Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
NTPG.Q02.B07 Lễ Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo
Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo là lễ tất yếu đầu tiên đối với các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama. Để trở thành sa-di, giới-tử dưới 20 tuổi cần phải thành-tựu lễ thọ phép quy-y Tam-bảo, Để trở thành tỳ-khưu, giới-tử trên 20 tuổi đã thành- tựu lễ thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo xin xuất gia trở thành tỳ-khưu, Để trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ, người ấy cần phải thành-tựu lễ thọ phép quy-y Tam-bảo.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:6024

Các tên gọi khác

Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo là lễ tất yếu đầu tiên đối với các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama. Để trở thành sa-di, giới-tử dưới 20 tuổi cần phải thành-tựu lễ thọ phép quy-y Tam-bảo, Để trở thành tỳ-khưu, giới-tử trên 20 tuổi đã thành- tựu lễ thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo xin xuất gia trở thành tỳ-khưu, Để trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ, người ấy cần phải thành-tựu lễ thọ phép quy-y Tam-bảo.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
NTPG.Q02.B07 Lễ Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo

Lễ Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo

Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo là lễ tất yếu đầu tiên đối với các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

  • Để trở thành sa-di, giới-tử dưới 20 tuổi cần phải thành-tựu lễ thọ phép quy-y Tam-bảo,
  • Để trở thành tỳ-khưu, giới-tử trên 20 tuổi đã thành- tựu lễ thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo xin xuất gia trở thành tỳ-khưu,
  • Để trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ, người ấy cần phải thành-tựu lễ thọ phép quy-y Tam-bảo.

Tuy nhiên, trong trường-hợp đặc biệt vị tỳ-khưu được Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu theo cách gọi “Ehi Bhikkhu!” thì không qua lễ thọ phép quy-y Tam-bảo.

Nghi Thức Lễ Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Ngũ-Giới

  • Thời xưa, theo kinh sách ghi lại, người ta đến lắng nghe Đức-Phật thuyết-pháp xong, rồi phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tự nguyện kính xin quy-y Tam- bảo, có Đức-Phật chứng minh và kính xin Đức-Phật công nhận:
  • Nếu là người nam thì kính xin Đức-Phật công nhận là cận-sự-nam (upāsaka).
  • Nếu là người nữ thì thì kính xin Đức-Phật công nhận là cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời, trọn kiếp. Còn ngũ-giới là thường giới của                        con        người.

 

Còn bát-giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla, … thì người cận-sự-nam, cận-sự-nữ tự nguyện thọ trì giới trong những ngày giới hằng tháng riêng biệt.

  • Thời nay, lễ thọ phép quy-y Tam-bảo phổ thông thường theo sau là thọ trì ngũ-giới, hoặc bát-giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla, tuỳ theo ý- nguyện số đông người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ.
Cho nên, lễ xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới hoặc bát giới, v.v… cùng một lúc đã trở thành một nghi lễ phổ thông theo truyền thống trong các nước Phật-giáo Theravāda.

Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo có một tầm rất quan trọng * đối với người nào chưa từng thọ phép quy-y Tam-bảo, nay thành tựu phép quy-y Tam-bảo xong, ngay khi ấy, người ấy chính thức trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo, kể từ lúc đó cho đến trọn đời.

  • Đối với người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự- nữ (upāsikā) đã từng thành tựu phép quy-y Tam-bảo, nay mỗi lần xin thọ phép quy-y Tam-bảo, thì lại làm cho phép quy-y Tam-bảo càng thêm vững chắc, làm tăng trưởng đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo trong kiếp hiện- tại, và để tạo phước duyên cho những kiếp vị-lai.

thọ trì ngũ-giới thường-giới (niccasīla) của người tại gia nói chung, đối với người cận-sự-nam, cận- sự-nữ nói riêng. Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn hoàn toàn, giúp hỗ trợ phép quy-y Tam-bảo được hoàn toàn trong sạch, không bị ô nhiễm do bởi phiền-não.

Do đó, xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ- giới cùng một lúc là hai phước-thiện rất cao quý.

 

Lễ Sám Hối Tam-Bảo

Lễ sám hối Tam-bảo là một điều rất cần thiết trước khi xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới, v.v…

Trong đời sống hằng ngày, đối với hạng phàm-nhân còn có đầy đủ phiền-não, nên thân, khẩu, ý khó tránh khỏi phạm những sai lầm với Tam-bảo, do cố ý hoặc vô ý. Nếu đã phạm lỗi lầm rồi, thì thân, khẩu, ý không còn trong sạch, do bị ô nhiễm bởi phiền-não.

Muốn cho thân, khẩu, ý được trong sạch thanh-tịnh, thì chỉ có cách sám hối tội-lỗi của mình, rồi cố gắng giữ gìn, không để tái phạm nữa. Khi đại-thiện-tâm phát sinh có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, khi ấy nên xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới, v.v…

Cũng như theo lẽ thường, người ta muốn mặc một bộ quần áo mới đẹp sang trọng, trang điểm những đồ trang sức quý giá như kim cương, hột xoàn, ngọc maṇi, … Điều trước tiên, người ta cần phải tắm rửa cho thân hình sạch sẽ, sau đó, mới mặc quần áo mới đẹp sang trọng, rồi trang điểm những đồ trang sức quý giá ấy.

Đó là thuộc về phần thân bên ngoài.

Còn về phần tâm bên trong, muốn thỉnh Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo ngự vào trong tâm của mình, điều trước tiên, phải nên làm cho tâm của mình trở nên trong sạch thanh-tịnh, bằng cách sám hối những lỗi lầm với Tam-bảo. Khi đại-thiện-tâm trở nên trong sạch thanh-tịnh, khi ấy mới nên xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới, v.v...

Theo truyền thống của người Myanmar (Miến-Điện), từ khi còn nhỏ, cha mẹ đã dạy con học thuộc lòng bài sám hối Tam-bảo, cho nên trong những buổi lễ dù nhỏ, dù lớn thuộc về Phật-giáo, như lễ làm phước-thiện bố-

 

thí, lễ nghe thuyết pháp, ngày giới “uposathasīla” hằng tháng, thậm chí kể cả hằng ngày, lễ bái Tam-bảo, …

Trước tiên, mọi người đều đồng thanh đọc bài sám hối Tam-bảo, tiếp theo mới xin thọ phép quy-y Tam-bảo ngũ-giới hoặc bát-giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla, … trở thành một phong tục tập quán theo truyền thống từ xưa cho đến nay.

Nhận xét thấy truyền thống lễ sám hối Tam-bảo của người Myanmar (Miến-Điện) đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cả trong kiếp hiện-tại lẫn trong kiếp vị-lai. Do đó, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, nên bắt chước để trở thành một truyền thống tốt lành trong Phật-giáo.

Bài Sám Hối Tam-Bảo

Trong các buổi lễ dù nhỏ, dù lớn, có một người hoặc nhiều người hết lòng thành kính đảnh lễ Tam-bảo xong, trước sự hiện diện của chư tỳ-khưu Tăng (hoặc một vị tỳ-khưu), tất cả mọi người đều đồng thanh đọc bài sám hối Tam-bảo.

Bài sám hối của người Myanmar đại ý như sau:

- Kính bạch Ngài Đại-đức, xin phép Ngài Đại-đức, chúng con xin thành tâm sám hối những lỗi lầm do thân hành ác, khẩu nói ác, ý nghĩ ác của chúng con đã xúc phạm đến Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo cao thượng, đến ông bà, cha mẹ, Thầy tổ, những bậc ân nhân tôn kính, từ trước đến hiện-tại này. Từ nay về sau, chúng con cố gắng hết sức mình, thu thúc giữ gìn không để tái phạm.

Kính xin Ngài Đại-đức chứng minh và nhận biết những lỗi lầm, mà chúng con thành tâm sám hối, do nhờ tác-ý trong đại-thiện-tâm sám hối này hỗ-trợ cho chúng con được thành-tựu:

 

  • Cầu mong được tránh khỏi tái-sinh bốn cõi ác-giới, không gặp phải ba nạn tai, không sinh trong tám cõi bất lợi, không gặp năm nạn bại-sản trong cả mọi thời, mọi kiếp tử sinh luân-hồi.
  • Cầu mong sớm chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Nội Dung Bài Sám Hối Tam-Bảo

Sự ích lợi của sự sám hối lỗi lầm, cốt để ngăn mọi ác- nghiệp không có cơ hội cho quả, để cho mọi thiện- nghiệp có cơ hội cho quả.

Cầu mong sớm chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

Giải thích:

  • Thân-hành-ác 3 điều sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm.
  • Khẩu-nói-ác có 4 điều là nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích.
  • Ý-nghĩ-ác có 3 điều là tâm tham-lam, tâm thù-hận, tâm tà-kiến.
  • 4 cõi ác-giới địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh.
  • 3 nạn tai nạn bom đạn chiến tranh, nạn dịch bệnh truyền nhiễm, nạn chết đói.
  • 8 cõi bất lợi là chúng-sinh ở trong 8 nơi không thể thực-hành phạm-hạnh cao thượng, không thể chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn đó là:
  1. Chúng-sinh ở trong cõi địa-ngục.
  2. Chúng-sinh là loài súc-sinh.
  3. Chúng-sinh là loài ngạ-qủy.
  4. Phạm-thiên ở trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên, và phạm-thiên phàm ở trong cõi vô-sắc-giới.
  5. Dân chúng sống vùng hẻo lánh không có Phật-giáo.

 

  1. Người sinh trưởng trong gia đình ngoại đạo tà-kiến.
  2. Người khuyết tật câm-điếc.
  3. Người có trí-tuệ ở nơi không gặp được Đức-Phật hoặc chư tỳ-khưu Tăng.
  • 5 nạn bại-sản:
  1. Nạn nước lụt phá hủy của cải tài sản.
  2. Nạn lửa cháy thiêu hủy của cải tài sản.
  3. Nạn kẻ trộm cướp chiếm đoạt của cải tài sản.
  4. Nạn Vua tàn bạo chiếm đoạt của cải tài sản.
  5. Nạn con cái hư đốn làm tiêu tan của cải tài sản, ...

Lời Chúc Lành

Sau khi mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ xin phép làm lễ sám hối Tam-bảo xong, Ngài Đại-Trưởng-lão thay mặt chư tỳ-khưuTăng chúc lành đến họ.

Lời chúc lành của mỗi Ngài Đại-Trưởng-lão (hoặc Ngài Trưởng-lão, hoặc vị tỳ-khưu) về lời lẽ không giống nhau, song về ý thì đều giống nhau. Quý Ngài thường cầu chúc cho tất cả người cận-sự-nam, cận-sự-nữ được thành tựu như ý mong ước của mình.

Chư Phật Độc-Giác thường cầu chúc rằng:

Icchitaṃ patthitam tumhaṃ, Khippameva samijjhatu.

Điều mong ước, ý nguyện của các con, Cầu chúc sớm được thành tựu như ý.

Mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đều hoan hỷ đồng thanh nói lên lời:

Sādhu! Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Lễ Xin Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Ngũ-Giới

Tiếp theo người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đọc lời xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới như sau:

 

  • Ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
  • Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
  • Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.

Nghĩa:

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới. Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con.
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới. Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới cho con, lần thứ nhì.
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới. Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới cho con, lần thứ ba.
Trên đây là nghi thức lễ xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới phổ thông trong nước Myanmar (Miến-Điện) đã trở thành truyền thống từ xưa cho đến nay.

Phật-Giáo Nguyên-Thủy Tại Việt-Nam

Phật-giáo Nguyên-thủy Theravāda tại Viêt-Nam do Ngài Đại-Trưởng-lão Hộ-Tông Vị Sơ Tổ có công lớn cùng với chư Đại-Trưởng-lão khác. Ngài Sơ Tổ đã dịch và ấn hành nhiều sách, nhiều kinh tụng hằng ngày cho sa-di, tỳ-khưu, cận-sự-nam, cận-sự-nữ.

 

Trong những bài kệ lễ bái Tam-bảo, có 3 bài kệ sám hối Tam-bảo và có 3 bài kệ khẳng định không quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo mà thôi.

Những bài kệ này có thể đem sử dụng vào trong trường hợp trước khi thọ phép quy-y Tam-bảo và sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới hoặc bát-giới uposatha- sīla, hoặc cửu-giới uposathasīla thì thật là hợp thời.

  • Ba Bài Kệ Sám Hối Tam-Bảo

Trước khi xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới (hoặc bát-giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla,

…) các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ sám hối Tam-bảo: sám hối Đức-Phật-bảo, sám hối Đức- Pháp-bảo, sám hối Đức-Tăng-bảo, để làm cho tâm của mình trở nên trong sạch thanh-tịnh, rồi xin thọ phép quy- y Tam-bảo và ngũ-giới thì thật là hợp thời.

  • Ba Bài Kệ Khẳng Định Quy-Y Tam-Bảo

Và sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới,… xong rồi, các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, mà chỉ có quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo mà thôi, để làm cho tăng trưởng đức- tin càng thêm vững chắc, thì cũng thật là hợp thời.

Nghi Thức Lễ Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Ngũ-Giới

Trong các buổi lễ dù nhỏ, dù lớn, dù có một người hoặc nhiều người, trước sự hiện diện chứng minh của Ngài Đại-Trưởng-lão, hoặc Ngài Trưởng-lão, hoặc vị tỳ- khưu, sa-di, hoặc người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ là bậc thiện-trí hiểu biết giáo-pháp của Đức-Phật Gotama,

 

hoặc trước cội Đại-Bồ-đề, hoặc trước ngôi Bảo-tháp, hoặc trước bàn thờ Đức-Phật, …

Trước tiên, thành kính đảnh lễ Tam-bảo xong, rồi các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh đọc ba bài kệ sám hối Tam-bảo.

  1. Bài Kệ Sám Hối Đức-Phật-Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

(Út-tá-măn-ghê-ná voanh-đê-hăng)

Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.

(Pa-đá-păng-xung vóa-rút-tá-măng)

Buddhe yo khalito doso,

(Bút-thê dô khá-lí-tô đô-xô)

Buddho khamatu taṃ mama.(*) (Bút-thô khá-má-tú tăng má-má) Nghĩa:

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Phật-bảo, Cúi xin Đức-Phật-bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

  1. Bài Kệ Sám Hối Đức-Pháp-Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

(Út-tá-măn-ghê-ná voanh-đê-hăng)

Dhammañca duvidhaṃ varaṃ. (Thăm-măn-chá đú-ví-thăng vóa-răng) Dhamme yo khalito doso,

(Thăm-mê dô khá-lí-tô đô-xô) Dhammo khamatu taṃ mama.(*) (Thăm-mô khá-má-tú tăng má-má)

Nghĩa:

 
   
 

 

* Ba bài kệ này trong quyển “Nhật Hành Cư-sĩ” của Tổ Hộ-Tông.

 

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai hạng Đức-Pháp-bảo: Pháp học và pháp-hành, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Pháp-bảo,

Cúi xin Đức-Pháp-bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

  1. Bài Kệ Sám Hối Đức-Tăng-Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

(Út-tá-măn-ghê-ná voanh-đê-hăng)

Saṃghañca duvidhuttamaṃ. (Xăng-khăng-chá đú-ví-thút-tá-măng) Saṃghe yo khalito doso,

(Xăng-khê dô khá-lí-tô đô-xô)

Saṃgho khamatu taṃ mama.(*)

(Xăng-khô khá-má-tú tăng má-má)

Nghĩa:

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai bậc Đức-Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Tăng-bảo,

Cúi xin Đức-Tăng-bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

 

Bài Kệ Cầu nguyện

Iminā puññakammena,

(Í-mí-na pun-nhá-kam-mê-ná) Sabbe bhayā vinassantu. (Xặp-bê phá-gia wí-nát-xăn-tú)

Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, (Níp-ba-năng á-thí-găn-tung hí) Sabbadukkhā pamuccāmi.

(Xặp-bá-đúc-kha pá-múc-cha-mí)

Nghĩa:

 

Do nhờ năng lực đại-thiện-tâm sám hối này, Cầu xin mọi tai họa hãy đều bị tiêu diệt,

Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, Con mong sớm giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.

Lợi Ích Của Sự Sám Hối Và Cầu Nguyện

Năm điều tai họa (antarāyikadhamma):

  1. Kammantarāyika: Tai họa do ác-nghiệp trọng-tội.
  2. Kilesantarāyika: Tai họa do phiền-não tà-kiến cố-định.
  3. Vipākantarāyika: Tai họa do quả tái-sinh.
  4. Ariyūpavādantarāyika: Tai họa do xúc phạm đến bậc Thánh-nhân.
  5. Aṇāvitikkamantarāyika: Tai họa do phạm giới.(1)

Trong 5 điều tai họa ấy, có 3 điều: tai họa do ác- nghiệp trọng-tội, tai họa do phiền-não tà-kiến cố-định và tai họa do quả tái-sinh, cả 3 điều tai họa này xảy ra trong kiếp hiện-tại, vô phương cứu chữa, đành phải chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy mà thôi.

Riêng 2 điều: tai họa do xúc phạm đến bậc Thánh- nhân tai họa do phạm giới, cả 2 điều tai họa này, ngay trong kiếp hiện-tại, có thể cứu chữa bằng cách làm lễ sám hối lỗi lầm của mình.

  • Tai họa do xúc phạm đến bậc Thánh-nhân: Nếu có những lỗi lầm nào xúc phạm đến Đức-Phật, Đức- Pháp, Đức-Tăng, các bậc Thầy tổ, ông bà, cha mẹ, các bậc Trưởng-lão, các bậc có giới-đức, các bậc ân-nhân, v.v... thì chỉ có phương cách làm lễ sám hối những lỗi lầm ấy của mình đối với các bậc ấy mà thôi. Sau khi làm lễ sám hối xong, người ấy phải luôn tâm niệm không để tái phạm.

 
   
 

 

1 Tìm hiểu đầy đủ trong quyển “Tìm hiểu Pháp-hành Thiền-Tuệ” (trang 530).

 

Như vậy, người ấy tránh được mọi tai họa, sẽ thành tựu được sự lợi ích, sự tiến hóa trong mọi thiện-pháp, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại lẫn vô lượng kiếp vị-lai.

Vì vậy, lễ sám hối Tam-bảo là điều lợi ích lớn lao.

  • Tai họa do phạm giới: Đối với hạng phàm-nhân vốn có phiền-não còn nặng nề, trong cuộc sống hằng ngày khó tránh khỏi điều phạm giới.

Nếu đã phạm giới dù nặng dù nhẹ thì cũng có thể gây ra tai họa trong kiếp hiện-tại và kiếp vị-lai.

Muốn tránh khỏi những điều tai họa xảy đến cho mình, thì chỉ có phương cách làm lễ sám hối, rồi xin thọ trì giới trở lại, đó là phương cách duy nhất, để cho giới của mình trở nên trong sạch trở lại.

Lễ sám hối là phương cách chung cả cho sa-di, tỳ- khưu lẫn người cận-sự-nam, cận-sự-nữ.

  • Đối với chư tỳ-khưu, trước khi hành tăng-sự như lễ tụng bhikkhupātimokkha “Lễ tụng giới tỳ-khưu hằng tháng vào ngày rằm và ngày cuối tháng, chư tỳ-khưu, mỗi vị đều phải làm lễ sám hối āpatti 2-3 vị lẫn nhau trước, rồi sau đó mới hành-tăng-sự tụng bhikkhu- pātimokkha”. Hoặc mỗi khi vị tỳ-khưu nào biết mình bị phạm giới nào, vị tỳ-khưu ấy nên tìm đến vị tỳ-khưu khác xin làm lễ sám hối giới ấy.

Sau khi đã sám hối xong, vị tỳ-khưu ấy có giới trở lại trong sạch.

  • Đối với sa-di nên sám hối và chịu hành phạt xong, rồi xin thọ phép quy-y Tam-bảo.
  • Đối với hàng cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên làm lễ sám hối Tam-bảo xong, rồi mới xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, hoặc bát-giới uposathasīla hoặc cửu- giới uposathasīla, ... Đó là điều hợp pháp, để làm tăng

 

thêm đức-tin và lòng tôn kính Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo.

  • Bài kệ cầu nguyện đó là nguyện vọng tha thiết của mình, mong tránh khỏi tai họa và mong sớm chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.
  • Lễ xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới

theo truyền thống của người Myanmar thật rõ ràng:

  • Người xin thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới, … khẩn khoản thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, …
Như vậy, đây là một nghi thức người xin khẩn khoản và thỉnh cầu Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn phép quy- y Tam-bảo và ngũ-giới, … Đó là cách nên bắt chước theo.

Xin Thọ Trì Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Ngũ-Giới

Sau khi đọc 3 bài kệ sám hối Tam-bảo và bài kệ cầu nguyện xong, tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh đọc bài xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới như sau:
  • Ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ

(á-hăng phăn-tê tí-xá-rá-nê-ná xá-há păn-chá-xi-lăng dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, thăm-măng gia-cha-mí á-núc-ghá-hăng cát-toa xi-lăng đê-thá mê

Bhante. phăn-tê).

  • Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha,

(Đú-tí-giăm-pí á-hăng phăn-tê tí-xá-rá-nê-ná xá-

pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi anuggahaṃ katvā

păn-chá-xi-lăng thăm-măng gia-cha-mí á-núc-ghá-hăng cát-toa

sīlaṃ detha me, Bhante.

xi-lăng đê-thá mê phăn-tê).

 

- Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha,

(Tá-tí-giăm-pí á-hăng phăn-tê tí-xá-rá-nê-ná xá-

pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi anuggahaṃ katvā

păn-chá-xi-lăng thăm-măng gia-cha-mí á-núc-ghá-hăng cát-toa

sīlaṃ detha me, Bhante.

  1. lăng đê-thá mê phăn-tê).
Nghĩa:
    • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
    • Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con.
    • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
    • Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con, lần thứ nhì.
    • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.
    • Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con, lần thứ ba.

Hướng Dẫn Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Ngũ-Giới

Hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới hoặc bát-giới uposathasīla hoặc cửu-giới uposathasīla, … là phận sự của Ngài Đại-Trưởng-lão, nếu không có Ngài Đại-Trưởng-lão thì Ngài Trưởng-lão, nếu không có Ngài Đại-đức thì vị tỳ-khưu, nếu không có vị tỳ-khưu thì vị sa-di, nếu không có vị sa-di thì thậm chí người cận-sự- nam hoặc cận-sự-nữ là bậc thiện-trí hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cũng nên, bởi vì thành tựu phép quy-y Tam-bảo phần chính là do người đệ-tử biết cách thọ phép quy-y Tam-bảo, còn vị Thầy hướng

 

dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo chỉ giúp đỡ hỗ trợ cho người đệ-tử được thành tựu phép quy-y Tam-bảo mà thôi.

Vị Thầy hướng dẫn người đệ-tử biết cách thọ phép quy-y Tam-bảo và các điều giới như sau:
  • Khi lặp lại câu quy-y Đức-Phật-bảo: “Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi”, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo.
  • Khi lặp lại câu quy-y Đức-Pháp-bảo: “Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi”, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo.
  • Khi lặp lại câu quy-y Đức-Tăng-bảo: “Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi”, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo, …
  • Khi lặp lại câu điều giới nào, thì có tác-ý đồng sinh với đại-thiện tâm tránh xa đối-tượng phạm điều giới ấy giữ gìn điều giới ấy cho được trong sạch.

Như vậy, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ được thành tựu phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới là do nhờ vị Thầy dạy dỗ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.

Phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới có 3 cách:
  1. Cách thứ nhất: Hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi.
  2. Cách thứ nhì: Tiếng Pāḷi và có nghĩa tiếng Việt.
  3. Cách thứ ba: Hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt.
  1. Cách Thứ Nhất: Hoàn Toàn Bằng Tiếng Pāḷi
Sau khi tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ làm lễ sám hối Tam-bảo và xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong rồi, tiếp theo vị Thầy hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi. Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy rằng:

 

Ntl (1): Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadetha (vadehi).(2)

Tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh thưa rằng:

Csn(3): Āma! Bhante.

(A-má phăn-tê)

Đảnh Lễ Đức-Phật

Ntl: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammā- sambuddhassa. (3 lần)

Csn: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammā- sambuddhassa. (3 lần)

(Ná-mô tắt-xá phá-gá-vóa-tô á-rá-há-tô xăm-ma-xam-bút-thắt-xá)

Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo

Ntl: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Csn: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. (Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Ntl: Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

(Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Ntl: Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

(Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí).

Ntl: Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

(Đú-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Ntl: Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

(Đú-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

 
   
 

 

1 Ntl là Ngài Trưởng-lão.

2 Nếu có từ 2 người trở lên thì dùng chữ vadetha, nếu chỉ có một người thì dùng chữ vadehi.

3 Csn là cận-sự-nam, cận-sự-nữ.

 

Ntl: Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

(Đú-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Ntl: Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

(Tá-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí) Ntl: Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Csn: Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

(Tá-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Ntl: Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn

Csn: Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

(Tá-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí)

Ntl: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

Csn: Āma! Bhante.

Thọ Trì Ngũ-giới

Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo thọ trì ngũ-giới:

Ntl: Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Csn: Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi (Pa-na-tí-pa-ta vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

Ntl: Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Csn: Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. (Á-đin-na-đa-na vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

Ntl: Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Csn: Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ (Ca-mê-xú mít-cha-cha-ra vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng samādiyāmi.

xá-ma-đí-gia-mí)

Ntl: Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Csn: Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. (Mú-xa-voa-đa vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

 

Ntl: Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇi- sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Csn: Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇi-

(Xú-ra mê-rá-giá mắt-chắp pá-ma-đát-tha-na vuê-rá-ma-ní-

sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí)

Ntl: Tisaranena saha pañcasīlaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādetha, (sampādehi).

Csn: Āma! Bhante.

(A-má phăn-tê)

Ntl: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā. Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.

Csn: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới xong rồi, tiếp theo cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức- Tăng-bảo mà thôi, để làm cho tăng thêm đức-tin như sau:

Bài Kệ Khẳng Định Quy-Y Tam-bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, (Nắt-thí mê xá-rá-năng an-nhăng) Buddho me saraṇaṃ varaṃ. (Bút-thô mê xá-rá-năng vóa-răng) Etena saccavajjena,

(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná) Hotu me jayamaṅgalaṃ.(*) (Hô-tú mê chá-giá-măn-ghá-lăng)

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, (Nắt-thí mê xá-rá-năng an-nhăng) Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.

(Thăm-mô mê xá-rá-năng vóa-răng)

 

Etena saccavajjena,

(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)

Hotu me jayamaṅgalaṃ. (*)

(Hô-tú mê chá-giá-măn-ghá-lăng)

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, (Nắt-thí mê xá-rá-năng an-nhăng) Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.

(Xăng-khô mê xá-rá-năng vóa-răng)

Etena saccavajjena,

(Ê-tê-ná xắt-chá-voách-chê-ná)

Hotu me jayamaṅgalaṃ.(*)

(Hô-tú mê chá-giá-măn-ghá-lăng)

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ- giới theo từng mỗi câu hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi.

Phép Quy-Y Tam-Bảo 3 Câu Cùng Một Lúc Hoàn Toàn Bằng Tiếng Pāḷi

Theo truyền thống nước Myanmar (Miến-Điện), Ngài Đại-Trưởng-lão thường hướng dẫn thọ phép quy-y Tam- bảo 3 câu Quy-y Phật, quy-y Pháp, quy-y Tăng cùng một lúc, và các cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh lặp lại cũng 3 câu cùng một lúc.

Sau khi tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đọc 3 bài sám hối và cầu nguyện xong, tiếp theo xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới. Ngài Đại-Trưởng-lão sẽ truyền dạy rằng:

Ntl: Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadetha (vadehi).

Tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh thưa rằng:

Csn: Āma! Bhante.

(A-má phăn-tê)

 

Đảnh Lễ Đức-Phật

Ntl:     Namo    tassa    Bhagavato    Arahato    Sammā- sambuddhassa. (3 lần)

Csn:    Namo    tassa    Bhagavato   Arahato    Sammā- sambuddhassa. (3 lần)

Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo

Ntl: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Ntl: Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Ntl: Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Ntl: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

Csn: Āma! Bhante.

Thọ Trì Ngũ-Giới

Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo thọ trì ngũ-giới:

 

Ntl: Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Csn: Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Ntl: Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Csn: Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Ntl: Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Csn: Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Ntl: Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Csn: Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Ntl: Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇi-

sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Csn: Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇi- sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Ntl: Tisaranena saha pañcasīlaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādetha (sampādehi).

Csn: Āma! Bhante.

Ntl: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā. Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.

Csn: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới xong rồi, tiếp theo cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức- Tăng-bảo mà thôi, để làm cho tăng thêm đức-tin như sau:

Bài Kệ Khẳng Định Quy-Y Tam-Bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Buddho me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

 

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Dhammo me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới 3 câu hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi.

 

  1. Cách Thứ Nhì: Tiếng Pāḷi Có Nghĩa Tiếng Việt

Sám Hối Tam-Bảo

Bài Kệ Sám Hối Đức-Phật-bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ, Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ. Buddhe yo khalito doso,

Buddho khamatu taṃ mama.

Nghĩa:

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Phật-bảo, Cúi xin Đức-Phật-bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Bài Kệ Sám Hối Đức-Pháp-Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

Dammañca duvidhaṃ varaṃ. Dhamme yo khalito doso,

Dhammo khamatu taṃ mama.

Nghĩa:

 

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai hạng Đức-Pháp-bảo: Pháp học và pháp-hành, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Pháp-bảo,

Cúi xin Đức-Pháp-bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Bài Kệ Sám Hối Đức-Tăng-Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

Saṃghañca duvidhuttamaṃ. Saṃghe yo khalito doso, Saṃgho khamatu taṃ mama. Nghĩa:

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai bậc Đức-Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Tăng-bảo,

Cúi xin Đức-Tăng-bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Bài Kệ Cầu Nguyện

Iminā puññakammena,

Sabbe bhayā vinassantu. Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, Sabbadukkhā pamuccāmi.

Nghĩa:

Do nhờ năng lực đại-thiện-tâm sám hối này, Cầu xin mọi tai họa hãy đều bị tiêu diệt,

Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, Con mong sớm giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.

Xin Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Thọ Trì Ngũ-Giới

Sau khi đọc 3 bài kệ sám hối Tam-bảo và bài kệ cầu nguyện xong, tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh đọc bài xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới như sau:

 

  • Ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me, Bhante.
  • Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha me, Bhante.
  • Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha, pañcasīlaṃ dhammaṃ yācāmi anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha me, Bhante.
Nghĩa:
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con.

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới cho con, lần thứ nhì.

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới cho con, lần thứ ba.

Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Ngũ-Giới

Hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới bằng tiếng Pāḷi có nghĩa tiếng Việt. Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy rằng:

Ntl: Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadehi (vadetha).

Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, các con hãy nên lặp lại đúng từng chữ, từng câu như thế ấy.

Tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh thưa rằng:

 

Csn: Āma! Bhante.

Dạ! Xin vâng. Kính bạch Ngài.

Đảnh Lễ Đức-Phật

Ntl:    Namo    tassa    Bhagavato    Arahato    Sammā- sambuddhassa. (3 lần)

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)

Csn:    Namo    tassa    Bhagavato   Arahato    Sammā- sambuddhassa. (3 lần)

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)

Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo

Ntl: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.

Ntl: Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.

Ntl: Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.

Ntl: Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.

 

Ntl: Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.

Ntl: Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.

Ntl: Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.

Ntl: Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.

Ntl: Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Csn: Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.

 

Ntl: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

(Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)

Csn: Āma! Bhante. Dạ, xin vâng. Bạch Ngài.

Thọ Trì Ngũ-Giới

Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo thọ trì ngũ-giới:

Ntl: Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Csn: Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Ntl: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự sát-sinh. Csn: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự sát-sinh.

Ntl: Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Csn: Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự trộm-cắp. Csn: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự trộm-cắp.

Ntl: Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Csn: Kāmesu micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Ntl: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự tà-dâm.

Csn: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự tà-dâm.

Ntl: Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Csn: Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói-dối. Csn: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự nói-dối.

Ntl: Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Csn: Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā

veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự

uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

 

Csn: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

Ntl: Tisaranena saha pañcasīlaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādetha.

Phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, các con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch hoàn toàn, bằng pháp không dể duôi, để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh.

Csn: Āma! Bhante.

Dạ! Xin vâng. Kính bạch Ngài.

Ntl: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā. Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.

Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới Chúng-sinh giải thoát Niết-bàn, nhờ giữ giới Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch!

Csn: Sādhu! Sādhu! Sādhu! Lành thay!

Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ- giới xong, tiếp theo nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức- Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo mà thôi, để làm tăng đức-tin cho càng thêm vững chắc như sau:

Bài Kệ Khẳng Định Quy-Y Tam-Bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Buddho me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Đức-Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,

 

Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Dhammo me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Đức-Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con, Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Đức-Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con, Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới bằng tiếng Pāḷi có nghĩa tiếng Việt.

 

  1. Cách Thứ Ba: Hoàn Toàn Bằng Nghĩa Tiếng Việt
Hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt. Thật ra, điều quan trọng để thành tựu phép quy-y Tam-bảo là cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt hiểu rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.
  • Khi đọc câu quy-y Phật, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ đối-tượng 9 ân-đức Phật-bảo.

 

  • Khi đọc câu quy-y Pháp, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ đối-tượng 6 ân-đức Pháp-bảo.
  • Khi đọc câu quy-y Tăng, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ đối-tượng 9 ân-đức Tăng-bảo.
Do đó, dù bằng tiếng Pāḷi hoặc nghĩa tiếng Việt cũng phải hiểu rõ đúng nghi lễ, biết cách thọ đúng phép quy-y Tam-bảo, thì cũng thành tựu được phép quy-y Tam-bảo.

Nghi Thức Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Thọ Trì Ngũ-Giới Bằng Nghĩa Tiếng Việt

Những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đảnh lễ Tam- bảo xong đều đồng thanh đọc 3 bài sám hối Tam-bảo.

Bài Kệ Sám Hối Đức-Phật-Bảo

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Phật-bảo, Cúi xin Đức-Phật-bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Bài Kệ Sám Hối Đức-Pháp-Bảo

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai hạng Đức-Pháp-bảo: Pháp học và Pháp-hành, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Pháp-bảo,

Cúi xin Đức-Pháp-bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Bài Kệ Sám Hối Đức-Tăng-Bảo

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai bậc Đức-Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Tăng-bảo,

Cúi xin Đức-Tăng-bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

 

Bài Kệ Cầu Nguyện

Do nhờ năng lực đại-thiện-tâm sám hối này, Cầu xin mọi tai họa hãy đều bị tiêu diệt,

Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, Con mong sớm giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.

Sau khi đọc 3 bài sám hối Tam-bảo xong, tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đều đồng thanh đọc bài xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới như sau:

Xin Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Thọ Trì Ngũ-Giới

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới cho con.

  • Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới cho con, lần thứ nhì.

  • Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão, con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới cho con, lần thứ ba.

Ngài Đại Trưởng Lão hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt:

Ntl: Này các con, Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, thì các con hãy nên lặp lại đúng theo từng chữ từng câu như thế ấy.

Csn: Dạ! Xin vâng. Kính bạch Ngài.

 

Đảnh Lễ Đức-Phật

Ntl: Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)

Csn: Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)

Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật,lần thứ nhì

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp,lần thứ nhì

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp,lần thứ nhì

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng,lần thứ nhì

Csn:Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng,lần thứ nhì

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba

Ntl: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba

Csn: Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba

Ntl: Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!

Csn: Dạ, xin vâng, kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão.

 

Thọ Trì Ngũ-Giới

Ntl: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự sát-sinh.

Csn: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự sát-sinh.

Ntl: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự trộm-cắp.

Csn: Con xin thọ trì điều giới,có tác ý tránh xa sự trộm-cắp.

Ntl: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự tà-dâm.

Csn: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự tà-dâm.

Ntl: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự nói-dối.

Csn: Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự nói-dối.

Ntl: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

Csn: Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

Ntl: Thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, các con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch hoàn toàn, bằng pháp không dể duôi (thất niệm), để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh.

Csn: Dạ! Xin vâng. Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-Lão.

Ntl: Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới. Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới. Chúng-sinh giải thoát Niết-bàn, nhờ giữ giới. Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch.

Csn: Lành thay! Lành thay!

Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ- giới xong, tiếp theo cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp- bảo, nơi Đức-Tăng-bảo mà thôi, để làm tăng trưởng đức- tin cho thêm vững chắc như sau:

 

Bài Kệ Khẳng Định Quy-Y Tam-Bảo

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Đức-Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con, Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Đức-Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con, Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Đức-Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con, Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt.

Thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới hoàn toàn bằng nghĩa tiếng Việt, thì chỉ dễ dàng và phổ thông đến cho người Việt-Nam mà thôi, nhưng không phổ thông đến cho những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ từ các nước Phật-giáo Theravāda có ngôn ngữ khác nhau, trong các buổi lễ thuần túy Phật-giáo.

Thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới (hoặc bát- giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla) hoàn toàn bằng tiếng Pāḷi, đó là một trong những truyền thống từ xưa cho đến nay, được phổ thông đến cho tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong các nước Phật-giáo Theravāda.

Thật vậy, trong một buổi lễ chung Phật-giáo gồm có các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ từ các nước Phật-giáo

 

Theravāda không cùng ngôn ngữ đến tham dự. Khi Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới bằng tiếng Pāḷi, thì tất cả mọi người đều đồng thanh lặp lại theo Ngài Đại-Trưởng-lão đúng từng chữ từng câu, làm cho buổi lễ thật trang nghiêm, tạo nên bầu không khí hòa hợp thân mật giữa các cận-sự-nam, cận-sự- nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, không phân biệt dân tộc nữa, bởi vì, tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có cùng chung một ngôn ngữ Pāḷi, ngôn ngữ của Đức- Phật, Đấng Tôn-Sư của mình.

Cho nên, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có khả năng nên học ngôn ngữ Pāḷi, để hiểu lời giáo huấn của Đức- Phật, để tăng trưởng đức-tin nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, làm nền tảng vững chắc cho mọi thiện-pháp được phát triển từ dục-giới thiện- pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp, cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp, đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

Nếu không học được nhiều thì ít nhất cũng nên học những nghi lễ sau đây bằng tiếng Pāḷi:

  • Cách thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, bát-giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla, v.v …
  • Bài lễ bái Tam-bảo, 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo.
  • Những bài kinh Parittapāḷi tụng hằng ngày đêm, … Để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc lâu dài
trong kiếp hiện-tại, và vô số kiếp vị-lai cho mình và cho

phần đông chúng-sinh, đặc biệt làm phước duyên để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo,  4       Thánh-quả                          Niết-bàn.

 

Người Thiện-Trí Quy-Y Tam-Bảo

Người thiện-trí có đức-tin nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt hiểu biết về giáo-pháp của Đức-Phật, đặc biệt hiểu biết rõ 9 ân-đức Phật-bảo, 6 ân-đức Pháp-bảo, 9 ân-đức Tăng-bảo, có nhận thức đúng đắn rằng: “Đức- Phật cao thượng, Đức-Pháp cao thượng, Đức-Tăng cao thượng”, hiểu biết phép quy-y Tam-bảo.

Người thiện-trí có ý nguyện muốn trở thành người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, người thiện-trí ấy đến hầu Ngài Đại-Trưởng-lão hoặc Ngài Trưởng-lão hoặc vị tỳ-khưu, hoặc vị sa-di, (hoặc thậm chí người cận-sự- nam, cận-sự-nữ thiện-trí hiểu biết giáo-pháp của Đức- Phật), kính thỉnh quý Ngài chứng minh buổi lễ xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới theo cách thời xưa và thời nay.

  • Nếu người thiện-trí ấy có khả năng hiểu biết rõ cách thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới thì chỉ thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão chứng minh mà thôi (không thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam- bảo và thọ trì ngũ-giới).

Còn người thiện-trí ấy tự mình xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới (hoặc bát-giới uposathasīla, hoặc cửu-giới uposathasīla) từ đầu đến cuối.

Bắt đầu đọc 3 bài sám hối Tam-bảo, rồi tuần tự bài kệ cầu nguyện, đảnh lễ Đức-Phật, thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới xong, tiếp theo đọc 3 bài kệ khẳng định chỉ quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo: quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp- bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo mà thôi, ngoài ra, không nương nhờ nơi nào khác.

 

Cuối cùng người thiện trí ấy đọc câu kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ công nhận mình là người cận- sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời.

Người nam thiện-trí hoặc người nữ thiện-trí tự mình xin thọ phép quy-y Tam-bảo, đó là cách quy-y Tam-bảo giống như thời xưa, mà tự mình sử dụng lời lẽ theo cách quy-y Tam-bảo phổ thông thời nay, nên không kính thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, mà chỉ kính thỉnh Ngài Đại-Trưởng- lão chứng minh và công nhận buổi lễ thọ phép quy-y Tam- bảo và thọ trì ngũ-giới của người thiện-trí ấy mà thôi.

Nghi Thức Xin Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo

Người thiện-trí ấy tự làm đúng nghi thức theo tuần tự như sau:
  • Bậc thiện-trí ấy đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão, rồi bạch rằng:
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài nhận biết những lời sám hối Tam-bảo chân thành của con và kính thỉnh Ngài chứng minh lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới của con.
  1. Kệ Sám Hối Tam-Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ, Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ. Buddhe yo khalito doso,

Buddho khamatu taṃ mama. (đảnh lễ 1 lạy)

Uttamaṅgena vande’haṃ, Dhammañca duvidhaṃ varaṃ. Dhamme yo khalito doso,

Dhammo khamatu taṃ mama. (đảnh lễ 1 lạy)

 

Uttamaṅgena vande’haṃ,

Saṃghañca duvidhuttamaṃ. Saṃghe yo khalito doso,

Saṃgho khamatu taṃ mama. (đảnh lễ 1 lạy)

  1. Bài Kệ Cầu Nguyện

Iminā puññakammena, sabbe bhayā vinassantu. Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, sabbadukkhā pamuccāmi.

(đảnh lễ 1 lạy)

  1. Đảnh Lễ Đức-Phật

Namo      tassa      Bhagavato      Arahato      Sammā- sambuddhassa. (3 lần) (đảnh lễ 1 lạy)

  1. Tự Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

  1. Tự Thọ Trì Ngũ-Giới
  • Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
  • Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
  • Kāmesumicchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
  • Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
  • Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

 

  1. Kệ Khẳng Định Quy-Y Tam-Bảo

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Buddho me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Dhammo me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

  1. Kính Xin Ngài Công Nhận
  • Nếu là người nam thì đọc câu chót:
  • Esāhaṃ Bho Mahāthera, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, Saṃghañca, upāsakaṃ maṃ mahāthero dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài công nhận con là người cận-sự-nam (upāsaka) đã quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, kể từ nay cho đến trọn đời.
  • Nếu là người nữ thì đọc câu chót:
  • Esāhaṃ Bho Mahāthera, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, Saṃghañca, upāsikaṃ maṃ mahāthero dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài công nhận con là người cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam- bảo và thọ trì ngũ-giới, kể từ nay cho đến trọn đời.
  • Nếu có 2 người nam trở lên thì câu chót là:

 

  • Ete mayaṃ Bho Mahāthera, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāma, Dhammañca, Saṃghañca, upāsake no mahāthero dhāretu, ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gate.
  • Kính bạch Ngài Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài công nhận chúng con là những người cận-sự-nam đã quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, kể từ nay cho đến trọn đời.
  • Nếu có 2 người nữ trở lên thì câu chót là:
  • Etā mayaṃ Bho Mahāthera, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāma, Dhammañca, Saṃghañca, upāsikāyo no mahāthero dhāretu, ajjatagge pāṇupetā saraṇaṃ gatā.
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài công nhận chúng con là những người cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, kể từ nay cho đến trọn đời.

Như vậy, sau khi đã tự làm lễ đúng theo nghi thức tự thọ phép quy-y Tam-bảo và tự thọ trì ngũ-giới, trước sự hiện diện chứng minh của Ngài Đại-Trưởng-lão, kính thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão chứng minh và công nhận xong, ngay khi ấy, người thiện-trí ấy chính thức trở thành người cận-sự-nam (upāsaka), hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) đã quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới trọn đời, trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, đồng thời trở thành một vị thanh-văn đệ-tử trong tứ chúng: tỳ-khưu (bhikkhu), tỳ-khưu-ni (bhikkhuni), cận-sự-nam (upāsaka), cận-sự-nữ (upāsikā) của Đức-Phật Gotama.

Hương Tam Quy Và Ngũ-Giới

Trong bài kinh Gandhasutta(1)được tóm lược như sau:

1 Aṅguttaranikāya Tikanipāta, Kinh Gandhasutta.

 

Một hôm, Ngài Trưởng-lão Ānanda, sau khi làm phận sự thị giả phục vụ Đức-Phật xong, trở về chỗ nghỉ của mình, Ngài Trưởng-lão tư duy rằng: “Trong đời này, hương thơm có 3 loại : Hương thơm của rễ cây, hương thơm của lõi cây, hương thơm của các loài hoa, những hương thơm này tỏa ra bay thuận theo chiều gió, không thể bay ngược chiều gió. Vậy, có thứ hương thơm nào có thể tỏa ra bay ngược chiều gió hay không?”

Để giải đáp điều thắc mắc của mình, Ngài Trưởng-lão Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch hỏi Đức-Thế-Tôn rằng:
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có loại hương thơm nào tỏa ra bay thuận chiều gió cũng được, tỏa ra bay ngược chiều gió cũng được, loại hương thơm ấy có trong đời này hay không? Bạch Ngài.
  • Này Ānanda! Trong đời này có loại hương thơm tỏa ra bay thuận theo chiều gió cũng được, tỏa ra bay ngược chiều gió cũng được.
Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch tiếp rằng:
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, loại hương thơm nào mà có thể tỏa ra bay thuận theo chiều gió cũng được, tỏa ra bay ngược chiều gió cũng được? Bạch Ngài.
  • Này Ānanda! Trong đời này, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào ở trong xóm, trong làng, trong tỉnh, ... nào, là người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo.

Là người có tác-ý đồng sinh với đại-thiện-tâm tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà- dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp.

 

Là người có giới hạnh trong sạch và trọn vẹn, có thiện-pháp phát triển, không có tâm keo kiệt bủn xỉn trong của cải của mình, có đại-thiện-tâm hoan hỷ trong việc làm phước-thiện bố-thí, với đôi bàn tay dịu dàng, đáp ứng đúng với nhu cầu của những người thọ thí.

Đối với người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy được các sa- môn, bà-la-môn khắp mọi nơi, mọi phương hướng, đều tán dương ca tụng giới đức của họ rằng:

“Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy ở trong xóm, trong làng ấy, … là người quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật- bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo.

Là người có tác-ý đồng sinh với đại-thiện-tâm tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự thất niệm (dể duôi) trong mọi thiện-pháp.

Là người có giới hạnh trong sạch và trọn vẹn, có thiện-pháp phát triển, không có tâm keo kiệt bủn xỉn trong của cải của mình, có đại-thiện-tâm hoan hỷ trong việc làm phước-thiện bố-thí với đôi bàn tay dịu dàng, đáp ứng đúng với nhu cầu của những người thọ thí”.

Chư-thiên khắp mọi nơi cũng đều tán dương ca tụng người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy, cũng như các sa-môn, bà-la-môn đã tán dương ca tụng như vậy.

  • Này Ānanda! Đó là loại hương thơm có thể tỏa ra bay thuận theo chiều gió cũng được, tỏa ra bay ngược chiều gió cũng được như vậy.
Đức-Phật thuyết dạy bài kệ Dhammapadagāthā rằng:

54-“Na pupphagandho paṭivātameti, Na candanaṃ tagaramallikā vā.

Satañca gandho paṭivātameti,

 

Sabbā disā sappuriso pavāyati.

55- Candanaṃ tagaraṃ vāpi, uppalaṃ atha vassikī. Etesaṃ gandhajātānaṃ, sīlagandho anuttaro.”

54- Hương thơm các loài hoa, Tỏa ra thuận chiều gió, Không ngược chiều bao giờ! Hương trầm, hương lõi khác, Cũng không bay ngược chiều. Nhưng hương bậc thiện-trí,

Đức-Phật, chư Thánh-Tăng, Lan tỏa ra mọi nơi,

Thuận chiều lẫn ngược chiều, Khắp bốn phương, tám hướng. 55- Hương trầm, hương lõi cây, Hương sen, hương hoa lài,

Tất cả mọi mùi hương,

Không sánh được hương-giới, Hương của giới cao thượng, Hơn tất cả mọi hương.

(Hương của giới có nghĩa là giới-đức của bậc thiện- trí được biểu hiện ra ở thân và khẩu, nên người khác có trí-tuệ nhận thức biết được. Còn các đức khác như định- đức, tuệ-đức, giải-thoát-đức, giải-thoát tri-kiến-đức ở trong tâm, nên người khác khó biết được, chỉ có bậc Thánh-nhân mới có khả năng biết được mà thôi.)

 

Nghi Thức Lễ Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Bát-Giới

Người cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) ngũ-giới thường-giới, còn có bát-giới uposathasīla vào những ngày giới hằng tháng nữa.

 

Nếu người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ có khả năng thọ trì bát-giới uposathasīla vào những ngày giới hằng tháng, theo nghi thức lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và bát- giới uposathasīla, phần đầu hầu hết giống như nghi thức lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, chỉ có khác phần xin thọ trì bát-giới uposathasīla mà thôi.

\Trước tiên, cận-sự-nam, cận-sự-nữ làm lễ đọc 3 bài kệ sám hối Tam-bảo:

Bài Kệ Sám Hối Đức-Phật-bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ, Pādapaṃsuṃ varuttamaṃ. Buddhe yo khalito doso,

Buddho khamatu taṃ mama.

Nghĩa:

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Bụi trần dưới bàn chân cao thượng Đức-Phật, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Phật-bảo, Cúi xin Đức-Phật-bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Bài Kệ Sám Hối Đức-Pháp-Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ, Dammañca duvidhaṃ varaṃ. Dhamme yo khalito doso,

Dhammo khamatu taṃ mama.

Nghĩa:

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai hạng Đức-Pháp-bảo: Pháp học và pháp-hành, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Pháp-bảo,

Cúi xin Đức-Pháp-bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

 

Bài Kệ Sám Hối Đức-Tăng-Bảo

Uttamaṅgena vande’haṃ,

Saṃghañca duvidhuttamaṃ. Saṃghe yo khalito doso, Saṃgho khamatu taṃ mama. Nghĩa:

Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ,

Hai bậc Đức-Tăng-bảo: Thánh-Tăng và phàm-Tăng, Lỗi lầm nào con đã phạm đến Đức-Tăng-bảo,

Cúi xin Đức-Tăng-bảo xá tội ấy cho con.

(đảnh lễ một lạy)

Bài Kệ Cầu Nguyện

Iminā puññakammena, sabbe bhayā vinassantu. Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, sabbadukkhā pamuccāmi.

Nghĩa:

Do nhờ năng lực đại-thiện-tâm sám hối này, Cầu xin mọi tai họa hãy đều bị tiêu diệt,

Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, Con mong sớm giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.

Xin Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Thọ Trì Bát-Giới

Sau khi đọc 3 bài kệ sám hối Tam-bảo và bài kệ cầu nguyện xong, mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh đọc bài xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát- giới uposathasīla như sau:
  • Mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha, aṭṭhaṅgasamannā- gataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāma, anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no, Bhante.
  • Dutiyampi, mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha, aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāma anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha  no, Bhante.

 

  • Tatiyampi, mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha, aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ yācāma anuggahaṃ katvā sīlaṃ detha no, Bhante.
Nghĩa:
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla cho chúng con.

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla cho chúng con, lần thứ nhì.

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, chúng con xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla.

Kính bạch Ngài, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposatha- sīla cho chúng con, lần thứ ba.

Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Bát-Giới Uposathasīla

Hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát- giới uposathasīla bằng tiếng Pāḷi có nghĩa tiếng Việt.

Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy rằng:

Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadetha (vadehi).

Sư hướng dẫn từng chữ từng câu như thế nào, các con hãy nên lặp lại đúng từng chữ, từng câu như thế ấy.

Tất cả mọi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đồng thanh thưa rằng:

Csn: Āma! Bhante.

Dạ! Xin vâng. Kính bạch Ngài.

 

Đảnh Lễ Đức-Phật

Ntl:    Namo    tassa    Bhagavato    Arahato    Sammā- sambuddhassa. (3 lần)

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn ấy, Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. (3 lần)

Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo

  • Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật.

  • Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp.

  • Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng.

  • Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ nhì.
  • Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ nhì.
  • Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ nhì.
  • Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Phật, lần thứ ba.
  • Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Pháp, lần thứ ba.
  • Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Con đem hết lòng thành kính xin quy-y Tăng, lần thứ ba.

 

Ntl: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.

(Phép quy-y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu!)

Csn: Āma! Bhante.

Dạ, xin vâng. Bạch Ngài.

Thọ Trì Bát-Giới Uposathasīla

Sau khi thọ phép quy-y Tam-bảo xong, tiếp theo thọ trì bát-giới uposathasīla:

  1. Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự sát-sinh.

  1. Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự trộm-cắp.

  1. Abrahmacariyā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới,có tác ý tránh xa sự hành-dâm.

  1. Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, tác ý tránh xa sự nói-dối.

5 - Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự uống rượu bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi.

  1. Vikālabhojanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa dùng vật thực phi thời.

  1. Nacca gīta vādita visūkadassana mālāgandha Vilepana maṇḍana vibhūsanaṭṭhānā veramaṇi- sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nhảy múa, ca hát, thổi kèn, đánh đàn, xem nhảy múa, nghe ca hát, đeo tràng hoa, làm đẹp bằng phấn son, xức nước hoa là nhân sinh tham-ái.

  1. Uccāsayana mahāsayanā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

 

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.

Ntl: Tisaranena saha aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sampādetha.

Phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla xong, các con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch trọn vẹn bằng pháp không dể duôi (thất niệm), để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh.

Csn: Āma! Bhante.

Dạ! Xin vâng. Kính bạch Ngài.

Ntl: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā. Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.

Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới Chúng-sinh giải thoát Niết-bàn, nhờ giữ giới Vậy, các con giữ giới cho được trong sạch!

Csn: Sādhu! Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla xong, tiếp theo nên đọc 3 bài kệ khẳng định không có quy-y nương nhờ nơi nào khác, chỉ có quy-y nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng- bảo mà thôi, để làm tăng trưởng đức-tin vững chắc nơi Tam-bảo như sau:

Bài Kệ Khẳng Định Quy-Y Tam-Bảo

* Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Buddho me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena,

hotu me jayamaṅgalaṃ.

 

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Đức-Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con. Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

* Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Dhammo me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Đức-Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con. Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

* Natthi me saraṇaṃ aññaṃ, Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ. Etena saccavajjena,

Hotu me jayamaṅgalaṃ.

Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,

Đức-Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con. Do nhờ năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.

Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì bát-giới uposathasīla bằng tiếng Pāḷi có nghĩa tiếng Việt. (1)

 

Ân-Đức Thầy (Ācariyaguṇa)

Người đệ-tử trở thành cận-sự-nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) là một trong bốn hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama là do nhờ vị Thầy dạy dỗ.

1 Tìm hiểu ngũ-giới, bát-giới uposathasīla trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo quyển III, Pháp-Hành Giới, cùng soạn-giả.

 

Mọi sự hiểu biết về pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo cũng do nhờ vị Thầy dạy dỗ, cho nên ân-đức Thầy là vô lượng đối với các người đệ-tử. Người đệ-tử muốn đền đáp ân-đức của Thầy một cách xứng đáng, không phải là việc dễ làm.

Thật vậy, nên tìm hiểu qua đoạn kinh Dakkhiṇāvi- bhaṅgasutta(1) và Chú-giải được tóm lược như sau:

Sau khi Đức-Bồ-Tát Thái-tử Siddhattha đản sinh được bảy ngày thì bà Mahāmayādevī, là mẫu hậu của Đức-Bồ- Tát, quy thiên; bà Mahāpajāpatigotamī (2)là bà dì ruột, là kế mẫu cũng là nhũ-mẫu của Thái-tử Siddhattha.

Bà Mahāpajāpatigotamī giao Hoàng-tử Nanda (sinh sau Thái tử Siddhattha 2-3 ngày) cho nhũ mẫu khác nuôi nấng dưỡng dục, còn làm bổn phận nhũ mẫu nuôi nấng dưỡng dục Thái-tử Siddhattha khôn lớn.

Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha sống tại cung điện đến năm 29 tuổi mới đi xuất gia, đến năm 35 tuổi Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu Đức-Phật Gotama.

Như vậy, bà Mahāpajāpatigotamī là Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Suddhodana và là bà dì nhũ mẫu của Đức-Phật Gotama.

Một năm sau khi trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, theo lời thỉnh mời của Đức-Phụ-vương Suddhodana, lần đầu tiên Đức-Phật Gotama ngự trở về kinh-thành Kapilavatthu cùng với 20.000 chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng, Đức-Phật thuyết pháp tế độ Đức-Phụ-vương Suddhodana  trở  thành  bậc  Thánh  Nhất-lai,  và 

1 M. Uparīpaṇṇāsa, kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta và Chú-giải.

2 Bà Mahāpajāpatigotamī là hoàng-muội của Bà Mahāmayādevī cũng là Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Suddhodana.

 

Mahāpajāpatigotamī chứng đắc thành bậc Thánh Nhập- lưu, cùng thân quyến trong dòng Sakya chứng đắc thành bậc Thánh-nhân rất đông.

Bà Mahāpajāpatigotamī chiêm ngưỡng kim thân Đức- Phật có 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, phát sinh đức-tin trong sạch và vô cùng hoan hỷ, rồi suy nghĩ rằng: “Ta muốn dâng y đến Đức-Phật, trong cung điện, trong kinh-thành có rất nhiều thứ vải tốt mà ta không hài lòng, ta muốn tự tay mình kéo sợi dệt thành tấm vải, thì ta mới hài lòng hoan hỷ hơn nhiều.”

Để thực hiện ý định của mình, bà Mahāpajāpati- gotamī đã tự dệt xong được hai tấm vải, Bà đến chầu Đức-vua Suddhodana, xin phép đem hai tấm vải đến kính dâng lên Đức-Phật. Khi ấy, Đức-Phật đang ngự tại ngôi chùa Nigrodhārāma gần kinh-thành Kapilavatthu, bà Mahāpajāpatigotamī đội trên đầu một cái hộp đựng hai tấm vải quý giá đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xong, ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch rằng:
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, hai tấm vải mới này, chính tự tay con đã kéo sợi dệt xong, con có tác-ý đại-thiện- tâm trong sạch kính dâng lên Đức-Thế-Tôn. Kính xin Ngài có tâm đại-bi tế độ, thọ nhận hai tấm vải y mới này của con. Bạch Ngài.
Nghe Bà Mahāpajāpatigotamī bạch như vậy, Đức- Thế-Tôn truyền dạy rằng:
  • Saṃghe Gotami dehi, saṃghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṃgho ca.
  • Này Nhũ-mẫu Gotamī! Nhũ-mẫu hãy nên kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, khi Nhũ-mẫu đã kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng rồi, sẽ là sự cúng dường đến Như-Lai và cúng dường đến chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng.

 

Bà Mahāpajāpatigotamī bạch lặp lại như lần trước, đến lần thứ ba, và Đức-Thế-Tôn cũng truyền dạy bà đến lần thứ ba như trên.

Nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Ngài Trưởng-lão Ānanda bèn bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài thọ nhận hai tấm vải của bá mẫu Mahāpajāpatigotamī.
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, bá mẫu Mahāpajāpati- gotamī là bà dì ruột, cũng là Nhũ-mẫu của Ngài. Bà có nhiều ân-đức đối với Ngài. Khi Ngài đản sinh được 7 ngày, thì Phật-mẫu quy thiên, chính bà là Nhũ-mẫu đã hiến dâng đôi bầu sữa ngon lành, để nuôi nấng dưỡng dục Ngài đến khi lớn khôn.
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, và Ngài cũng có nhiều ân- đức đối với bá mẫu Mahāpajāpatigotamī nữa.
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do được nương nhờ nơi Ngài, bá mẫu Mahāpajāpatigotamī đã quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo.
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do được nương nhờ nơi Ngài, bá mẫu Mahāpajāpatigotamī có tác-ý trong đại- thiện-tâm tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm).
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do được nương nhờ nơi Ngài, bá mẫu Mahāpajāpatigotamī có đức-tin hoàn toàn trong sạch vững chắc không lay chuyển nơi Đức-Thế- Tôn, có đức-tin hoàn toàn trong sạch vững chắc không lay chuyển nơi Đức-Pháp-bảo, có đức-tin hoàn toàn trong sạch vững chắc không lay chuyển nơi Đức-Tăng- bảo, có đầy đủ trọn vẹn giới mà chư Thánh-nhân yêu quý.

 

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do được nương nhờ nơi Ngài, bá mẫu Mahāpajāpatigotamī đã diệt tận được tà- kiến và hoài-nghi trong khổ-Thánh-đế, trong Nhân sinh khổ-Thánh-đế, trong Niết-bàn diệt khổ-Thánh-đế, trong pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
  • Này Ānanda! Sự thật đúng như vậy.
  • Này Ānanda! Người đệ-tử đã nương nhờ nơi vị Thầy nào, rồi được quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, được quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, được quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo.
  • Này Ānanda! Như-Lai không thuyết dạy rằng: “Người đệ-tử ấy đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy bằng sự lễ bái, đón rước, chắp tay, cung kính cúng dường bằng y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh đối với vị Thầy ấy.
  • Này Ānanda! Người đệ-tử đã nương nhờ nơi vị Thầy nào, rồi có được tác-ý trong đại-thiện-tâm tránh xa sự sát-sinh, tránh xa sự trộm-cắp, tránh xa sự tà-dâm, tránh xa sự nói-dối, tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm).
  • Này Ānanda! Như-Lai không thuyết dạy rằng: “Người đệ-tử ấy đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy bằng sự lễ bái, đón rước, chắp tay, cung kính cúng dường bằng y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh đối với vị Thầy ấy.
  • Này Ānanda! Người đệ-tử đã nương nhờ nơi vị Thầy nào, rồi có đức-tin hoàn toàn trong sạch vững chắc nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo không lay chuyển, có đầy đủ trọn vẹn giới mà chư Thánh-nhân yêu quý.

 

  • Này Ānanda! Như-Lai không thuyết dạy rằng: “Người đệ-tử ấy đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy bằng sự lễ bái, đón rước, chắp tay, cung kính cúng dường bằng y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh đối với vị Thầy ấy.
  • Này Ānanda! Người đệ-tử đã nương nhờ nơi vị Thầy nào, rồi đã diệt tận được tà-kiến và hoài-nghi trong khổ- Thánh-đế, trong Nhân sinh khổ-Thánh-đế, trong Niết- bàn diệt khổ-Thánh-đế, trong pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.
  • Này Ānanda! Như-Lai không thuyết dạy rằng: “Người đệ-tử ấy đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy bằng sự lễ bái, đón rước, chắp tay, cung kính cúng dường bằng y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc ngừa bệnh đối với vị Thầy ấy.”
Qua đoạn kinh trên và phần Chú-giải được tóm lược:

Bà Mahāpajāpatigotamī chiêm ngưỡng Đức-Thế-Tôn có 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ. Bà vô cùng hoan hỷ, phát sinh tác-ý trong đại-thiện-tâm muốn dâng y đến Đức-Phật. Tấm vải y không phải do người khác dệt, mà phải chính tự tay của bà dệt, bà mới thật sự hài lòng hoan hỷ nhiều. Bà đã thực hiện đúng theo nguyện vọng của mình, bà đã dệt được hai tấm vải mới thật là tốt đẹp, vô giá, rồi bà đặt hai tấm vải ấy vào trong cái hộp báu, ướp nước hoa thơm xong, bà đến chầu Đức-vua Suddhodana và tâu rằng:

  • Mayhaṃ puttassa cīvarasāṭakaṃ gahetvā gamissāmi.
  • Tâu Hoàng thượng, Thần thiếp sẽ đem hai tấm vải y này, kính dâng đến Đức-Phật, vị Quý tử của chúng ta.
Đức-vua Suddhodana truyền lệnh sửa sang trang hoàng con đường từ cung điện đến ngôi chùa Nigrodhārāma rất đẹp đẽ, rồi cho một đoàn tùy tùng hộ giá bà Chánh-cung Hoàng-hậu  Mahāpajāpatigotamī  ngự  đến  ngôi  chùa

 

Nigrodhārāma. Bà đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, bèn bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, hai tấm vải mới này, chính tự tay con đã kéo sợi dệt xong, con có tác-ý trong đại- thiện-tâm kính dâng lên Đức-Thế-Tôn. Kính xin Ngài có tâm đại-bi tế độ thọ nhận hai tấm vải mới này của con. Bạch Ngài.
Nghe Bà Mahāpajāpatigotamī bạch như vậy, Đức- Thế-Tôn truyền dạy rằng:
  • Này Nhũ-mẫu Gotamī! Nhũ-mẫu hãy nên kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, khi Nhũ-mẫu đã kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng rồi, sẽ là sự cúng dường đến Như-Lai và cúng dường đến chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng, …
Thật ra, bà Mahāpajāpatigotamī có tác-ý trong đại- thiện-tâm kính dâng hai tấm vải mới đến Đức-Phật, không chỉ tỏ lòng tôn kính tri ân Đức-Phật, mà còn ẩn chứa một tình mẫu tử thiêng liêng và sâu sắc nữa. Cho nên, bà khẩn khoản bạch với Đức-Thế-Tôn rằng:
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con sẽ lấy những tấm vải y từ trong kho, rồi kính dâng cúng dường đến hằng trăm chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, hằng ngàn chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng. Nhưng còn hai tấm vải y mới này, chính tự tay con đã kéo sợi dệt thành, con có tác-ý trong đại- thiện-tâm trong sạch kính dâng lên Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài có tâm đại-bi tế độ thọ nhận hai tấm vải y này của con. Bạch Ngài.
Dù bà Mahāpajāpatigotamī tha thiết khẩn khoản thế nào, nhưng Đức-Thế-Tôn vẫn khuyên dạy bà nên kính dâng hai tấm vải y mới đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, bởi những lý do chính như sau:

 

  • Đức-Phật Muốn Tế Độ Nhũ-Mẫu Tăng Trưởng Phước-Thiện (Mātari Anukampāya)
Đức-Phật truyền dạy bà Mahāpajāpatigotamī:
  • Saṃghe Gotami dehi, saṃghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṃgho ca.
  • Này Nhũ-mẫu Gotamī, Nhũ-mẫu hãy nên kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, khi Nhũ-mẫu đã kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng rồi, sẽ là sự cúng dường đến Như-Lai và cúng dường đến chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng.
Tác-ý trong đại-thiện-tâm bố-thí có 3 thời:
  1. Pubbacetanā: Tác-ý trước khi cúng dường,
  2. Muñcacetanā: Tác-ý đang khi cúng dường,
  3. Aparacetanā: Tác-ý sau khi đã cúng dường.

Đức-Phật biết rõ bà Mahāpajāpatigotamī có tác-ý trong đại-thiện-tâm hướng tâm cúng dường 2 tấm y đến Đức-Phật rồi, nay Đức-Phật khuyên dạy bà Nhũ-mẫu phát sinh tác-ý trong đại-thiện-tâm hướng tâm cúng dường 2 tấm y ấy đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng nữa. Khi bà Nhũ-mẫu cúng dường 2 tấm y ấy đến chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì, thì cùng một lúc có 2 đối-tượng: Đức-Phật và chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Như vậy, Bà có tất cả 6 loại tác-ý trong đại-thiện-tâm, phước-thiện bố-thí của bà Nhũ-mẫu tăng trưởng gấp đôi, sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến cho Nhũ-mẫu.

Thật ra, trong cõi-giới này, lẫn toàn cõi-giới khác, không có Bậc nào xứng đáng được cúng dường hơn Đức- Phật cả, bởi vì Đức-Phật Bậc Tối-Thượng nhất trong toàn cõi tam-giới chúng-sinh. Người thí-chủ có đức-tin

 

trong sạch cúng dường đến Đức-Phật, chắc chắn được phước-thiện cao thượng nhất, có quả báu cao thượng nhất.

Trong trường hợp bà Mahāpajāpatigotamī, Đức-Phật muốn cho phước-thiện của bà tăng trưởng gấp bội, nên truyền dạy bà dâng cúng dường đến chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì. Đó là sự cúng dường đến Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, như Đức- Phật dạy:

  • Khi Nhũ-mẫu đã kính cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng rồi, sẽ là cúng dường đến Như-Lai và cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Như vậy phước-thiện của bà sẽ được tăng trưởng gấp bội, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
  • Đức-Phật Muốn Tế Độ Chư tỳ-khưu Tăng
Đức-Phật truyền dạy bà Mahāpajāpatigotamī rằng:
  • Saṃghe Gotami dehi…
  • Này Nhũ-mẫu Gotami! Nhũ-mẫu hãy nên kính dâng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng…
Đức-Phật muốn tế độ chư tỳ-khưu-Tăng, Đức-Phật muốn cho tất cả mọi chúng-sinh nói chung, mọi người thí-chủ nói riêng, cả trong thời hiện-tại lẫn trong thời vị- lai, đều có đức-tin trong sạch, có lòng tôn kính đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

Đức-Phật biết rõ: “Ngài sẽ tịch diệt Niết-bàn, Phật- giáo sẽ tồn tại và được giữ gìn duy trì do nhờ chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng, mà chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng được tồn tại lâu dài là nhờ những người cận-sự-nam, cận-sự- nữ có đức-tin trong sạch, có lòng tôn kính hộ độ, cúng dường các thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh,… đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để cho chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng được thuận lợi trong

 

công việc học pháp-học Phật-giáo, thực-hành pháp- hành Phật-giáo và duy trì pháp-thành Phật-giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến phần đông chúng- sinh, nhất là nhân-loại và chư-thiên.”

Do đó, Đức-Phật có tâm đại bi tế độ chư tỳ-khưu Tăng như vậy.

Ngài Trưởng-lão Ānanda nghĩ: “Đức-Phật là Bậc Tối-Thượng xứng đáng thọ nhận những lễ vật cúng dường của chúng-sinh không một ai sánh được.”

Cho nên, Ngài Trưởng-lão thỉnh cầu Đức-Phật thọ nhận hai tấm vải mới của bà Mahāpajāpatigotamī, để cho bà có được nhiều phước-thiện cao thượng, sẽ có được nhiều quả báu cao thượng, sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài sẽ phát sinh đến cho Bà.

Đức-Phật biết rõ bà Mahāpajāpatigotamī đã có tác-ý trong đại-thiện-tâm trong sạch cúng dường đến Đức- Phật rồi, nay cộng thêm tác-ý trong đại-thiện-tâm trong sạch cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng nữa, thì phước-thiện bố-thí của bà càng tăng trưởng gấp bội phần, sẽ phát sinh sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến cho Bà.

Ân-Đức Thầy Vô-Lượng

Những người đệ-tử nương nhờ nơi vị Thầy nào rồi, được học hỏi hiểu biết về pháp-học Phật-giáo, về pháp- hành Phật-giáo, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, được thọ phép quy-y Tam-bảo, thọ trì ngũ-giới, (bát-giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla, …) có đức-tin trong sạch vững chắc không lay chuyển nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo, được chứng ngộ

 

chân-lý tứ Thánh-đế, được chứng đắc Thánh-đạo, Thánh- quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân.

Như vậy, ân-đức Thầy vô-lượng mà những người đệ- tử không dễ đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy được!

Dù cho những người đệ-tử cúng dường, phục vụ tận tình đối với vị Thầy của mình như:

  • Abhivādana: Khi gặp vị Thầy, người đệ-tử cung kính đảnh lễ Thầy, khi biết vị Thầy đang ở hướng nào, người đệ-tử quay mặt về hướng ấy cung kính đảnh lễ Thầy trước khi đi, đứng, ngồi, nằm, … Khi nằm luôn luôn quay đầu về hướng chỗ ở của vị Thầy của mình.
  • Paccuṭṭhāna: Khi nhìn thấy vị Thầy từ xa đến, người đệ-tử đứng dậy, đi đến đón rước Thầy, nếu vị Thầy có đem theo vật gì nặng thì người đệ-tử mang hộ vật ấy cho Thầy, lấy nước rửa chân cho Thầy, lau chân xong thỉnh Thầy ngồi một nơi cao quý, rồi cung kính đảnh lễ Thầy, phục vụ Thầy một cách chu đáo.
  • Añjalikamma: Khi gặp vị Thầy, người đệ-tử cung kính đưa hai tay chắp lên trán lễ bái Thầy, khi Thầy khuyên dạy, người đệ-tử chắp hai tay để ngang ngực, cung kính lắng nghe lời giáo huấn của Thầy. Khi biết vị Thầy đang ở hướng nào, người đệ-tử quay mặt về hướng ấy cung kính chắp hai tay lên trán lễ bái Thầy trước khi đi, đứng, ngồi, nằm,… Khi nằm, người đệ-tử luôn luôn quay đầu về hướng vị Thầy của mình.
  • Sāmicikamma: Người đệ-tử hết lòng thành kính chắp tay lễ bái, cúng dường đến vị Thầy của mình một cách cung kính, v.v…

Thật ra, dù người đệ-tử thành kính vị Thầy của mình như vậy, cúng dường những thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh quý giá đến đâu đi

 

nữa, nhiều đến nỗi chất đầy khắp toàn cõi-giới này, chất chồng cao đến đỉnh núi Sineru (Tu-di-sơn), cũng vẫn chưa có thể gọi là đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy.

Tại sao?

Bởi vì, Ân-đức Thầy vô-lượng, nên người đệ-tử không thể nào đền đáp xứng đáng ân-đức Thầy được.

Tám Dòng Phước-Thiện

Phép quy-y Tam-bảo không chỉ là nơi quy-y nương nhờ cao thượng của chúng-sinh và ngũ-giới bảo vệ an toàn cho những người cận-sự-nam, cận-sự-nữ, mà còn là tám dòng phước-thiện cao quý đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho mình và cho tất cả chúng-sinh. Tám dòng phước-thiện ấy được Đức-Phật thuyết dạy trong bài kinh Abhisandasutta(1) ý nghĩa như sau:

  • Này chư tỳ-khưu! Tám dòng phước, dòng thiện này sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

Tám dòng phước, tám dòng thiện ấy là thế nào?

  1. Này chư tỳ-khưu! Trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã đến kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo.
  • Này chư tỳ-khưu! Đó là dòng phước, dòng thiện thứ nhất, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an- lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến                             hóa,     sự       an-lạc                lâu         dài.

1 Aṅguttaranikāya, phần Aṭṭhakanipāta, kinh Abhisandasutta.

 

  1. Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã đến kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo.
  • Này chư tỳ-khưu! Đó là dòng phước, dòng thiện thứ nhì, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an- lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
  1. Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã đến kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo.
  • Này chư tỳ-khưu! Đó là dòng phước, dòng thiện thứ ba, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an- lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
  • Này chư tỳ-khưu, năm loại bố-thí gọi là đại thí cao quý mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện- tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng: Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa. Năm loại bố-thí gọi là đại-thí ấy là thế nào?
  1. Này chư tỳ-khưu! Trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự sát-sinh, hoàn toàn tránh xa sự sát-sinh.
  • Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự sát-sinh, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn sinh mạng của tất cả chúng-sinh, bố-thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh

 

trong muôn loài. Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn sinh mạng, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài, thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.

  • Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ nhất gọi là đại-thí cao quý, mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng: Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện- trí, trải qua từ ngàn xưa.
  • Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ tư, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
  1. Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự trộm-cắp, hoàn toàn tránh xa sự trộm-cắp.
  • Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự trộm-cắp, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn tài sản của tất cả chúng-sinh, bố-thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài. Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn tài sản, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài, thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.
  • Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ nhì gọi là đại thí cao quý, mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không

 

sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Được biết rằng: đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa.

  • Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ năm, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
  1. Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự tà-dâm, hoàn toàn tránh xa sự tà-dâm.
  • Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự tà-dâm, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn (vợ, chồng, con cái của người khác), bố-thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài. Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài, thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.
  • Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ ba gọi là đại thí cao quý, mà chư thiện trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng: Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa.
  • Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ sáu, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng

 

quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

  1. Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự nói-dối, hoàn toàn tránh xa sự nói-dối.
  • Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự nói dối, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn (không gây thiệt hại), bố-thí sự không oan trái, bố- thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài. Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài, thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.
  • Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ tư gọi là đại thí cao quý, mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng: Đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện-trí, trải qua từ ngàn xưa.
  • Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ bảy, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
  1. Này chư tỳ-khưu! Điều tiếp theo, trong Phật-giáo này bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã từ bỏ sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm)

 

trong mọi thiện-pháp, hoàn toàn tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp.

  • Này chư tỳ-khưu! Bậc Thánh thanh-văn đệ-tử hoàn toàn tránh xa sự uống rượu và các chất say là nhân sinh sự dể duôi (thất niệm) trong mọi thiện-pháp, gọi là bố-thí sự vô hại, sự an toàn (không gây ra tai hại), bố- thí sự không oan trái, bố-thí sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài. Khi đã bố-thí sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài, thì bậc Thánh ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ bậc Thánh ấy.
  • Này chư tỳ-khưu! Đó là sự bố-thí thứ năm gọi là đại thí cao quý, mà chư thiện-trí, sa-môn, bà-la-môn không sao nhãng, trong quá khứ không từng sao nhãng, trong hiện-tại không sao nhãng, trong vị-lai cũng sẽ không sao nhãng. Nên biết rằng: đó là pháp-hành cao quý của người xưa, theo truyền thống của chư bậc thiện- trí, trải qua từ ngàn xưa.
  • Này chư tỳ-khưu! Đó cũng là dòng phước, dòng thiện thứ tám, sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an- lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.
  • Này chư tỳ-khưu! Đó là tám dòng phước, dòng thiện sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời, hưởng quả an-lạc trong cõi trời, đem lại mọi sự an-lạc, đáng mong ước, đáng thỏa thích, đáng hài lòng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.”

 

Trong bài kinh này, Đức-Phật thuyết giảng phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới gọi là tám dòng phước- thiện như sau:

“Aṭṭhime bhikkhave puññābhisandā kusalābhisandā…: Này chư tỳ-khưu, tám dòng phước, dòng thiện …”.

* Abhisanda: Dòng là một danh từ cụ thể, diễn tả sự trôi chảy không ngừng. Trong bài kinh này, Đức-Phật đã cụ thể hóa phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới gọi là tám dòng phước (puññābhisandā), dòng thiện (kusalā- bhisandā) đó là đại-thiện-tâm sinh rồi diệt, trôi chảy thành dòng sinh diệt theo các lộ-trình-tâm.

Để tám dòng phước, dòng thiện này được phát triển mạnh là nhờ người cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ hướng tâm quy-y nương nhờ Tam-bảo: quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo, và có tác-ý đồng sinh với đại-thiện-tâm tránh xa những đối-tượng phạm giới, giữ gìn ngũ-giới trong sạch, trọn vẹn.

Như vậy 3 phép quy-y Tam-bảo và ngũ-giới (5 thường-giới) gồm có 8 điều gọi là tám dòng phước, dòng thiện này sẽ cho quả tốt, quả an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai, đặc biệt làm phước duyên dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

 

(Xong chương IV Quy-Y Tam-Bảo)

 

 

 

 

ĐOẠN KẾT                                                                                                   1

 
ĐOẠN KẾT

 

Trong kinh Tam-Bảo (Ratanasutta), Đức-Phật dạy bài kệ rằng:

“Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā, Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ Na no samaṃ atthi Tathāgatena,

Idampi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ Etena saccena suvatthi hotu.”

Châu báu vô giá nào trong cõi người, Cõi Long-cung, cõi dục-giới, sắc-giới Tất cả mọi châu báu vô giá ấy,

Không thể sánh bằng Đức-Phật cao thượng, Phật-Bảo này là châu báu vô thượng

Do năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong toàn chúng-sinh được an-lạc.

Trong bài kinh Pubbaṇhasutta có 3 bài kệ: bài kệ thứ nhất giống bài kệ trên, còn bài kệ thứ nhì:

“Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā, Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ Na no samaṃ atthi Tathāgatena, Idampi Dhamme ratanaṃ paṇītaṃ. Etena saccena suvatthi hotu.”

Châu báu vô giá nào trong cõi người, Cõi Long-cung, cõi dục-giới, sắc-giới Tất cả mọi châu báu vô giá ấy,

Không thể sánh bằng Đức-Pháp cao thượng, Pháp-Bảo này là châu báu vô thượng

Do năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong toàn chúng-sinh được an-lạc.

 

Và bài kệ thứ ba:

“Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā, Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ Na no samaṃ atthi Tathāgatena,

Idampi Saṃghe ratanaṃ paṇītaṃ Etena saccena suvatthi hotu.”

Châu báu vô giá nào trong cõi người, Cõi Long-cung, cõi dục-giới, sắc-giới Tất cả mọi châu báu vô giá ấy,

Không thể sánh bằng Đức-Tăng cao thượng, Tăng-Bảo này là châu báu vô thượng.

Do năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong toàn chúng-sinh được an-lạc.

Trong ba câu kệ trên ý nghĩa danh từ “Tathāgatena”

theo từng mỗi câu kệ như sau:
  • Bài kệ thứ nhất: Tathāgatena ý nghĩa Đức-Phật- bảo cao thượng hơn tất cả các loại châu báu vô giá trong cõi người, cõi Long-cung, cõi trời dục-giới và cõi trời sắc-giới.
  • Bài kệ thứ nhì: Tathāgatena có ý nghĩa là Đức- Pháp-bảo đó là pháp-học Phật-giáo và 9 pháp siêu-tam- giới cao thượng hơn tất cả các loại châu báu vô giá trong cõi người, cõi Long-cung, cõi trời dục-giới và cõi trời sắc-giới.
  • Bài kệ thứ ba: Tathāgatena có ý nghĩa là Đức-Tăng- bảo đó là chư Thánh-Tăng và phàm-Tăng cao thượng hơn tất cả các loại châu báu vô giá trong cõi người, cõi Long-cung, cõi trời dục-giới và cõi trời sắc-giới.

Như vậy, người tại gia nào có duyên lành, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt đến xin thọ

 

phép quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo: nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo, thì người ấy sẽ trở thành cận-sự- nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā) là 1 trong 4 hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, được gần gũi thân cận nơi Tam-bảo: nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp- bảo, nơi Đức-Tăng-bảo.

Người cận-sự-nam, hoặc cận-sự-nữ ấy được sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa trong mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp cao thượng tuỳ theo khả năng của mình, sự an-lạc cao thượng cả trong kiếp hiện-tại lẫn vô số kiếp vị-lai, cho đến kiếp chót chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, hết tuổi thọ sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

 

Trong đời này, những người nghèo khó không dễ gì có những đồ trang sức như vàng, ngọc, kim cương, hột xoàn, … để trang điểm làm tôn vẻ đẹp hình thức bên ngoài của họ, nhưng thật ra, những đồ trang sức ấy dù quý giá thế nào cũng không thể sánh với Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo được.

Các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật có được Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo trang điểm bên trong đại-thiện-tâm của họ, ắt hẳn các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật chắc chắn không phải là những người nghèo trong đời này!

Thật vậy, các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật đã hiện hữu trong kiếp hiện-tại này, tin chắc chắn rằng: Trong những tiền-kiếp của họ đã từng tạo các pháp-

 

hạnh ba-la-mật được tích-luỹ ở trong tâm từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá-khứ, nên kiếp hiện-tại này họ mới có được duyên lành, nhân tốt, có cơ-hội tốt đến thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, hoặc bát-giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla, trở thành người cận-sự-nam, cận-sự-nữ, hoặc xuất gia trở thành sa-di, tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, thừa hưởng Pháp-bảo cao thượng của Đức-Phật.”

Chỉ có các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật mới có cơ-hội thừa hưởng Pháp-bảo của Đức-Phật mà thôi, họ được sự tiến hoá trong mọi thiện-pháp cao thượng, từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp đó là 4 Thánh-đạo thiện-tâm liền cho quả là 4 Thánh-quả-tâm không có thời gian khoảng cách chờ đợi (akālika), trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

Còn các chúng-sinh khác không phải là thanh-văn đệ- tử của Đức-Phật vốn họ không có đức-tin nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, không có duyên lành, không có cơ-hội thừa hưởng Pháp-bảo của Đức-Phật, nên vẫn còn chịu cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

 

 

 

Patthanā

Iminā puññakammena, sukhī bhavāma sabbadā. Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo, loke sattā sumaṅgalā.

Vietnam-raṭṭhikā sabbe ca, janā pappontu sāsane. Vuḍḍhiṃ viruḷhivepullaṃ, patthayāmi nirantaraṃ.

Lời cầu nguyện

Do nhờ phước-thiện thanh cao này, Cho chúng con thường được an-lạc.

Cầu mong chánh-pháp được trường tồn, Tất cả chúng-sinh được hạnh-phúc.

Dân tộc Việt Nam được phát triển, Tiến hóa hưng thịnh trong Phật-giáo. Bần sư cầu nguyện với tâm thành,

Hằng mong được thành tựu như nguyện. Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo lokasmiṃ

Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo Vietnamraṭṭhasmiṃ.

Cầu nguyện chánh-pháp được trường tồn trên thế gian, Cầu nguyện chánh-pháp được trường tồn trên Tổ-quốc Việt-Nam thân yêu.

PL. 2560 / DL. 2016

Rừng Núi Viên-Không Xã Tóc Tiên, Huyện Tân Thành Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

 

Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu)

(Aggamahāpaṇḍita)

 

PHẦN PHỤ LỤC

CÁCH PHÁT ÂM MẪU TỰ PĀḶI

Tiếng Pāḷi gồm có 41 mẫu tự, chia làm 2 loại:
  1. Nguyên âm gồm có 8 mẫu tự: a, ā, i, ī, u, ū, e, o.

* 8 nguyên âm này chia làm hai loại:

    1. 3 nguyên âm đọc giọng ngắn, thời gian 1 lần nháy mắt.

 

Nguyên âm Pāḷi

a

i

u

Cách phát âm

á

í

ú

    1. 5 nguyên âm đọc giọng dài gấp đôi, thời gian 2 lần nháy mắt:

 

Nguyên âm Pāḷi

ā

ī

ū

e

o

Cách phát âm

a-a

i-i

u-u

ê-ê

ô-ô

 

  1. Phụ âm gồm 33 phụ âm, chia thành nhóm như sau:

 

1

ka

kha

ga

gha

Phát âm cổ

khá

ghá

ngá

2

ca

cha

ja

jha

ña

Phát âm đóc

họng

chá

schá

chá

schá

nhá

3

ṭa

ṭha

ḍa

ḍha

ṇa

Phát âm cong đầu lưỡi trên hàm ếch

thá

đá

thá

4

ta

tha

da

dha

na

Phát âm đặt đầu lưỡi vào 2 đầu răng

thá

đá

thá

5

pa

pha

ba

bha

ma

Phát âm hai đầu môi

phá

phá

ya

ra

la

va

sa

ha

ḷa

giá

wóa

ân

                           

 

 

Thực ra, 33 phụ âm này được phiên âm cách phát âm rất khó chuẩn. Nên học tập cách phát âm trực tiếp với thầy dạy.

Cách phát âm

41 mẫu tự Pāḷi chia làm 6 cách phát âm:
    1. Những nguyên âm và phụ âm phát âm ở cổ, có 8 âm:

a, ā, ka, kha, ga, gha, ṅ, ha.

    1. Những nguyên âm và phụ âm phát âm ở đóc họng, có 8 âm: i, ī, ca, cha, ja, jha, ña, ya.
    2. Những phụ âm phát âm bằng cách cong đầu lưỡi ở hàm ếch, khi phát âm đánh đầu lưỡi ra ngoài, có 7 phụ âm: ṭa, ṭha, ḍa, ḍha, ṇa, ra, ḷa.
    3. Những phụ âm phát âm phát âm bằng cách đặt đầu lưỡi ở hai đầu răng, khi phát âm đồng thời hở 2 đầu răng, có 7 phụ âm là: ta, tha, da, dha, na, la, sa.
    4. Những nguyên âm và phụ âm phát âm ở 2 đầu môi (miệng ngậm lại), khi phát âm đồng thời hở đầu môi, có 7 âm: u, ū, pa, pha, ba, bha, ma.
    5. Phụ âm (ṃ) m có dấu chấm ở bên dưới phát âm nơi lỗ mũi, khi phát âm 2 đầu môi ngậm lại. Phụ âm này thường theo sau 3 nguyên âm là: aṃ, iṃ, uṃ.
Những nguyên âm, phụ âm phát sinh 2 nơi:
      • Nguyên âm ê phát âm nơi cổ đóc họng.
      • Nguyên âm ô phát âm nơi cổ môi.
      • Phụ âm va phát âm nơi răng môi.

Cách đọc tiếng Pāḷi

Tiếng Pāḷi có một thứ tiếng, mà mỗi chữ có nhiều mẫu tự. Cách phát âm ghép đọc theo mỗi mẫu tự: có danh từ nguyên âm đứng đầu mỗi chữ; có danh từ phụ âm đứng đầu mỗi chữ.

 

 
   

PHỤ LỤC                                        3

 

      • Khi nguyên âm đứng đầu riêng biệt, không ghép với phụ âm sau.

dụ: a-kata (á-ká-tá): không làm.

ā-kāsa (a-ka-xa): không...

      • Khi nguyên âm đứng đầu ghép với phụ âm đứng sau.

dụ: akka (ăc-cá): mặt trời.

icchā (íc-cha): mong muốn...

      • Khi phụ âm đơn đứng đầu ghép với nguyên âm sau.

dụ: ka        ki        ku        ke    ko

(cá) (ca) (cí) (ci) (cú) (cu) (cê) (cô)

dụ: kaṭa (cá-tá): chiếc chiếu.

gata (gá-tá): đã đi...

      • Khi phụ âm ghép với nguyên âm trước.

dụ: gacchati (gắt-chá-tí): đi.

cakkhu (chắc-khú): mắt...

Cách phát âm một danh từ Pāḷi hai cách: Phụ âm đơn ghép với nguyên âm:

dụ: Karoti (cá-rô-tí): làm, hành động.

Kāyasucarita (ca-giá-xú-chá-rí-tá): thân hành thiện.

Hai phụ âm ghép vào nhau, thì nguyên âm của phụ âm trước bị xóa, còn lại phụ âm ấy ghép vào nguyên âm của phụ âm trước.

dụ: ka + ka = kka trong danh từ cakka (chắc-cá) bánh xe...

Nếu trường hợp còn lại phụ âm ấy mà không có nguyên âm trước, thì phụ âm ấy ghép chung vào phụ âm sau.

Ví dụ: da + ra = dra trong danh từ Indrya (in-drí-giá) chủ, căn...

Hai phụ âm ghép vào nhau phải đúng theo quy tắc mới thành danh từ Pāḷi và có ý nghĩa.

 

4

PHỤ LỤC

 

Phụ âm ghép

dụ

Cách phát âm

Ý nghĩa

ka+ka=kka

Cakka

Chắc-

Bánh xe

ka+kha=kkha

Dukkha

Đúc-khá

Khổ

ka+ya=kya

Sakya

Xắc-kgiá

Dòng họ Sakya

ka+ri=kri

Kriyā

Kri-giá

Hành động

ka+la=kla

Kilesa

Klê-

Phiền não

ka+va=kva

Kvattho?

Quắt-thô

lợi ích gì?

kha+ya=khya

Ākhyāta

A-khgia-tá

Động từ

kha+va=khva

Ahaṃkhvajja

Ahăng kh-wắt chá

Ngày hôm nay, tôi

ga+ga=gga

Magga

Mắc-

Đạo, đường

ga+gha=ggha

Aggha

Ắc-ghá

Giá cả

ga+ya=gya

Ārogya

A-rô-ggiá

Sức khỏe

ga+ra=gra

Graha

Grá-

Chê trách

ṅ+ka=ṅka

Paṅka

Panh-

Bùn lầy, bẩn

ṅ+kha=ṅkha

Saṅkhata

Xăn-khá-tá

Được cấu tạo

 

PHỤ LỤC

5

 

 

Phụ âm ghép

dụ

Cách phát âm

Ý nghĩa

ṅ+ga=ṅga

Saṅgaha

Xăn-gá-há

Gom góp

ṅ+gha=ṅgha

Saṅgha

Xăn-ghá

Chư Tăng

ca+ca=cca

Sacca

Xắt-chá

Sự thật, chân

ca+cha=ccha

Gacchati

Gắt-chá-tí

Đi

ja+ja=jja

Ajja

Ắt-chá

Hôm nay

ja+jha=jjha

Upajjhāya

Ú-pắt-cha-giá

Thầy tế độ

ña+ña=ñña

Pañña

Panh-nha

Trí tuệ

ña+ca=ñca

Pañca

Panh-chá

Số 5

ña+cha=ñcha

Uñchati

Un-chá-ti

Đi kiếm ăn

ña+ja=ñja

Añjalī

Ăn-cha-li

Chắp tay cung kính

ña+jha=ñjha

Vañjhā

Văn-cha

Đàn sinh

ña+ha=ñha

Pañhā

Panh-ha

Câu hỏi

ṭa+ṭa=ṭṭa

Vaṭṭa

Voát-

Vòng, luân hồi

ṭa+ṭha=ṭṭha

Vuṭṭha

Wút-thá

Mưa ướt

ḍa+ḍa=ḍḍa

Āḍḍa

Ắt-đá

Sự phán xét

ḍa+ḍha=ḍḍha

Vuḍḍha

Wút-thá

Già, trưởng lão

 

6

PHỤ LỤC

 

 

Phụ âm ghép

dụ

Cách phát âm

Ý nghĩa

ṇa+ṭa=ṇṭa

Kaṇṭaka

Căn-tá-cá

Cái gai nhọn

ṇa+ṭha=ṇṭha

Gaṇṭhi

Găn-thí

Cái gút

ṇa+ḍa=ṇḍa

Paṇḍita

Panh-đí-tá

Bậc thiện trí

ṇa+ḍha=ṇḍha

Kaṇḍha

Căn-thá

Cổ

ṇa+ṇa=ṇṇa

Vaṇṇa

Voanh-

Sắc đẹp, màu sắc

ṇa+ha=ṇha

Gaṇhati

Găn-há-tí

Mang

ta+ta=tta

Attā

Ắt-ta

Ta, ngã

ta+tha=ttha

Attha

Ắt-tha

Sự lợi ích

ta+va=tva

Katvā

Cắt-toa

Đã làm rồi

ta+ya=tya

Cetyāni

Chê-tgia-ní

Các ngôi Bảo tháp

ta+ra=tra

Atra

Át-trá

Tại đây

da+da=dda

Upaddava

Ú-pắt-đá-voas

Tai nạn

da+dha=ddha

Buddha

Bút-thá

Đức Phật

da+ya=dya

Adya

Á-đgiá

Hôm nay

da+ra=dra

Indriya

In-dri-giá

Chủ, căn

da+va=dva

Dvāra

Dvoa-

Cửa, môn

 

PHỤ LỤC

7

 

 

Phụ âm ghép

dụ

Cách phát âm

Ý nghĩa

dha+ya=dhaya

Madhya

Ma-dhgiá

giữa

dha+va=dhva

Madhvāsapa

Ma-dhvoa-xá-pá

 

na+ta=nta

Anta

Ăn-

Cuối cùng

na+tva=ntva

Gantvā

Găn-tvoa

Đã đi rồi

na+tha=ntha

Santhara

Xăn-thá-rá

Tấm vải trải giường

na+da=nda

Canda

Chăn-đá

Mặt trăng

na+dra=ndra

Indriya

In-đri-giá

Chủ, căn

na+dha=ndha

Andha

Ăn-thá

quáng

na+na=nna

Anna

Ăn-na

Vật thực, cơm

na+ya=nya

Nyāsa

Ngià-

Cầm đồ, nợ

na+ha=nha

Nhāru

Nha-

Gân

pa+pa=ppa

Appa

Áp-

Ít

pa+pha=ppha

Puppha

Pụp-phá

Bông hoa

pa+ya=pya

Lipya

Li-pgiá

Viết chữ

pa+la=pla

Pariplava

Pá-rí-plá-voa

Hiện ra

ba+ba=bba

Sabba

Xắp-

Tất cả

 

8

PHỤ LỤC

 

 

Phụ âm ghép

dụ

Cách phát âm

Ý nghĩa

ba+bha=bbha

Abbha

Ắp-

không

ba+ya=bya

Byāpada

Bgia-pá-đá

Lòng sân hận

ba+ra=bra

Brahanta

Bra-han-tá

Rộng lớn

ma+pa=mpa

Campā

Cham-pa

Xứ Cam

ma+pha=mpha

Samphassa

Xăm-phặt-xá

Tiếp xúc

ma+ba=mba

Ambaphala

Ăm-bá-phá-lá

Trái xoài

ma+bha=mbha

Gambhīri

Găm-phi-rá

Sâu sắc

ma+ma=mma

Dhamma

Thăm-

Pháp

ma+ya=mya

Myāyaṃ

Mgià-giăng

Cái này của tôi

ma+ha=mha

Amhākaṃ

Ăm-ha-kăng

Của chúng ta

ya+ya=yya

Seyya

Xê-giá

Cao thượng

ya+va=yva

Yvāhaṃ

Giavoa-hăng

Tôi nào

ya+ha=yha

Tuyha

Tuy-

Anh, Ngài

la+la=lla

Salla

Xan-

Mũi tên

la+ya=lya

Kalyāṇa

Can-gia-ná

Tốt, đẹp

va+ya=vya

Vyāpāda

Vgia-pa-đá

Sân hận

 

PHỤ LỤC

9

 

 

Phụ âm ghép

dụ

Cách phát âm

Ý nghĩa

va+ha=vha

Avhā

Á-vha

Tên

sa+ta=sta

Uttasta

Út-tátch-ta

Sợ hãi

sa+tra=stra

Bhastrā

Phátch-tra

Bao bằng da

sa+na=sna

Sneha

Xnê-

Keo sơn

sa+ya=sya

Nisya

Nít-xya

Bộ sách dịch nghĩa

sa+sa=ssa

Assa

Ắt-xá

Con ngựa

sa+ma=sma

Tasmā

Tátch-ma

Tại sao?

sa+va=sva

Svāhaṃ

Xvoa-hăng

Tôi này

ha+ma=hma

Brahmaṇa

Brah-má-ná

Balamôn

ha+va=hva

Bahvābādha

Bá-hvoa-ba-tha

Nhiều bệnh

ḷa+ha=ḷha

Āsāḷhamāsa

A-xan-ha-ma-xa

Tháng 6 âm lịch

 

 
   

10                                          PHỤ LỤC

 

vân vân... còn nhiều từ nữa.

Thật ra, tiếng Pāḷi phiên âm ra tiếng Việt vô cùng khó. Bởi vì tiếng Pāḷi có 6 nơi phát âm, có 6 nhân phát âm, phát âm giọng yếu, giọng mạnh, giọng ngắn, giọng dài... mà tiếng Việt thì lại không có, do đó khó có thể phiên âm cho chuẩn được. Muốn đọc, phát âm cho chuẩn cần phải học tập cách phát âm trực tiếp với thầy dạy tiếng Pāḷi.

Sau đây một vài dụ cách tập đọc:

Đảnh lễ Đức Thế Tôn

Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.

Cách đọc:

Namo: Ná-mô.

Tassa: Tắt-xá. Bhagavato: Phá-gá-vá-tô. Arahato: Á-rá-há-tô.

Sammāsambuddhassa: Xăm-ma-xăm-bút thắt-xa.

Phép quy y Tam Bảo

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí. Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí. Saṃghaṃ saraṇaṃ                                   gacchāmi. Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí.

Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Đú-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí. Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Đú-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí. Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Đú-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí.

 

 
   

PHỤ LỤC                                            11

 

 

Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tá-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí. Tatiyampi  Dhammaṃ  saraṇaṃ  gacchāmi.

Tá-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí.

Tatiyampi  Saṃghaṃ  saraṇaṃ  gacchāmi.

Tá-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí.

Thọ trì ngũ giới:

Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Pa-na-tí-pa-ta vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí- gia-mí.

Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Á-đin-na-đa-na vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí- gia-mí.

Kāmesu  micchācārā  veramaṇisikkhāpadaṃ

Ca-mê-xú mít-cha-cha-ra vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng

samādiyāmi.

xá-ma-đí-gia-mí.

Musāvādā     veramaṇisikkhāpadaṃ      samādiyāmi. Mú-xa-voa-đa vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí- gia-mí.

Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇi- Xú-ra mê-rá-giá mắt-chắp pá-ma-đát-tha-na vuê-rá-ma-ní- sikkhāpadaṃ  samādiyāmi.

xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí.

 

SÁCH THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

 

  • Vinayapiṭakapāḷi và Aṭṭhakathāpāḷi.
  • Suttantapiṭakapāḷi và Aṭṭhakathāpāḷi.
  • Abhidhammapiṭakapāḷi và Aṭṭhakathāpāḷi.
  • Abhidhammatthasaṅgaha của Ngài Đại-Trưởng- lão Anuruddha.
  • Bộ Visuddhimagga và bộ Visuddhimaggamahāṭīkā
  • Toàn bộ Mahābuddhavaṃsa của Ngài Đại-Trưởng- lão Vicittasārābhivaṃsa (Visiṭṭhatipiṭakadhara, Mahātipiṭakakovida, Dhammabhaṇdāgārika).
  • Toàn bộ sách Ledi của Ngài Đại-Trưởng-lão Ledi Sayadaw.
  • Toàn bộ sách giáo khoa “Saddhammajotika” của Ngài Đại-Trưởng-lão Saddhammajotika.

 


CÙNG MỘT SOẠN GIẢ

 

Đã xuất bản:

  • TÌM HIỂU PHÁP-HÀNH THIỀN-TUỆ (Tái Bản)
  • 8 SỰ TÍCH PHẬT LỰC
  • Hạnh Phúc An Lành: THIỆN ÁC
  • GƯƠNG BẬC XUẤT-GIA
  • TÌM HIỂU PHƯỚC BỐ-THÍ (Tái Bản)
  • Hạnh Phúc An Lành: HIẾU NGHĨA
  • Hạnh Phúc An Lành: NHẪN NẠI
  • Hạnh Phúc An Lành: GIÁO-PHÁP
  • Hạnh Phúc An Lành: TÂM TỪ
  • PHÁP MÔN NIỆM ÂN-ĐỨC-PHẬT (Tái Bản)
  • Thực-Hành Pháp-Hành Thiền-Tuệ: ĐỐI-TƯỢNG TỨ OAI-NGHI
  • CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT KHỔ
  • Ý NGHĨA ĐÊM RẰM THÁNG
  • BÀI KINH CHO NGƯỜI BỆNH
  • LỄ DÂNG Y KATHINA
  • ĐỨC-PHẬT VỚI CÂY ĐẠI-BỒ-ĐỀ
  • NGÔI BẢO THÁP GOTAMACETIYA
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo: 10 PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT BẬC THƯỢNG
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo: TRÍ -TUỆ SIÊU-VIỆT
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo: CẨM NANG QUY-Y TAM-BẢO
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển I: TAM-BẢO (Tái Bản)
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển II: QUY-Y TAM- BẢO (Tái Bản)
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển III: PHÁP-HÀNH-GIỚI (Tái Bản)
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển IV: NGHIỆP QUẢ CỦA NGHIỆP
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển V: PHƯỚC-THIỆN
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VI: PHÁP HẠNH BA-LA- MẬT Tập 1
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VI: PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT Tập 2
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VI: PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT Tập 3
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VII: PHÁP-HÀNH THIỀN-ĐỊNH
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VII: PHÁP-HÀNH THIỀN-TUỆ
  • VI-DIỆU-PHÁP HIỆN THỰC TRONG CUỘC SỐNG
  • NGŨ-GIỚI LÀ THƯỜNG GIỚI CỦA MỌI NGƯỜI

 

NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO

QUYỂN II

QUY-Y TAM-BẢO

TỲ-KHƯU HỘ-PHÁP

*********************

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

53 Tràng Thi - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội

ĐT: 04-3782 2845 – FAX: 04-3782 2841

Email: [email protected]

Chịu trách nhiệm xuất bản Giám đốc - Tổng biên tập NGUYỄN CÔNG OÁNH

Biên tập

LÊ HỒNG SƠN - NGUYỄN THỊ HUỆ

 

Sửa bản in

TỲ-KHƯU HỘ-PHÁP

Trình bày & Vi tính

DHAMMANANDĀ Upāsikā

Địa chỉ liên lạc và phát hành

CHÙA TBỬU LONG

81/1, Đường Nguyễn Xiển, Long Bình, Quận 9, TP. Hồ Chí Minh

ĐT: +84 - 08 3503 2387 / DĐ: +84 1228608925

E-mail: [email protected]

Số lượng in: 1.000 bản, Khổ 13.5 x 20.5 cm,

In tại: Xí nghiệp In Nguyễn Minh Hoàng, 510 Trường Chinh, phường 13, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

Số ĐKXB: 2684 - 2016/CXBIPH/02 - 155/TG

ISBN: 978-604-61-3953-9

QĐXB: 586/QĐ-NXBTG Ngày 12 tháng 9 năm 2016 In xong và nộp lưu chiểu quý I năm 2017.

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications