1 Người vô-nhân người tái-sinh-tâm không thiện-nhân nào.

 

    1. Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại- thiện-nghiệp nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 sát-na-tâm, liền tiếp theo thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavatti-kāla), kiếp hiện-tại, chính suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại- thiện-nghiệp ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) tiếp tục làm phận sự hộ trì, giữ gìn kiếp người tam-nhân ấy cho đến khi hết tuổi thọ, và cuối cùng cũng chính suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện- nghiệp ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của người vô- nhân cõi thiện-giới ấy.

Trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp trong 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ cho quả chỉ có 8 thiện quả vô-nhân-tâm mà thôi, tiếp xúc với các đối- tượng tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.

Tuy nhiên, nếu đứa trẻ ấy bị đui mù, câm điếc, tật nguyền trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, do ác-nghiệp nào cho quả thì không thể gọi là người vô-nhân cõi thiện-giới được, bởi vì có số đứa trẻ có năng khiếu đặc biệt.

Bản tóm lược tam-nhân, nhị nhân bậc cao, bậc thấp

Tóm lược tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, tam- nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau và cho quả trong thời- kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

 

Đại-thiện-nghiệp bậc cao, bậc thấp

Thời-kỳ tái sinh

Thời-kỳ sau khi

đã tái-sinh

1- Tam-nhân đại- thiện-nghiệp bậc cao

4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ

8 đại-quả-tâm +

8 thiện-quả vô- nhân-tâm

2- Tam-nhân đại-thiện nghiêp bậc thấp + nhị- nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao

4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ

4 đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ + 8 thiện- quả vô-nhân tâm

3- Nhị-nhân đại-thiện nghiệp bậc thấp

1suy-xét-tâm thọ xả là thiện quả

vô-nhân-tâm

8 thiện-quả vô- nhân-tâm

Năng lực của muñcacetanā

* Phước-thiện nào trở thành tam-nhân đại-thiện- nghiệp hoặc nhị-nhân đại-thiện-nghiệp là do năng lực của muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện- tâm khi đang tạo phước-thiện ấy như sau:

Nếu muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm hợp với trí-tuệ, có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ trợ khi đang tạo phước-thiện nào, thì phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp (tihetukakusalakamma).

Nếu muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại- thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, không có diṭṭhijukamma: phước-thiện chánh-kiến hỗ trợ khi đang tạo phước-thiện nào, thì phước-thiện ấy trở thành nhị-nhân đại-thiện- nghiệp (dvihetukakusalakamma).

Năng lực của aparacetanā

* Phước-thiện nào trở thành tam-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao, bậc thấp hoặc nhị-nhân đại-thiện-nghiệp

 

bậc cao, bậc thấp là do năng lực của aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi như sau:

Tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc bậc thấp

    • Người nào đã tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā đã trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp; nếu khi đến thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, sau thời gian nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, mỗi khi người ấy niệm tưởng đến phước- thiện ấy, phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên không làm ô nhiễm đại-thiện-tâm ấy, thì phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao (tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma).
    • Người nào đã tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā đã trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp; nếu khi đến thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, sau thời gian nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, mỗi khi người ấy niệm tưởng đến phước- thiện ấy, phát sinh đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên làm ô nhiễm đại-thiện-tâm ấy, thì phước-thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp (tihetuka- omakakusalakamma).

Nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao hoặc bậc thấp

    • Người nào đã tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā đã trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp; nếu khi đến thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong

 

rồi, sau thời gian nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, mỗi khi người ấy niệm tưởng đến phước- thiện ấy, phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ, không có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên không làm ô nhiễm đại-thiện-tâm ấy, thì phước-thiện ấy trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao (dvihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma).

    • Người nào đã tạo phước-thiện nào trong thời-kỳ muñcacetanā đã trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp; nếu khi đến thời-kỳ aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, sau thời gian nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, mỗi khi người ấy niệm tưởng đến phước- thiện ấy, phát sinh đại-thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn phát sinh xen lẫn, nên làm ô nhiễm đại-thiện-tâm ấy, thì phước-thiện ấy trở thành nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp (dvihetuka- omakakusalakamma).

Năng lực của tác-ý

Tất cả mọi người cùng chung tạo phước-thiện nào có muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm đang khi tạo phước-thiện ấy với đại-thiện-tâm khác nhau như sau:

  • Số người có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện- tâm hợp với trí-tuệ, gọi là tihetukakusalakamma: tam- nhân đại-thiện-nghiệp.
  • Số người có tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện- tâm không hợp với trí-tuệ, gọi là dvihetukakusala- kamma: nhị-nhân đại-thiện-nghiệp.

Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là vì muñcacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm đang khi tạo phước-thiện khác nhau.

 

Tuy có số người tạo tihetukakusalakamma, tạo dvi- hetukakusalakamma giống nhau, nhưng aparacetanā: tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi với thời gian sau nhiều ngày, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm khác nhau như sau:

  • Số người sau khi tạo phước-thiện ấy xong rồi, mỗi khi niệm tưởng đến phước-thiện ấy liền phát sinh đại- thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ, không có tham- ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện- tâm ô nhiễm, nên phước-thiện ấy trở thành ukkaṭṭha- kusalakamma: đại-thiện-nghiệp bậc cao.
  • Số người sau khi tạo phước-thiện ấy xong rồi, mỗi khi nhớ tưởng đến phước-thiện ấy liền phát sinh đại- thiện-tâm không trong sạch, bởi vì có tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến phát sinh xen lẫn làm cho đại-thiện-tâm bị ô nhiễm, nên phước-thiện ấy trở thành omakakusala- kamma: đại-thiện-nghiệp bậc thấp.

Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là vì aparacetanā: tác- ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm sau khi đã tạo phước-thiện xong rồi khác nhau.

Cho nên, tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao, tam- nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, nhị-nhân đại-thiện- nghiệp bậc cao, nhị-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp, cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, khác nhau như vậy.

Vì vậy, người thiện nào gần gũi thân cận với chư bậc thiện-trí, có cơ hội học hỏi, lắng nghe lời giáo huấn của chư bậc thiện-trí, thì người ấy hiểu biết cách làm phước- thiện ấy trở thành tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc cao (tihetuka-ukkaṭṭhakusalakamma), đó là đại-thiện-nghiệp cao quý có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau

 

(paṭisandhikāla) đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân cao quý (tihetuka- puggala) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc, nhất là làm nhân-duyên dắt dẫn đến sự thành- tựu Nibbānasampatti, thì hạnh phúc biết dường nào!

Nhận xét về 3 hạng người trong đời

Trong đời hiện hữu có 3 hạng người là hạng người tam-nhân (tihetukapuggala), hạng người nhị-nhân (dvihetukapuggala), hạng người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) trong kiếp hiện-tại đều là quả của đại-thiện-nghiệp trong 8 đại-thiện-tâm mà mỗi người đã tạo trong kiếp quá-khứ.

  • Tihetukapuggala: hạng người tam-nhân là người khi tái-sinh với đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ, nên có đủ 3 thiện-nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si từ khi tái-sinh đầu thai làm người trong lòng mẹ.

Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người tam-nhân vốn dĩ có trí-tuệ, nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp- hành thiền-định thì có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông (lokiya abhiññā).

Nếu người tam-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền- tuệ thì có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo.

  • Dvihetukapuggala: hạng người nhị-nhân là người khi tái-sinh với đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ, nên chỉ có 2 nhân: vô-tham và vô-sân, không có vô-si, từ khi tái-sinh đầu thai làm người trong lòng mẹ.

 

Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người nhị-nhân vốn dĩ không có trí-tuệ, nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền-định thì không có khả năng chứng đắc bậc thiền nào.

Nếu người nhị-nhân ấy thực-hành pháp-hành thiền- tuệ thì cũng không có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

  • Sugati-ahetukapuggala: hạng người vô-nhân cõi thiện-giới là người khi tái-sinh với suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp thuộc về thiện-quả vô-nhân-tâm, từ khi tái-sinh đầu thai làm người bị đui mù, câm điếc, ngu-muội.

Khi sinh ra đời lúc trưởng thành là người đui mù, câm điếc, ngu-muội, si-mê, … biết tầm thường trong cuộc sống hằng ngày.

Như vậy, 3 hạng người là người tam-nhân, người nhị-nhân, người vô-nhân cõi thiện-giới đều là do quả của đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm của mỗi người khác nhau.

Cho nên, mỗi hạng người đang hiện hữu trong cõi đời này đều do nghiệp và quả của đại-thiện-nghiệp của mỗi người mà thôi, chắc chắn không phải là số-mệnh hoặc định-mệnh nào cả, không một ai có khả năng an bài mỗi số-mệnh của mỗi chúng-sinh lớn hoặc nhỏ trong tam- giới gồm có 31 cõi-giới này được.

Đức-Phật dạy các hàng thanh-văn đệ-tử hằng ngày thường suy xét về nghiệp và quả của nghiệp rằng:

“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma- bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃvā, tassa dāyādo bhavissāmi.”(1)

1Aṅg. Pañcakanipāta, kinh Abhiṇhapaccavekkhitabbaṭhānasutta.

 

Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’, ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.

Nghiệp và quả của nghiệp thật là rất công bằng, không hề thiên vị một ai cả.

Thật vậy, nghiệp và quả của nghiệp, Đức-Phật, chư bậc Thánh A-ra-hán cũng không có ngoại lệ.

 

Cơ hội đại-thiện-nghiệp, ác-nghiệp cho quả

Tất cả mọi chúng-sinh tam-giới nói chung, mỗi người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu nói riêng, đã từng tạo mọi đại-thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp dù nặng, dù nhẹ cũng đều được lưu-trữ ở trong tâm của mỗi chúng-sinh, từ kiếp này sang kiếp kia, từ vô thủy trải qua vô số kiếp, trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài cho đến kiếp hiện-tại.

    • Nếu đại-thiện-nghiệp nào gặp trường hợp thuận- duyên (sampatti) thì đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy, nhưng nếu gặp nghịch-duyên (vipatti) thì đại-thiện-nghiệp ấy bị cản ngăn, không có cơ hội cho quả của đại-thiện-nghiệp ấy, chờ cơ hội thuận-duyên khác.
    • Nếu ác-nghiệp nào gặp trường hợp nghịch-duyên (vippatti) thì ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy, nhưng nếu gặp thuận-duyên (sampatti) thì ác-nghiệp ấy bị cản ngăn, không có cơ hội cho quả của ác-nghiệp ấy, chờ cơ hội nghịch-duyên.

 

Nghiệp cho quả theo 4 sampatti, 4 vipatti.

    • Mỗi đại-thiện-nghiệp cho quả tốt, quả an-lạc theo 4 sampatti.
    • Sampatti: Thuận-duyên có 4 pháp(1)
      1. Gatisampatti: cõi-giới thuận-duyên cõi thiện-giới.
      2. Upadhisampatti: thân-thể thuận-duyên là thân-thể khỏe mạnh, có đầy đủ các bộ phận, không bị tật nguyền.
      3. Kālasampatti: thời-gian thuận-duyên là thời gian có đầy đủ sung túc mọi nhu cầu cần thiết.
      4. Payogasampatti: tinh-tấn thuận-duyên là sự tinh- tấn tạo mọi thiện-pháp.

Nếu đại-thiện-nghiệp nào gặp trường-hợp sampatti: thuận-duyên thì đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc, nếu đại-thiện-nghiệp ấy gặp trường-hợp vipatti: nghịch-duyên thì đại-thiện-nghiệp ấy không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc.

    • Mỗi ác-nghiệp cho quả xấu, quả khổ theo 4 vipatti.

Vipatti: Nghịch-duyên có 4 pháp:

  1. Gativipatti: cõi-giới nghịch-duyên là 4 cõi ác-giới.
  2. Upadhivipatti: thân-thể nghịch-duyên là thân thể bị tật nguyền.
  3. Kālavipatti: thời-gian nghịch-duyên là thời gian gặp nạn đói, nạn dịch bệnh, v.v...
  4. Payogavipatti: tinh-tấn nghịch-duyên là tinh-tấn tạo mọi ác-pháp.

Nếu ác-nghiệp nào gặp trường hợp vipatti: nghịch- duyên thì ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả xấu, quả khổ, nếu ác-nghiệp ấy gặp trường hợp sampatti: thuận-duyên thì ác-nghiệp ấy không có cơ hội cho quả xấu, quả khổ.

1 Aṅg.Tikanipāta, Aṭṭhakathā, Nidānasuttavaṇṇanā.

 

Trong bộ Vi-Diệu-Pháp Yếu-Nghĩa phân chia:

  • Ác-nghiệp có cơ hội cho quả xấu, quả khổ theo 4 vipatti: nghịch-duyên.
  • Ác-nghiệp không có cơ hội cho quả xấu, quả khổ theo 4 sampatti: thuận-duyên.
  • Đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc theo 4 sampatti: thuận-duyên.
  • Đại-thiện-nghiệp không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc theo 4 vipatti: nghịch-duyên.

Những cơ hội như sau:

  1. Ác-nghiệp nào gặp gativipatti thì có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy.
  2. Ác-nghiệp nào gặp upadhivipatti thì có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy.
  3. Ác-nghiệp nào gặp kālavipatti thì có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy.
  4. Ác-nghiệp nào gặp payogavipatti thì có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy.
  5. Ác-nghiệp nào gặp gatisampatti thì không có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy.
  6. Ác-nghiệp nào gặp upadhisampatti thì không có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy.
  7. Ác-nghiệp nào gặp kālasampatti thì không có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy.
  8. Ác-nghiệp nào gặp payogasampatti thì không có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy.
  9. Đại-thiện-nghiệp nào gặp gatisampatti thì có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy.
  10. Đại-thiện-nghiệp nào gặp upadhisampatti thì có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy,
  11. Đại-thiện-nghiệp nào gặp kālasampatti thì có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy.

 

  1. Đại-thiện-nghiệp nào gặp payogasampatti thì có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy.
  2. Đại-thiện-nghiệp nào gặp gativipatti thì không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy.
  3. Đại-thiện-nghiệp nào gặp upadhivipatti thì không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy.
  4. Đại-thiện-nghiệp nào gặp kālavipatti thì không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy.
  5. Đại-thiện-nghiệp nào gặp payogavipatti thì không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy.

Giảng giải 16 trường-hợp

  1. Ác-nghiệp nào gặp gativipatti thì có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy như thế nào?

Chúng-sinh nào đã tạo ác-nghiệp nào, sau khi chúng- sinh ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi ác- giới (gativipatti) thì ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy.

  1. Ác-nghiệp nào gặp upadhivipatti thì có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy như thế nào?

Đại-thiện-nghiệp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đầu thai làm người trong gia đình thấp hèn nghèo khổ, tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, ác-nghiệp cho quả xấu nên thai nhi bị tật nguyền từ trong bụng mẹ.

Khi thai nhi sinh ra đời có thân hình tật nguyền xấu xí, đến lúc trưởng thành, đứa bé có thân hình tật nguyền xấu xí (upadhivipatti), nên ác-nghiệp có cơ hội cho quả khổ của ác-nghiệp, đứa bé chịu bao nhiêu nỗi khổ bệnh hoạn ốm đau thiếu thốn đói khổ trong cuộc sống.

 

  1. Ác-nghiệp nào gặp kālavipatti thì có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy như thế nào?

Người nào sinh ra trong thời-kỳ gặp nạn đói (kāla- vipatti), nên ác-nghiệp có cơ hội cho quả khổ đối với người ấy chịu cảnh thiếu ăn đói khổ.

  1. Ác-nghiệp nào gặp payogavipatti thì có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy như thế nào?

Người nào tinh-tấn tạo ác-nghiệp (payogavipatti), nên ác-nghiệp có cơ hội cho quả khổ đối với người ấy phải chịu quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy.

  1. Ác-nghiệp gặp gatisampatti thì không có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy như thế nào?

Người nào đã từng tạo ác-nghiệp nào, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy không có cơ hội cho quả, mà đại- thiện-nghiệp khác có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới (gatisampatti), nên ác-nghiệp ấy bị ngăn cản, không có cơ hội cho quả khổ của ác-nghiệp ấy, đối với vị thiên-nam ấy.

  1. Ác-nghiệp nào gặp upadhisampatti thì không có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy như thế nào?

Người nào đã từng tạo ác-nghiệp nào, sau khi người ấy chết, ác-nghiệp ấy không có cơ hội cho quả, mà đại- thiện-nghiệp có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đầu thai làm người, thai nhi là con gái trong gia đình nghèo tại làng quê.

Khi sinh ra đời, lúc lớn lên trở thành cô gái rất xinh

đẹp tuyệt trần (upadhisampatti).

Một hôm, Đức-vua ngự đi du lãm, nhìn thấy cô gái

ấy, Đức-vua đem lòng yêu dấu, nên rước về cung, tấn

 

phong cô gái xinh đẹp tuyệt trần ấy lên ngôi Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua.

Như vậy, thân hình xinh đẹp tuyệt trần (upadhi- sampatti), nên ác-nghiệp ấy bị ngăn cản, không có cơ hội cho quả khổ của ác-nghiệp ấy .

  1. Ác-nghiệp nào gặp kālasampatti thì không có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy như thế nào?

Người nào sinh ra trong thời-kỳ sung túc, có đầy đủ mọi thứ nhu cầu cần thiết trong cuộc sống (kāla- sampatti), nên ác-nghiệp ấy bị ngăn cản, không có cơ hội cho quả khổ của ác-nghiệp ấy đối với người ấy.

  1. Ác-nghiệp nào gặp payogasampatti thì không có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy như thế nào?

Người nào đã từng tạo ác-nghiệp nào, về sau, người ấy tránh xa mọi ác-nghiệp ấy, cố gắng tinh-tấn tạo mọi đại-thiện-nghiệp (payogasampatti), nên ác-nghiệp ấy bị ngăn cản, không có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác- nghiệp ấy đối với người ấy.

  1. Đại-thiện-nghiệp nào gặp gatisampatti thì có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy như thế nào?

Người nào đã tạo đại-thiện-nghiệp nào, sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới (gatisampatti), nên đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy đối với vị thiên-nam ấy.

  1. Đại-thiện-nghiệp nào gặp upadhisampatti thì có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy như thế nào?

 

Người nào đã tạo đại-thiện-nghiệp nào, sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đầu thai vào lòng Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành là Thái-tử khôi-ngô tuấn-tú (upadhisampatti) của Đức-vua, nên đại-thiện- nghiệp ấy có cơ hội cho quả Thái-tử lên ngôi làm vua hưởng mọi an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy.

  1. Đại-thiện-nghiệp nào gặp kālasampatti thì có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy như thế nào?

Đại-thiện-nghiệp nào cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) sinh làm người trong thời-kỳ đầu kiếp trái đất (kālasampatti), nên đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy, có vật thực đồ ăn thức uống đầy đủ tự nhiên.

  1. Đại-thiện-nghiệp nào gặp payogasampatti thì có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy như thế nào?

Người nào có sự tinh-tấn tạo mọi thiện-pháp (payoga- sampatti), nên đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy đối với người ấy.

  1. Đại-thiện-nghiệp nào gặp gativipatti thì không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy như thế nào?

Người nào đã từng tạo đại-thiện-nghiệp nào, sau khi người ấy chết, đại-thiện-nghiệp ấy không có cơ hội cho quả, mà ác-nghiệp khác có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) trong cõi ác-giới (gati- vipatti), nên đại-thiện-nghiệp ấy bị cản ngăn, không

 

cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy đối với chúng-sinh ấy.

  1. Đại-thiện-nghiệp nào gặp upadhivipatti thì không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy như thế nào?

Người nào sinh làm vị hoàng-tử tật-nguyền của Đức- vua (upadhivipatti), nên đại-thiện-nghiệp ấy bị cản ngăn, không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện- nghiệp đối với vị hoàng-tử, nên không được chức vị cao cả nào trong triều đình.

  1. Đại-thiện-nghiệp nào gặp kālavipatti thì không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy như thế nào?

Nếu người nào sinh ra trong thời-kỳ gặp nạn đói (kālavipatti) thì đại-thiện-nghiệp ấy bị cản ngăn, không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy đối với người ấy.

  1. Đại-thiện-nghiệp nào gặp payogavipatti thì không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy như thế nào?

Nếu người nào có sự tinh-tấn tạo ác-nghiệp (payoga- vipatti) thì đại-thiện-nghiệp ấy bị cản ngăn, không có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy đối với người ấy.

Nghiệp quả của nghiệp đối với chúng-sinh các cõi-giới

* Chúng-sinh đang sống trong cõi địa-ngục (gati- vipatti) chỉ có ác-nghiệp có cơ hội cho quả khổ mà thôi, còn đại-thiện-nghiệp không có cơ hội cho quả an-lạc trong cõi địa-ngục ấy.

 

Khi mãn quả của ác-nghiệp nặng trong cõi đại-địa- ngục ấy, ác-nghiệp ấy còn có năng lực thì tiếp tục cho quả tái-sinh kiếp sau trong các cõi tiểu-địa-ngục từ cõi tiểu- địa-ngục này đến cõi tiểu-địa-ngục khác cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Nếu có đại-thiện-nghiệp đã được tích-lũy từ những kiếp quá-khứ có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau làm người trong cõi người, ác-nghiệp trong tiền-kiếp ấy vẫn có cơ hội cho quả khổ trong kiếp hiện-tại ấy.

  • Chúng-sinh là loài súc-sinh có một số như voi báu, ngựa báu, con chim biết nói tiếng người, con chó, con mèo tinh khôn, v.v… tuy chúng nó sinh ra do quả của ác- nghiệp trong thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla), nhưng trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện- tại, do nhờ đại-thiện-nghiệp trong tiền-kiếp quá-khứ cho quả tốt, quả an-lạc trong kiếp hiện-tại.
  • Chư vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trong 6 cõi trời dục-giới (gatisampatti), chỉ có đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả an-lạc mà thôi, còn ác-nghiệp không có cơ hội cho quả khổ trong 6 cõi trời dục-giới ấy.

Vị chư-thiên đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp, hết tuổi thọ trong cõi trời ấy, sau khi vị chư-thiên ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp còn có năng lực thì tiếp tục có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại cõi trời cũ, hoặc cõi trời dục-giới cao hơn hoặc thấp hơn cõi trời cũ, hoặc tái-sinh kiếp sau làm người trong cõi người.

Chư-thiên ở cõi trời dục-giới bậc thấp hết tuổi thọ, sau khi chết, nếu ác-nghiệp có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới, được sinh trong cõi nào tùy theo năng lực của ác-nghiệp ấy, chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy.

 

  • Chư phạm-thiên trên 16 tầng trời sắc-giới, 4 tầng trời vô-sắc-giới, chỉ có thiện-nghiệp cho quả an-lạc mà thôi, còn ác-nghiệp hoàn toàn không có cơ hội cho quả.
  • Loài người đặc biệt đang sống trong cõi Nam-thiện- bộ-châu này, khi thì đại-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc, khi thì ác-nghiệp có cơ hội cho quả xấu, quả khổ, cứ như vậy cho đến khi hết tuổi thọ, hoặc mãn quả của đại-thiện-nghiệp hỗ trợ (chết).

Con người trong cõi người Nam-thiện-bộ-châu này khả năng đặc biệt hơn tất cả mọi chúng-sinh trong các cõi-giới khác như sau:

  • Con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này có khả năng thuận lợi tạo mọi thiện-nghiệp \từ dục-giới thiện- nghiệp trong 8 dục-giới thiện-tâm, sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm, vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong

4 vô-sắc-giới thiện-tâm, cho đến siêu-tam-giới thiện- nghiệp trong 4 Thánh-đạo-tâm.

  • Con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này có khả năng thuận lợi nhất tạo đầy đủ 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
  • Con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này có khả năng thuận lợi tạo đầy đủ 20 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, để trở thành Đức-Phật Độc-Giác.
  • Con người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này có khả năng thuận lợi tạo đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, để trở thành 2 bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn- giác, các bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác, …

 

  • Con người nào trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này có thể tạo ác-nghiệp đến cực-ác như giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán, làm bầm máu bàn chân của Đức- Phật, chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng gọi là pañcānantariya- kamma: 5 ác-nghiệp vô-gián trọng-tội.

Sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại- địa-ngục Avīci, mà không có nghiệp nào ngăn cản được, phải chịu quả khổ thiêu đốt trong cõi đại-địa-ngục Avīci ấy, suốt thời gian nhiều đại-kiếp trái đất.

Tất cả mọi chúng-sinh dù nhỏ dù lớn cũng đều bị chi phối do nghiệp và quả của nghiệp, tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mình.

Đức-Phật dạy các hàng thanh-văn đệ-tử hằng ngày thường suy xét về nghiệp và quả của nghiệp rằng:

Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma- bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyānaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa dāyādo bhavissāmi.

Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’, ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.

Nhận xét về nghiệp và quả của nghiệp trong cõi người

Tất cả mọi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng, trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, từ vô thủy trải qua vô số kiếp, từ kiếp này sang kiếp kia, cho đến kiếp hiện-tại này, đã từng tạo vô số đại-thiện- nghiệp, tạo vô số ác-nghiệp dù nặng dù nhẹ cũng đều

 

được lưu trữ đầy đủ trọn vẹn ở trong tâm sinh rồi diệt của mỗi người, không hề bị mất mát một mảy may nào cả, dù cho thân mỗi kiếp bị thay đổi theo năng lực nghiệp và quả của nghiệp, còn tâm vẫn sinh rồi diệt có phận sự tích lũy, lưu trữ trọn vẹn tất cả mọi nghiệp gồm có mọi đại-thiện-nghiệp, mọi ác-nghiệp từ vô thủy trải qua vô số kiếp quá-khứ, cho nên, kiếp hiện-tại của mỗi người chính là quả của nghiệp trong kiếp quá-khứ của mình.

Đối với mỗi người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu (trái đất mà mọi người đang sống) này, khi thì đại-thiện- nghiệp có cơ hội cho quả tốt, nên chủ-nhân của đại- thiện-nghiệp được hưởng quả tốt, quả an-lạc trong cuộc sống; khi thì ác-nghiệp có cơ hội cho quả xấu, nên chủ- nhân của ác-nghiệp phải chịu quả xấu, quả khổ trong cuộc sống.

dụ 1: Tích Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna

  • Quả đại-thiện-nghiệp của Ngài Đại-Trưởng-Lão

Tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, trưởng giả Sirivaḍḍhana được Đức-Phật Anomadassī đã thọ ký rằng:

- Này Sirivaḍḍhana! Ý nguyện của con sẽ được thành- tựu trong thời vị-lai còn 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa. Thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, khi ấy, con sẽ là vị đệ nhị Tối-thượng thanh-văn đệ-tử bên trái có phép thần-thông xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Từ đó, tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão đã tạo và bồi bổ 10 pháp-hạnh ba-la-mật suốt 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất cho được đầy đủ.

 

Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, khi ấy, tu-sĩ Kolita đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Gotama, xin xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức- Phật Gotama, có pháp-danh là Mahāmoggallāna.

Tỳ-khưu Mahāmoggallāna thực-hành pháp-hành thiền- tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với lục-thông, tứ tuệ-phân-tích,...

Một hôm, chư tỳ-khưu-Tăng hội, Đức-Thế-Tôn tuyên dương Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna rằng:

- Này chư tỳ-khưu! Mahāmoggallāna là bậc Thánh- Tối-thượng thanh-văn đệ-tử bên trái có phép thần- thông xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Như-Lai.

Đó là quả của đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la- mật mà tiền-kiếp của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā- moggallāna đã tạo từ thời-kỳ Đức-Phật Anomadassī đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama, suốt 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

  • Quả ác-nghiệp của Ngài Đại-Trưởng-Lão

Trong tiền-kiếp xa xưa của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, người con trai thật sự chí hiếu đối với mẹ cha già đui mù. Mẹ cha khuyên bảo người con trai nên có vợ để giúp đỡ đần công việc trong nhà, còn người con trai lo công việc đồng áng bên ngoài, nhưng người con trai đã nhiều lần khước từ không chịu lấy vợ, chỉ muốn tự tay mình lo săn sóc phụng dưỡng mẹ cha già đui mù mà thôi.

Về sau, mẹ cha khẩn khoản nài nỉ, nên người con vâng lời mẹ cha chấp thuận lấy vợ. Người vợ về nhà phục vụ mẹ cha chồng được thời gian ngắn, người vợ không chịu ở chung với mẹ cha chồng.

 

Người con trai đã khuyên bảo người vợ cố gắng phục vụ mẹ cha đui mù, nhưng người vợ không chịu nghe lời khuyên bảo của chồng. Về sau, để chiều theo ý vợ, người con trai lừa dối cha mẹ, chở cha mẹ đui mù trên chiếc xe bò đi thăm người bà con, khi đến khu rừng, dừng xe lại, người con bước xuống xe, để cha mẹ đui mù ngồi trên xe chờ đợi.

Một lát sau, người con trai giả làm bọn cướp đến đánh đập mẹ cha già đui mù chết, đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (ānantariyakamma) giết mẹ, giết cha của mình, rồi đem xác mẹ cha ném vào trong rừng.

Sau khi người con trai chết, ác-nghiệp vô-gián trọng- tội giết mẹ, giết cha ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci, chịu quả khổ thiêu đốt suốt thời gian lâu dài trải qua nhiều đại-kiếp trái đất, mới thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục.

Do năng lực của ác-nghiệp còn dư sót, nên tái-sinh kiếp sau trong các cõi tiểu-địa-ngục này đến cõi tiểu-địa- ngục kia, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Do nhờ đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau làm người, do năng lực của ác-nghiệp còn dư sót, phần nhiều kiếp người nào cũng thường bị người khác đánh đập đến chết, rồi bỏ xác trong bụi cây như vậy.

  • Kiếp chót của ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog- gallāna là bậc Thánh-Tối-thượng thanh-văn đệ-tử bên trái có phép thần-thông xuất sắc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Nhóm ngoại đạo thuê mướn bọn du đãng đến sát hại Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, lần nào Ngài Đại-Trưởng-lão cũng sử dụng phép thần-thông biến mất, chúng không tìm thấy Ngài Đại-Trưởng-lão.

 

Lần cuối cùng, Ngài Đại-Trưởng-lão suy xét biết hết tuổi thọ, đồng thời ác-nghiệp cũ giết mẹ cha đui mù trong tiền-kiếp cho quả xấu mà Ngài Đại-Trưởng-lão không thể tránh khỏi, nên Ngài Đại-Trưởng-lão chịu để cho bọn du đãng đánh đập tan xương nát thịt, chúng tưởng Ngài Đại-Trưởng-lão đã chết nên đem bỏ xác Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna trong bụi cây, rồi chúng bỏ đi.

Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna sử dụng phép thần-thông gắn liền các bộ phận trong thân thể trở lại, rồi bay đến đảnh lễ Đức-Phật, xin phép tịch diệt Niết-bàn.(1)

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bị bọn du đãng đánh đập đến chết, đó là quả của ác-nghiệp vô- gián trọng-tội giết mẹ cha đui mù trong tiền-kiếp xa xưa của Ngài Đại-Trưởng-lão.

Ví dụ 2: Đức-Phật Gotama.

  • Quả đại-thiện-nghiệp của Đức-Phật Gotama

Tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama của chúng ta là Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt đã từng tạo 30 pháp-hạnh ba-la-mật suốt 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, trải qua 3 thời-kỳ:

  • Thời-kỳ đầu: Tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức-Bồ-tát đã phát nguyện ở trong tâm có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai, rồi thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật suốt 7 a- tăng-kỳ.
  • Thời-kỳ giữa: Tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác phát nguyện bằng lời

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Daṇḍavagga, Mahāmoggallānattheravatthu.

 

nói cho chúng-sinh nghe hiểu biết Đức-Bồ-tát có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai, rồi thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật suốt 9 a-tăng-kỳ.

Mặc dù vô số tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã tạo các pháp-hạnh ba-la-mật suốt 16 a-tăng-kỳ, vẫn còn là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác bất-định (aniyatabodhi- satta), nhưng tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vẫn giữ nguyên ý nguyện, kiên trì tiếp tục tạo các pháp-hạnh ba- la-mật.

  • Thời-kỳ cuối: Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha là tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama được Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, hậu-kiếp của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Từ đó về sau, vô số tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama trở thành Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cố-định (niyata- bodhisatta) tiếp tục tinh-tấn không ngừng thực-hành bồi bổ 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp- hạnh ba-la-mật bậc thượng, trong suốt thời gian 4 a- tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, trải qua vô số kiếp cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật.

Đến kiếp áp chót là Đức-vua Bồ-tát Vesantara là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama thực-hành bồi bổ pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật, bố-thí 2 con là hoàng-tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đến cho bà-la-môn Jūjaka, tiếp theo bố-thí Chánh-cung Hoàng-hậu Maddī đến vị bà-la-môn, để bồi bổ pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật cho đầy đủ trọn vẹn.

 

Đức-vua Bồ-tát Vesantara đã thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, sau khi băng hà, đại-thiện- nghiệp cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) hóa-sinh làm vị thiên-nam Setaketu trên cõi trời Tusita (Đâu-xuất-đà-thiên).

Đến thời-kỳ hợp thời đúng lúc, toàn thể chư-thiên, phạm-thiên đến kính thỉnh vị thiên-nam Setaketu là tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama, tái-sinh kiếp chót đầu thai vào lòng bà Mahāmayādevī là Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Suddhodana, dòng dõi Sakya, tại kinh- thành Kapilavatthu, vào canh chót ngày thứ 5, nhằm ngày rằm tháng 6 (âm-lịch).

Tròn đúng 10 tháng, Đức-Bồ-tát đản sinh ra đời tại khu vườn Lumbīnī vào ban ngày thứ 6, nhằm ngày rằm tháng 4.

Thái-tử có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ. Đó là quả-báu của đại-thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác suốt 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất.

Đức-vua Suddhodana thỉnh các vị bà-la-môn thiện-trí vào cung điện làm lễ đặt tên Thái-tử Siddhattha.

  • Năm 16 tuổi, Thái-tử Siddhattha được Đức-Phụ- hoàng Suddhodana truyền ngôi vua, đồng thời thành hôn với công-chúa Yasodharā.(1) Đức-vua Siddhattha lên ngôi làm vua được 13 năm.
  • Năm 29 tuổi, vào đêm rằm tháng 6, nghe tâu Hoàng-hậu Yasodharā sinh hạ hoàng-tử (sau đặt tên là Rāhula). Nửa đêm hôm ấy, Đức-vua Bồ-tát Siddhattha

1 Công-chúa Yasodharā cũng 16 tuổi, là người đồng sinh cùng một lúc với

Đức-Bồ-tát Siddhattha.

 

cỡi con ngựa Kaṇḍaka cùng với quan giữ ngựa Channa

trốn ra khỏi kinh-thành Kapilavatthu, đi xuất gia.

  • Năm 35 tuổi, vào buổi chiều ngày rằm tháng 4 (âm- lịch), Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự đến ngồi trên bồ-đoàn dưới cội cây Assattha(1).

Sau khi toàn thắng Ác-ma-Thiên từ trên cõi trời Tha- hóa-tự-tại-thiên, Đức-Bồ-tát Siddhattha thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm.

  • Canh đầu đêm: Đức-Bồ-tát Siddhattha chứng đắc tiền-kiếp-minh (pubbenivāsānussatiñāṇa) là trí-tuệ nhớ rõ, biết rõ tiền-kiếp của Ngài không có giới hạn.
  • Canh giữa đêm: Đức-Bồ-tát Siddhattha chứng đắc thiên-nhãn-minh (dibbacakkhuñāṇa) là trí-tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá-khứ, kiếp hiện-tại, kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh trong tam-giới.
  • Canh chót đêm: Đức-Bồ-tát Siddhattha thực-hành pháp-hành thiền-tuệ suy xét về thập-nhị nhân-sinh và thập-nhị nhân-diệt, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc trầm- luân-tận-minh (āsavakkhayañāṇa) là trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 4 loại phiền-não trầm-luân nghĩa là diệt tận được mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt được tất cả mọi tiền-khiên-tật (vāsanā) đã tích-lũy nhiều kiếp trong quá-khứ, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao-thượng đầu tiên trên toàn cõi- giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama tại cội

1 Cây Assattha tại khu rừng Uruvelā này chính là cây Đại-Bồ-Đề đồng sinh cùng một lúc với Đức-Bồ-tát Siddhattha tròn đúng 35 năm trước.

 

cây Assattha gọi là cây Đại-Bồ-Đề (Mahābodhirukkha)

của Đức-Phật Gotama.

Đó là quả của đại-thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh ba-la- mật đầy đủ trọn vẹn vô số kiếp Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã tích-lũy suốt 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

  • Quả ác-nghiệp của Đức-Phật Gotama

Trong tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama từ vô thủy trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại trước khi trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đã từng tạo vô số ác-nghiệp.

Đức-Phật Gotama có 12 loại ác-nghiệp cũ có cơ hội cho quả của ác-nghiệp ấy trong kiếp hiện-tại.

Đức-Phật thuyết giảng thuật lại cho các hàng thanh- văn đệ-tử biết những ác-nghiệp mà tiền-kiếp của Đức- Phật đã tạo trong những kiếp quá-khứ.

Nay kiếp chót hiện-tại này, năng lực của những ác- nghiệp ấy còn dư sót có cơ hội cho quả, nên Đức-Phật phải chịu quả xấu của ác-nghiệp ấy, bởi vì ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp ấy là của riêng Đức-Phật.(1)

Trong bộ Apadāna, phần Buddhāpadāna, Đức-Phật thuyết giảng thuật lại những ác-nghiệp ấy.

Nghiệp và quả của nghiệp rất công bình thật sự không có thiên vị một ai cả như vậy.

  • Đức-Phật Gotama quả của đại-thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh ba-la-mật mà vô số kiếp Đức-Bồ-tát tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama đã tạo trong suốt 20 a-tăng- kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

Đức-Phật Gotama phải chịu quả khổ của 12 ác-

1 Tìm hiểu trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển I “Tam-Bảo” phần ác- nghiệp cũ của Đức-Phật Gotama, cùng soạn giả.

 

nghiệp mà tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã từng tạo trong những kiếp quá-khứ.

Như vậy, đối với Đức-Phật và chư bậc Thánh A-ra- hán còn không tránh khỏi quả khổ của ác-nghiệp, huống hồ đối với tất cả mọi người phàm-nhân như chúng ta thì làm sao tránh khỏi quả khổ của ác-nghiệp của mình được.

Cho nên, chúng-sinh nào đã tạo ác-nghiệp nào rồi, nếu ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả khổ thì chúng-sinh ấy không có nơi nào để trốn tránh quả khổ của ác-nghiệp ấy được.

Như Đức-Phật thuyết dạy câu kệ rằng:

Na antalikkhe na samuddamajjhe, Na pabbatānaṃ vivaraṃ pavissa.

Na vijjatī so jagatippadeso,

yatthaṭṭhito mucceyya pāpakammā”ti(1). Người nào đã tạo ác-nghiệp rồi,

Người ấy trốn trên hư không,

Không tránh khỏi quả khổ của ác-nghiệp. Trốn trong đại dương, chui vào trong khe núi, Cũng không tránh khỏi quả khổ của ác-nghiệp. Không có nơi nào trên địa cầu này,

Người ấy tránh khỏi quả khổ của ác-nghiệp.

Quả khổ của ác-nghiệp,

Quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp

  • Đức-vua Bồ-tát Nimirājā là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama trong tích Nimijātaka,(2) trích một đoạn vấn đáp về quả khổ của ác-nghiệp và quả an-lạc của đại-thiện- nghiệp được tóm lược như sau:

1 Dhammapadaṭṭhakathā, Pāpavagga, Tayojanavatthu.

2 Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần Mahānipāta, Tích Nimijātaka.

 

Đức-vua Bồ-tát Nimirājā trị vì xứ Vedeha ngự tại kinh-thành Mithilā.

Đức-vua-trời Sakka trị vì chư-thiên trên cõi trời Tam- thập-tam-thiên muốn diện kiến Đức-vua Bồ-tát Nimi- rājā, nên truyền lệnh vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha cài 1000 con ngựa báu Sindhava từ cõi trời Tam-thập-tam-thiên hiện xuống kinh-thành Mithilā, kính thỉnh Đức-vua Bồ-tát Nimirājā lên cõi trời Tam- thập-tam-thiên rằng:

- Này Mātali! Ngươi hãy đem cỗ xe trời Vejayanta- ratha xuất hiện xuống kinh-thành Mithilā, đến cung điện kính thỉnh Đức-vua Nimi ngự lên hội trường Sudhammā. Tuân theo lệnh của Đức-vua-trời Sakka, vị thiên-nam

Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha cài 1000 con ngựa

báu Sindhava xuất hiện trên bầu trời nơi kinh-thành Mithilā nhằm vào ngày rằm ánh trăng sáng tỏ.

Khi ấy, Đức-vua Bồ-tát Nimi đang thọ trì bát giới uposathasīla trong ngày rằm, ngự tại lâu đài tiếp khách cùng với các quan trong triều ngồi xung quanh suy xét về bát giới uposathasīla.

Trên bầu trời, một mặt trăng tròn chiếu sáng và có cỗ xe trời Vejayantaratha cũng tỏa sáng giữa không trung.

Trong kinh-thành Mithilā, dân chúng nhìn lên không trung, thấy hiện tượng lạ thường như vậy nên bảo rằng:

Hôm nay, trên không trung có 2 mặt trăng chiếu sáng.

Khi cỗ xe trời Vejayantaratha hiện đến gần thì mọi người bảo nhau rằng:

- Này quý vị! Không phải mặt trăng thứ hai mà là một cỗ xe trời. Chắc chắn Đức-vua-trời Sakka truyền đem cỗ xe trời này rước Đức-vua Nimi của chúng ta. Cỗ xe trời này thật là xứng đáng với Đức-vua của chúng ta.

Nên mọi người đều phát sinh tâm hoan hỷ.

 

Thỉnh Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự lên cõi trời

Khi ấy, vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayanta- ratha dừng trước cửa lâu đài mà Đức-vua Bồ-tát Nimi đang ngự cùng với các quan trong triều, vị thiên-nam Mātali đến chầu Đức-vua Bồ-tát Nimi, tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, kính thỉnh Đại- vương ngự lên cỗ xe trời Vejayantaratha này, hạ thần sẽ đưa Đại-vương ngự lên giảng đường Sudhammā trên cung trời Tam-thập-tam-thiên, để Đức-vua-trời Sakka cùng nhóm chư-thiên đông đảo đang ngồi chờ đợi mong muốn diện kiến Đại-vương.

Nghe vị thiên-nam Mātali tâu như vậy, Đức-vua Bồ- tát Nimi nghĩ rằng: “Ta sẽ ngự lên cung trời Tam-thập- tam-thiên mà ta chưa đến.”

Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền bảo các quan cùng các người vương gia trong hoàng tộc rằng:

  • Này các khanh! Trẫm ngự lên cung trời Tam-thập- tam-thiên trong thời gian không lâu. Các khanh không nên dể duôi (thất niệm), hãy nên cố gắng tinh-tấn thực- hành mọi thiện pháp.

Sau khi truyền bảo xong, Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự lên ngồi trên cỗ xe trời Vejayantaratha, vị thiên-nam Mātali tâu Đức-vua Bồ-tát Nimi rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, có 2 con đường: Một đường, Đại-vương có thể nhìn thấy các cõi địa-ngục là nơi mà các chúng-sinh đang phải chịu quả khổ của ác-nghiệp mà họ đã tạo trong tiền-kiếp.

Và một đường, Đại-vương có thể nhìn thấy các lâu đài là nơi mà các chư-thiên đang an hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp mà họ đã tạo trong tiền-kiếp.

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, Đại-vương muốn cho hạ thần đưa Đại-vương ngự theo con đường nào?

 

Nghe vị thiên-nam Mātali tâu như vậy, Đức-vua Bồ- tát Nimi nghĩ rằng: “Ta muốn ngự đi cả 2 đường, để nhìn thấy các cõi địa-ngục và các lâu đài của 2 loại chúng-sinh ấy.”

Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền bảo rằng:

  • Này thiên-nam Mātali! Trẫm muốn đi cả 2 đường: một đường, để Trẫm nhìn thấy các cõi địa-ngục là nơi mà các chúng-sinh đang phải chịu quả khổ của ác- nghiệp mà họ đã tạo trong tiền-kiếp.

Và một đường, để Trẫm nhìn thấy các lâu đài là nơi mà các chư-thiên đang an hưởng quả an-lạc của đại- thiện-nghiệp mà họ đã tạo trong tiền-kiếp.

Nghe Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền bảo như vậy, vị thiên-nam tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, trong 2 đường ấy, Đại-vương muốn ngự đi theo đường nào trước.
  • Này thiên-nam Mātali! Trước tiên, Trẫm muốn nhìn thấy các cõi địa-ngục là nơi mà các chúng-sinh đang chịu quả khổ của ác-nghiệp của họ.

Tuân theo lệnh của Đức-vua Bồ-tát Nimi, vị thiên- nam Mātali đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự đi xem các cõi địa-ngục trước.

  • Đường qua các cõi địa-ngục
  • Con sông Vetaraṇī

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự đến con sông Vetaraṇī, nhìn thấy các chúa địa-ngục cầm khí giới như mã tấu, gươm, búa, cây lao, cây chĩa ba, v.v… cháy đỏ rực đâm, chém các chúng-sinh địa-ngục ở bờ sông ấy. Các chúng- sinh địa-ngục ấy chịu không nổi, rơi xuống dòng sông Vetaraṇī.

 

Trong dòng sông Vetaraṇī này nước nóng sôi sùng sục, có đầy những lưỡi cưa răng nhọn như mũi giáo bén nhọn, nóng cháy rực, cắt các chúng-sinh địa-ngục ấy thành đoạn lớn nhỏ. Chúng-sinh địa-ngục chết rồi, liền hóa-sinh trở lại suốt thời gian lâu dài.

Các chúng-sinh địa-ngục này bị các lưỡi giáo nóng đỏ đâm thủng thân hình, rơi xuống nước sông Vetaraṇī đụng những lá sen sắc bén, nóng đỏ cắt thân hình chúng- sinh ấy ra thành đoạn lớn nhỏ đau khổ. Chúng-sinh địa- ngục chết rồi, liền hóa-sinh trở lại suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn ác-nghiệp ấy.

Các chúng-sinh địa-ngục này chìm xuống dưới nước nóng sôi và cay, bị các lưỡi cưa sắc bén cắt đứt ra từng đoạn lớn nhỏ, chịu bao nhiêu nỗi đau khổ, chết rồi liền hóa-sinh trở lại suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.

Các chúng-sinh địa-ngục này rơi xuống dưới nước nóng sôi, đôi khi trôi theo dòng nước, đôi khi trôi ngược dòng nước. Các chúa địa-ngục đứng trên bờ bắn mũi tên đâm chúng-sinh ấy, hoặc đâm bằng cây giáo, hoặc phóng lao đâm chúng-sinh ấy, ... Chúng-sinh địa-ngục này phải chịu bao nỗi khổ không sao kể xiết được.

Các chúa địa-ngục dùng câu móc chúng-sinh ấy lên nằm trên tấm sắt nóng cháy đỏ, cầm thỏi sắt nóng cháy đỏ bỏ vào miệng chúng-sinh ấy, …

Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy các chúng-sinh địa- ngục phải chịu bao nhiêu những nỗi khổ như vậy, cảm thấy đáng kinh sợ, nên truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

  • Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục trong dòng sông Vetaraṇī phải chịu bao nhiêu nỗi khổ do bị hành hạ như vậy. Do tiền-kiếp của họ đã tạo ác- nghiệp như thế nào?

 

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, khi còn trên cõi người, là những người có quyền lực, đánh đập, hành hạ những người yếu thế, tạo ác-nghiệp như vậy.

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục trong con sông Vetaraṇī này, phải chịu quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.

  • Chúng-sinh địa-ngục bị ăn thịt

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy các đàn chó dữ, các bầy chim, ... cắn xé ăn thịt thân thể các chúng-sinh địa- ngục ấy.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

  • Này thiên-nam Mātali! Các đàn chó đỏ, chó đốm to bằng con voi chạy đuổi theo cắn xé ăn thịt chúng-sinh địa-ngục ấy, chỉ còn bộ xương; bầy kên kên mỏ như sắt nhọn lớn bằng cỗ xe bò, bầy kên kên mổ làm vỡ nát xương, để ăn tủy xương; bầy diều hâu mỏ như sắt đáng sợ cắn xé ăn thịt chúng-sinh địa-ngục, …

Những chúng-sinh địa-ngục ấy bị ăn thịt như vậy. Do tiền-kiếp của họ đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người có tính keo kiệt, bủn xỉn trong của cải của mình, không chịu tạo phước-thiện bố-thí đến cho người khác, thường hay

 

mắng nhiếc các Sa-môn, Bà-la-môn có giới đức trong sạch, đã tạo ác-nghiệp như vậy.

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục bị cắn xé ăn thịt, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.

  • Chúng-sinh địa-ngục bị hành hạ

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy những chúng-sinh địa-ngục đang bị cháy đỏ, đi đạp trên tấm sắt nóng cháy rực dài 9 do-tuần, các chúa địa-ngục đuổi theo kịp, đánh đôi chân các chúng-sinh địa-ngục ấy với cây sắt cháy đỏ rực bằng cây thốt nốt, làm cho chúng-sinh địa-ngục ngã quỵ, rồi đánh đập chúng-sinh ấy tan xương nát thịt.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

  • Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục đang bị cháy đỏ, đi đạp trên tấm sắt nóng cháy rực, và các chúa địa-ngục đuổi theo đánh bằng cây sắt nóng cháy rực, làm cho chúng-sinh địa-ngục bị tan xương nát thịt.

Những chúng-sinh địa-ngục bị đánh như vậy. Do tiền- kiếp của họ đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người hay làm khổ, hành hạ, mắng chửi những người đàn ông, đàn bà vô tội có giới hạnh trong sạch, có thiện pháp.

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục, bị đánh

 

đập tan xương nát thịt, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.

  • Chúa địa-ngục hành hạ chúng-sinh địa-ngục

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy các chúa địa-ngục đâm các chúng-sinh địa-ngục bằng khí giới cháy đỏ, các chúng-sinh địa-ngục rơi xuống hầm lửa than hồng đến eo, chúa địa-ngục múc lửa than hồng đổ trên đầu của các chúng-sinh địa-ngục ấy. Bị thiêu nóng nên thân hình quằn quại, chúng khóc la thảm thiết.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

  • Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục đang quằn quại, khóc la thảm thiết trong hầm than hồng đỏ rực, vì sức nóng kinh khủng ấy.

Những chúng-sinh địa-ngục bị thiêu đốt nóng như vậy. Do tiền-kiếp của họ đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người trong ban vận động gom góp tiền bạc của các thí chủ có đức-tin trong sạch, để làm đại lễ phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc để xây dựng chùa, tháp, hoặc để cứu trợ những người nghèo khổ, v.v… Nhưng các người ấy đem sử dụng số tiền bạc ấy theo ý của mình, không theo tác-ý đại-thiện-tâm trong sạch của thí chủ, hoặc lấy bớt số tiền ấy sử dụng riêng cho mình, rồi làm sổ sách giả chi tiêu vào công việc này, vào công việc kia làm hết số tiền ấy.

 

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp lừa dối ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục hầm than hồng, bị chúa địa-ngục hành hạ, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.

  • Địa-ngục nồi đồng sôi (Lohakumbhī)

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy những chúng-sinh địa-ngục bị các chúa địa-ngục nắm đôi chân đưa lên, cái đầu chúc xuống ném vào địa-ngục nồi đồng sôi.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

  • Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục bị chúa địa-ngục nắm đôi chân ném vào địa-ngục nồi đồng sôi chịu nóng thiêu như vậy. Do tiền-kiếp của họ đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người hay chê trách, mắng nhiếc chư Sa-môn, Bà-la-môn có giới hạnh trong sạch, thực-hành phạm-hạnh cao thượng.

Sau khi những người ấy chết, khẩu ác-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục, bị chúa địa-ngục nắm đôi chân ném vào địa-ngục nồi- đồng-sôi, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.

  • Địa-ngục nước đồng sôi

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy các chúa địa-ngục dùng sợi dây sắt nóng cháy đỏ cột cổ các chúng-sinh địa-

 

ngục đưa lên, chặt cái cổ, cái đầu còn dính ở sợi dây sắt, rồi ném thân mình chúng-sinh địa-ngục vào địa-ngục nước đồng sôi, thì cái đầu mọc lại ngay trên cái cổ thân mình chúng-sinh địa-ngục ấy.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

  • Này thiên-nam Mātali! Các chúa địa-ngục dùng sợi dây sắt nóng cháy đỏ cột cổ các chúng-sinh địa-ngục đưa lên, chặt cái cổ, cái đầu còn dính ở sợi dây sắt, rồi ném thân mình chúng-sinh địa-ngục vào địa-ngục nước đồng sôi, thì cái đầu lại mọc ngay trên cái cổ thân mình chúng-sinh địa-ngục ấy như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người làm nghề bắt chim chặt đầu, chặt cánh, làm thịt ăn, đem thịt bán cho người khác.

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp sát-sinh ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục bị chúa địa-ngục dùng sợi dây sắt nóng cháy đỏ cột cổ, chặt đầu, ném thân mình chúng-sinh địa-ngục vào địa- ngục nước đồng sôi, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác- nghiệp của họ như vậy.

  • Chúng-sinh địa-ngục khát nước

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy con sông nước chảy bình thường, những chúng-sinh địa-ngục bị khát nước không sao chịu đựng nổi, bởi vì sức nóng của tấm sắt cháy đỏ rực, nên đi xuống con sông ấy, ngay tức thì con

 

sông bốc lửa lên, nước sông trở thành trấu và lá khô bốc cháy. Chúng-sinh địa-ngục bị khát nước không sao chịu đựng được, nên nuốt trấu và lá cây cháy đỏ thay cho nước, làm cho chúng-sinh địa-ngục đau khổ, khóc than thảm thiết.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

  • Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục bị khát nước không sao chịu đựng nổi, nên đi xuống con sông, nước sông trở thành trấu và lá khô bốc cháy như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác- nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người bán thóc trộn chung với thóc lép và trấu cho người mua, nói rằng: “Thóc này là loại thóc tốt”.

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp do thân, khẩu, ý bất-thiện ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng- sinh cõi địa-ngục bị khát nước không sao chịu đựng nổi, đi xuống con sông, nước sông trở thành trấu và lá khô bốc cháy, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.

  • Chúa địa-ngục đâm chúng-sinh địa-ngục

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy những chúng-sinh địa-ngục bị các chúa địa-ngục bao vây xung quanh, rồi bị đâm bằng cây giáo, cây chĩa ba, bằng các thứ khí giới khác, thân hình của chúng-sinh địa-ngục đầy lỗ đâm đau đớn khóc la thảm thiết.

 

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

  • Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục bị các chúa địa-ngục bao vây xung quanh, rồi đâm bằng cây giáo, ...

Những chúng-sinh địa-ngục ấy bị đâm như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người trộm cắp, chiếm đoạt của cải tài sản của người khác, hoặc lừa gạt để chiếm đoạt của cải người khác một cách bất hợp pháp, để nuôi mạng.

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp trộm cắp ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục bị chúa địa-ngục bao vây xung quanh, rồi bị đâm bằng cây giáo, cây chĩa ba,… chúng-sinh địa-ngục phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.

  • Chúa địa-ngục chặt chúng-sinh địa-ngục

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy những chúng-sinh địa-ngục bị các chúa địa-ngục dùng dây sắt cháy đỏ cột cổ các chúng-sinh địa-ngục lôi lại đặt nằm trên tấm sắt cháy đỏ, rồi chặt ra từng đoạn.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

  • Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh địa-ngục bị các chúa địa-ngục dùng dây sắt cháy đỏ cột cổ lôi lại

 

đặt nằm trên tấm sắt cháy đỏ, rồi chặt ra từng đoạn như vậy. Do tiền-kiếp của họ đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người làm nghề giết heo, bò, gà, vịt,… để bán thịt nuôi mạng, hoặc làm nghề đánh bắt cá,… để bán cá nuôi mạng.

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp sát-sinh ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục, bị chúa địa-ngục dùng dây cột cổ lôi lại, đặt nằm trên tấm sắt cháy đỏ, rồi chặt ra từng đoạn, chúng-sinh địa- ngục phải chịu bao nỗi quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.

  • Chúng-sinh địa-ngục ăn phẩn uống nước tiểu

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy những chúng-sinh địa-ngục ăn phẩn, uống nước tiểu.

Thấy cảnh tượng đáng ghê tởm như vậy, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

  • Này thiên-nam Mātali! Hồ nước này chứa đầy phẩn và nước tiểu dơ bẩn có mùi hôi thối tỏa ra, chúng-sinh địa-ngục bị đói khát không chịu nổi, nên ăn phẩn và uống nước tiểu như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng- sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người

 

phản bạn, hại bạn, thường hay làm khổ người khác, chúng-sinh khác.

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục phải chịu quả khổ đói khát không chịu nổi, nên phải ăn phẩn, uống nước tiểu dơ bẩn như vậy.

    • Chúng-sinh địa-ngục uống máu và dòi

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy những chúng-sinh địa-ngục uống máu và ăn con dòi.

Thấy cảnh tượng đáng ghê tởm như vậy, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

    • Này thiên-nam Mātali! Hồ nước này chứa đầy máu và dòi dơ bẩn có mùi hôi thối tỏa ra, chúng-sinh địa- ngục bị thiêu đốt nóng nảy, bị đói khát không chịu nổi, nên uống máu và ăn dòi dơ bẩn như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A-ra-hán.

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi đại-địa-ngục Avīci phải chịu quả khổ thiêu đốt suốt nhiều đại-kiếp trái đất, đến khi mãn quả của ác-nghiệp trọng-tội ấy, mới thoát ra khỏi cõi đại-địa-ngục, rồi lại hóa-sinh trong các cõi tiểu-địa-ngục khác, phải chịu quả khổ đói khát không chịu nổi, nên phải uống máu và dòi làm vật thực như vậy.

 

    • Lưỡi của chúng-sinh địa-ngục bị lưỡi câu móc

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy chúa địa-ngục dùng lưỡi câu móc lưỡi của những chúng-sinh địa-ngục lôi ra đặt nằm trên tấm sắt cháy đỏ, dùng câu móc móc da thịt. Chúng-sinh địa-ngục nằm quằn quại, đau khổ khóc la, nước miếng chảy ra.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ như vậy, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

    • Này thiên-nam Mātali! Những chúng-sinh địa-ngục ấy phải chịu khổ như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng- sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người có chức trọng quyền cao, có phận sự đặt ra giá mua và giá bán các loài động vật và các loại thực vật, nhưng các quan ấy có tính tham lam ăn hối lộ người mua, nên ép giá người bán, để cho người mua có lợi, rồi các quan ấy được chia phần lợi. Hoặc là những người có hành vi gian lận như dùng cây cân thiếu trọng lượng, v.v…

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục phải chịu quả khổ của ác-nghiệp của họ như vậy.

    • Chúng-sinh trong địa-ngục hầm than hồng Người nam phạm điều-giới tà-dâm

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy địa-ngục hầm than hồng to lớn, các chúa địa-ngục nắm đôi chân các chúng-

 

sinh địa-ngục ném vào địa-ngục hầm than hồng, rồi dùng các loại khí giới đâm các chúng-sinh địa-ngục ấy.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ như vậy, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

    • Này thiên-nam Mātali! Những chúng-sinh trong địa- ngục hầm than hồng bị đâm như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người nam lấy vợ của người khác, hoặc con gái của người khác giữ gìn, phạm điều-giới tà-dâm.

Sau khi những người ấy chết, ác-nghiệp tà-dâm ấy cho quả hóa-sinh làm những chúng-sinh cõi địa-ngục bị chúa địa-ngục nắm đôi chân đưa lên, cái đầu chúc xuống ném vào địa-ngục hầm than hồng, rồi dùng các loại khí giới đâm vào thân hình các chúng-sinh địa-ngục ấy như vậy.

Người nữ phạm điều-giới tà dâm

Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy các nữ chúng-sinh địa-ngục có thân hình đáng kinh sợ, bị lở loét toàn thân, ruồi lằng bâu quanh mình, dính đầy máu và mủ, bị lún sâu dưới đất đến eo, đứng khóc than thảm thiết, hòn núi lửa cháy đỏ lăn từ 4 hướng đến đè bẹp các nữ chúng- sinh địa-ngục ấy.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ như vậy, nên Đức-vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

    • Này thiên-nam Mātali! Các nữ chúng-sinh địa-ngục chịu bao cảnh khổ như vậy. Do tiền-kiếp của nữ chúng- sinh địa-ngục đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

 

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các nữ chúng-sinh địa-ngục ấy, khi còn trên cõi người, là những người con gái gia đình giàu sang phú quý, khi cô đã có chồng rồi, còn quan hệ lén lút với người đàn ông khác, vì say mê trong tình dục, phạm điều-giới tà-dâm.

Sau khi những người vợ ấy chết, ác-nghiệp tà-dâm ấy cho quả hóa-sinh làm những nữ chúng-sinh địa-ngục phải chịu quả khổ của ác-nghiệp tà-dâm ấy như vậy.

    • Những địa-ngục của những chúng-sinh tà kiến

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy những chúng-sinh trong cõi địa-ngục có hình dáng cao, thấp, nhỏ, lớn khác nhau, có hình thù kỳ dị thật đáng kinh tởm.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ như vậy, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

    • Này thiên-nam Mātali! Các chúng-sinh ở trong địa- ngục như vậy. Do tiền-kiếp của các chúng-sinh ấy đã tạo ác-nghiệp như thế nào?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác- nghiệp của các chúng-sinh địa-ngục ấy, nên tâu rằng:

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của các chúng-sinh ở trong địa-ngục ấy, khi còn trên cõi người, là người có tà-kiến thấy sai, không tin nghiệp và quả của nghiệp như sau:
    • Tạo phước-thiện bố-thí không có quả,
    • Cúng dường không có quả,
    • Lễ bái, thỉnh mời, … không có quả,
    • Làm thiện-nghiệp không có quả thiện, làm ác-nghiệp không có quả ác, v.v…

 

Những người có tà-kiến như vậy nên đã tạo mọi ác- nghiệp. Sau khi họ chết, ác-nghiệp tà-kiến cho quả tái- sinh kiếp sau có hình thù kỳ dị thật đáng kinh tởm bị thiêu đốt trong cõi địa-ngục như vậy.

* Đức-vua-trời Sakka suy xét

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự đi nhìn thấy các chúng- sinh trong các cõi địa-ngục như vậy, còn tại hội trường Sudhammā trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên, Đức-vua- trời Sakka cùng số đông chư-thiên đang ngồi chờ đợi đón rước Đức-vua Bồ-tát Nimi.

Khi ấy, Đức-vua-trời Sakka nghĩ rằng: “Do nguyên nhân nào mà thiên-nam Mātali chậm trễ như thế này, mới thấy thiên-nam Mātali đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự đi xem các cõi địa-ngục.”

Đức-vua-trời Sakka nghĩ rằng: “Nếu đi xem các cõi địa-ngục như vậy, thì đến hết tuổi thọ của Đức-vua Bồ- tát Nimi cũng không tận cùng được.”

Vậy, ta nên gửi sứ giả bay thật nhanh đến báo tin cho thiên-nam Mātali theo lệnh của ta rằng:

“- Này Mātali! Ngươi hãy đưa Đại-vương Nimi ngự đến hội trường Sudhammā gấp.”

Nhận được lệnh, Vị thiên-nam Mātali tâu Đức-vua Bồ-tát Nimi rằng:

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, hạ thần đưa Đại- vương ngự đi xem các chúng-sinh trong một số cõi địa- ngục. Nay có lệnh Đức-vua-trời Sakka truyền lệnh hạ thần thỉnh Đại-vương ngự lên hội trường Sudhammā trên cõi trời Tam-thập-tam-thiên ngay bây giờ.

 

* Đường lên cõi trời Tam-thập-Tam-thiên

    • Lâu đài 5 đỉnh

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự lên cõi trời Tam-thập- tam-thiên. Trên đường ngự đi, Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy lâu đài có 5 đỉnh bằng ngọc maṇi sáng chói, nguy nga lộng lẫy, to lớn 12 do tuần trên hư không. Xung quanh lâu đài có khu vườn rộng, nhiều loại cây đầy hoa quả, có hồ nước lớn, hoa sen, hoa súng đủ loại rất xinh đẹp lạ thường. Bên trong lâu đài, một thiên-nữ xinh đẹp ngồi trên ghế dựa, xung quanh có cả ngàn thiên-nữ hầu hạ. Đức-vua Bồ-tát Nimi cảm thấy hoan hỷ, nên truyền hỏi vị thiên-nam Mātali rằng:

    • Này thiên-nam Mātali! Tiền-kiếp của thiên-nữ ấy đã từng tạo phước-thiện như thế nào mà được hóa-sinh trên cõi trời, hưởng sự an-lạc trong lâu đài như vậy?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả của thiện- nghiệp của vị thiên-nữ ấy, nên tâu rằng:

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, vị thiên-nữ ấy tên là Bīraṇī, tiền-kiếp của thiên-nữ là tớ gái (con của người tớ gái) trong gia đình Bà-la-môn, trong thời-kỳ Đức- Phật Kassapa.

Một hôm, ông Bà-la-môn muốn cúng dường vật thực đến chư tỳ-khưu, nên ông bảo người vợ và các người con gái của ông, ai cũng đều từ chối không chịu làm. Ông Bà-la-môn đến bảo người tớ gái rằng:

    • Này tớ gái! Sáng sớm ngày mai, ngươi có thể lo sửa soạn vật thực, để cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng được hay không?

Người tớ gái cung-kính thưa với ông chủ rằng:

    • Kính thưa ông chủ, dạ, con có thể làm được.

 

Đêm ấy, cô thức dậy từ sáng sớm, cô tớ gái lo sửa soạn vật thực ngon lành đầy đủ một cách chu đáo xong. Khi nhìn thấy chư tỳ-khưu-Tăng đến đứng trước nhà khất thực, cô tớ gái ra cung-kính đón rước vào nhà, kính thỉnh chư tỳ-khưu-Tăng ngồi trên chỗ cao quý, cô dâng cúng dường vật thực đến chư tỳ-khưu-Tăng một cách rất cung-kính. Sau khi chư tỳ-khưu-Tăng dùng xong, cô kính dâng vật dụng chút đỉnh của riêng cô đến chư tỳ-khưu- Tăng. Cô có tâm từ kính yêu chư tỳ-khưu-Tăng ấy.

Cô tớ gái là người có giới hạnh trong sạch, nên sau khi chết, thiện-nghiệp bố-thí cúng dường đến chư tỳ- khưu-Tăng cho quả hóa-sinh làm thiên-nữ có lâu đài có 5 đỉnh trên hư không như vậy.

    • 7 Lâu đài trên hư không

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự đi nhìn thấy 7 lâu đài vàng sáng chói như mặt trời giữa hư không, vị thiên-nam trong lâu đài có nhiều oai lực, trang sức các viên ngọc quý, có các thiên-nữ xung quanh hầu hạ, phục vụ đàn ca múa hát. Vị thiên-nam luân chuyển hưởng an-lạc trong 7 lâu đài vàng ấy. Đức-vua Bồ-tát Nimi cảm thấy vô cùng hoan hỷ, nên truyền hỏi vị thiên-nam Mātali rằng:

    • Này thiên-nam Mātali! Vị thiên-nam ấy đã tạo phước-thiện như thế nào, mà được hóa-sinh trên cõi trời, hưởng sự an-lạc trong 7 lâu đài vàng như vậy?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả của thiện- nghiệp của vị thiên-nam ấy, nên tâu rằng:

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, vị thiên-nam ấy tên là Soṇadinna, tiền-kiếp của vị thiên-nam là thí chủ Soṇadinna một tỉnh nhỏ trong đất nước Kāsi. Ông cho xây dựng 7 cốc, rồi dâng cúng dường đến chư tỳ-khưu-

 

Tăng trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, ông thường hộ độ các thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đến chư tỳ-khưu. Ông là người cận-sự- nam có ngũ-giới trong sạch, thường thọ trì bát-giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.

Sau khi ông thí chủ Soṇadinna chết, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh làm vị thiên-nam Soṇadinna có 7 lâu đài vàng sáng chói, hưởng mọi sự an-lạc như vậy.

    • Lâu đài bằng ngọc maṇi

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự đi lên cao nhìn thấy lâu đài bằng ngọc maṇi cao lớn phát ra ánh sáng chói ngời mát dịu, có đủ các loại âm thanh hay nghe êm tai. Vị thiên-nam có nhiều oai lực trong lâu đài, các thiên-nữ trang sức xinh đẹp lộng lẫy ca hát nhảy múa mà chưa từng thấy, chưa từng nghe bao giờ, nên Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

    • Này thiên-nam Mātali! Vị thiên-nam ấy đã từng tạo phước-thiện như thế nào mà được hóa-sinh trên cõi trời, hưởng sự an-lạc trong lâu đài bằng ngọc maṇi như vậy?

Vị thiên-nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả của thiện- nghiệp của vị thiên-nam ấy, nên tâu rằng:

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, tiền-kiếp của vị thiên-nam ấy là cận-sự-nam có giới hạnh trong sạch trong kinh-thành Bārāṇasī, thời-kỳ Đức Phật Kassapa. Ông cùng nhóm thí chủ xây dựng ngôi chùa, giếng nước, hồ nước, đường sá, cầu đường; ông hộ độ cúng dường chư Thánh A-ra-hán, những thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh, … một cách cung- kính; ông thường thọ trì bát giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.

 

Sau khi người cận-sự-nam chết, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh làm vị thiên-nam trong lâu đài bằng ngọc maṇi cao lớn, có hào quang sáng ngời toả ra khắp mọi nơi, hưởng mọi sự an-lạc như vậy.

Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự trên cỗ xe trời Vejayanta- ratha có 1000 con ngựa báu Sindhava kéo lên càng cao, thì càng nhìn thấy những lâu đài của chư-thiên càng nguy nga tráng lệ hơn các lâu đài phía dưới, do oai lực phước-thiện lớn của mỗi vị thiên-nam, thiên-nữ.

    • 7 Ngọn núi cao nơi cõi trời Tứ-đại-thiên-vương

Tiếp tục lên cao, nhìn thấy 7 ngọn núi lớn có chiều cao theo tuần tự trong đại dương Sīdantara, Đức-vua Bồ- tát Nimi truyền hỏi vị thiên-nam Mātali rằng:

    • Này thiên-nam Mātali! 7 ngọn núi lớn tên gọi là gì?

Vị thiên-nam Mātali tâu rằng:

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, 7 dãy núi lớn tên gọi là núi Sudassana, núi Karavīka, núi Īsadhara, núi Yugandhara, núi Nemindhara, núi Vinataka, núi Assa- kaṇṇa, mỗi ngọn núi có chiều cao theo tuần tự, ngọn núi trên cao hơn ngọn núi dưới. 7 ngọn núi nằm trong đại dương Sīdantara.
  • Từ ngọn núi Sudassana thấp đến ngọn núi Karavīka cao hơn, khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara, theo tuần tự như vậy.
  • Từ ngọn núi Karavīka thấp đến ngọn núi Īsadhara cao hơn, khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.
  • Từ ngọn núi Īsadhara thấp đến ngọn núi Yugan- dhara cao hơn, khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.
  • Từ ngọn núi Yugandhara thấp đến ngọn núi Nemin-

 

dhara cao hơn, khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.

  • Từ ngọn núi Nemindhara thấp đến ngọn núi Vinataka cao hơn, khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.
  • Từ ngọn núi Vinataka thấp đến ngọn núi Assakaṇṇa cao hơn, khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara. Ngọn núi Assakaṇṇa là cao nhất. 7 ngọn núi thấp cao ví như 7 tầng nấc thang.
    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, 7 ngọn núi ấy là chỗ ngự của tứ Đại-Thiên-vương hộ trì thế giới:
  • Đại-Thiên-vương Dhataraṭṭha ngự tại hướng Đông.
  • Đại-Thiên-vương Virūḷhaka ngự tại hướng Nam.
  • Đại-Thiên-vương Virūpakkha ngự tại hướng Tây.
  • Đại-Thiên-vương Kuvera ngự tại hướng Bắc.

Vị thiên-nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự đi qua 7 ngọn núi, chỗ ngụ của tứ Đại-Thiên-vương, rồi tiếp tục ngự đi lên cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

Nhìn thấy cổng cõi trời Tam-thập-tam-thiên có điêu khắc hình Đức-vua-trời Sakka đẹp tuyệt vời, Đức-vua Bồ-tát Nimi truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

    • Này thiên-nam Mātali! Cổng ấy đẹp tuyệt vời có tên gọi là gì?

Vị thiên-nam Mātali tâu rằng:

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, cổng ấy có tên gọi là Cittakūṭa là cổng ra vào của Đức-vua-trời Sakka, cổng ấy có chiều rộng và chiều dài mỗi chiều 1,000 do tuần là cổng chính của cõi trời Tam-thập-tam-thiên nằm trên đỉnh ngọn núi Sineru, thật là xinh đẹp lạ thường, có điêu khắc hình Đức-vua-trời Sakka, các hình ảnh sư tử chúa, hổ chúa, v.v…

 

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, kính thỉnh Đại- vương ngự vào cổng này, ngự đi trên nền cõi trời bằng vàng và ngọc maṇi, xung quanh có các loài hoa trời đủ loại rất xinh đẹp.

Ngự trên cỗ xe trời Vejayantaratha có 1,000 con ngựa báu Sindhava kéo bay vào bên trong, Đức-vua Bồ-tát Nimi nhìn thấy hội trường rộng lớn nguy nga tráng lệ tuyệt vời tại cung trời Tam-thập-tam-thiên, nên truyền hỏi thiên-nam Mātali rằng:

    • Này thiên-nam Mātali! Hội trường rộng lớn ấy có tên gọi là gì?

Vị thiên-nam Mātali tâu rằng:

    • Muôn tâu Đại-vương cao thượng, hội trường rộng lớn ấy có tên gọi là hội trường Sudhammā được phát sinh do quả phước-thiện, thật nguy nga lộng lẫy tuyệt vời, các cây cột 8 cạnh bằng ngọc quý nhất.

Hội trường là chỗ hội họp của toàn thể chư-thiên cung trời Tam-thập-tam-thiên, có Đức-vua-trời Sakka chủ trì, để bàn thảo những vấn đề an-lạc hạnh phúc của chư-thiên và nhân-loại.

    • Kính thỉnh Đại-vương ngự vào hội trường Sudham- mā, nơi mà Đức-vua-trời Sakka cùng toàn thể chư-thiên đang chờ đón rước Đại-vương.

Đang ngồi chờ đợi Đức-vua Bồ-tát Nimi, toàn thể chư-thiên nghe tin báo rằng:

Đức-vua Bồ-tát Nimi đã ngự đến rồi!”

Mỗi vị thiên-nam, thiên-nữ cầm đóa hoa trời, hương trời, v.v… đi ra tận cổng Cittakūṭa đứng đón rước cúng dường Đức-vua Bồ-tát Nimi, kính thỉnh Đức-vua ngự vào hội trường Sudhammā.

Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự xuống cỗ xe trời Vejayanta- ratha, ngự đi vào hội trường Sudhammā.

 

Hai bên đường toàn thể chư-thiên hoan hỷ đón rước, cúng dường những phẩm vật quý đến Đức-vua Bồ-tát Nimi reo hò rằng:

“Muôn tâu Đại-vương, toàn thể chư-thiên chúng con kính chào mừng Đại-vương.

Kính thỉnh Đại-vương ngự lên trên bảo tòa bên cạnh

Đức-vua-trời Sakka.

Đức-vua-trời Sakka vô cùng hoan hỷ tâu rằng: “Bổn vương vô cùng hoan hỷ đón rước Đại-vương của đất nước Videha. Kính thỉnh Đại-vương ngự lên trên bảo tòa cao quý của bổn vương.

Kính thỉnh Đại-vương hưởng mọi sự an-lạc trên cung trời Tam-thập-tam-thiên này.

Nghe Đức-vua-trời Sakka kính thỉnh như vậy, Đức- vua Bồ-tát Nimi truyền bảo rằng:

    • Muôn tâu Đức-vua-trời, những thứ gì có được do người khác ban tặng, những thứ ấy ví như xe cộ hoặc của cải mượn của người khác. Do đó, bổn vương không muốn được của người khác ban tặng. Mọi phước-thiện mà chính bổn vương tự tạo, đó là thứ của cải riêng của chính mình, gắn bó với mình mà thôi.

Khi hồi cung ngự trở lại kinh-thành Mithilā, bổn vương sẽ tạo mọi phước-thiện trong cõi người, như bố- thí, giữ gìn giới trong sạch, thọ trì bát-giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, giữ gìn thận trọng 6 môn thanh-tịnh, thực-hành pháp-hành thiền-định, để cho tâm được an-lạc, sẽ không bị nóng nảy về sau.

Đức-vua Bồ-tát Nimi thuyết pháp với giọng hay tế độ toàn thể chư-thiên, làm cho chư-thiên vô cùng hoan hỷ trong lời dạy của Đức-vua Bồ-tát.

Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự tại cõi trời Tam-thập-tam- thiên chỉ có 7 ngày, tính theo thời gian cõi người.

 

Đức-vua Bồ-tát Nimi tán dương ca tụng vị thiên-nam Mātali rằng:

    • Này thiên-nam Mātali! Ngươi đã đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Trẫm ngự đi xem những chúng-sinh trong các cõi địa-ngục, và ngự đi xem những chư-thiên trong các lâu đài nguy nga tráng lệ.

Vậy, ngươi đã có công giúp đỡ Trẫm nhiều.

Sau đó, Đức-vua Bồ-tát Nimi tâu với Đức-vua-trời Sakka rằng:

    • Muôn tâu Đức-vua-trời, bổn vương đã ngự an hưởng tại cung trời Tam-thập-tam-thiên suốt 7 ngày qua.

Nay, bổn vương mong muốn hồi cung trở lại kinh- thành Mithilā.

Nghe Đức-vua Bồ-tát Nimi tâu như vậy, Đức-vua-trời Sakka truyền lệnh vị thiên-nam Mātali đưa Đức-vua Bồ- tát Nimi hồi cung ngự trở về kinh-thành Mithilā.

Tuân theo lệnh của Đức-vua-trời Sakka, vị thiên- nam Mātali thỉnh Đức-vua Bồ-tát Nimi ngự lên cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức-vua Bồ-tát Nimi hồi cung ngự trở về kinh-thành Mithilā.

Đức-vua Bồ-tát Nimirājā ngự tại kinh-thành Mithilā trị vì xứ Vedeha, thần dân thiên hạ được sống an lành thịnh vượng.

Một hôm, nhìn thấy trên đầu có sợi tóc bạc Đức-vua Bồ-tát Nimirājā hội triều rồi truyền dạy các quan cùng thần dân trong xứ Vedeha rằng:

    • Này các khanh cùng thần dân thiên hạ! Trên đầu Trẫm đã có sợi tóc bạc rồi, thời trẻ trung đã qua, thời lão niên đã hiện rõ. Ngay bây giờ, Trẫm sẽ đi xuất gia, trao ngai vàng lại cho các khanh.

Nghiệp và quả của nghiệp thật là công bằng như vậy.

 

  • Nếu người nào muốn hưởng quả an-lạc của thiện- nghiệp nào thì người ấy nên tạo thiện-nghiệp ấy tuỳ theo khả năng của mình, bởi vì chỉ có thiện-nghiệp mới cho quả an-lạc mà thôi.
  • Nếu người nào không muốn chịu quả khổ của ác- nghiệp thì người ấy nên tránh xa mọi ác-nghiệp, bởi vì chỉ có ác-nghiệp mới cho quả khổ mà thôi.

Đó là sự công bằng của nghiệp và quả của nghiệp.

 

4.3- Rūpāvacarakusalakamma: Sắc-giới thiện-nghiệp

Phần dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) quả của dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) đã giải thích xong, tiếp theo giải thích sắc-giới thiện-nghiệp quả của sắc-giới thiện-nghiệp.

Trong quyển sách này chỉ trình bày, giải thích nghiệp và quả của nghiệp, cho nên, phần sắc-giới thiện-nghiệp này không trình bày phương pháp thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện- tâm(1), mà chỉ trình bày, giải thích về sắc-giới thiện- nghiệp và quả của sắc-giới thiện-nghiệp mà thôi.

Sắc-giới thiện-nghiệp

Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở (cetanā- cetasika) đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm, cho nên sắc- giới thiện-nghiệp có 5 loại thuộc về ý thiện-nghiệp.

5 sắc-giới thiện-tâm đó là 5 bậc thiền sắc-giới thiện- tâm phát sinh do nương nhờ nơi đề-mục thiền-định.

 

1 Xem phương pháp thực-hành pháp-hành thiền-định trong bộ Nền-Tảng- Phật-Giáo, quyển VII, Tập 1, Pháp-Hành Thiền-Định, cùng soạn-giả.

 

Pháp-hành thiền-định có 40 đề-mục thiền-định:

    • 10 đề-mục hình vòng tròn kasiṇa.
    • 10 đề-mục tử thi bất-tịnh (asubha).
    • 10 đề-mục niệm-niệm (anussati).
    • 4 đề-mục tứ vô-lượng-tâm (appamaññā).
    • 1 đề-mục vật-thực đáng nhờm (āhāre paṭikkūlasaññā).
    • 1 đề-mục phân tích tứ-đại (catudhātuvavatthāna).
    • 4 đề-mục vô-sắc (āruppa).

Trong 40 đề-mục thiền-định này, mỗi đề-mục có tính chất khác nhau, thô hoặc vi-tế khác nhau, nên dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm khác nhau, được phân loại 40 đề-mục thiền-định theo tính chất như sau:

  • 10 đề-mục dẫn đến cận-định (upacārasamādhi):
  1. Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-Đức-Phật (Buddhānussati).
  2. Đề-mục niệm-niệm 6 Ân-Đức-Pháp (Dhammānussati).
  3. Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-Đức-Tăng (Saṃghānussati).
  4. Đề-mục niệm-niệm giới trong sạch của mình (Sīlā- nussati).
  5. Đề-mục niệm-niệm sự bố-thí của mình (Cāgānussati)
  6. Đề-mục niệm-niệm 5 pháp chư-thiên có nơi mình (Devānussati).
  7. Đề-mục niệm-niệm trạng thái an-lạc tịch tịnh Niết- bàn (Upasamānussati).
  8. Đề-mục niệm-niệm về sự chết (Maraṇānussati).
  9. Đề-mục vật thực đáng nhờm (Āhāre paṭikkūlasaññā).
  10. Đề-mục phân tích tứ-đại (catudhātavavatthāna).

Hành-giả thực-hành 1 trong 10 đề-mục thiền-định này chỉ có khả năng dẫn đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, thuộc về dục-giới thiện-tâm, bởi vì 10 đề-mục thiền- định này thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma)

 

(1) vô cùng vi tế, sâu sắc, ý nghĩa rộng lớn, nên định-tâm

không thể an trú vào một đối-tượng nào nhất định.

Cho nên, hành-giả không thể chứng đắc được bậc thiền sắc-giới nào cả, tâm của hành-giả vẫn còn là dục- giới thiện-tâm (đại-thiện-tâm).

  • 11 đề-mục thiền-định dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm:
    • 10 đề-mục tử thi bất tịnh (asubha).
    • 1 đề-mục niệm 32 thể trược trong thân (kāyagatāsati).

Hành-giả thực-hành 1 trong 11 đề-mục thiền-định này có tính chất thô nên chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới mà thôi, không thể chứng đắc các bậc thiền sắc-giới bậc cao.

  • 3 đề-mục vô-lượng-tâm dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm:
    • Đề-mục niệm rải tâm-từ đến chúng-sinh đáng yêu,

đáng mến (piyamanāpasattapaññatti).

    • Đề-mục niệm rải tâm-bi đến chúng-sinh đang khổ, mong được cứu khổ (dukkhitasattapaññatti).
    • Đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến chúng-sinh đang hưởng sự an-lạc, hạnh phúc (sukhitasattapaññatti).

Hành-giả thực-hành 1 trong 3 đề-mục thiền định vô- lượng này có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, nhưng không có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, bởi vì 3 đề-mục vô- lượng này còn có thọ lạc là chi thiền.

1 Tuy 10 đề-mục thiền-định này thuộc về chân-nghĩa-pháp, nhưng hành- giả thực-hành theo phương pháp pháp-hành thiền-định, không phải thực- hành pháp-hành thiền-tuệ, nên cũng không dẫn đến chứng đắc Thánh- đạo, Thánh-quả, Niết-bàn được.

 

  • Đề-mục niệm rải tâm-xả dẫn đến chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm:

Hành-giả sau khi đã chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc- giới thiện-tâm cho đến đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm với 1 trong 3 đề-mục vô-lượng đề-mục niệm rải tâm-từ hoặc đề-mục niệm rải tâm-bi hoặc đề-mục niệm rải tâm- hỷ xong.

Muốn chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả chỉ có thể thay đổi sang đề-mục niệm rải tâm- xả mà thôi, rồi hành-giả tiếp tục thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả ấy dẫn đến chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm.

Vì vậy, đề-mục niệm rải tâm-xả này chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm mà thôi. Cho nên, hành-giả không thể bắt đầu thực-hành đề- mục niệm rải tâm-xả này.

  • 11 đề-mục thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm:
    • 10 đề-mục hình tròn kasiṇa.
    • 1 đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra (ānāpānassati).

Hành-giả thực-hành 1 trong 11 đề-mục thiền-định này, đề-mục thiền-định nào cũng có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm mà không cần thay đổi sang đề-mục thiền-định khác.

Đặc biệt 10 đề-mục hình tròn kasiṇa, khi hành-giả thực-hành thiền-định sử dụng 1 trong 10 đề-mục hình tròn kasiṇa dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm xong rồi; hành-giả muốn thay đổi sang đề-mục hình tròn kasiṇa khác, tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định,

 

với đề-mục hình tròn kasiṇa ấy dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc- giới thiện-tâm một cách dễ dàng, trong trường hợp hành-giả muốn luyện phép-thần-thông Iddhividha abhiññā (đa-dạng-thông).

Tính chất của 5 sắc-giới thiện-tâm

5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm này chỉ có thể phát sinh đối với hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) có đủ 3 nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) mà thôi, không thể phát sinh đối với hạng người có nhị-nhân (dvihetuka- puggala) chỉ có 2 nhân (vô-tham vô-sân) không có vô- si (trí-tuệ).

5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm này chỉ có thể phát sinh trong 22 cõi là 1 cõi người, 6 cõi trời dục-giới và 15 cõi trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới Vô-tưởng- thiên, bởi vì cõi này không có tâm, chỉ có thân mà thôi).

5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm

Hành-giả thực-hành thiền-định chọn đề-mục thiền- định có khả năng dẫn đến chứng đắc theo tuần tự từ đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm như sau:

Ban đầu, hành-giả là hạng người tam-nhân thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục thiền-định ấy, định- tâm phát sinh có 5 chi-thiền (jhānaṅga) có khả năng diệt bằng cách chế-ngự (vikkhambhanapāhāna) được 5 pháp chướng-ngại (nivaraṇa) ví như lấy đá đè cỏ, làm cho cỏ không thể vươn lên được.

5 chi-thiền (jhānaṅga)

  1. Vitakka: hướng-tâm đến đối-tượng đề-mục thiền-

định duy nhất ấy.

 

  1. Vicāra: quan-sát trong đề-mục thiền-định ấy.
  2. Pīti: hoan-hỷ phát sinh do định-tâm an trú trong đề- mục thiền-định ấy.
  3. Sukha: an-lạc phát sinh do định-tâm hoan hỷ trong

đề-mục thiền-định ấy.

  1. Ekaggatā: nhất-tâm định-tâm vững chắc phát sinh do an-lạc trong đề-mục thiền-định ấy.

5 pháp-chướng-ngại (nivaraṇa)

  1. Kāmacchanda nivaraṇa: tham-dục trong ngũ-dục (sắc, thanh, hương, vị, xúc) là pháp-chướng-ngại của thiền-định.
  2. Byāpāda nivaraṇa: sân-hận là pháp-chướng-ngại của thiền-định.
  3. Thīna-middha nivaraṇa: buồn-chán - buồn-ngủ là pháp-chướng-ngại của thiền-định.
  4. Uddhacca-kukkucca nivaraṇa: phóng-tâm - hối-hận

là pháp-chướng-ngại của thiền-định.

  1. Viccikicchā nivaraṇa: hoài-nghi là pháp-chướng- ngại của thiền-định.

5 chi-thiền chế-ngự 5 pháp-chướng-ngại như thế nào?

5 chi-thiền đó là 5 tâm-sở đồng sinh với đại-thiện- tâm, còn 5 pháp-chướng-ngại đó là 7 tâm-sở đồng sinh với ác-tâm. Mỗi chi-thiền có khả năng chế ngự được mỗi pháp-chướng-ngại như sau:

  1. Vitakka: hướng-tâm đến một đề-mục thiền-định nên chế-ngự được pháp-chướng-ngại buồn-chán - buồn- ngủ (thīna-middha nivaraṇa)
  2. Vicāra: quan-sát trong đề-mục thiền-định nên chế- ngự được pháp-chướng-ngại hoài-nghi (viccikicchā nivaraṇa)

 

  1. Pīti: hoan-hỷ trong đề-mục thiền-định nên chế-ngự được pháp-chướng-ngại sân-hận (byāpāda nivaraṇa).
  2. Sukha: an-lạc trong đề-mục thiền-định nên chế- ngự được pháp-chướng-ngại phóng-tâm - hối-hận (uddhacca-kukkucca nivaraṇa).
  3. Ekaggatā: Nhất-tâm trong đề-mục thiền-định nên chế-ngự được pháp-chướng-ngại tham-dục (kāmacchanda nivaraṇa).
  • Thực-hành thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 bậc

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định thuộc hạng hành-giả mandapuggala có trí-tuệ bậc thường có khả năng chế-ngự được mỗi chi-thiền để chứng đắc mỗi bậc thiền. Vì vậy, thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 bậc thiền:

  1. Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định với một đề- mục thiền-định ấy, định-tâm phát sinh có đầy đủ 5 chi- thiền có khả năng diệt bằng cách chế-ngự được 5 pháp- chướng-ngại (nivaraṇa), nên chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, có 5 chi-thiền là vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại.
  2. Sau khi đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định, suy-xét thấy rõ chi-thiền vitakka: hướng-tâm còn thô, nên cần phải diệt, rồi tiếp tục thực- hành pháp-hành thiền-định với đề-mục thiền-định ấy, định-tâm phát sinh có khả năng diệt bằng cách chế-ngự chi-thiền vitakka, nên chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, 4 chi-thiền vicāra, pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được chi-thiền vitakka.
  3. Sau khi đã chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện- tâm có 4 chi-thiền, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định, suy-xét thấy rõ chi-thiền vicāra: quan-sát

 

còn thô, nên cần phải diệt, rồi tiếp tục thực-hành pháp- hành thiền-định với đề-mục thiền-định ấy, định-tâm phát sinh có khả năng diệt bằng cách chế-ngự chi-thiền vicāra, nên chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, 3 chi-thiền pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được chi-thiền vicāra.

  1. Sau khi đã chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện- tâm có 3 chi-thiền, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp- hành thiền-định, suy-xét thấy rõ chi-thiền pīti: hoan-hỷ còn thô, nên cần phải diệt, rồi tiếp tục thực-hành pháp- hành thiền-định với đề-mục thiền-định ấy, định-tâm phát sinh có khả năng diệt bằng cách chế ngự chi-thiền pīti, nên chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, 2 chi-thiền sukha và ekaggatā do chế ngự được chi- thiền pīti.
  2. Sau khi đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là sukha và ekaggatā, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định, suy-xét thấy rõ chi- thiền sukha: an-lạc còn thô, nên cần phải thay thế chi- thiền sukha bằng chi-thiền upekkhā: xả, rồi tiếp tục thực- hành pháp-hành thiền-định với đề-mục thiền-định ấy, định-tâm phát sinh có khả năng thay thế chi-thiền sukha bằng chi-thiền upekkhā, nên chứng đắc đệ ngũ thiền sắc- giới thiện-tâm, 2 chi-thiền upekkhā, ekaggatā do thay thế chi-thiền sukha bằng chi-thiền upekkhā.

Thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 bậc

  1. Đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nivaraṇa).
  2. Đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi-thiền là vicāra, pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được 1 chi-thiền vitakka.

 

  1. Đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền

pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được chi-thiền vicāra.

  1. Đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền

sukha, ekaggatā do chế ngự được chi-thiền pīti.

  1. Đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là upekkhā, ekaggatā do thay thế chi-thiền sukha bằng chi- thiền upekkhā.

Thực-hành thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 bậc

Đối với hành-giả là hạng tikkhapuggala có trí-tuệ sắc bén, sau khi đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện- tâm 5 chi-thiền vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nivaraṇa).

Sau khi đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện- tâm có đủ 5 chi-thiền, hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định, suy-xét thấy rõ chi-thiền vitakka: hướng-tâm và chi-thiền vicāra còn thô, nên cần phải diệt, rồi tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định với đề- mục thiền-định ấy, định-tâm phát sinh có khả năng diệt bằng cách chế-ngự chi-thiền vitakka chi-thiền vicāra cùng một lúc, nên chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện- tâm có 3 chi-thiền là pīti, sukha, ekaggatā.

Vì vậy, đối với hành-giả hạng tikkhapuggala trí-tuệ sắc bén, thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 bậc thiền như sau:

  1. Đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nivaraṇa).
  2. Đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự được 2 chi-thiền vitakka và vicāra cùng một lúc.
  3. Đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền

sukha, ekaggatā do chế ngự được chi-thiền pīti.

 

  1. Đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là upekkhā, ekaggatā do thay thế chi-thiền sukha bằng chi- thiền upekkhā.

Đó là 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, đối với hành- giả thuộc về hạng tikkhapuggala có trí-tuệ sắc bén.

Quả của sắc-giới thiện-nghiệp

Sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

* Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) 5 sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái- sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhikicca) hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới Vô-tưởng-thiên).

15 tầng trời sắc-giới chia theo 4 sắc-giới quả-tâm

  1. Bậc đệ nhất thiền sắc-giới quả-tâm có 3 tầng trời:
  • Brahmapārisajjā: Tầng trời Phạm-chúng-thiên.
  • Brahmapurohitā: Tầng trời Phạm-sư-thiên.
  • Mahābrahmā: Tầng trời Đại-phạm-thiên.
  1. Bậc đệ nhị thiền sắc-giới quả-tâm có 3 tầng trời:
  • Parittābhā: Tầng trời Thiểu-quang-thiên.
  • Appamāṇābhā: Tầng trời Vô-lượng-thiên.
  • Ābhassarā: Cõi Quang-âm-thiên.
  1. Bậc đệ tam thiền sắc-giới quả-tâm có 3 tầng trời:
  • Parittasubhā: Tầng trời Thiểu-tịnh-thiên.

 

  • Appamāṇasubhā: Tầng trời Vô-lượng-tịnh-thiên.
  • Subhakiṇhā: Tầng trời Biến-tịnh-thiên.
  1. Bậc đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm có 7 tầng trời:
  • Vehapphalā: Tầng trời Quảng-quả-thiên.
  • Asaññasattā: Tầng trời Vô-tưởng-thiên.

* Suddhāvāsa: Cõi Tịnh-cư-thiên có 5 tầng trời:

  • Avihā: Tầng trời Vô-phiền-thiên.
  • Atappā: Tầng trời Vô-nhiệt-thiên.
  • Sudassā: Tầng trời Thiện-hiện-thiên
  • Sudassī: Tầng trời Thiện-kiến-thiên.
  • Akaniṭṭhā: Tầng trời Sắc-cứu-cánh-thiên.

Như vậy, từ bậc đệ nhất thiền sắc-giới quả-tâm cho đến bậc đệ tam thiền sắc-giới quả-tâm, mỗi bậc thiền sắc-giới quả-tâm có 3 tầng trời theo năng lực của 3 bậc thiền sắc-giới quả-tâm bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.

Còn bậc đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm có 7 tầng trời Vehapphalā: tầng trời Quảng-quả-thiên và Asañña- sattā: tầng trời Vô-tưởng-thiên đối với các hạng phàm- nhân và các bậc Thánh-nhân chứng đắc đệ ngũ thiền sắc- giới thiện-tâm.

Riêng Tịnh-cư-thiên có 5 tầng trời này chỉ dành riêng cho bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm (hoặc bậc Thánh Bất-lai thuộc hạng tikkha- puggala chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm).

  • Do nguyên-nhân nào bậc thiền sắc-giới quả-tâm có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng?
  • Mỗi bậc thiền sắc-giới thiện-tâm từ đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm đến đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, mỗi bậc thiền có 3 bậc: bậc thiền sắc-giới bậc hạ, bậc thiền sắc-giới bậc trung, bậc thiền bậc thượng do năng lực của vasībhāva: 5 pháp-thuần-thục.

 

  1. Vasībhāva: Pháp-thuần-thục có 5 pháp(1):
    1. Āvajjanavasībhāva: pháp thuần-thục quán-triệt nghĩa là hành-giả có khả năng thuần-thục quán-triệt chi- thiền của bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy.
    2. Samāpajjanavasībhāva: pháp thuần-thục nhập bậc thiền nghĩa là hành-giả có khả năng thuần thục nhập bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy.
    3. Adhiṭṭhānavasībhāva: pháp thuần-thục phát-nguyện nghĩa là hành-giả có khả năng thuần thục phát nguyện ấn định thời gian nhập bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy.
    4. Vuṭṭhānavasībhāva: pháp thuần-thục xả-thiền là hành-giả có khả năng thuần thục ấn định thời gian xả bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy.
    5. Paccavekkhaṇavasībhāva: pháp thuần-thục quán- triệt là hành-giả có khả năng thuần-thục quán-triệt chi- thiền của bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy với tác-hành-tâm.

Ví dụ: Hành-giả sau khi đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

  • Nếu hành-giả không thường xuyên nhập đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, thì 5 pháp-thuần-thục (vasī- bhāva) của bậc thiền ấy có ít năng lực, nên đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm ấy trở thành đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm bậc hạ.
  • Nếu hành-giả thỉnh thoảng nhập đệ nhất thiền sắc- giới thiện-tâm, thì 5 pháp-thuần-thục (vasībhāva) của bậc thiền ấy có năng lực trung bình, nên đệ nhất thiền sắc- giới thiện-tâm ấy trở thành đệ nhất thiền sắc-giới thiện- tâm bậc trung. .
  • Nếu hành-giả thường xuyên nhập đệ nhất thiền sắc-

1 Xem phần giải thích trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển VII, tập 1: Pháp-Hành Thiền-Định, phần Vasībhāva, cùng soạn giả.

 

giới thiện-tâm, thì 5 pháp-thuần-thục (vasībhāva) của bậc thiền ấy có nhiều năng lực, nên đệ nhất thiền sắc- giới thiện-tâm ấy trở thành đệ nhất thiền sắc-giới thiện- tâm bậc thượng.

Hành-giả có thể sử dụng đệ nhất thiền sắc-giới thiện- tâm bậc thượng ấy làm nền-tảng, để tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định để chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm.

Tương tự như vậy, các bậc thiền còn lại là đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, nếu hành-giả thực-hành giống như đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm thì đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 bậc là bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 bậc là bậc hạ, bậc trung, bậc thượng; đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 bậc là bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.

Mỗi sắc-giới thiện-nghiệp trong mỗi bậc thiền sắc- giới thiện-tâm bậc hạ, bậc trung, bậc thượng cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhi- kāla) mỗi bậc thiền sắc-giới quả-tâm bậc hạ, bậc trung bậc thượng gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm- thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng với bậc thiền sắc-giới quả-tâm ấy.

  • Đối với hành-giả là hạng tikkhapuggala có trí-tuệ sắc bén 4 bậc thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái- sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên đúng theo 4 tầng trời bậc thiền sắc-giới quả-tâm.
  • Đối với hành-giả hạng mandapuggala trí-tuệ bậc thường 5 bậc thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái- sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên theo 4 tầng trời bậc thiền sắc-giới quả-tâm được trình bày như sau:

 

Giảng giải về 5 bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh lên 4 tầng trời bậc thiền sức-giới quả-tâm

  1. Quả của đệ nhất thiền sắc-giới thiện-nghiệp

Đệ nhất thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
  • Hành-giả nào là người tam-nhân có giới hạnh trong sạch trọn vẹn, thực hành pháp-hành thiền-định, có khả năng chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết thì chắc chắn sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đệ nhất thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời đệ nhất thiền sắc-giới quả-tâm, có 3 tầng trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng với đệ nhất thiền sắc-giới quả-tâm, có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng như sau:
  • Đệ nhất thiền sắc-giới quả-tâm bậc hạ làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Brahmapārisajjā: Phạm- chúng-thiên. Chư phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên này là thuộc hạ của Đại-phạm-thiên, có tuổi thọ 1/3 a-tăng-kỳ trụ (1) của kiếp trái đất.

1 Asaṅkhyeyya: A-tăng-kỳ là khoảng thời gian không thể đếm bằng số. Mahākappa: Đại-kiếp trái đất gồm 4 a-tăng-kỳ: thành, trụ, hoại, không.

  1. A-tăng-kỳ thành khoảng thời gian lâu dài của kiếp trái đất đã tạo thành.
  2. A-tăng-kỳ trụ khoảng thời gian lâu dài của kiếp trái đất đang tồn tại,
  3. A-tăng-kỳ hoại khoảng thời gian lâu dài của kiếp trái đất đang bị hoại dần,
  4. A-tăng-kỳ không khoảng thời gian lâu dài không còn của kiếp trái đất nữa.

 

    • Đệ nhất thiền sắc-giới quả-tâm bậc trung làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Brahmapurohitā: Phạm- sư-thiên. Chư phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới phạm- thiên này là cố vấn của Đại-phạm-thiên, có tuổi thọ ½ a- tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất.
    • Đệ nhất thiền sắc-giới quả-tâm bậc thượng làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Mahābrahmā: Đại- phạm-thiên. Chư đại-phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên này là những bậc phạm-thiên cao thượng có tuổi thọ 1 a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất.
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Đệ nhất thiền sắc-giới quả-tâm nào gọi là tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) chỉ có sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên nào, liền sát-na-tâm tiếp theo là thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính sắc-giới quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp- tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự giữ gìn bảo hộ kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc- giới phạm-thiên ấy, cuối cùng cũng chính sắc-giới quả- tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy.

  1. Quả của đệ nhị thiền sắc-giới thiện-nghiệp

Sắc-giới thiện-nghiệp trong 2 bậc thiền: đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tương đương trong 2 thời-kỳ:

  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại.

 

  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
    • Hành-giả nào có khả năng chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, sắc-giới thiện-nghiệp trong 2 bậc thiền: đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tương đương trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đệ nhị thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa- sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời đệ nhị thiền sắc- giới quả-tâm, có 3 tầng trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng với đệ nhị thiền sắc-giới quả-tâm, có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng như sau:
    • Đệ nhị thiền sắc-giới quả-tâm bậc hạ làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Parittābhā: Thiểu-quang-thiên. Chư phạm thiên trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên này có hào quang kém thua chư Phạm-thiên bậc cao, có tuổi thọ 2 đại-kiếp trái đất.
    • Đệ nhị thiền sắc-giới quả-tâm bậc trung làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Appamāṇābhā: Vô-lượng-thiên. Chư phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên này có hào quang vô lượng, có tuổi thọ 4 đại-kiếp trái đất.
    • Đệ nhị thiền sắc-giới quả-tâm bậc thượng làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Ābhassarā: Quang-âm- thiên. Chư phạm-thiên có hào quang sáng ngời phóng ra từ thân của Phạm-thiên, có tuổi thọ 8 đại-kiếp trái đất
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Đệ nhị thiền sắc-giới quả-tâm nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) chỉ có sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự

 

tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên nào, liền sát-na-tâm tiếp theo là thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính sắc-giới quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp- tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự giữ gìn bảo hộ kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc- giới phạm-thiên ấy, cuối cùng cũng chính sắc-giới quả- tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy.

  1. Quả của đệ tứ thiền sắc-giới thiện-nghiệp

Đệ tứ thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
    • Hành-giả nào có khả năng chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời đệ tam thiền sắc-giới quả-tâm, có 3 tầng trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng với đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm, có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng như sau:
    • Đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm bậc hạ làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Parittasubhā: Thiểu-tịnh- thiên. Chư Phạm-thiên trong cõi này có hào quang xinh đẹp tuyệt vời vẫn còn kém thua Phạm-thiên bậc cao, có tuổi thọ 16 đại-kiếp trái đất.

 

    • Đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm bậc trung làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Appamāṇasubhā: Vô- lượng-tịnh-thiên. Chư Phạm-thiên trong cõi này có hào quang xinh đẹp tuyệt vời vô lượng, có tuổi thọ 32 đại- kiếp trái đất.
    • Đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm bậc thượng làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Subhakiṇhā: Biến-tịnh-thiên. Chư Phạm-thiên trong cõi này có hào quang xinh đẹp tuyệt vời tỏa ra toàn thân của vị Phạm-thiên, có tuổi thọ 64 đại-kiếp trái đất.
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm nào gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) chỉ có sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên nào, liền sát-na-tâm tiếp theo là thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính sắc-giới quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp- tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự giữ gìn bảo hộ kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc- giới phạm-thiên ấy, cuối cùng cũng chính sắc-giới quả- tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy.

  1. Quả của đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp

Đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)

Tầng trời đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm có 7 tầng trời:

 

Tầng trời Vehapphalā: Tầng Trời Quảng-quả-thiên.

    • Hành-giả nào có khả năng chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm gọi là tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vehapphalā: Quảng-quả-thiên. Chư Phạm-thiên trong tầng trời này được bền vững lâu dài cho đến hết tuổi thọ đủ 500 đại-kiếp trái đất.
    • Tầng trời Asaññasattā: Tầng Trời Vô-Tưởng-Thiên
    • Sau khi đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi hành-giả nào tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền- định, có khả năng chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm.
    • Hành-giả ấy vốn có tâm nhàm chán 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn), bởi vì nhàm chán các tâm biết các đối-tượng, nên có ý nguyện chỉ muốn có sắc-uẩn thân mà thôi, cho nên, sau khi hành-giả ấy chết, do nguyện lực của hành-giả ấy, sắc- giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm (không cho quả tương xứng là đệ ngũ thiền sắc-giới quả- tâm) mà cho quả là nhóm sắc-pháp gọi là jīvitanavaka- kalāpa: nhóm sắc-pháp có sắc-mạng-chủ là thứ chín làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm- thiên với 1 trong 3 oai-nghi: oai-nghi ngồi, hoặc oai- nghi đứng hoặc oai-nghi nằm trên tầng trời đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm gọi là tầng trời sắc-giới phạm-thiên Asaññasattā: Vô-tưởng-thiên. Chư Phạm-thiên trong tầng

 

trời sắc-giới phạm-thiên này chỉ có thân (sắc-uẩn) trong oai nghi ngồi, hoặc oai nghi đứng, hoặc oai nghi nằm mà thôi, không có tâm (4 danh-uẩn), vị phạm-thiên trong tầng trời này có tuổi thọ được bền vững lâu dài cho đến hết tuổi thọ đủ 500 đại-kiếp trái đất.

    • Tầng trời Suddhāvāsa: Tầng trời Tịnh-cư-thiên có 5 tầng trời chỉ dành riêng cho bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm mà thôi.
    • Hành-giả là bậc Thánh Bất-lai nào đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm. Sau khi bậc Thánh Bất- lai ấy chết, chắc chắn sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng trong thời- kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭi- sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm gọi là tầng trời sắc-giới phạm-thiên Suddhā- vāsa: tầng trời sắc-giới phạm-thiên Tịnh-cư-thiên, có 5 tầng trời, mỗi tầng trời tùy theo năng lực của 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của bậc Thánh Bất-lai ấy.
  • Nếu bậc Thánh Bất-lai ấy tín-pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại, thì đệ ngũ thiền sắc- giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên Avihā: Vô-phiền-thiên, tuổi thọ 1.000 đại-kiếp trái đất.
  • Nếu bậc Thánh Bất-lai ấy tấn-pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại, thì đệ ngũ thiền sắc- giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên Atappā: Vô-nhiệt-thiên, tuổi thọ 2.000 đại-kiếp trái đất.

 

  • Nếu bậc Thánh Bất-lai ấy niệm-pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại, thì đệ ngũ thiền sắc- giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên Sudassā: Thiện-hiện-thiên, tuổi thọ 4.000 đại-kiếp trái đất.
  • Nếu bậc Thánh Bất-lai ấy định-pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại, thì đệ ngũ thiền sắc- giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên Sudassī: Thiện-kiến-thiên, có tuổi thọ 8.000 đại-kiếp trái đất.
  • Nếu bậc Thánh Bất-lai tuệ-pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại, thì đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên Akaniṭṭhā: Sắc-cứu-cánh-thiên, tuổi thọ 16.000 đại-kiếp trái đất.

Bậc Thánh Bất-lai ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán tại 1 trong 5 tầng trời sắc-giới phạm- thiên Tịnh-cư-thiên ấy, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Chư Phạm-thiên ở trong 7 tầng trời của bậc đệ tứ thiền sắc-giới quả-tâm này có tuổi thọ được bền vững lâu dài cho đến hết tuổi thọ của tầng trời ấy.

Còn chư Phạm-thiên ở trong các tầng trời sắc-giới phạm-thiên bậc thấp khác có tuổi thọ không được bền vững lâu dài, do các thời-kỳ kiếp trái đất bị hủy hoại.

  • Nếu mỗi khi kiếp trái đất bị hủy hoại bằng lửa thì 6 cõi trời dục-giới và 3 tầng trời đệ nhất thiền sắc-giới phạm-thiên cũng đều bị hủy hoại.
  • Nếu mỗi khi kiếp trái đất bị hủy hoại bằng nước thì 6 cõi trời dục-giới, 3 tầng trời đệ nhất thiền sắc-giới

 

phạm-thiên và 3 tầng trời đệ nhị thiền sắc-giới phạm- thiên cũng đều bị hủy hoại.

  • Nếu mỗi khi kiếp trái đất bị hủy hoại bằng gió thì 6 cõi trời dục-giới, 3 tầng trời đệ nhất thiền sắc-giới phạm- thiên, 3 tầng trời đệ nhị thiền sắc-giới phạm-thiên và 3 tầng trời đệ tam thiền sắc-giới phạm-thiên cũng đều bị hủy hoại, cho nên chư phạm-thiên ở trong 9 tầng trời sắc- giới phạm-thiên bậc thấp này có tuổi thọ không được bền vững lâu dài, không sống đến hết tuổi thọ tại tầng trời ấy.
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm nào gọi là tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) chỉ có sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên nào, liền sát-na-tâm tiếp theo là thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại, chính đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự giữ gìn bảo hộ kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy, cuối cùng cũng chính đệ ngũ thiền sắc-giới quả-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy.

 

4.4- Arūpāvacarakusalakamma: Vô-sắc-giới thiện-nghiệp

Phần sắc-giới thiện-nghiệp và quả của sắc-giới thiện- nghiệp đã giải thích xong, tiếp theo giải thích vô-sắc- giới thiện-nghiệp quả của vô-sắc-giới thiện-nghiệp.

Trong quyển sách này chỉ trình bày, giải thích nghiệp và quả của nghiệp, cho nên, không trình bày phương

 

pháp thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm(1), mà chỉ trình bày, giải thích về vô-sắc-giới thiện-nghiệp và quả của vô-sắc- giới thiện-nghiệp mà thôi.

Vô-sắc-giới thiện-nghiệp

Vô-sắc-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở (cetanā- cetasika) đồng sinh với 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) 4 vô-sắc-giới quả-tâm gọi là tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.

4 đề-mục thiền-định vô-sắc-giới (āruppa)

Đề-mục thiền-định vô-sắc-giới chỉ có 4 đề-mục, mà mỗi đề-mục thiền-định vô-sắc-giới có khả năng dẫn đến chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới riêng biệt mà thôi.

  1. Đề-mục thiền-định vô-sắc-giới thứ nhất gọi

ākāsapaññatti: hư-không chế-định.

  1. Đề-mục thiền-định vô-sắc-giới thứ nhì gọi

paṭhamāruppaviññaṇa: đệ nhất thiền vô-sắc-giới tâm.

  1. Đề-mục thiền-định vô-sắc-giới thứ ba gọi là natthi- bhāvapaññatti: không còn gì chế-định.
  2. Đề-mục thiền-định vô-sắc-giới thứ tư gọi là tatiyā- ruppaviññaṇa: đệ tam thiền vô-sắc-giới-tâm.

Sau khi đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, hành-giả có ý nguyện tiếp tục chứng đắc 4 bậc thiền vô- sắc-giới thiện-tâm. Hành-giả có 2 nhóm, mà mỗi nhóm có quan niệm suy xét khác nhau:

1 Xem phương pháp thực-hành pháp-hành thiền-định trong bộ Nền-Tảng- Phật-Giáo, quyển VII, Tập 1 Pháp-Hành Thiền-Định, cùng soạn-giả.

 

* Nhóm thứ nhất trong thời-kỳ không có Phật-giáo trên thế gian, những hành-giả sau khi đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm xong, rồi suy xét rằng:

“Các thứ bệnh hoạn ốm đau đều phát sinh do từ sắc thân này, sự đói khát cũng phát sinh từ sắc thân này, thậm chí sự tranh giành lẫn nhau cũng phát sinh từ sắc thân này cả.

Vả lại, sắc thân này vốn sinh từ máu huyết của mẹ cha, ô trọc (trược) đáng ghê tởm. Còn cõi trời vô-sắc- giới, chư vị phạm-thiên không có sắc thân, chỉ có tâm mà thôi, nên hoàn toàn không có sự khổ thân nào, chỉ có tâm an-lạc mà thôi.”

Do suy xét như vậy, nên hành-giả phát sinh tâm nhàm chán sắc thân này, chỉ mong muốn được tái-sinh kiếp sau trên cõi trời vô-sắc-giới, không có sắc-thân, mà chỉ có tâm mà thôi.

  • Nhóm thứ nhì trong thời-kỳ có Phật-giáo trên thế gian, những hành-giả sau khi đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm xong, rồi suy xét rằng:

“Định-tâm (ekaggatā) trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm có ít năng lực, còn định-tâm trong 4 bậc thiền vô-sắc-giới có nhiều năng lực và vô cùng vi-tế, có khả năng luyện phép thần-thông (abhiññā) được, hoặc nếu là bậc Thánh Bất-lai hoặc bậc Thánh A-ra-hán có khả năng nhập diệt-thọ-tưởng (nirodhasamāpatti) được.”

Do suy xét như vậy, nên hành-giả tiếp tục cố gắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-định với mỗi đề-mục thiền-định vô-sắc-giới theo tuần tự, để dẫn đến chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm theo tuần tự trong 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.

 

Bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có 4 bậc

  1. Đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là ākāsā- nañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ-thiền thiện- tâm, 2 chi-thiền upekkhā (xả) ekaggatā (nhất-tâm).
  2. Đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là viññā- nañcāyatanakusalacitta: thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm, có 2 chi-thiền là upekkhā (xả) và ekaggatā (nhất-tâm).
  3. Đệ tam thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là ākiñcañ- ñāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm, có 2 chi-thiền là upekkhā (xả) và ekaggatā (nhất-tâm).

3- Đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là nevasañ- ñānāsaññāyatanakusalacitta: phi-tưởng phi-phi-tưởng- xứ-thiền thiện-tâm, có 2 chi-thiền là upekkhā (xả) và ekaggatā (nhất-tâm).

Tuy 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm đều có 2 chi- thiền là upekkhā (xả) và ekaggatā (nhất-tâm) giống nhau, nhưng mỗi đề-mục thiền-định từ vi-tế đến càng vi- tế hơn dẫn đến chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm từ vi-tế đến càng vi-tế hơn theo tuần tự trong 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.

Quả của 4 vô-sắc-giới thiện-nghiệp

  1. Quả của đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp

Đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp gọi là không- vô-biên-xứ-thiền thiện-nghiệp trong không-vô-biên-xứ- thiền thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
  • Hành-giả nào có khả năng chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là ākāsānañcāyatanakusala-

 

citta: không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm, sau khi hành- giả ấy chết, vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) ākāsānañcāyatanavipākacitta: không-vô- biên-xứ-thiền quả-tâm gọi là -sắc-giới tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm- thiên trên tầng trời Không-vô-biên-xứ-thiên. Chư Phạm-thiên trong tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên này có tuổi thọ lâu dài suốt 20.000 đại-kiếp trái đất.

  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla) kiếp hiện-tại

Không-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm chỉ có sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế- tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Không- vô-biên-xứ-thiên, liền sát-na-tâm tiếp theo là thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp hiện-tại, chính không-vô-biên-xứ- thiền quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự giữ gìn, bảo hộ kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy, cuối cùng cũng chính không-vô-biên-xứ-thiền quả- tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy.

  1. Quả của đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp

Đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp gọi là thức-vô- biên-xứ-thiền thiện-nghiệp trong thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
  • Hành-giả nào có khả năng chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là viññānañcāyatanakusala-

 

citta: thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ nhị thiền vô- sắc-giới thiện-tâm gọi là thức-vô-biên-xứ-thiền thiện- tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) viññānañcāyatanavipākacitta: thức-vô-biên- xứ-thiền quả-tâm gọi là -sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭi- sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Thức-vô-biên-xứ-thiên. Chư Phạm-thiên trong tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên này có tuổi thọ lâu dài suốt 40.000 đại-kiếp trái đất.

  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Thức-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm chỉ có sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế- tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Thức-vô- biên-xứ-thiên, liền sát-na-tâm tiếp theo là thời-kỳ sau khi đã tái-sinh, kiếp hiện-tại, chính thức-vô-biên-xứ- thiền quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự giữ gìn, bảo hộ kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy, cuối cùng cũng chính thức-vô-biên-xứ-thiền quả- tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy.

  1. Quả của đệ tam thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp

Đệ tam thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp gọi là vô-sở- hữu-xứ-thiền thiện-nghiệp trong vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.
  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
  • Hành-giả nào có khả năng chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là ākiñcaññāyatanakusala-

 

citta: vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ tam thiền vô-sắc- giới thiện-tâm gọi là vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) ākiñcaññāyatanavipākacitta: vô-sở-hữu-xứ-thiền quả- tâm gọi là -sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Vô-sở-hữu-xứ-thiên. Chư Phạm-thiên trong tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên này có tuổi thọ lâu dài suốt 60.000 đại-kiếp trái đất.

  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Vô-sở-hữu-xứ-thiền quả-tâm gọi tái-sinh-tâm (paṭi- sandhicitta) chỉ có sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái- sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Vô-sở-hữu-xứ-thiên, liền sát-na-tâm tiếp theo là thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính vô-sở-hữu-xứ-thiền quả-tâm ấy trở thành hộ- kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự giữ gìn, bảo hộ kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy, cuối cùng cũng chính thức-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy.

  1. Quả của đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp

Đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp gọi là phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-nghiệp trong phi-tưởng phi- phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm cho quả trong 2 thời-kỳ:

  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla).
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

 

  • Thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla)
  • Hành-giả nào có khả năng chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là nevasaññānāsaññāyatana- kusalacitta: phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm, sau khi hành-giả ấy chết, vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là phi-tưởng phi- phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau nevasaññānāsaññāyatanavipākacitta: phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm gọi là -sắc- giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời Phi- tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiên tột đỉnh trong tam-giới. Chư Phạm-thiên trong tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên này có tuổi thọ lâu dài nhất suốt 84.000 đại-kiếp trái đất.
  • Thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại

Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) chỉ có sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm- thiên trên tầng trời Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiên, liền sát-na-tâm tiếp theo là thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại, chính phi-tưởng phi-phi- tưởng-xứ-thiền quả-tâm ấy trở thành hộ-kiếp-tâm (bhavaṅgacitta) làm phận sự giữ gìn, bảo hộ kiếp vị phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời vô- sắc-giới phạm-thiên ấy, cuối cùng cũng chính phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm ấy trở thành tử-tâm (cuticitta) làm phận sự chuyển kiếp (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy.

Tất cả chúng-sinh là hạng phàm-nhân và 3 bậc Thánh- nhân là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, vẫn còn tham-ái, nên còn tái-sinh kiếp sau tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

 

Chư vị phạm-thiên tử sinh luân-hồi

Chư vị phạm-thiên còn là hạng phàm-nhân (chưa phải là bậc Thánh-nhân) sinh trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên nào hoặc trong tầng trời vô-sắc-giới phạm- thiên nào, dù có tuổi thọ sống lâu bao nhiêu đại-kiếp trái đất đi nữa, đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời ấy, đều phải chuyển kiếp (chết), rồi tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác tùy theo thiện-nghiệp của vị phạm-thiên ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác.

  • Trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy, nếu vị phạm-thiên nào không chỉ hưởng sự an-lạc trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy, mà còn tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định, nếu chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào thấp hơn, hoặc ngang bằng, hoặc cao hơn bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cũ, sau khi vị phạm- thiên ấy chết, thì chắc chắn bậc thiền sắc-giới thiện- nghiệp ấy trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi- kāla) bậc thiền sắc-giới quả-tâm ấy gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc- giới phạm-thiên thấp hơn tầng trời cũ hoặc ngang bằng tầng trời cũ hoặc cao hơn tầng trời cũ, tùy thuộc vào bậc thiền sắc-giới quả-tâm ấy của vị phạm-thiên ấy như sau:
  • Nếu vị phạm-thiên nào chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào thấp hơn bậc thiền cũ, sau khi vị phạm- thiên ấy chết, thì sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm thấp ấy cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có bậc thiền sắc-giới quả-tâm thấp ấy gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa- sinh làm vị phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới phạm-

 

thiên thấp ấy, tương xứng với bậc thiền sắc-giới quả- tâm thấp ấy.

  • Nếu vị phạm-thiên nào chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào ngang bằng với bậc thiền cũ, sau khi vị phạm-thiên ấy chết, thì sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền cũ ấy cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) bậc thiền sắc-giới quả-tâm ngang bằng với bậc thiền cũ ấy gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa- sinh làm vị phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới phạm- thiên ngang bằng với tầng trời cũ ấy, tương xứng với bậc thiền sắc-giới quả-tâm ngang bằng với bậc thiền cũ ấy.
  • Nếu vị phạm-thiên nào chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào cao hơn bậc thiền cũ, sau khi vị phạm- thiên ấy chết, thì sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cao ấy cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) bậc thiền sắc-giới quả-tâm cao ấy gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa- sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm- thiên cao ấy, tương xứng với bậc thiền sắc-giới quả-tâm cao ấy.
  • Nếu vị phạm-thiên nào không chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào, sau khi vị phạm-thiên ấy chết, thì chắc chắn dục-giới thiện-nghiệp trong dục-giới thiện-tâm trong tiền-kiếp của vị phạm-thiên ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại- quả-tâm gọi là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người trong cõi người hoặc làm vị thiên-nam trong 1 trong 6 cõi trời dục-giới.

 

  • Vị phạm-thiên trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên đến khi hết tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất (chết) tại tầng trời sắc-giới ấy, chắc chắn chỉ có dục- giới thiện-nghiệp trong dục-giới thiện-tâm kể từ tiền- kiếp kiếp thứ 3 trở lui về trước cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái- sinh kiếp sau làm người trong cõi người hoặc làm vị thiên-nam 1 trong 6 cõi trời dục-giới.
  • Trong cõi vô-sắc-giới phạm-thiên có 4 tầng trời, nếu vị phạm-thiên nào không chỉ hưởng sự an-lạc trong tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy, mà còn tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định, thì chỉ có thể chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ ấy, hoặc chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cao hơn bậc thiền vô-sắc- giới thiện-tâm cũ ấy mà thôi (nhưng không thể chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm thấp hơn bậc thiền cũ, bởi vì không có đối-tượng-thiền-định).
  • Sau khi vị phạm-thiên ấy trong tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy hết tuổi thọ (chết), nếu có vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ ấy cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm ấy gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trong tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ngang bằng với tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên cũ ấy.
  • Sau khi vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ (chết), nếu có vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cao hơn bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ ấy

 

cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm cao ấy gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làn vị phạm-thiên trong tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên cao hơn tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên cũ ấy.

  • Vị phạm-thiên nào trong tầng trời vô-sắc-giới Phi- tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiên tột đỉnh, chỉ có thể chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ bậc thiền phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm mà thôi, không thể chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc thấp, bởi vì không có đối-tượng.

Sau khi vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ lâu dài nhất suốt 84.000 đại-kiếp trái đất (chết), thì chắc chắn vô- sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền phi-tưởng phi-phi- tưởng-xứ thiền thiện-tâm cho quả tương xứng trong thời- kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) bậc thiền phi- tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trở lại tầng trời vô- sắc-giới phạm thiên cũ ấy.

  • Nếu vị phạm-thiên nào ở trong tầng trời vô-sắc-giới Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiên tột đỉnh, không chứng đắc lại bậc thiền phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện- tâm cũ, sau khi vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ (chết), thì dục-giới thiện-nghiệp trong dục-giới thiện-tâm trong tiền-kiếp của vị phạm-thiên ấy cho quả trong thời-kỳ tái- sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là dục-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái- sinh kiếp sau xuống cõi thiện dục-giới, sinh làm người hoặc sinh làm vị thiên-nam trong cõi trời dục-giới.

 

Như vậy, nếu chúng-sinh còn là hạng phàm-nhân (chưa phải bậc Thánh-nhân) thì vẫn còn luẩn quẩn trong vòng tử-sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

  • Dù chúng-sinh chịu quả khổ của ác-nghiệp vô-gián trọng tội trong cõi đại-địa-ngục Avīci thấp tột cùng suốt thời gian lâu dài trải qua nhiều đại-kiếp trái đất, cũng đến lúc mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục, rồi tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác tùy theo nghiệp và quả của nghiệp của chúng-sinh ấy.
  • Dù vị Phạm-thiên hưởng sự an-lạc trên tầng trời vô- sắc-giới tột đỉnh Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ-thiên suốt thời gian 84.000 đại-kiếp trái đất lâu dài nhất trong tam- giới, cũng đến lúc hết tuổi thọ, rồi dục-giới thiện-nghiệp trong dục-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) đại-quả-tâm gọi là tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau làm người hoặc làm vị thiên-nam trong cõi trời dục-giới.

Cho nên, trong tam-giới gồm có 31 cõi-giới chỉ là nơi tạm trú đối với tất cả mọi chúng-sinh, chắc chắn không có một chúng-sinh nào được thường trú trong một cõi- giới nào cả.

Nếu chúng-sinh nào còn là hạng phàm-nhân chưa phải là bậc Thánh-nhân, còn luẩn quẩn trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, thì chúng-sinh ấy khó mà thoát khỏi bị sa vào 4 cõi ác-giới là địa-ngục, a-su- ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.

Tử sinh luân-hồi

Tử (cuti) chuyển kiếp (chết) nghĩa là kết thúc kiếp hiện-tại của mỗi chúng-sinh.

Sinh (paṭisandhi) tái-sinh kiếp sau, bắt đầu kiếp sau.

 

Kiếp hiện-tại diệt (chết), kiếp sau sinh kế tiếp sau 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt trong cùng cận-tử-lộ-trình-tâm (maraṇāsannavīthicitta) không có khoảng cách thời gian chờ đợi, và cứ tiếp diễn kiếp hiện-tại diệt (chết), kiếp sau sinh như vậy, gọi là tử sinh luân-hồi.

Thật vậy, trong maraṇāsannavīthicitta: cận-tử-lộ- trình-tâm, các tâm sinh rồi diệt, đến cuticitta: tử-tâm là quả-tâm cuối cùng kiếp hiện-tại diệt (chết), kết thúc kiếp hiện-tại, liền paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm, là quả-tâm bắt đầu kiếp sau sinh 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt trong cùng cận-tử-lộ-trình-tâm, không có khoảng cách thời gian chờ đợi.

Tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài:

Ba giới:

  1. Cõi dục-giới 11 cõi-giới.
  2. Cõi sắc-giới có 16 cõi-giới.
  3. Cõi vô-sắc-giới có 4 cõi-giới.

Ba giới gồm có 31 cõi-giới.

  1. Cõi dục-giới có 11 cõi-giới chia ra 2 loại:
  • Cõi ác-giới có 4 cõi-giới.
  • Cõi thiện dục-giới có 7 cõi-giới.
  • Cõi ác-giới có 4 cõi-giới

Chúng-sinh nào đã tạo ác-nghiệp nào, sau khi chúng- sinh ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy trong 11 bất-thiện-tâm (trừ si-tâm hợp với phóng-tâm) có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) 1 quả-tâm suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác- nghiệp gọi là ác-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau thì sinh trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, loài a-su-ra, loài ngạ-quỷ, loài súc-sinh.

 

  • Cõi-thiện-dục-giới có 7 cõi:

Chúng-sinh nào đã tạo dục-giới thiện-nghiệp nào (đại-thiện-nghiệp nào), sau khi chúng-sinh ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy trong 8 đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) 9 quả-tâm đó là 8 đại-quả-tâm và 1 suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của đại-thiện-nghiệp gọi là dục- giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới cõi người và 6 cõi trời dục-giới.

  1. Cõi sắc-giới có 16 tầng trời:

Hành-giả là hạng người tam-nhân có giới hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-định có khả năng chứng đắc đến 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm.

Sau khi hành-giả chết, chắc chắn sắc-giới thiện- nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) 5 sắc- giới quả-tâm gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhi- citta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp (paṭisandhi- kicca) hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 15 tầng trời sắc- giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô- tưởng-thiên), tùy theo năng lực của mỗi bậc thiền sắc- giới quả-tâm.

  • Nếu hành-giả nào chứng đắc đến đệ ngũ thiền sắc- giới thiện-tâm, có tâm nhàm chán 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn và thức-uẩn), mà có ý nguyện chỉ muốn có sắc-uẩn thân mà thôi.

Sau khi hành-giả ấy chết, do nguyện lực của hành-giả, nên sắc-giới thiện-nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) nhóm sắc-pháp gọi là jīvitanavaka-

 

kalāpa làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng- thiên chỉ có sắc-uẩn thân mà thôi, trong oai-nghi ngồi hoặc oai-nghi đứng hoặc oai-nghi nằm.

  1. Cõi vô-sắc-giới có 4 tầng trời:

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định có khả năng chứng đắc đến 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.

Sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn vô-sắc-giới thiện- nghiệp trong 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tương xứng trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭi- sandhikāla) 4 vô-sắc-giới quả-tâm gọi là vô-sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 4 tầng trời vô- sắc-giới phạm-thiên.

  • Bốn loài chúng-sinh

Tất cả chúng-sinh chia ra 4 loài:

  1. Loài thai-sinh là chúng-sinh sinh từ trong thai của mẹ như loài người, loài thú như trâu, bò, chó, mèo, …
  2. Loài noãn-sinh là chúng-sinh sinh từ trong trứng, rồi từ trứng nở ra con như: gà, vịt, chim, …
  3. Loài thấp-sinh là chúng-sinh sinh từ nơi ẩm thấp, dưới đất, vũng nước như: giun, sán, dòi, …

Ba loài chúng-sinh này sau khi đã tái-sinh, kiếp hiện- tại, rồi theo thời gian dần dần tăng trưởng lớn lên.

  1. Loài hóa-sinh là chúng-sinh hóa ra thân hình có đầy đủ các bộ phận ngay tức khắc, mà không chờ đợi thời gian tăng trưởng như sau:
  • Con người đầu tiên hiện ra trên trái đất (không có cha mẹ).

 

  • Chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới.
  • Chư phạm-thiên trong 16 tầng trời sắc-giới và chư phạm-thiên trong 4 tầng trời vô-sắc-giới.
  • Chúng-sinh trong các cõi địa-ngục.
  • Chúng-sinh là các loài a-su-ra.
  • Chúng-sinh là các loài ngạ-quỷ.

Tất cả các loài chúng-sinh này thuộc về loài hóa-sinh.

  • Thiện-Nghiệp Thần-Thông (Abhiññākusala):

Thiện-nghiệp thần-thông không cho quả tái-sinh kiếp sau, bởi vì thiện-nghiệp thần-thông phát sinh sau đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm như là quả của đệ ngũ thiền sắc- giới thiện-tâm, và sự thành-tựu 5 phép thần-thông thế- gian (lokiya abhiññā).(1)

Phép tam-giới thần-thông có 5 loại:

  1. Đa-dạng-thông (Iddhividha abhiññā).
  2. Thiên-nhãn-thông (Dibbacakkhu abhiññā).
  3. Tha-tâm-thông (Paracittavijānana abhiññā).
  4. Tiền-kiếp-thông (Pubbenivāsānussati abhiññā).
  5. Thiên-nhĩ-thông (Dibbasota abhiññā).
  1. Đa-dạng-thông (Iddhividha abhiññā):

Đa-dạng-thông được thành-tựu do năng lực phát nguyện trở thành nhiều phép thần-thông như sau:

  • Một người phát nguyện trở thành hằng trăm, hằng ngàn người.
  • Hằng trăm, hằng ngàn người phát nguyện trở thành một người.
  • Hiện hình đến một nơi do ý muốn.
  • Tàng hình không cho ai thấy.

1 Tìm hiểu rõ phương pháp luyện mỗi phép-thần-thông trong bộ Nền- Tảng-Phật-Giáo, quyển VII, tập 1 Pháp-Hành Thiền-Định, cùng soạn giả.

 

  • Hiện hình cho mọi người đều thấy.
  • Đi xuyên qua tường thành, như đi qua chỗ trống.
  • Đi xuyên qua núi đá, như đi qua chỗ trống.
  • Làm mặt đất trở thành mặt biển, rồi lặn xuống.
  • Làm mặt biển trở thành mặt đất, rồi đi lại được.
  • Chui xuống mặt đất, như lặn xuống nước.
  • Bay nhanh trên hư không, như các loài chim.
  • Tay sờ đụng mặt trăng, mặt trời.
  • Xuất hiện lên cõi trời dục-giới, cõi trời sắc-giới,… Phép thần-thông này có khả năng phát nguyện trở

thành nhiều phép khác nhau do ý nguyện, v.v…

  1. Thiên-nhãn-thông (Dibbacakkhu abhiññā):

Thiên-nhãn-thông là phép thần-thông có khả năng nhìn thấy rõ những vật dù xa, dù nhỏ nhất, dù bị bao bọc kín đáo cũng nhìn thấy rõ như mắt của chư-thiên trên cõi trời dục-giới, như mắt của chư phạm-thiên trên cõi trời sắc-giới, cho nên gọi là Thiên-nhãn-thông.

Thiên-nhãn-thông còn có khả năng đặc biệt thấy rõ, biết rõ kiếp quá-khứ của chúng-sinh trong các cõi-giới, sự sinh, sự tử của tất cả chúng-sinh do nghiệp và quả của nghiệp của chúng-sinh (có giới hạn).

  1. Tha-tâm-thông (Paracittavijānana abhiññā):

Tha-tâm-thông là phép thần-thông biết rõ tâm của người khác đang suy nghĩ điều gì.

  1. Tiền-kiếp-thông (Pubbenivāsānussati abhiññā):

Tiền-kiếp-thông là phép thần-thông có khả năng nhớ lại tiền-kiếp của mình đã từng sinh kiếp quá-khứ thuộc về loại chúng-sinh nào, nhớ rõ từng chi tiết, thậm chí nhớ rõ đã từng tạo thiện-nghiệp nào, ác-nghiệp nào trong mỗi kiếp ấy.

 

tiền-kiếp-thông cũng có khả năng nhớ rõ tiền-kiếp của các chúng-sinh khác mà mình đã từng gặp, đã từng thấy trong kiếp quá-khứ của mình (có giới hạn).

  1. Thiên-nhĩ-thông (Dibbasota abhiññā):

Thiên-nhĩ-thông là phép thần-thông có khả năng nghe mọi âm thanh, mọi thứ tiếng từ xa không giới hạn, không gì ngăn cản, có khả năng nghe âm thanh rất nhỏ nhất như tai của chư-thiên trên cõi trời dục-giới, như tai của chư phạm-thiên trên cõi trời sắc-giới, cho nên gọi là Thiên-nhĩ-thông.

Năm phép thần-thông này thuộc về tam-giới thần- thông (lokiya-abhiññā) có trong Phật-giáo và có ngoài Phật-giáo, cả trong thời-kỳ Đức-Phật chưa xuất hiện trên thế gian.

  • Còn phép thần-thông đặc biệt gọi là āsavakkhaya- ñāṇa: trầm-luân tận-minh thuộc về siêu-tam-giới minh chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, từ khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian.

Trầm-luân tận-minh này hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo, chỉ có trong Phật-giáo mà thôi.

Thật vậy, chiều ngày rằm tháng tư (âm-lịch) Đức-Bồ- tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngự đến ngồi dưới cội cây Đại-Bồ-Đề tại khu rừng Uruvelā.

  • Canh đầu đêm rằm tháng tư, Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha chứng đắc pubbenivāsānussati- ñāṇa: tiền-kiếp-minh.
  • Canh giữa đêm rằm tháng tư, Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha chứng đắc dibbacakkhuñāṇa: thiên-nhãn-minh.

 

  • Canh chót đêm rằm tháng tư, Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha chứng đắc āsavakkhayañāṇa:(1) trầm-luân tận-minh bằng 4 Thánh-đạo-tuệ theo tuần tự:
  • Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 1 pháp trầm-luân là diṭṭhāsava: tà-kiến trầm-luân.
  • Nhất-lai Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 1 pháp-trầm- luân là kāmāsava: tham-dục trầm-luân loại thô trong cõi dục-giới.
  • Bất-lai Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 1 pháp-trầm- luân là kāmāsava: tham-dục trầm-luân loại vi-tế trong cõi dục-giới.
  • A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 2 pháp- trầm-luân là bhavāsava: kiếp-trầm-luân và avijjāsava: vô-minh trầm-luân không còn dư sót. Đặc biệt Đức-Phật đã diệt tận được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā) đã tích-lũy vô số kiếp từ vô thuỷ.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Đức-Phật Gotama thuyết-pháp tế độ chúng-sinh có duyên lành nên tế độ, nên các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực- hành pháp-hành thiền-tuệ cũng dẫn đến chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

1 Nên tìm hiểu rõ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, Quyển VII, tập 2 “Pháp Hành Thiền-Tuệ”, phần 4 Pháp-Trầm-Luân, cùng soạn giả.

 

Siêu-tam-giới thiện-nghiệp (lokuttarakamma)

Siêu-tam-giới thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm liền cho quả có 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm không có thời gian chờ đợi (akālikadhamma) nghĩa là Thánh-đạo-tâm nào sinh 1 sát-na-tâm rồi diệt liền Thánh-quả-tâm ấy sinh trong cùng Thánh-đạo-lộ-trình-tâm (maggavīthicitta) ấy.

  1. Hành-giả thiện-trí phàm-nhân thuộc hạng người tam-nhân có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā), trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
  2. Hành-giả là bậc Thánh Nhập-lưu tiếp tục thực- hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế lần thứ nhì, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận 1 loại phiền- não là sân (dosa) loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
  3. Hành-giả là bậc Thánh Nhất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế lần thứ ba, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất- lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại vi-tế, trở thành bậc Thánh Bất-lai.

3- Hành-giả là bậc Thánh Bất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế lần thứ tư, chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A- ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), buồn-chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn  tội-lỗi  (ahirika),  không  biết  ghê-sợ  tội-lỗi

 

(anottappa) không còn dư sót, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao-thượng.

Thánh-đạo-tâm có 4 loại tâm:

  1. Nhập-lưu Thánh-đạo.
  2. Nhất-lai Thánh-đạo.
  3. Bất-lai Thánh-đạo.
  4. A-ra-hán Thánh-đạo.

Thánh-quả-tâm có 4 loại tâm:

  1. Nhập-lưu Thánh-quả.
  2. Nhất-lai Thánh-quả.
  3. Bất-lai Thánh-quả.
  4. A-ra-hán Thánh-quả.

Bậc Thánh-nhân có 4 bậc:

  1. Bậc Thánh Nhập-lưu.
  2. Bậc Thánh Nhất-lai.
  3. Bậc Thánh Bất-lai.
  4. Bậc Thánh A-ra-hán.

Siêu-tam-giới thiện-nghiệp trong 4 hoặc 20 Thánh- đạo-tâm không cho quả tái-sinh kiếp sau, mà trái lại làm giảm dần kiếp tái-sinh kiếp sau theo mỗi bậc Thánh- nhân như sau:

  1. Bậc Thánh Nhập-lưu tuyệt đối không còn tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới, mà chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi. Đến kiếp thứ 7, Bậc Thánh Nhập-lưu ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  2. Bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới 1 kiếp nữa mà thôi. Trong kiếp ấy, bậc Thánh Nhất-lai ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh

 

A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

  1. Bậc Thánh Bất-lai không còn tái-sinh trở lại cõi dục-giới, mà chỉ còn tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên mà thôi. Vị phạm-thiên ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A- ra-hán tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  2. Bậc Thánh A-ra-hán hết tuổi thọ ngay kiếp hiện- tại sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Tóm lược các-nghiệp và quả của các-nghiệp

Theo bộ Abhidhammatthasaṅgaha (Vi-Diệu-Pháp Yếu-Nghĩa) của Ngài Đại-Trưởng-lão Anuruddhamahā- thera trình bày về nghiệp có 4 phần (kammacatukka):

  1. Kiccacatukka: phần nghiệp phân chia 4 loại theo phận sự của nghiệp, có 4 loại nghiệp:

1.1- Janakakamma: Sinh-quả-nghiệp là nghiệp có phận sự cho quả trong thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) và cho quả trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), kiếp hiện-tại.

1.2- Upatthambhakakamma: hỗ-trợ-nghiệp là nghiệp có phận sự hỗ trợ nghiệp khác cho quả.

1.3- Upapīḷakakamma: Hãm-hại-nghiệp là nghiệp có phận sự hãm hại nghiệp đối nghịch.

1.4- Upaghātakakamma: Sát-hại-nghiệp là nghiệp có phận sự sát hại nghiệp khác.

  1. Pākadānapariyāyacatukka: phần nghiệp phân chia 4 loại cho quả của nghiệp theo tuần tự, có 4 loại nghiệp:

2.1- Garukakamma: Trọng-yếu-nghiệp nghiệp trọng có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau.

 

2.2- Āsannakamma: Cận-tử-nghiệp là nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung.

Nếu không có trọng-yếu-nghiệp thì cận-tử-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.

2.3- Āciṇṇakamma: Thường-hành-nghiệp là nghiệp thường hành hằng ngày đêm.

Nếu không có cận-tử-nghiệp thì thường-hành-nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.

2.4- Kaṭattākamma: Bình-thường-nghiệp là nghiệp bình thường kém 3 loại nghiệp trên, hoặc nghiệp trong kiếp quá-khứ.

Nếu không có 3 loại nghiệp trên thì bình-thường- nghiệp này cho quả tái-sinh kiếp sau.

  1. Pākakālacatukka: phần nghiệp phân chia 4 loại cho quả của nghiệp theo thời gian, có 4 loại nghiệp.

3.1- Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Hiện-kiếp quả- nghiệp nghiệp cho quả trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất). 3.2- Upapajjavedanīyakamma: Hậu-kiếp-quả-nghiệp

là nghiệp cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp (kiếp thứ nhì).

3.3- Aparāpariyavedanīyakamma: Kiếp-kiếp-quả- nghiệp là nghiệp có cơ hội cho quả từ kiếp này đến kiếp kia kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A- ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

3.4- Ahosikamma: Vô-hiệu-quả-nghiệp là nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nghiệp được nữa.

  1. Pākaṭṭhānacatukka phần nghiệp phân chia 4 loại cho quả của nghiệp theo cõi-giới, có 4 loại nghiệp:

4.1- Akusalakamma: Bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm (ác-tâm) cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, loài ngạ-quỷ, loài súc-sinh.

 

4.2- Kāmāvacarakusalakamma: Dục-giới thiện-nghiệp (đại-thiện-nghiệp) trong 8 dục-giới thiện-tâm (đại-thiện- tâm) cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới.

4.3- Rūpāvacarakusalakamma: Sắc-giới thiện-nghiệp trong 5 sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh trong 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên.

4.4- Arūpavacarakusalakamma: Vô-sắc-giới thiện- nghiệp trong 4 vô-sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh trong 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên.

Đó là 4 phần nghiệp mà mỗi phần có 4 loại thành 16 loại nghiệp được giảng giải về mỗi nghiệp như sau:

Kamma: nghiệp có 2 loại:

    1. Akusalakamma: bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác- tâm) đó là 8 tham-tâm + 2 sân-tâm + 2 si-tâm, nên có 12 bất-thiện-nghiệp (12 ác-nghiệp) tính theo 12 bất-thiện- tâm (ác-tâm).
    2. Kusalakamma: thiện-nghiệp đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 21 thiện-tâm đó là 8 dục-giới thiện-tâm + 5 sắc-giới thiện-tâm + 4 vô-sắc-giới thiện-tâm + 4 siêu- tam-giới thiện-tâm (4 Thánh-đạo-tâm).

Nghiệp và quả của nghiệp

Đức-Phật dạy về nghiệp và quả của nghiệp rằng:

“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma- bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi.”

Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta;

 

ta sẽ tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’ ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.

* Kammassako’mhi: Ta có nghiệp là của riêng.

Tất cả mọi ác-nghiệp nào và mọi thiện-nghiệp nào mà ta đã tạo thì mọi ác-nghiệp ấy và mọi thiện-nghiệp ấy chỉ là của riêng ta mà thôi, hoàn toàn không phải là của chung với ai cả, không liên quan đến người khác, chúng-sinh khác.

Thật vậy, mỗi người đều có quyền hoàn toàn chủ động tự lựa chọn tạo ác-nghiệp nào hoặc tạo thiện- nghiệp nào tùy theo khả năng của mình.

Nếu khi người nào đã tạo ác-nghiệp nào thiện- nghiệp nào rồi thì ác-nghiệp ấy thiện-nghiệp ấy chỉ thuộc về của riêng của người ấy thật sự mà thôi.

Ngoài nghiệp là của riêng mình ra, còn lại tất cả mọi thứ của cải tài sản trong đời này đều là của chung, chắc chắn không phải là của riêng thật sự một ai cả.

Mỗi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài từ vô thủy trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại, đã từng tạo mọi ác- nghiệp mọi đại-thiện-nghiệp dù nhẹ, dù nặng vẫn được lưu trữ đầy đủ trọn vẹn ở trong tâm, không hề mất mát một mảy may nào cả, dù cho thân mỗi kiếp có thay đổi theo quả của nghiệp, nhưng tâm vẫn sinh rồi diệt liên tục từ kiếp này sang kiếp kia, đối với chúng-sinh còn là hạng phàm-nhân.

Người thiện-trí nào có trí-tuệ hiểu biết đúng như vậy thì người ấy có“kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh-kiến sở nghiệp của mình.

Như Đức-Phật dạy:

 

Kammassako’mhi: nghiệp là của riêng ta.

* Kammaphala: Quả của nghiệp

Quả của nghiệp có 2 loại:

  1. Quả khổ của ác-nghiệp.
  2. Quả an-lạc của thiện-nghiệp.

Đức-Phật dạy rằng:

“Yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi.”

Ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’ ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.

* Quả của nghiệp

Thật ra, tất cả mọi ác-nghiệp và mọi thiện-nghiệp chắc chắn chỉ thuộc về chủ-nhân của nghiệp mà thôi, hoàn toàn không phải là của chung với ai cả, không liên quan đến người khác, chúng-sinh khác, nhưng quả khổ của ác-nghiệp ấy hoặc quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy không chỉ trực-tiếp thuộc về chủ-nhân của nghiệp mà sự thật quả khổ của ác-nghiệp ấy hoặc quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy còn ảnh hưởng gián-tiếp đến những người thân gần gũi với chủ-nhân của nghiệp ấy nữa.

Thật vậy, trích dẫn chứng những tích như sau:

  • Quả khổ của ác-nghiệp
  • Tích Ngài Trưởng-lão Losakatissa

Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh- thành Sāvatthī, đề cập đến Ngài Trưởng-lão Losakatissa, trong tích Losakajātaka(1) được tóm lược như sau:

1 Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần Atthakāmavagga, tích Losakajātaka.

 

Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa là vị tỳ-khưu trụ trì tại ngôi chùa làng. Vị tỳ-khưu còn là phàm-nhân có giới, thường thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ.

Thí-chủ xây dựng ngôi chùa làng, rồi thỉnh vị tỳ-khưu về làm trụ trì, xin hộ độ các thứ vật dụng cần thiết đến chư tỳ-khưu trong chùa. Hằng ngày, vị tỳ-khưu trụ trì đi khất thực, rồi độ vật thực tại nhà thí-chủ.

Một hôm, một vị khách Tăng là bậc Thánh A-ra-hán từ phương xa đến đứng khất thực trước nhà thí-chủ.

Khi nhìn thấy Ngài khách Tăng, thí-chủ liền phát sinh đức-tin trong sạch nơi Ngài khách Tăng, ông ra tận nơi kính thỉnh Ngài Trưởng-lão vào nhà, thỉnh Ngài Trưởng- lão ngồi chỗ cao quý, rồi kính dâng cúng dường vật thực đến Ngài khách Tăng.

Ngài Trưởng-lão độ vật thực xong, người thí-chủ kính thính Ngài thuyết-pháp, sau khi lắng nghe chánh-pháp thí-chủ phát sinh đức-tin vô cùng hoan hỷ, kính thỉnh Ngài khách Tăng đến nghỉ lại tại ngôi chùa.

Vị tỳ-khưu trụ trì theo dõi thấy người thí-chủ lần đầu tiên gặp vị khách Tăng này, cung-kính đón tiếp niềm nở, khiến cho vị tỳ-khưu trụ trì nghĩ rằng:

“Ta là vị trụ trì ở tại ngôi chùa nhiều năm, mà ông thí-chủ không đối xử với ta một cách niềm nở như vị khách Tăng này.”

Vì vậy, vị tỳ-khưu trụ trì dẫn Ngài khách Tăng về chùa chùa, tiếp đón một cách lạnh nhạt, vị tỳ-khưu trụ trì chỉ phòng nghỉ cho Ngài Trưởng-lão.

Ngài khách Tăng làm vệ sinh căn phòng xong, rồi Ngài ngồi nhập quả-định (phalasamāpatti) làm cho thân tâm được an-lạc.

 

Vào buổi chiều, người thí-chủ đi với những người nhà đem hoa, các thứ thuốc trị bệnh đến chùa, người thí-chủ vào đảnh lễ vị tỳ-khưu trụ trì, cúng dường đến vị tỳ- khưu trụ trì một phần, rồi bạch hỏi rằng:

- Kính bạch Đại-đức trụ trì, Ngài khách Tăng nghỉ

phòng nào? Bạch Đại-đức.

Vị tỳ-khưu trụ trì chỉ cho ông thí-chủ biết căn phòng nghỉ của Ngài khách Tăng.

Ông thí-chủ đến hầu đảnh lễ Ngài khách Tăng, rồi kính dâng những hoa và các thứ thuốc trị bệnh như bơ lỏng, mật ong, dầu, v.v… rồi kính thỉnh Ngài khách Tăng thuyết-pháp. Ông thí-chủ và những người nhà ngồi lắng nghe chánh-pháp đến tối.

Ông thí-chủ ra đốt đèn cúng dường đến cây Đại-Bồ- đề, ngôi bảo tháp, đốt đèn xung quanh làm cho ngôi chùa sáng tỏa mọi nơi, rồi ông thí-chủ vào đảnh lễ vị trụ trì rồi bạch rằng:

- Kính bạch Ngài trụ trì, con kính thỉnh Ngài và Ngài khách Tăng ngày mai đến thọ thực tại tư gia của con. Bạch Ngài.

Kính bạch như vậy xong, ông thí chủ đảnh lễ Ngài trụ trì, rồi xin phép trở về nhà.

Hằng ngày, ông thí chủ thỉnh Ngài trụ trì đi đến thọ thực tại nhà, hôm ấy, ông thí-chủ thỉnh Ngài khách Tăng cùng thọ thực tại nhà ông ngày hôm sau nữa.

Vị tỳ-khưu trụ trì nghĩ rằng: “Ông thí-chủ này mới gặp Ngài khách Tăng hôm nay, mà đối xử cung-kính đặc biệt với Ngài khách Tăng hơn cả ta ở tại ngôi chùa này.

Nếu Ngài khách Tăng ở tại ngôi chùa này thì ông thí- chủ đâu còn cung-kính ta như trước nữa.”

 

Do tính ganh tỵ nghĩ sai lầm như vậy, nên vị tỳ-khưu trụ trì không hài lòng để cho Ngài khách Tăng ở lại ngôi chùa này, nhưng chưa biết làm cách nào để Ngài khách Tăng đi ra khỏi chùa mà không làm mất lòng ông thí-chủ.

  • Ngài khách Tăng biết rằng: “Vị tỳ-khưu trụ trì có thái độ không muốn ta ở lại ngôi chùa này.

Sáng ngày mai, ta sẽ rời khỏi ngôi chùa này, trở về chỗ ở của ta.”

Buổi sáng ngày hôm sau, đến giờ đi khất thực, vị tỳ- khưu trụ trì đánh chuông bằng cách búng ngón tay, gõ cửa bằng móng tay, rồi âm thầm mang bát đi đến tư gia của ông thí-chủ.

Người thí-chủ ra đón rước Ngài trụ trì, hai tay nhận cái bát, thỉnh mời vào nhà, thỉnh ngồi trên tọa cụ đã trải sẵn, người thí-chủ đảnh lễ Ngài trụ trì, rồi bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài trụ trì, Ngài khách Tăng sao chưa

đến? Bạch Ngài.

Vị tỳ-khưu trụ trì bảo với ông thí-chủ rằng:

  • Này ông thí-chủ! Ông kính trọng vị khách Tăng như thế nào không biết, còn sư đã đánh chuông, gõ cứa, mà vị khách Tăng vẫn chưa thức dậy được.

Hôm qua, vị khách Tăng độ vật thực ngon miệng của ông, còn no cho đến ngày hôm nay, sáng nay vị khách Tăng vẫn còn nằm ngủ say.

Ông thí-chủ kính trọng vị khách Tăng như thế ấy!

Mặc dù nghe Ngài trụ trì nói về Ngài khách Tăng như vậy, nhưng ông thí-chủ vẫn hoàn toàn không tin đó là sự thật, mà có đức-tin trong sạch nơi Ngài khách Tăng là Bậc đáng tôn kính.

  • Biết Ngài trụ trì đã đi khất thực rồi, nên Ngài khách

 

Tăng mặc y, mang bát bay lên hư không đến nơi khác, đi khất thực.

Sau khi Ngài trụ trì độ vật thực với món ăn đặc biệt gọi là pāyāsa (nấu bằng sữa, bơ, mật ong, đường thốt nốt rất công phu) xong, người thí-chủ đem cái bát rửa sạch, rồi bỏ món ăn pāyāsa vào đầy bát, đem đến bạch với Ngài trụ trì rằng:

  • Kính bạch Ngài trụ trì, Ngài khách Tăng ấy có lẽ đi đường xa vất vả, nên còn mệt. Kính xin Ngài đem phần vật thực này về chùa, rồi kính dâng đến Ngài khách Tăng. Bạch Ngài.

Kính bạch xong, ông thí-chủ kính dâng bát vật thực ấy đến Ngài trụ trì. Ngài trụ trì nhận cái bát, không hề nói lời nào.

Trên đường đi trở về chùa, vị tỳ-khưu trụ trì nghĩ rằng: “Nếu vị khách Tăng ấy được ăn món pāyāsa ngon miệng này, dù ta nắm cổ lôi ra khỏi chùa, không dễ gì mà chịu đi ra khỏi chùa.

Nếu ta đem món ăn pāyāsa đến cho người khác thì chắc chắn sẽ bị lộ ra nhiều người biết, hoặc nếu ta đổ món ăn pāyāsa xuống nước thì dầu bơ nổi trên mặt nước, hoặc nếu ta đổ bỏ trên mặt đất, các bầy chim bay lại ăn thì sẽ bị lộ ra nhiều người biết.

Vậy, ta nên đổ bỏ món ăn pāyāsa này nơi nào nhỉ!

Vừa đi vừa nghĩ, chợt nhìn thấy đám cháy, vị tỳ-khưu trụ trì đi thẳng đến gần đám cháy, ngồi xuống đào đất, đổ bỏ món ăn pāyāsa xuống lỗ, lấp đất, cào đống than hồng phủ lên, chất thêm củi đốt cháy, rồi đứng dậy, như trút bỏ được gánh nặng, chắc chắn không có ai hay biết được việc làm của mình. Vị tỳ-khưu trụ trì nhẹ nhõm đi trở về chùa.

 

Khi đến chùa, vị tỳ-khưu trụ trì không thấy Ngài khách Tăng, nên nghĩ rằng: “Ngài khách Tăng ấy có lẽ là bậc Thánh A-ra-hán biết được ác-tâm xấu xa đê tiện của ta, nên Ngài đã bỏ đi đến nơi khác rồi!

Ôi ! ta đã tạo ác-nghiệp nặng nề tồi tệ quá rồi!

Từ đó về sau, vị tỳ-khưu trụ trì vô cùng hối hận, nên lâm bệnh nặng, không lâu vị tỳ-khưu trụ trì ấy chết, sau khi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục, bị thiêu đốt trong cõi địa-ngục suốt thời gian 100 ngàn năm, mới mãn quả của ác-nghiệp ấy.

Khi thoát ra khỏi cõi địa-ngục, năng lực của ác- nghiệp còn dư sót, tiếp tục cho quả tái-sinh kiếp sau làm dạ-xoa suốt 500 kiếp, mỗi kiếp đều chịu cảnh đói khổ, đến gần chết mới được ăn no một lần, rồi chết.

Trong vòng tử sinh luân-hồi, sinh kiếp nào thuộc về loại chúng-sinh nào không chỉ một mình chịu cảnh đói khát, mà còn làm cho những chúng-sinh gần gũi khác cũng bị ảnh hưởng quả của ác-nghiệp làm cho đói khổ, nên kiếp nào cũng bị xua đuổi đi nơi khác.

Mỗi hậu kiếp của vị trụ trì, đều bị đói khổ cho đến khi gần chết mới được ăn no một lần, rồi chết.

Kiếp chót của vị tỳ-khưu trụ trì

  • Đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu-kiếp của vị tỳ-khưu trụ trì kiếp chót, đại-thiện- nghiệp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp chót đầu thai vào lòng mẹ thuộc hạng người tihetukapuggala: người tam-nhân(1), trong xóm dân chài gồm có một ngàn gia đình trong vùng Kosala.

1 Hạng người tam-nhân là người có tái-sinh-tâm đủ 3 nhân là vô-tham, vô-sân, vô-si, kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

 

Trong ngày đầu thai vào lòng mẹ, xóm dân chài trong

1.000 gia đình đem lưới đi bắt cá trong sông, hồ, mọi nơi, đều không bắt được con cá nhỏ nào cả, những ngày tiếp theo cũng như vậy.

Trong khi người đàn bà mang thai, xóm 1.000 gia đình dân chài bị cháy nhà liên tiếp 7 lần, bị phạt vạ 7 lần. Xóm dân chài 1.000 gia đình phải chịu bao nhiêu nỗi khổ đói khát, thiếu thốn, không có nơi nương tựa.

Khi ấy, vị trưởng xóm thông báo các gia đình trong xóm họp lại, rồi nói rằng:

  • Thưa quý bà con! Trong xóm 1.000 gia đình chúng ta từ trước đến nay, chưa có xảy ra những tai nạn liên tiếp như thế này, chưa chịu cảnh đói khổ như thế này!

Trong 1.000 gia đình chúng ta chắc có “kālakaṇṇī: người xúi quẩy.”

Vậy, chúng ta nên chia ra làm 2 nhóm riêng biệt, mỗi nhóm có 500 gia đình.

  • Nhóm 500 gia đình không có người mẹ mang thai

thì làm ăn bình thường như trước.

  • Nhóm 500 gia đình có người mẹ mang thai thì vẫn làm ăn vất vả đói khổ, cho nên, được chia ra làm 2 nhóm. Mỗi nhóm có 250 gia đình.
  • Nhóm 250 gia đình có người mẹ mang thai thì vẫn làm ăn vất vả đói khổ, cho nên, nhóm này được chia ra làm 2 nhóm. Mỗi nhóm có 125 gia đình.
  • Và cứ chia 2 nhóm như vậy, cuối cùng chỉ còn 2 gia đình. Mọi người biết gia đình có người mẹ mang thai là gia đình có người“kālakaṇṇī: người xúi quẩy,”nên họ đuổi gia đình này ra khỏi nhóm dân chài.

 

  • Gia đình có người mẹ mang thai, hằng ngày, phải chịu cảnh đói khổ, nhưng thai nhi trong bụng mẹ là kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, nên dù đói khổ thế nào cũng không thể ảnh hưởng đến sinh mạng của thai nhi được.
  • Thai nhi đủ tháng, người mẹ sinh ra đứa bé trai, mẹ cha nuôi dưỡng đứa con rất vất vả khổ cực, cho đến khi đứa con khôn lớn chạy đi lại được.

Một hôm, người mẹ dẫn đứa con vào kinh-thành, đi xin ăn, người mẹ trao cho đứa con cái bát đất nung, dạy bảo đứa con trai rằng:

  • Này con đáng thương! Mẹ đã khổ vì con suốt mấy năm qua, thân mẹ gầy yếu không thể lo nuôi dưỡng con được nữa. Con nên cầm bát đi xin ăn nhà đằng kia.

Dạy bảo đứa con trai như vậy xong, người mẹ lẫn trốn đi nơi khác. Từ đó, đứa bé trai một mình đi xin ăn bữa có bữa không, chưa có bữa nào được no bụng cả, sống lay lắt qua ngày.

Đứa bé trai sống lang thang vất vưởng, nằm ngủ nơi này nơi khác, không tắm giặt, thân thể dơ dáy đáng ghê tởm, miễn sao kiếm sống qua ngày là được.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tế độ đứa bé trai

  • Năm lên 7 tuổi, đứa bé trai ngồi bên cạnh nhà, lượm từng hạt cơm mà người ta rửa nồi đổ bỏ, như loài quạ.

Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi khất thực trong kinh-thành Sāvatthī, nhìn thấy đứa bé trai đáng thương, Ngài Đại-Trưởng-lão phát sinh tâm bi muốn cứu khổ, nên gọi rằng:

  • Này đứa bé đáng thương! Hãy đến đây!

 

Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão gọi, đứa bé ngoan ngoãn

đến đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão, rồi chắp hai tay lại.

Ngài Đại-Trưởng-lão hỏi đứa bé rằng:

  • Này đứa bé đáng thương! Mẹ cha con ở đâu?

Đứa bé cung-kính bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, mẹ cha của con nói với con rằng: “Bởi vì con làm cho mẹ cha phải chịu cảnh đói khổ” nên mẹ cha bỏ con trốn đi rồi. Bạch Ngài.

Ngài Đại-Trưởng-lão hỏi đứa bé rằng:

  • Này đứa bé đáng thương! Con có muốn xuất gia hay không?
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con rất tha thiết muốn xuất gia, nhưng đứa bé mồ côi như con, ai mà cho phép con xuất gia được.
  • Này đứa đáng thương! sẽ cho phép con xuất gia.

Đứa bé vô cùng hoan hỷ bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm bi tế độ cho phép con xuất gia.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta lấy vật thực cho đứa bé, dẫn đứa bé trở về đến chùa, cho tắm sạch sẽ, cạo tóc, mặc y, rồi làm lễ xuất gia trở thành sāmaṇera: sa-di có tên là Losakatissa.

Vị sa-di Losakatissa có ít tài lộc nhất, hằng ngày, vị sa-di Losakatissa đi khất thực, thí-chủ để vào bát một vài vá cơm, nhìn thấy giống như đã đầy bát rồi, không để thêm vào bát nữa.

Vì vậy, hằng ngày vị sa-di Losakatissa độ vật thực không đủ no, chỉ đủ sống qua ngày thực-hành phạm- hạnh cao thượng mà thôi.

 

Khi vị sa-di Losakatissa có đủ 20 tuổi, Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta cho phép làm lễ hành tăng-sự (saṃghakamma) upasampadā nâng lên trở thành bhikkhu: tỳ-khưu trong Phật-giáo.

Mặc dù hằng ngày tỳ-khưu Losakatissa độ vật thực không đủ no, nhưng vẫn tinh-tấn không ngừng thực- hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết- bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Tỳ-khưu Losakatissa đã là bậc Thánh A-ra-hán, hằng ngày, Ngài vẫn có vật thực độ không đủ no, làm cho thân thể của Ngài ngày một gầy yếu, đến ngày Ngài Trưởng-lão Losakatissa sắp tịch diệt Niết-bàn.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta biết rõ Ngài Trưởng- lão Losakatissa sắp tịch diệt Niết-bàn, nên nghĩ rằng:

“Hôm nay, để cho Trưởng-lão Losakatissa độ vật thực no đủ, trước khi tịch diệt Niết-bàn.”

Hôm ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta dẫn Ngài Trưởng-lão Losakatissa theo sau đi vào khất thực trong kinh-thành Sāvatthī có dân chúng đông đảo, mà không có một ai cúng dường để bát một vá cơm nào cho Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta cả.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta biết rõ nguyên nhân, nên dẫn Trưởng-lão Losakatissa trở về chùa, rồi dạy bảo Trưởng-lão Losakatissa ngồi đợi tại nhà ăn của chư tỳ- khưu-Tăng, Ngài Đại-Trưởng-lão sẽ cho người đem vật thực đến cúng dường.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta trở lại đi khất thực trong kinh-thành Sāvatthī, các cận-sự-nam, cận-sự-nữ

 

cùng hoan hỷ đón tiếp Ngài Đại-Trưởng-lão, cúng dường những thứ vật thực đầy đủ.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta truyền bảo một người đem một phần vật thực đến chùa, gặp Ngài Trưởng-lão Losakatissa tại nhà ăn của chư tỳ-khưu-Tăng, rồi dâng cúng dường những thứ vật thực ấy đến Ngài Trưởng-lão Losakatissa.

Người nhận đem những thứ vật thực ấy, trên đường đi quên hẳn, không còn nhớ đến ai cả, cho nên Ngài Trưởng lão Losakatissa ngồi đợi mà không nhận được những vật thực ấy.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta độ vật thực xong, trở về chùa. Trưởng-lão Losakatissa đến đảnh lễ Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta truyền hỏi rằng:

  • Này Losakatissa! Con đã nhận được những vật thực rồi phải không?
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con không nhận

được những vật thực nào cả. Bạch Ngài.

Nghe Trưởng-lão Losakatissa bạch như vậy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta phát sinh động tâm, biết thời gian vẫn còn, nên Ngài Đại-Trưởng-lão dạy bảo rằng:

  • Này Losakatissa! Con nên trở lại ngồi chỗ cũ, đợi sư phụ trở về nhé con!

Vâng lời dạy, Ngài Trưởng-lão Losakatissa trở lại ngồi đợi tại nhà ăn của chư tỳ-khưu-Tăng.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi thẳng vào cung điện của Đức-vua Pasenadi Kosala. Đức-vua ngự ra nhận bát của Ngài Đại-Trưởng-lão, suy xét không phải là thời gian để những món vật thực, nên Đức-vua để bát

 

4 thứ đồ ngọt là bơ lỏng, mật ong, dầu mè, đường thốt nốt đầy bát, rồi đem đến kính dâng bát lên Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta.

Sau khi nhận cái bát đầy 4 thứ đồ ngọt xong, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đi trở về chùa, Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta vẫn ôm cái bát, gọi Trưởng-lão Losakatissa đến dạy bảo rằng:

  • Này Losakatissa! Con hãy lấy 4 thứ đồ ngọt mà dùng cho no đủ hôm nay.

Tỳ-khưu Losakatissa không dám lấy 4 thứ đồ ngọt từ trong bát mà Ngài Đại-Trưởng-lão đang ôm trên tay để dùng, nên Ngài Đại-Trưởng-lão dạy bảo rằng:

  • Này Losakatissa! Con cứ việc lấy 4 thứ đồ ngọt từ trong bát mà dùng. Nếu Sư phụ để cái bát rời khỏi tay thì chẳng còn thứ gì cho con dùng hôm nay cả.

Vâng lời dạy bảo, Ngài Trưởng-lão Losakatissa đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, rồi xin lấy 4 thứ đồ ngọt từ trong bát dùng no đủ ngày hôm ấy.

* Ngay ngày hôm ấy, Ngài Trưởng-lão Losakatissa tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, đồng thời tất cả mọi ác-nghiệp và mọi thiện- nghiệp đã lưu trữ ở trong tâm từ vô thủy trải qua vô số kiếp trong quá-khứ cho đến trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tất cả mọi nghiệp ấy đều trở thành vô- hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa.

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy chư tỳ-khưu làm lễ hoả táng thi thể của Ngài Trưởng-lão Losakatissa, rồi xây ngôi tháp tôn thờ phần Xá-lợi của Ngài Trưởng-lão.

 

  • Nghiệp và quả của nghiệp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa
  • Vô số tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa đã tích-lũy đầy đủ đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la- mật, nên kiếp hiện-tại đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật ấy cho quả trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  • Tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Losakatissa đã tạo ác-nghiệp đổ bỏ vật thực của bậc Thánh A-ra-hán, nên ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả khổ trong mỗi kiếp bị đói khổ, cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

Nghiệp và quả của nghiệp thật là công bằng, không hề thiên vị một ai cả.

  • Quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp
  • Tích Ngài Trưởng-lão Sīvali(1)

Trong thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali là một người cận-sự-nam trong một gia đình giàu có trong kinh- thành Haṃsavatī. Một hôm, đến chùa nghe Đức-Phật Padumuttara thuyết pháp. Khi ấy, Đức-Phật tuyên dương một vị Thánh đại-thanh-văn đệ-tử tên Sudassana có tài lộc bậc nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật Padumuttara.

Người cận-sự-nam, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali thấy Ngài Trưởng-lão Sudassana, liền phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch, có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc

1 Aṅg, Aṭṭhakathā, Etadaggapadavaṇṇanā, tích Sīvalittheravatthu.

 

nhất trong hàng Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật vị-lai, như Ngài Trưởng-lão Sudassana ấy.

Người cận-sự-nam ấy đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Padumuttara, rồi kính thỉnh Đức-Phật ngự đến tư gia cùng với 500 Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để tạo phước-thiện đại thí suốt 7 ngày.

Đến ngày thứ 7, người cận-sự-nam cúng dường bộ y đến Đức-Phật Padumuttara cùng 500 chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng mỗi vị 1 bộ.

Sau khi dâng bộ y xong, người cận-sự-nam ấy đến đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, phước-thiện bố-thí mà con đã tạo suốt 7 ngày qua, con không cầu mong gì khác hơn là có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh Đại- thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh- văn đệ tử của Đức-Phật trong thời vị-lai, như Ngài Đại-đức Sudassana của Đức-Thế-Tôn bây giờ.

Đức-Phật Padumuttara dùng trí-tuệ vị-lai kiến-minh thấy rõ, biết rõ nguyện vọng của người cận-sự-nam này sẽ thành tựu trong kiếp vị-lai, nên Đức-Phật thọ ký xác định thời gian rằng:

  • “Này chư Tỳ-khưu! Kể từ kiếp trái đất này, trong thời vị-lai sẽ trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất. Đến kiếp trái đất gọi Bhaddakappa có Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, người cận-sự-nam này sẽ sinh trong hoàng tộc, từ bỏ nhà xuất gia sẽ trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, như Sudassana là bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử của Như- Lai bây giờ.(1)

1 Từ thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara đến Đức-Phật Gotama trải qua 100 ngàn đại-kiếp trái đất, có 15 Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian.

 

Lắng nghe lời thọ ký của Đức-Phật Padumuttara, người cận-sự-nam vô cùng hoan hỷ tạo mọi phước-thiện bố-thí 4 thứ vật dụng đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến trọn đời.

Trong vòng tử sinh luân-hồi, do đại-thiện-nghiệp ấy chỉ cho quả tái-sinh kiếp sau khi thì sinh làm vị thiên- nam cao quý trong cõi trời dục-giới, hoặc khi thì sinh làm người cao quý trong cõi người mà thôi. Khi sinh làm người có đại-thiện-tâm trong sạch hoan-hỷ tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật nhất là pháp-hạnh bố-thí ba- la-mật.

  • Trong thời-kỳ Đức-Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali, sinh trong ngôi làng không xa kinh-thành Bandhumatī. Khi ấy, dân chúng kinh-thành Bandhumatī sửa soạn chuẩn bị tạo phước-thiện đại-thí cúng dường vật thực lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Trong các món ăn còn thiếu món bơ đặc và mật ong.

Khi ấy, người dân làng (tiền-kiếp Ngài Trưởng-lão Sīvali) đi đến kinh-thành, có đem theo món bơ đặc và tổ mật ong.

Nhìn thấy người dân làng có đem theo món bơ cứng và tổ mật ong, người dân kinh-thành muốn mua 2 món ấy với giá cao là 1 kahāpana. Người dân làng suy nghĩ rằng: “Hai món này của ta đâu có đáng giá đến 1 kahā- pana, sao người ấy dám mua với giá cao như vậy. Ta nên dò xét để biết sự thật.”

Người dân làng giả làm bộ không chịu bán với giá 1 kahāpana, thì người ấy tăng lên 2 kahāpana, 5 kahāpana,

…10 kahāpana, …100 kahāpana, cuối cùng lên đến giá 1000 kahāpana. Khi ấy, người dân làng muốn biết sự thật nên hỏi người ấy rằng:

 

  • Này bạn thân mến! Hai món bơ đặc và tổ mật ong này không đáng giá là bao nhiêu, vì sao bạn trả giá cao như vậy, bạn cần 2 món này để sử dụng vào công việc gì? Bạn có thể nói cho tôi biết được hay không?

Người dân kinh-thành nói rằng:

  • Này bạn thân mến! Dân kinh-thành chúng tôi đồng nhau cùng tạo phước-thiện bố-thí cúng dường lên Đức- Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Trong các món ăn còn thiếu món bơ đặc và mật ong. Vì vậy, với giá nào, chúng tôi cũng mua cho được 2 món ấy.

Người dân làng thưa rằng:

  • Này thưa bạn thân mến! Việc tạo phước-thiện bố-thí cúng dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, dành cho dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī, còn người khác tạo phước-thiện bố-thí cúng dường được hay không?

Người kinh-thành thưa rằng:

  • Này thưa bạn thân mến! Việc tạo phước-thiện bố-thí cúng dường lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, không chỉ dành cho dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī, mà còn người khác cũng tạo phước-thiện bố-thí cúng dường được vậy.

Người dân làng thưa khẳng định rằng:

  • Này thưa bạn thân mến! Bạn nên thông báo cho mọi người biết rằng: Hôm nay, việc tạo phước-thiện bố-thí cúng dường các món vật thực có đầy đủ cả 2 món bơ đặc và mật ong lên Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng.

Xin bạn làm chứng tôi đem 2 món bơ đặc và mật ong

đến cúng dường lên Đức-Phật Vipassī, hôm nay.

 

Người dân làng (tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali) cảm thấy vô cùng hoan hỷ có được cơ hội tạo phước- thiện bố-thí cúng dường lên Đức-Phật Vipassī, nên đi tìm thêm những gia vị vắt lấy nước trộn vào mật ong và bơ đặc làm thành món ăn đặc biệt, rồi gói bằng lá sen, đi đến ngồi chờ không xa Đức-Phật.

Những người đến cúng dường các món vật thực đến Đức-Phật xong, đến cơ hội, người dân làng đến hầu Đức-Phật bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, đây là món ăn đạm bạc của con, con kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Thế-Tôn chủ trì. Kính xin Đức-Thế-Tôn có tâm đại-bi tế độ nhận món ăn này của con.

Đức-Phật Vipassī có tâm đại-bi tế độ nhận món ăn đạm bạc ấy bằng cái bát ngọc do Tứ đại-thiên-vương kính dâng, rồi Đức-Phật phát nguyện, đem chia món ăn đạm bạc ấy đầy đủ cho 68.000 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

Thấy Đức-Phật Vipassī cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng thọ thực xong, người dân làng (tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali) đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, kính bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Hôm nay, dân chúng trong Kinh-thành Bandhumatī đem các món vật thực đến cúng dường lên Đức-Thế-Tôn, và con cũng cúng dường món ăn đặc biệt ấy lên Đức-Thế-Tôn, do năng lực của quả đại-thiện-nghiệp bố-thí cúng dường này, xin cho con kiếp nào con cũng có tài lộc bậc nhất.

Nghe lời nguyện cầu như vậy, Đức-Phật Vipassī

truyền dạy rằng:

  • Này con! Xin cho lời nguyện cầu của con sẽ được thành tựu như ý.

 

Sau đó, Đức-Phật Vipassī thuyết-pháp tế độ dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī, rồi ngự trở về ngôi chùa cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

Người dân làng cố gắng tinh-tấn bồi bổ các pháp- hạnh ba-la-mật cho đến trọn kiếp.

Trong vòng tử sinh luân-hồi, chỉ có đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm người trong cõi người hoặc sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới. Kiếp làm người cố gắng tinh-tấn bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ.

Hoàng-tử Sīvali kiếp chót

  • Trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu-kiếp của người cận-sự-nam trong thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara, đã bồi bổ đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật, nên sau khi chết, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp chót vào lòng Hoàng-hậu Suppavāsā đất nước Koliya.

Từ khi tái-sinh đầu thai kiếp chót (thai-nhi Sīvali) nằm trong bụng bà Hoàng-hậu Suppavāsā, do năng lực đại-thiện-nghiệp của thai-nhi Sīvali nằm trong bụng, Hoàng-hậu Suppavāsā từ sáng đến chiều, nhận những phẩm vật quý giá từ mọi nơi đem đến làm quà quý báu dâng lên Hoàng-hậu.

Khi ấy, hoàng-tộc muốn biết Hoàng-hậu có nhiều phước như thế nào, nên mời Hoàng-hậu đến kho lương thực, mời Bà chạm tay vào cửa kho, thì kho đầy lương thực, bà chạm tay vào cửa kho nào, thì kho ấy đầy của cải. Cho nên, mọi người trong hoàng tộc đều tán dương ca tụng rằng: “Hoàng-hậu là người có nhiều phước.”

Một hôm, thị-nữ đem nồi cơm đầy dâng đến Hoàng-

 

hậu, mời bà chạm tay vào cái nồi, dù có bao nhiêu người xới cơm ra ăn, nồi cơm vẫn không vơi chút nào cả.

Đó là quả đại-thiện-nghiệp của thai-nhi Sīvali nằm trong bụng của Mẫu-hậu.

Hoàng-tử Sīvali nằm trong bụng Mẫu-hậu

Hoàng-tử Sīvali nằm trong bụng Hoàng-hậu Suppa- vāsa suốt 7 năm, trong 7 ngày sắp sinh ra đời, Hoàng- hậu Suppavāsa chịu nỗi đau đớn đến cùng cực vì cái thai nhi trong bụng không thể sinh ra được cho đến ngày thứ 7, tưởng chừng không thể sống nổi, nên Hoàng-hậu Suppavāsa tâu với Đức-vua phu quân rằng:

  • Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp muốn tạo phước-thiện bố-thí trước khi chết.

Kính xin Hoàng-thượng ngự đến hầu đảnh lễ Đức- Thế-Tôn, rồi bạch về chuyện thần thiếp đang chịu đau đớn đến cùng cực vì cái thai trong bụng không sinh ra được rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để cho Hoàng-hậu Suppavāsā tạo phước-thiện bố-thí.

Nghe Đức-Phật truyền dạy thế nào, xin Hoàng-thượng ghi nhớ thế ấy, khi hồi cung truyền lại cho thần thiếp biết.

Nghe lời tâu của Hoàng-hậu Suppavāsā, Đức-vua ngự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch y theo lời của Hoàng-hậu Suppavāsā.

Đức-Phật truyền dạy rằng:

“Sukhinī hotu Suppavāsā Koliyadhītā, sukhinī arogā arogaṃ puttaṃ vijāyatu.”

Mong cho Suppavāsā Công-chúa dòng Koliya được

 

thân tâm an-lạc, không có bệnh sinh ra đứa con cũng

được an toàn.

Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức- vua kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép hồi cung.

Tại cung điện, hoàng-tử sinh ra khỏi lòng mẫu-hậu một cách dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình vậy.

Mọi người trong hoàng-tộc vô cùng hoan hỷ thấy hoàng-tử sinh ra đời an toàn, cùng nhau đến chờ chầu Đức-vua tâu tin lành này.

Đức-vua ngự về đến cung điện, thấy mọi người trong hoàng-tộc hân hoan vui mừng, tâu với Đức-vua tin lành là hoàng-tử sinh ra đời được an toàn.

Khi ấy, Đức-vua suy nghĩ rằng:

“Lời truyền dạy của Đức-Thế-Tôn đúng quá!

Đức-vua ngự đến gặp Hoàng-hậu Suppavāsā, truyền lại y theo lời của Đức-Thế-Tôn cho Hoàng-hậu nghe.

Hoàng-hậu Suppavāsā tâu với Đức-vua phu-quân rằng;

  • Muôn tâu Hoàng-thượng, thần thiếp muốn làm phước thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật cùng với chư Đại đức tỳ-khưu-Tăng suốt 7 ngày.

Đức-vua chấp thuận theo lời tâu của Hoàng-hậu.

Hoàng-tử sinh ra đời đã dập tắt được sự nóng lòng của mọi người trong hoàng-tộc, nên làm lễ đặt tên hoàng-tử Sīvali nghĩa là mát mẻ.

Đức-vua kính thỉnh Đức-Phật ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để tạo phước-thiện bố-thí cúng dường vật thực suốt 7 ngày.

Đến ngày thứ 7, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta hỏi

hoàng-tử Sīvali rằng:

 

  • Này hoàng-tử! Con đã chịu đựng nỗi khổ ở trong lòng mẫu-hậu lâu như vậy, nay con muốn xuất gia để giải thoát khổ hay không?

Hoàng-tử Sīvali bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con muốn xuất gia, nếu con được mẫu-hậu và phụ-vương cho phép.

Thấy hoàng-tử bạch chuyện với Ngài Đại-Trưởng- lão, Hoàng-hậu Suppavāsā muốn biết, nên đến bạch hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão rằng:

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, hoàng-nhi của con bạch điều gì với Ngài Đại-Trưởng-lão vậy?
  • Này Hoàng-hậu! Hoàng-tử của bà bạch về nỗi khổ nằm trong lòng mẫu-hậu suốt thời gian lâu dài như vậy, nên bạch rằng: “Con muốn xuất gia, nếu con được mẫu- hậu và phụ-vương cho phép.”

Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão nói như vậy, Hoàng-hậu Suppavāsā vô cùng hoan hỷ đồng ý cho phép hoàng-tử Sīvali đi xuất gia, bà bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ tế độ cho phép hoàng-tử của con được xuất gia. Bạch Ngài.

Hoàng-tử Sīvali xuất gia

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta dẫn hoàng-tử Sīvali trở về chùa. Khi làm lễ cạo tóc, Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy hoàng-tử Sīvali thực-hành niệm đề-mục tacapañcakakammaṭṭhāna: đề-mục thiền-định nhóm tacapañcaka đó là kesā, lomā, nakkhā, dantā, taco, … taco, dantā, nakkhā, lomā, kesā, (tóc, lông, móng, răng, da,… da, răng, móng, lông, tóc,…) theo chiều thuận, theo chiều nghịch.

 

Hoàng-tử Sīvali thực-hành niệm đề-mục thiền-định

nhóm tacapañcaka ấy, trong khi đang làm lễ cạo tóc:

  • Khi những sợi tóc đầu tiên rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập- lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
  • Tiếp theo những sợi tóc thứ nhì rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhất- lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
  • Tiếp theo những sợi tóc thứ ba rơi xuống, hoàng-tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
  • Tiếp theo những sợi tóc cuối cùng rơi xuống, hoàng- tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A- ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng một lúc với lễ cạo tóc không trước không sau.

Khi ấy, Hoàng-tử Sīvali, kể từ khi tái-sinh đầu thai kiếp chót vào lòng mẫu-hậu Suppavāsā suốt 7 năm và chịu khố suốt 7 ngày mới sinh ra đời(1).

Vì vậy, hoàng-tử Sīvali trở thành bậc Thánh A-ra- hán lúc 7 năm và 14 ngày.

Kể từ ngày Ngài Đại-đức Sīvali trở thành Sa-di, hằng ngày các hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ dâng cúng dường 4 thứ vật dụng đến cho Ngài Đại-đức Sīvali cùng chư Đại-đức tỳ-khưu càng ngày càng đầy đủ, sung túc mà trước đây chưa từng có.

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā,và bộ Apadānaṭṭhakathā, Sīvalitthera apadāna, hoàng-tử Sīvali nằm trong bụng mẫu-hậu suốt 7 năm 7 tháng 7 ngày.

 

  • Khi Ngài Đại-đức Sīvali tròn 20 tuổi, được làm lễ nâng lên bậc tỳ-khưu, những thứ vật dụng lại càng được phát sinh đầy đủ, sung túc đến chư Đại-đức tỳ-khưu nhiều hơn nữa.

Hễ mỗi khi có đoàn chư tỳ-khưu đông đảo phải đi tế độ chúng-sinh từ xứ này sang xứ khác trên con đường dài, đi qua vùng hẻo lánh, không có dân cư; nếu có Ngài Trưởng-lão Sīvali cùng đi trong đoàn, đến giờ khất thực, do năng lực của đại-thiện-nghiệp bố-thí của Ngài Trưởng-lão Sīvali, khiến cho chư-thiên hóa ra xóm làng, thành thị, hiện ra dân cư đông đảo cúng dường y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đầy đủ đến chư Đại-đức tỳ-khưu.

Khi đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu đi khỏi vùng ấy, thì xóm làng, thành thị kia biến mất.

Một hôm, chư tỳ-khưu hội họp bàn về Ngài Trưởng- lão Sīvali có nhiều tài lộc đặc biệt không chỉ được phát sinh đến cho Ngài Trưởng-lão Sīvali, mà còn đến tất cả chư tỳ-khưu, dù nhiều bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ, sung túc.

Thật là điều phi thường, không những các hàng cận- sự-nam, cận-sự-nữ là thí chủ, mà còn có chư-thiên, Long-vương cũng đem lễ vật, các thứ vật dụng dâng cúng dường đến cho Ngài Trưởng-lão Sīvali cùng tất cả chư tỳ-khưu bao nhiêu vị cũng vẫn đầy đủ, sung túc.

Trong khi chư tỳ-khưu đang bàn luận về lợi lộc đặc biệt của Ngài Trưởng-lão Sīvali, thì Đức-Thế-Tôn ngự đến, Ngài truyền dạy rằng:

“Các con đang bàn luận về chuyện gì vậy?”

Chư tỳ-khưu bạch rằng:

 

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đang bàn luận về quả phước-thiện đặc biệt của Ngài Trưởng-lão Sīvali. Bạch Ngài.

Nhân dịp ấy, Đức-Phật chủ trì buổi hội chư tỳ-khưu- Tăng, Đức-Phật tuyên dương Ngài Trưởng-lão Sīvali trước các hàng Thanh-văn đệ tử rằng:

“Etaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ lābhīnaṃ yadidaṃ Sīvali!”

  • Này chư Tỳ-khưu! Sīvali là bậc Thánh Đại-thanh- văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Như-Lai.

Ngài Trưởng-lão Sīvali bậc Thánh Đại-thanh-văn có tài lộc bậc nhất trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama. Đó là sự thành-tựu như ý nguyện mà tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali đã từng phát nguyện, đã được Đức-Phật Padumuttara quá-khứ thọ ký đúng như vậy.

Quả ác-nghiệp của Hoàng-tử Sīvali

Sở dĩ hoàng-tử Sīvali nằm trong bụng mẫu-hậu Suppavāsa suốt thời gian 7 năm, 7 tháng với 7 ngày, là vì quả của ác-nghiệp của hoàng-tử đã tạo trong tiền-kiếp.

Trong tích Khadiyavaniyarevatattheravatthu(1), có đoạn đề cập đến ác-nghiệp của hoàng-tử Sīvali đã tạo trong kiếp quá-khứ được tóm lược như sau:

Trong thời-kỳ Đức-Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian, khi ấy, tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali người dân làng cùng với dân chúng trong kinh-thành Bandhumatī, đã tạo phước-thiện bố-thí cúng dường món ăn bơ đặc với

1 Bộ Dham. Aṭṭhakathā, Arahantavagga, Khadiyavaniyarevatattheravatthu.

 

mật ong đặc biệt ấy đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng

Đức-Phật Vipassī chủ trì.

Khi ấy, Đức-Phật Vipassī nhận món ăn đặc biệt ấy, rồi phát nguyện, đem chia món ăn đặc biệt ấy đầy đủ cho

68.000 chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

Sau khi người dân làng chết, đại-thiện-nghiệp bố-thí trong đại-thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) là đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị thiên-nam trên cõi trời dục-giới.

Một thuở nọ, sau khi vị thiên-nam chết tại cõi trời dục-giới ấy, đại-thiện-nghiệp bố-thí trong đại-thiện-tâm cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) là đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai vào lòng Hoàng-hậu của Đức-vua trị vì tại kinh-thành Bārāṇasī.

Hoàng-hậu sinh hạ ra hoàng-tử khôi ngô tuấn tú. Khi hoàng-tử trưởng thành có tài thao lược.

Cho nên, sau khi Đức-Phụ-vương băng hà, triều đình làm hỏa táng xong, các quan trong triều làm lễ suy tôn hoàng-tử lên nối ngôi vua.

Đức-vua đem quân vây hãm 4 cửa kinh-thành

Sau khi lên ngôi làm vua, Đức-vua muốn đánh chiếm kinh-thành nước khác, được Mẫu-hậu cũng đồng tình, nên Đức-vua dẫn đầu kéo các đoàn quân lính đến bao vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành ấy. Đức-vua truyền cho sứ giả gửi tối-hậu-thư đến Đức-vua trong kinh-thành rằng:

“Hãy trao lại ngôi vua cho trẫm hoặc đánh nhau.”

Đức-vua trong kinh-thành trả lời rằng:

“Trẫm không trao ngôi vua, cũng không đánh nhau.”

 

Những người dân trong kinh-thành đi ra vào lấy củi, nước, các thứ cần thiết bằng các cửa nhỏ, làm được mọi công việc hằng ngày.

Đức-vua cùng với các đoàn quân lính bên ngoài bao vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành suốt 7 năm, 7 tháng.

Một hôm, Hoàng-thái-hậu của Đức-vua truyền hỏi rằng:

  • Này các khanh! Hoàng-tử của ta đang làm gì vậy?

Các quan tâu rằng:

  • Muôn tâu Hoàng-thái-hậu, Đức-vua truyền lệnh các đoàn quân lính bao vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành suốt 7 năm, 7 tháng rồi. Tâu Lệnh bà.

Nghe các quan tâu như vậy, Hoàng-thái-hậu quở trách rằng: “Hoàng-tử của ta còn khờ quá!”

Hoàng-thái-hậu truyền lệnh rằng:

  • Này các khanh! Các khanh hãy tâu với Hoàng-tử của ta rằng:

“Hãy đóng chặt các cửa nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành nữa.”

Tuân theo lệnh của Mẫu-hậu, Đức-vua truyền lệnh các đoàn quân đóng chặt các cửa nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành nữa.

  • Dân chúng trong kinh-thành không đi ra bên ngoài kinh-thành được, cảm thấy bực dọc, thiếu thốn mọi thứ, nên đến ngày thứ 7, dân chúng giết chết Đức-vua trong kinh-thành, rồi dâng ngôi vua cho Đức-vua bên ngoài.
  • Sau khi Đức-vua (tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali) băng hà, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại- địa-ngục Avīci, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, bị thiêu đốt suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác- nghiệp ấy.

 

  • Sau khi thoát khỏi cõi địa-ngục, đại-thiện-nghiệp (mà tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali đã tạo) cho quả tái- sinh đầu thai kiếp chót trong lòng Hoàng-hậu Suppavāsā (tiền-kiếp là mẫu-hậu của Đức-vua), thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) nằm trong bụng mẫu-hậu suốt 7 năm, 7 tháng và chịu thêm quả khổ của ác-nghiệp suốt 7 ngày, bị đau đớn đến cùng cực cả mẫu-hậu lẫn thai-nhi, bởi vì thai-nhi nằm ngang không sinh ra được.

Đến ngày thứ 7, Đức-Phật Gotama truyền dạy rằng:

“Sukhinī hotu Suppavāsā Koliyadhītā, sukhinī arogā arogaṃ puttaṃ vijāyatu.”

Sau khi truyền dạy xong, tại cung điện, hoàng-tử Sīvali sinh ra khỏi lòng mẫu-hậu một cách dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình vậy.

  • Thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) nằm trong bụng mẫu-hậu suốt 7 năm, 7 tháng, đó là quả của ác-nghiệp bao vây hãm 4 cửa kinh-thành của đất nước khác.
  • Thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) nằm ngang trong vòng 7 ngày không sinh ra được, đó là quả của ác-nghiệp tuân theo lệnh của mẫu-hậu đóng chặt các cửa nhỏ của kinh- thành, không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành, nên mẫu-hậu và thai-nhi (hoàng-tử Sīvali) cùng nhau chịu quả thống khổ của ác-nghiệp ấy suốt 7 ngày đêm.

Nghiệp và quả của nghiệp của Ngài Trưởng-lão Sīvali

  • Vô số tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Sīvali đã tích- lũy đầy đủ đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật hơn 100 ngàn đại-kiếp trái đất và lời phát nguyện được Đức- Phật Padumuttara quá-khứ thọ ký, nên đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật ấy cho quả kiếp hiện-tại hoàng- tử Sīvali trở thành bậc Thánh A-ra-hán là bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng

 

thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, đúng theo lời thọ ký của Đức-Phật Padumuttara.

  • Tiền-kiếp của hoàng-tử Sīvali là Đức-vua được mẫu-hậu đồng tình, nên dẫn các đoàn quân đến vây hãm 4 cửa lớn kinh-thành khác suốt 7 năm, 7 tháng, rồi nghe theo lệnh của mẫu-hậu đóng chặt các cửa nhỏ, cấm không cho dân chúng ra vào trong kinh-thành, suốt 7 ngày. Đức-vua chiếm được kinh-thành.
  • Hậu kiếp của Đức-vua, nay kiếp hiện-tại là Hoàng- tử Sīvali.
  • Hậu-kiếp của Mẫu-hậu, nay kiếp hiện-tại là Hoàng- hậu Suppavāsā.
  • Đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Hoàng-tử Sīvali, nên trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
  • Ác-nghiệp của Hoàng-tử Sīvali vây hãm kinh-thành nước khác suốt 7 năm 7 tháng và thêm 7 ngày, nên phải nằm trong bụng Mẫu-hậu suốt 7 năm 7 tháng thêm 7 ngày mới sinh ra đời.

Như vậy, nghiệp và quả của nghiệp theo định luật nhân quả, nhân nào thì có quả ấy.

Quả cùng chung nhau tạo ác-nghiệp

Ví dụ: Trong thời quá-khứ, tiền-kiếp của dòng họ Sakya đồng tâm cùng nhau tạo ác-nghiệp sát-sinh bỏ thuốc độc xuống dòng sông sát hại chúng-sinh lớn và nhỏ trong kiếp quá-khứ.

Kiếp hiện-tại của dòng họ Sakya phần đông là bậc Thánh-nhân đều bị tàn sát do Đức-vua Viṭaṭūbha ngự tại kinh-thành Sāvatthī, đất nước Kosala, đó là quả của ác- nghiệp sát-sinh mà tiền-kiếp của dòng họ Sakya đồng

 

tâm cùng nhau tạo ác-nghiệp sát-sinh bỏ thuốc độc xuống dòng sông sát hại chúng-sinh lớn và nhỏ trong kiếp quá khứ, dù Đức-Phật muốn cứu cũng không thể cứu được.

Tích Viṭaṭūbhavatthu(1) được tóm lược đoạn liên quan ác-nghiệp và quả của ác-nghiệp của dòng họ Sakya như sau:

Đức-vua Pasenadi Kosala ngự tại kinh-thành Sāvatthī, trị vì đất nước Kosala rộng lớn, muốn làm thân với dòng họ Sakya là thân quyến của Đức-Phật Gotama, nên gửi đoàn sứ giả đến yết kiến Đức-vua Mahānāma, xin cầu hôn với công chúa dòng Sakya.

Dòng Sakya họp bàn với nhau không muốn chấp thuận ban công chúa dòng Sakya kết hôn với người khác dòng, nhưng lại sợ uy thế của Đức-vua Pasenadi, chưa tìm ra phương cách đối xử với Đức-vua Pasenadi thế nào.

Đức-vua Mahānāma truyền bảo rằng: Trẫm có người con gái tên Vāsabhakhattiyā rất xinh đẹp sinh ra từ thị nữ của Trẫm. Chúng ta nên ban người con gái tên Vāsabhakhattiyā rất xinh đẹp ấy cho Đức-vua Pasenadi.

Mọi người trong dòng họ Sakya đều chấp thuận.

Đoàn sứ giả rước cô Vāsabhakhattiyā đem về dâng lên Đức-vua Pasenadi.

Nhìn thấy cô Vāsabhakhattiyā rất xinh đẹp, Đức-vua Pasenadi đem lòng yêu quý, nên tấn phong lên ngôi vị Chánh-cung Hoàng-hậu.

Về sau, Chánh-cung Hoàng-hậu Vāsabhakhattiyā sinh hạ Thái-tử Viṭaṭūbha. Khi Thái-tử Viṭaṭūbha còn trẻ, Đức-vua Pasenadi phong chức tể tướng.

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Pupphavagga, Tích Viṭaṭūbhavatthu.

 

Năm 16 tuổi, Thái-tử Viṭaṭūbha xin mẫu hậu cho phép đi thăm viếng hoàng tộc bên ngoại, mẫu hậu khuyên can không được, đành phải chấp thuận.

Thái-tử Viṭaṭūbha vào chầu Đức Phụ-vương tâu xin phép đi thăm viếng hoàng-tộc bên ngoại, Đức-vua Pasenadi cũng chấp thuận.

Thái-tử Viṭaṭūbha đi đến kinh-thành Kapilavatthu cùng với đoàn lính theo hầu, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Vāsabhakhattiyā đã gửi thư báo trước cho biết Thái-tử Viṭaṭūbha đi đến kinh-thành Kapilavatthu thăm viếng Hoàng-tộc Sakya.

Thái-tử Viṭaṭūbha được đón tiếp rất trọng thể tại cung điện. Đức-vua Mahānāma dòng họ Sakya là Đức-vua ngoại của Thái-tử Viṭaṭūbha.

Trong khoảng thời gian ở tại cung điện, Thái-tử Viṭaṭūbha được tiếp đãi ân cần, trải qua 2 - 3 ngày, Thái- tử Viṭaṭūbha cùng với đoàn lính thuộc hạ mới trở về kinh kinh-thành Sāvatthī.

Sau khi Thái-tử Viṭaṭūbha rời khỏi cung điện, nữ tỳ vào trong phòng khách trong cung điện, cằn nhằn nói xấu rằng: đây là chỗ mà đứa con trai của thị nữ Vāsabhakhattiyā ngồivừa nói lẩm bẩm vừa lấy nước trộn với sữa lau chùi chỗ ngồi ấy. Khi ấy, vị quan cận vệ để quên thanh gươm, nên trở lại phòng khách lấy thanh gươm, đứng nghe rõ lời lẩm bẩm, nên hỏi nữ tỳ để biết rõ sự thật bà Vāsabhakhattiyā là con gái của thị nữ và Đức-vua Mahānāma dòng họ Sakya.

Nghe vị quan cận vệ thưa lại sự việc xảy ra như vậy,

Thái-tử Viṭaṭūbha kết oan trái rằng:

“Dòng họ Sakya rửa chỗ ngồi của ta bằng nước trộn với sữa, sau này ta lên ngôi vua, ta sẽ cắt cổ dòng Sakya lấy máu rửa chỗ ngồi của ta.”

 

Khi Thái-tử Viṭaṭūbha trở lại kinh-thành Sāvatthī, các quan tâu sự việc này lên Đức-vua Pasenadi.

Đức-vua Pasenadi nổi giận dòng họ Sakya rằng:

Dòng họ Sakya ban cho ta người con gái của thị nữ và Đức-vua Mahānāma, nên Đức-vua Pasenadi thu lại những đồ trang sức đã ban cho bà Vāsabhakhattiyā với ngôi vị Chánh-cung Hoàng-hậu và Thái-tử Viṭaṭūbha, rồi chỉ ban lại những đồ trang sức đối với địa vị thị nữ và con trai của thị nữ mà thôi.

Sau đó, thời gian trải qua 2 - 3 ngày sau, Đức-Thế- Tôn ngự đến cung điện của Đức-vua Pasenadi.

Đức-vua Pasenadi đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, dòng họ Sakya của Đức- Thế-Tôn, ban cho con người con gái của thị nữ và Đức- vua Mahānāma, nên con đã thu lại những đồ trang sức đã ban cho Vāsabhakhattiyā với ngôi vị Chánh-cung Hoàng-hậu và Thái-tử Viṭaṭūbha, rồi chỉ ban lại những đồ trang sức đối với địa vị thị nữ và con trai của thị nữ mà thôi.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

  • Này Đại-vương, dòng họ Sakya đã đối xử với Đại- vương không hợp lý. Theo lệ thường, nên ban công chúa dòng Sakya tương xứng với Đại-vương.
  • Này Đại-vương! Thật ra Vāsabhakhattiyā là con của Đức-vua Mahānāma dòng họ Sakya, và Thái-tử Viṭaṭūbha là con của Đại-vương.

Đúng theo sự thật, bên mẹ không phải là quan trọng, chỉ có bên cha mới thật là quan trọng mà thôi.

Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Đức- vua Pasenadi vô cùng hoan hỷ biết được rằng:

 

Chỉ có bên cha mới thật là quan trọng mà thôi” nên Đức-vua Pasenadi truyền phong lại ngôi vị Chánh-cung Hoàng-hậu cho bà Vāsabhakhattiyā cùng những đồ trang sức Chánh-cung Hoàng-hậu và phong lại ngôi vị Thái-tử cho Viṭaṭūbha cùng với những đồ trang sức Thái-tử.

Về sau, Thái-tử Viṭaṭūbha được lên ngôi làm vua, Đức-vua Viṭaṭūbha nhớ lại sự oan trái với dòng họ Sakya, nên nghĩ rằng: “Ta sẽ tàn sát tất cả dòng họ Sakya.”

Đức-vua Viṭaṭūbha dẫn đầu đoàn binh lính đông đảo lên đường ngự đi đến kinh-thành Kapilavatthu.

Canh chót đêm ấy, Đức-Phật xem xét chúng-sinh nên tế độ, thấy dòng họ Sakya sẽ bị tàn sát, nên Đức-Phật nghĩ rằng: “Như-lai nên tế độ thân quyến dòng họ Sakya.” Đức-Phật từ ngôi chùa Jetavana bay đến ngồi dưới cội cây có bóng mát trống trải gần kinh-thành Kapilavatthu.

Nhìn thấy Đức-Phật ngồi tại dưới cội cây, Đức-vua Viṭaṭūbha ngự đến đảnh lễ Đức-Phật, rồi bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tại sao Đức-Thế-Tôn ngồi dưới cội cây có bóng mát trống trải này, lúc trời nắng như vậy, kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến cội cây da có bóng mát rậm rạp kia.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

  • Này Đại-vương! Chẳng có sao! Bóng mát của thân quyến dòng họ mới là mát thật sự.

Nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, Đức-vua nghĩ rằng: “ Đức-Thế-Tôn ngự đến ngồi tại đây để tế độ thân quyến dòng họ Sakya” nên Đức-vua đảnh lễ Đức-Phật, rồi lui quân trở về kinh-thành Sāvatthī.

 

Đức-Phật bay trở về ngôi chùa Jetavana.

Một thời gian sau, nhớ lại hận thù của dòng họ Sakya, lần thứ nhì Đức-vua Viṭaṭūbha dẫn đầu đoàn quân ngự đi đến kinh-thành Kapilavatthu. Nhìn thấy Đức-Thế-Tôn ngồi tại dưới cội cây, Đức-vua Viṭaṭūbha ngự đến đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi lui quân trở về kinh-thành Sāvatthī, như lần trước.

Lần thứ ba, Đức-vua Viṭaṭūbha lại dẫn đầu đem quân ngự đi đến kinh-thành Kapilavatthu. Nhìn thấy Đức-Phật ngồi tại dưới cội cây, Đức-vua Viṭaṭūbha ngự đến đảnh lễ Đức-Phật, rồi cũng lui quân trở về kinh-thành Sāvatthī, như hai lần trước.

Đến lần thứ tư, Đức-vua Viṭaṭūbha dẫn đầu đoàn quân ngự đi đến kinh-thành Kapilavatthu, để tàn sát dòng họ Sakya. Lần này, Đức-Phật thấy rõ, biết rõ tiền-kếp của dòng họ Sakya đồng tâm cùng nhau tạo ác-nghiệp sát- sinh bỏ thuốc độc xuống dòng sông sát hại chúng-sinh lớn và nhỏ trong kiếp quá khứ. Nay, ác-nghiệp sát-sinh ấy có cơ hội cho quả trong kiếp hiện-tại, nên không thể ngăn cản được. Lần này, Đức-Phật không bay đến ngồi tại dưới cội cây như 3 lần trước.

Dòng họ Sakya đều là cận-sự-nam, cận-sự-nữ giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn, phần đông là những bậc Thánh-nhân, Đức-vua Viṭaṭūbha ngự đi đến kinh-thành Kapilavatthu, truyền lệnh tàn sát mọi người trong dòng họ Sakya từ những người già đến những người trẻ, thậm chí những đứa trẻ còn bú sữa cũng không còn sót lại.

Sau khi tàn sát dòng họ của Sakya xong, Đức-vua Viṭaṭūbha kéo đoàn quân trở về đến con sông Aciravatī vào lúc ban đêm, Đức-vua Viṭaṭūbha truyền lệnh dựng trại bên bờ sông nghỉ đêm tại đó.

 

Đức-vua Viṭaṭūbha cùng với đoàn quân quá sức mệt nhừ, nằm xuống ngủ say. Đêm hôm ấy, một trận mưa lớn như đổ nước, nước chảy mạnh tràn bờ cuốn trôi Đức-vua Viṭaṭūbha cùng với đoàn quân ra biển cả.

Như vậy, Đức-vua Viṭaṭūbha cùng với đoàn quân đã tạo ác-nghiệp tàn sát toàn thể dòng họ Sakya cả già lẫn trẻ con không còn sót, nên Đức-vua Viṭaṭūbha cùng với đoàn quân đều bị nước lũ cuốn trôi ra biển cả, làm mồi cho cá.

 

* Tích Sāmāvatīvatthu(1) được tóm lược điểm chính như sau:

Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī của Đức-vua Udena cùng với nhóm 500 nữ tỳ, trong số người ấy có số là bậc Thánh Nhập-lưu, có số là bậc Thánh Nhất-lai, có số là bậc Thánh Bất-lai, đều bị chết thiêu đó là quả của ác-nghiệp của Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 nữ tỳ, do âm mưu thâm độc của bà Chánh- cung Hoàng-hậu Māgandhiyā của Đức-vua Udena.

Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Māgandhiyā thù ghét bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 nữ tỳ của Bà, bởi vì họ là những thanh-văn đệ-tử có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Đức-Phật Gotama.

Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Māgandhiyā của Đức- vua Udena đã sai bảo những người bà con thân quyến đến đốt cháy ngôi cung thất của bà Chánh-cung Hoàng- hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 nữ tỳ của bà, rồi chặn các cửa ra vào và các cửa sổ không để cho một người nào thoát ra khỏi.

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Appamādavagga, tích Sāmāvatīvatthu.

 

Sở dĩ, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī và nhóm 500 nữ tỳ đều bị chết thiêu là vì tiền-kiếp của những người ấy đã từng cùng nhau tạo ác-nghiệp trong thời quá-khứ như sau:

“Trong thời quá-khứ, Đức-vua Brahmadatta trị vì kinh-thành Bārāṇasī. Hằng ngày Đức-vua hộ độ cúng dường đến 8 Đức-Phật Độc-Giác.

Đức-vua truyền lệnh cho nhóm cung nữ gồm có một người nữ trưởng nhóm cùng với 500 cung nữ thuộc hạ thân tín lo hộ độ cúng dường đến 8 Đức-Phật Độc-Giác.

Khi ấy, 7 Đức-Phật Độc-Giác cùng ngự trở về núi Himavanta, còn một Đức-Phật Độc-Giác nhập diệt thọ tưởng suốt 7 ngày đêm trong đống cỏ gần bên bờ sông. Cho nên, nhóm cung nữ được rảnh rỗi.

Một hôm, Đức-vua cho phép nhóm cung nữ đi tắm sông, mải ham chơi dưới nước, khi lên bờ cảm thấy lạnh, nhóm cung nữ liền đến đống cỏ đốt lửa sưởi ấm, đến lúc đống cỏ cháy tàn rụi, họ mới phát hiện thấy Đức-Phật Độc-Giác đang ngồi nhập diệt-thọ-tưởng trong đống cỏ.

Vì sợ bị Đức-vua trị tội, nên nhóm cung nữ bàn tính cùng nhau đi tìm củi đem đến chất thành đống thiêu rụi Đức-Phật Độc-Giác, để không còn tang chứng, nhưng do năng lực nhập diệt-thọ-tưởng của Đức-Phật Độc- Giác, nên lửa không thể thiêu rụi Đức-Phật Độc-Giác được, đến ngày thứ 7, Đức-Phật Độc-Giác xả diệt-thọ- tưởng trở lại cuộc sống bình thường.

Như vậy, ban đầu nhóm cung nữ đốt cỏ để sưởi ấm không có tác-ý sát-sinh, nhưng sau đó, có tác-ý thiêu rụi Đức-Phật Độc-Giác, họ có tác-ý sát-sinh, cùng nhau tạo ác-nghiệp sát-sinh không đủ chi-pháp (bởi vì Đức-Phật Độc-Giác không chết).

 

Sau khi nhóm cung nữ chết, ác-nghiệp thiêu đốt Đức- Phật Độc-Giác ấy nhưng không chết, đã tạo ác-nghiệp không đủ chi-pháp cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, bị thiêu đốt suốt nhiều ngàn năm.

Sau khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, đại-thiện-nghiệp khác cho quả tái-sinh làm người, thường bị chết thiêu hằng trăm kiếp như vậy.

Nay kiếp hiện-tại này, bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 nữ tỳ của bà là hậu-kiếp của nhóm 500 cung nữ trong thời quá khứ ấy, tất cả đều bị chết thiêu.

Đó là quả xấu của ác-nghiệp thiêu đốt Đức-Phật Độc- Giác không chết trong thời quá khứ ấy.

* Trường hợp những người nào chết cùng một lúc do bởi thiên tai hoặc tai nạn xảy ra, những người ấy đã từng tạo ác-nghiệp giống nhau hay không, điều ấy không thể biết được, nhưng sự sinh, sự tử đều do quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh.

Thiện-nghiệp thì cho quả an-lạc. Ác-nghiệp thì cho quả khổ.

Như câu kệ dạy về nghiệp và quả của nghiệp rằng:

“Yādisaṃ vapate bījaṃ, tādisaṃ harate phalaṃ. Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ, pāpakārī ca pāpakaṃ.”(1)

Người nào gieo hạt giống thế nào, Người ấy gặp quả như thế ấy.

Người hành thiện thì được quả thiện, Người hành ác thì chịu quả ác.

Bậc thiện-trí có trí-tuệ sáng suốt tin nghiệp và quả của nghiệp của mình và cũng tin nghiệp và quả của nghiệp

1 Bộ Samyuttanikāya, phần Sagāthavagga, Kinh Samuddakasutta.

 

của người, của tất cả chúng-sinh lớn hoặc nhỏ, nên đại- thiện-tâm phát sinh suy xét đúng đắn về nghiệp đối với tất cả chúng-sinh rằng:

“Sabbe sattā kammassakā.” Tất cả mọi chúng-sinh đều có nghiệp là của riêng mình, hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp của họ hoặc chịu quả khổ của ác-nghiệp của họ.

Cho nên, mỗi người chúng ta nên biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, nếu không muốn quả khổ của ác- nghiệp thì nên tránh xa mọi ác-nghiệp và nếu muốn hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp thì mỗi người chúng ta nên tự lựa chọn tạo thiện-nghiệp nào theo khả năng của mình. Đó là điều mà mỗi người chúng ta có quyền hoàn toàn chủ động tự lựa chọn tạo nghiệp nào, rồi tạo nghiệp ấy chỉ thuộc về của riêng mình mà thôi.

Khi nghiệp nào của mình có cơ hội cho quả của nghiệp ấy, mỗi người chúng ta hoàn toàn bị động chấp nhận như người thừa kế quả của nghiệp ấy của mình mà thôi, hoàn toàn không có quyền từ khước được.

(Xong phần nội dung của nghiệp và quả của nghiệp)

 

Đoạn Kết

Đức-Phật dạy các hàng thanh-văn đệ-tử hằng ngày nên suy xét về nghiệp và quả của nghiệp rằng:

“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma- bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi.”(1)

Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta; ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’ ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp ấy hoặc quả khổ của ác-nghiệp ấy.

* Đức-Phật dạy về kamma: nghiệp rằng:

Kammassako’mhi: Ta có nghiệp là của riêng ta nghĩa là ta đã tạo đại-thiện-nghiệp nào hoặc ác-nghiệp nào rồi, đại-thiện-nghiệp ấy hoặc ác-nghiệp ấy là của riêng ta, hoàn toàn không phải của chung với ai khác.

Mỗi chúng-sinh trong muôn loài cũng đều có nghiệp là của riêng họ cũng như thế ấy.

Thật ra, ngoài nghiệp của riêng ta ra, còn những thứ của cải tài sản, nhà cửa, đất đai nào trong đời không phải là của riêng ta thật sự, thậm chí ngay cả thân này, ta cũng không thể làm chủ được, huống hồ những thứ của cải tài sản bên ngoài thân này.

Tất cả của cải tài sản nhà cửa, đất đai, … đều là của chung, nếu người nào có quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí nào tốt, thì người ấy tạm thời làm chủ tài sản nhà cửa,

1Aṅg. phần Pañcakanipāta, kinh Abhiṇhapaccavekkhitabbaṭhānasutta.

 

đất đai, …lâu hoặc mau tuỳ theo thời hạn cho quả của

đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy.

* Đức-Phật dạy về quả của nghiệp rằng:

“…tassa dāyādo bhavissāmi.” Ta sẽ là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp ấy hoặc chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, như là người thừa kế (dāyādo).

Đối với loài người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này, nếu chủ nhân nào có đại-thiện-nghiệp nào gặp thuận- duyên (sampatti) thì có cơ hội cho quả an-lạc của đại- thiện-nghiệp ấy, nên chủ nhân ấy hưởng được mọi an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy của mình, như là người thừa kế (dāyādo) quả của đại-thiện-nghiệp ấy với thời gian lâu hoặc mau tùy theo quả của đại-thiện-nghiệp ấy.

Và nếu chủ-nhân nào có ác-nghiệp nào gặp nghịch- duyên (vipatti) thì có cơ hội cho quả khổ, nên chủ nhân ấy phải chịu quả khổ của ác-nghiệp của mình, như là người thừa kế (dāyādo) quả của ác-nghiệp ấy với thời gian lâu hoặc mau tuỳ theo quả của ác-nghiệp ấy.

- Mỗi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng, đều không có số-mệnh hoặc định-mệnh của mình, mà chỉ có nghiệp và quả của nghiệp của mình mà thôi.

Giả sử, nếu mỗi chúng-sinh có số-mệnh, có định- mệnh của mình thật sự, thì ai có khả năng định sẵn an bài số-mệnh, định-mệnh của mỗi chúng-sinh lớn và nhỏ trong 4 loài chúng-sinh, trong tam-giới gồm có 31 cõi- giới chúng-sinh này được???

Thật ra, nếu người nào tin nghiệp và quả của nghiệp của mình, thì người ấy chắc chắn không còn tin vào số- mệnh hoặc định-mệnh nào cả, bởi vì không có số- mệnh hoặc định-mệnh nào đã được an bài đối với mỗi chúng-sinh lớn nhỏ trong tam-giới.

 

Thật ra, mỗi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại này, mỗi kiếp đã tạo vô số đại-thiện-nghiệp và vô số ác-nghiệp dù nghiệp nặng, dù nghiệp nhẹ cũng đều được lưu trữ đầy đủ trọn vẹn ở trong tâm, không hề bị mất mát một mảy may nào cả.

Tính chất của mỗi đại-thiện-nghiệp, mỗi ác-nghiệp

  • Mỗi đại-thiện-nghiệp ấy nếu gặp thuận-duyên (sampatti) thì có cơ hội cho quả tốt, quả an-lạc ngay trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất).
  • Sau khi chủ-nhân ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy có cơ hội thì cho quả tái-sinh kiếp sau (kiếp thứ nhì) trong cõi thiện-dục-giới.
  • Đại-thiện-nghiệp ấy nếu gặp thuận-duyên (sampatti) thì có cơ hội cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.
  • Mỗi ác-nghiệp ấy gặp nghịch-duyên (vipatti) thì có cơ hội cho quả xấu, quả khổ ngay trong kiếp hiện-tại (kiếp thứ nhất).
  • Sau khi chủ-nhân ấy chết, nếu ác-nghiệp ấy có cơ hội thì cho quả tái-sinh kiếp sau (kiếp thứ nhì) trong cõi cõi ác-giới.
  • Ác-nghiệp ấy nếu gặp nghịch-duyên (vipatti) thì có cơ hội cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn.

Bậc thiện-trí có kammassakatā sammādiṭṭhi: chánh- kiến sở nghiệp, tin nghiệp và quả của nghiệp của mình, và tin nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh, nên bậc thiện-trí nhận thức đúng đắn rằng:

 

“Không có sự bất công thật sự trong đời này.”

Bởi vì, kiếp hiện-tại của mỗi chúng-sinh nào đều bị chi phối do nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng- sinh ấy. Tuy nhiên, nghiệp và quả của nghiệp có thời gian mãn nghiệp ấy, hoàn toàn không phải là định-mệnh hoặc số-mệnh đã được an bài đối với mỗi chúng-sinh.

Tất cả mọi người trong đời đều có quyền hoàn toàn chủ động tự lựa chọn tạo thiện-nghiệp nào theo khả năng của mình, và cũng có quyền hoàn toàn chủ động không tạo ác-nghiệp hoặc tạo ác-nghiệp theo khả năng của mình.

Nếu đã tạo nghiệp nào rồi, nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì chủ-nhân của nghiệp ấy hoàn toàn bị động, không có quyền phủ nhận quả của nghiệp của mình, mà phải chấp nhận như là người thừa kế (dāyādo) quả của nghiệp ấy.

  • Nếu ác-nghiệp nào gặp nghịch-duyên (vipatti) có cơ hội, thì cho quả xấu, quả khổ của ác-nghiệp ấy, làm cho chủ nhân của ác-nghiệp ấy phải chịu bao nhiêu nỗi khổ trong cuộc sống,
  • Nếu đại-thiện-nghiệp nào gặp thuận-duyên (sampatti) có cơ hội, thì cho quả tốt, quả an-lạc của đại-thiện- nghiệp ấy, làm cho chủ nhân của đại-thiện-nghiệp ấy được hưởng mọi sự an-lạc thuận lợi trong cuộc sống.

Nghiệp và quả của nghiệp thật là công bằng, không hề thiên vị một ai cả.

Người nào nghĩ rằng:

“Có sự bất công thật sự trong đời này.”

Bởi vì người ấy chỉ thấy, chỉ biết nghiệp trong kiếp hiện-tại mà thôi, họ không có kammassakatā sammā-

 

diṭṭhi: chánh-kiến sở nghiệp, không tin nghiệp và quả của nghiệp của mình, và không tin nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh.

Sự thật, nghiệp và quả của nghiệp là 1 trong 4 điều bất khả tư nghì mà Đức-Phật thuyết dạy trong bài kinh Acinteyyasutta(1) rằng:

  • “Này chư tỳ-khưu! Có 4 điều bất-khả tư-nghì này không nên suy nghĩ, nếu người nào suy nghĩ thì người ấy sẽ trở thành người loạn trí, điên cuồng, làm khổ não. 4 điều bất khả tư nghì là:
  1. Năng lực trí-tuệ phi thường của Đức-Phật đó là điều bất khả tư nghì, không nên suy nghĩ, nếu người nào suy nghĩ thì người ấy sẽ trở thành người loạn trí, điên cuồng, làm khổ não.
  2. Năng lực phi thường của thiền-định, phép thần- thông đó là điều bất khả tư nghì, không nên suy nghĩ, nếu người nào suy nghĩ thì người ấy sẽ trở thành người loạn trí, điên cuồng, làm khổ não.
  3. Nghiệp và quả của nghiệp đó là điều bất khả tư nghì, không nên suy nghĩ, nếu người nào suy nghĩ thì người ấy sẽ trở thành người loạn trí, điên cuồng, làm khổ não.
  4. Suy nghĩ về tạo nên cõi-giới này đó là điều bất khả tư nghì, không nên suy nghĩ, nếu người nào suy nghĩ thì người ấy sẽ trở thành người loạn trí, điên cuồng, làm khổ não.
  • Này chư tỳ-khưu! 4 điều bất khả tư nghì này không nên suy nghĩ, nếu người nào suy nghĩ thì người ấy sẽ trở thành người loạn trí, điên cuồng, làm khổ não.”

1Aṅguttaranikāya, phần Catukkanipātapāḷi, kinh Acinteyyasutta.

 

Chỉ có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ đặc biệt thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh trong kiếp hiện-tại, vô số kiếp quá-khứ và vô số kiếp vị-lai mà thôi.

Ngoài Đức-Phật ra, các bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đều không có khả năng thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp của mình, và của chúng-sinh khác được.

Tuy nhiên, bộ Chú-giải Therāpadāna, Therī apadāna, chư Thánh A-ra-hán tự thuật lại tiền-kiếp hạn chế của mỗi Ngài đã từng tạo các đại-thiện-nghiệp gọi là các pháp-hạnh ba-la-mật từ thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác trong thời quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại trở thành bậc Thánh A-ra-hán trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

 

Patthanā

Iminā puññakammena, sukhī bhavāma sabbadā. Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo, loke sattā sumaṅgalā.

Vietnam-raṭṭhikā sabbe ca, janā pappontu sāsane. Vuḍḍhiṃ viruḷhivepullaṃ, patthayāmi nirantaraṃ.

Lời cầu nguyện

Do nhờ phước-thiện thanh cao này, Cho chúng con thường được an-lạc.

Cầu mong chánh-pháp được trường tồn, Tất cả chúng-sinh được hạnh-phúc.

Dân tộc Việt Nam được phát triển, Tiến hóa hưng thịnh trong Phật-giáo. Bần sư cầu nguyện với tâm thành,

Hằng mong được thành tựu như nguyện.

Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo lokasmiṃ

Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo Vietnamraṭṭhasmiṃ.

Cầu nguyện chánh-pháp được trường tồn trên thế gian, Cầu nguyện chánh-pháp được trường tồn trên Tổ-quốc Việt-Nam thân yêu.

 

PL. 2561 / DL. 2017

Rừng Núi Viên-Không xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

 

Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu)

(Aggamahāpaṇḍita)

 

 

 

SÁCH THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

 

  • Vinayapiṭakapāḷi và Aṭṭhakathāpāḷi.
  • Suttantapiṭakapāḷi và Aṭṭhakathāpāḷi.
  • Abhidhannapiṭakapāḷi và Aṭṭhakathāpāḷi.
  • Bộ Abhidhammatthasaṅgaha của Ngài Đại-Trưởng- Lão Anuruddha.
  • Bộ Visuddhimagga và bộ Visuddhimaggamahāṭīkā.
  • Toàn bộ Mahābuddhavaṃsa của Ngài Đại-Trưởng- Lão Vicittasārābhivaṃsa (Visiṭṭhatipiṭakadhara, Mahātipiṭakakovida, Dhammabhaṇdāgārika).
  • Toàn bộ sách giáo khoa Paramatthajotika của

Ngài Đại-Trưởng-Lão Saddhammajotika.

  • Toàn bộ sách Ledi của Ngài Đại-Trưởng-Lão Ledi Sayadaw, v.v...

 


CÙNG MỘT SOẠN GIẢ

 

Đã xuất bản:

  • TÌM HIỂU PHÁP-HÀNH THIỀN-TUỆ (Tái Bản)
  • 8 SỰ TÍCH PHẬT LỰC
  • Hạnh Phúc An Lành: THIỆN ÁC
  • GƯƠNG BẬC XUẤT-GIA
  • TÌM HIỂU PHƯỚC BỐ-THÍ (Tái Bản)
  • Hạnh Phúc An Lành: HIẾU NGHĨA
  • Hạnh Phúc An Lành: NHẪN NẠI
  • Hạnh Phúc An Lành: GIÁO-PHÁP
  • Hạnh Phúc An Lành: TÂM TỪ
  • PHÁP MÔN NIỆM ÂN-ĐỨC-PHẬT (Tái Bản)
  • Thực-Hành Pháp-Hành Thiền-Tuệ: ĐỐI-TƯỢNG TỨ OAI-NGHI
  • CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT KHỔ
  • Ý NGHĨA ĐÊM RẰM THÁNG
  • BÀI KINH CHO NGƯỜI BỆNH
  • LỄ DÂNG Y KATHINA
  • ĐỨC-PHẬT VỚI CÂY ĐẠI-BỒ-ĐỀ
  • NGÔI BẢO THÁP GOTAMACETIYA
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo: 10 PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT BẬC THƯỢNG
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo: TRÍ -TUỆ SIÊU-VIỆT
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo: CẨM NANG QUY-Y TAM-BẢO
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển I: TAM-BẢO (Tái Bản)
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển II: QUY-Y TAM- BẢO (Tái Bản)
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển III: PHÁP-HÀNH-GIỚI (Tái Bản)
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển IV: NGHIỆP QUẢ CỦA NGHIỆP
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển V: PHƯỚC-THIỆN
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VI: PHÁP HẠNH BA-LA- MẬT Tập 1
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VI: PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT Tập 2
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VI: PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT Tập 3
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VII: PHÁP-HÀNH THIỀN-ĐỊNH
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VII: PHÁP-HÀNH THIỀN-TUỆ
  • VI-DIỆU-PHÁP HIỆN THỰC TRONG CUỘC SỐNG
  • NGŨ-GIỚI LÀ THƯỜNG GIỚI CỦA MỌI NGƯỜI

 

NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO

QUYỂN IV

NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA NGHIỆP

TỲ-KHƯU HỘ-PHÁP

*********************

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

53 Tràng Thi - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội

ĐT: 24-3782 2845 – FAX: 24-3782 2841

Email: [email protected]

Chịu trách nhiệm xuất bản Giám đốc - Tổng biên tập NGUYỄN CÔNG OÁNH

Biên tập

NGUYỄN THỊ THANH THỦY

 

Sửa bản in

TỲ-KHƯU HỘ-PHÁP

Trình bày & Vi tính

DHAMMANANDĀ Upāsikā

Địa chỉ liên lạc và phát hành

CHÙA TBỬU LONG

81/1, Đường Nguyễn Xiển, Long Bình, Quận 9, TP. Hồ Chí Minh

ĐT: +84 - 28 3503 2387 / DĐ: +84 1228608925

E-mail: [email protected]

 
   
 

 

Số lượng in: 1.000 bản, Khổ 13.5 x 20.5 cm,

In tại: Xí nghiệp In Nguyễn Minh Hoàng, 510 Trường Chinh, phường 13, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

Số ĐKXB:3670 2017/CXBIPH/01 246/TG

ISBN:978-604-61-5135-7

QĐXB: 614/QĐ-NXBTG Ngày 31 tháng 10 năm 2017 In xong và nộp lưu chiểu quý IV năm 2017.

Giá: 80.000 Ð

 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications