Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
NTPG.Q02.B04 Ân đức Tăng bảo
Trong bài kinh Dhajaggasutta, Đức-Phật dạy chư tỳ- khưu niệm 9 ân-đức Tăng-bảo như sau: “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho, Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññak- khettaṃ lokassa.”
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:6021

Các tên gọi khác

Trong bài kinh Dhajaggasutta, Đức-Phật dạy chư tỳ- khưu niệm 9 ân-đức Tăng-bảo như sau: “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho, Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññak- khettaṃ lokassa.”

General Information

Danh sách : Liên quan
:
NTPG.Q02.B04 Ân đức Tăng bảo

 

 

  1. ÂN-ĐỨC TĂNG-BẢO (Saṃghaguṇa)

Trong bài kinh Dhajaggasutta, Đức-Phật dạy chư tỳ- khưu niệm 9 ân-đức Tăng-bảo như sau:

“Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,

Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,

Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho, Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññak- khettaṃ lokassa.”

 

Ân-đức Tăng-bảo có 9 ân-đức là Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvaka- saṃgho, Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.

9 ân-đức Tăng-bảo có ý nghĩa vô cùng sâu sắc, vi-tế, rộng lớn vô lượng vô biên, nên chỉ có chư Thánh-Tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn mới có đầy đủ trọn vẹn 9 ân-đức Tăng-bảo này mà thôi. Còn chư phàm- Tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn có một phần ân-đức Tăng-bảo nào, tùy theo khả năng của mỗi Ngài.

Ý Nghĩa 9 Ân-Đức Tăng-Bảo

  1. Suppaṭipanno: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn.
  2. Ujuppaṭipanno: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành trung thực đúng theo pháp-hành trung-đạo, không quanh co lầm lạc.
  3. Ñāyappaṭipanno: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành theo pháp- hành bát-chánh-đạo chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.
  4. Sāmīcippaṭipanno: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ đúng đắn xứng đáng để chúng-sinh tôn kính lễ bái cúng dường.

Cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā, esa Bhagavato sāvakasaṃgho: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo tâm Siêu-tam-giới).

 

Chư Thánh thanh-văn có 4 đôi:

  • Nhập-lưu Thánh-đạo ® Nhập-lưu Thánh-quả,
  • Nhất-lai Thánh-đạo ® Nhất-lai Thánh-quả,
  • Bất-lai Thánh-đạo ® Bất-lai Thánh-quả,
  • A-ra-hán Thánh-đạo ® A-ra-hán Thánh-quả.

Chư Thánh thanh-văn có 8 bậc Thánh: 4 Thánh-đạo + 4 Thánh-quả

  • Nhập-lưu Thánh-đạo (Sotāpattimagga)
  • Nhất-lai Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga)
  • Bất-lai Thánh-đạo (Anāgāmimagga)
  • A-ra-hán Thánh-đạo (Arahattamagga)
  • Nhập-lưu Thánh-quả (Sotāpattiphala)
  • Nhất-lai Thánh-quả (Sakadāgāmiphala)
  • Bất-lai Thánh-quả (Anāgāmiphala)
  • A-ra-hán Thánh-quả (Arahattaphala)
  1. Āhuneyyo: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí-chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được quả báu lớn.
  2. Pāhuneyyo: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí-chủ dành cho những vị khách quý như quý Ngài.
  3. Dakkhiṇeyyo: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đem dâng cúng đến quý Ngài, để mong được quả báu tốt lành cho mình và những người thân quyến.

 

  1. Añjalikaraṇīyo: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng cho chúng-sinh chắp tay cung kính, lễ bái, cúng dường.
  2. Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là phước điền cao thượng của chúng-sinh không đâu sánh được.

9 ân-đức Tăng-bảo này chia ra làm 2 phần:

  1. Ân-đức Tăng-bảo nhân 4 ân-đức Tăng-bảo: Suppaṭipanno, Ujuppaṭipanno, Ñāyappaṭipanno, Sāmicip- paṭipanno nhân đã thực-hành đúng theo Thánh-đạo (Ariyamagga) hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn 4 đôi thành 8 bậc Thánh.
  2. Ân-đức Tăng-bảo quả 5 ân-đức Tăng-bảo: Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa này là quả của 4 ân- đức Tăng-bảo nhân.
  • Chư Thánh-Tăng Thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế- Tôn đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, nên mới có đủ 9 ân- đức Tăng-bảo này.
  • Còn chư phàm-Tăng thanh-văn đệ-tử chưa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, nên chỉ có giới hạn một phần nào ân- đức Tăng-bảo mà thôi.

Giảng Giải Về 9 Ân-Đức Tăng-Bảo

Trong bộ Chú-giải giảng giải 9 ân-đức Tăng-bảo

được tóm lược sau đây:

 

  1. Ân-Đức Tăng-Bảo Thứ Nhất:

Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Xúp-pá-tí păn-nô Phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

Suppaṭipanno: Chư Thánh-tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật.

Chư Thánh-Tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã thực-hành nghiêm chỉnh, đúng đắn hoàn toàn theo lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn, thực-hành không tự làm khổ mình, không làm khổ người, không tự làm khổ mình lẫn người, thực-hành đúng theo 3 pháp-hành: pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp- hành thiền-tuệ.

  • Pháp-hành giới:Chư Thánh-Tăng thanh-văn có đức- tin vững chắc hoàn toàn trong sạch nơi Tam-bảo, tôn trọng các điều giới, các pháp-hành Tăng-sự mà Đức- Phật đã chế định ban hành, nên quý Ngài nghiêm chỉnh thực-hành đúng đắn hoàn toàn theo lời giáo huấn của Đức-Phật. Dù thấy lỗi rất nhỏ, quý Ngài cũng xem như lỗi rất lớn mà tránh xa, thà phải chịu hy sinh sinh mạng, chứ không để phạm giới.

Như tích vị tỳ-khưu trong bộ Thanh-Tịnh-Đạo (Visuddhimagga), được tóm lược như sau:

Một bọn cướp gặp vị tỳ-khưu ở ven rừng, chúng nghĩ rằng: “Gặp Sa-môn là điều xui xẻo”, nên bọn cướp bắt vị tỳ-khưu ấy trói bằng một sợi dây dài gốc còn dưới đất, rồi để nằm tại đó.

Chẳng may, một đám lửa rừng cháy lan đến, nếu vị tỳ-khưu vùng dậy để tránh ngọn lửa, thì làm đứt sợi dây còn tươi. Như vậy, vị tỳ-khưu sẽ bị phạm giới Pācittiya, mà Đức-Phật đã chế định ban hành đến chư tỳ-khưu. Vị

 

tỳ-khưu nghĩ rằng: “Sự chết là điều chắc chắn, nếu ta thoát chết hôm nay, thì sau này cũng phải chết, nhưng giới của ta không trong sạch. Thà hôm nay, ta chịu chết với giới trong sạch, chứ không để phạm giới”.

Do nhờ pháp-hành giới trong sạch, nên vị tỳ-khưu ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán. Khi ấy, ngọn lửa rừng lan đến thiêu cháy Ngài đồng thời Ngài tịch diệt Niết-bàn tại nơi ấy.

  • Nếu trường hợp vị tỳ-khưu nào phạm giới nhẹ, thì nên tìm đến một vị tỳ-khưu khác xin sám hối Āpatti. Đó là cách làm cho giới của mình trở lại trong sạch, để làm nền tảng thực-hành pháp-hành thiền-định, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
  • Pháp-hành thiền-định: Đó là thực-hành pháp-hành thiền-định, chư tỳ-khưu thanh-văn đệ-tử thực-hành pháp-hành thiền-định để chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, để nhập bậc thiền hưởng sự an- lạc, hoặc để làm nền tảng cho pháp-hành thiền-tuệ.
  • Pháp-hành thiền-tuệ: Đó là thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, chư tỳ-khưu thanh-văn đệ-tử thực-hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, gọi là chư Thánh-tăng.
Nếu chư tỳ-khưu thanh-văn đệ-tử đang thực-hành đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật, mà chưa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào thì còn là hạng phàm-thanh-văn, gọi là chư phàm-tăng.

 

Cho nên, ân-đức Tăng-bảo này gọi là Supaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

 

 

  1. Ân-Đức Tăng-Bảo Thứ Nhì:

Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Ú-chúp pá-tí-păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

Ujuppaṭipanno: Chư Thánh-tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành trung thực đúng theo pháp-hành Trung-đạo, không quanh co lầm lạc.

Chư Thánh-tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã thực-hành trung thực nghĩa là khi mình đã phạm lỗi, thì không giấu lỗi của mình; không hành lừa dối nghĩa là mình không có đức, không có tài, thì không làm ra vẻ như người có đức, có tài, v.v...

Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn không thực-hành theo tâm tham đắm trong ngũ-dục, cũng không thực-hành theo pháp-hành khổ-hạnh, tự làm khổ mình, mà Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn đã thực-hành theo pháp-hành Trung-đạo đó là pháp- hành bát-chánh-đạo (chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh- ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh- niệm, chánh-định), dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Nếu đã chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả rồi, thì trở thành 4 bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, gọi là chư Thánh-tăng

Nếu chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào thì vẫn còn là phàm thanh-văn, gọi là chư phàm-tăng.

 

Cho nên, ân-đức Tăng-bảo này gọi là Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

 

 

  1. Ân-Đức Tăng-Bảo Thứ Ba:

Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Nha-giáp-pá-tí-păn-nô Phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá- xăng-khô)

Ñāyappaṭipanno: Chư Thánh-tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành theo pháp- hành bát-chánh-đạo (chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh- ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh- niệm, chánh-định), chứng-ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn đã nhận thức biết rõ rằng:

Tam-giới (dục-giới, sắc-giới và vô-sắc-giới) là ba hầm lửa ngùn ngụt cháy không ngừng thiêu đốt tất cả chúng-sinh.

Trong tam-giới này không có một nơi nào thực sự được mát mẻ an-lạc. Tất cả chúng-sinh phải chịu cảnh nóng nảy do 11 thứ lửa (lửa tham-dục, lửa sân-hận, lửa si-mê, lửa sinh, lửa già, lửa chết, lửa sầu-não, lửa khóc- than, lửa khổ-thân, lửa khổ-tâm, lửa thống-khổ cùng cực, cùng với 1.500 loại phiền-não).

Chỉ có Niết-bàn là pháp dập tắt được mọi thứ lửa, làm vắng lặng mọi phiền-não, giải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

Pháp-hành dẫn đến chứng-ngộ Niết-bàn đó là pháp- hành bát-chánh-đạo. Hành-giả thực-hành pháp-hành bát- chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy,

 

chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, diệt tận được mọi phiền-não, đồng thời dập tắt mọi thứ lửa.

Cho nên, chư Thánh thanh-văn đệ-tử đã coi trọng

phận sự chứng ngộ Niết-bàn lên ưu tiên hàng đầu.

Dù cho lửa cháy trên đầu cũng xem thường, không quan tâm, bởi vì chư Thánh thanh-văn đệ-tử nghĩ rằng: “Lửa cháy trên đầu chỉ thiêu đốt một kiếp hiện-tại, còn các thứ lửa tham-dục, lửa sân-hận, lửa si-mê, ... không chỉ thiêu đốt, làm nóng nảy trong một kiếp hiện-tại, mà còn thiêu đốt làm nóng nảy vô số kiếp trong vị-lai nữa.”

Vì vậy, chư Thánh-Tăng thanh-văn đệ-tử đã đặt ưu tiên hàng đầu thực-hành pháp-hành bát-chánh-đạo để chứng ngộ Niết-bàn.

Cho nên, ân-đức Tăng-bảo này gọi là Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

 

 

  1. Ân-Đức Tăng-Bảo Thứ Tư:

Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Xa-mi-chíp-pá-tí-păn-nô Phá-gá-vóa-tô xa-vóa- cá-xăng-khô)

Sāmīcippaṭipanno: Chư Thánh-tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành 3 pháp- hành: pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ đúng đắn, xứng đáng để cho chúng-sinh tôn kính lễ bái cúng dường.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn bậc Thánh thanh-văn đệ-tử đã thực- hành pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành

 

thiền-tuệ, thực-hành pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp, trở thành bậc Thánh A-ra- hán là bậc xứng đáng được chúng-sinh lễ bái cúng dường.

Những thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, cung kính lễ bái cúng dường bốn thứ vật dụng đến chư Thánh-Tăng, để mong được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

Để đáp ứng lại lòng mong ước của thí-chủ cho được thành tựu như ý, Chư Tăng phải là bậc Thánh-Tăng có đầy đủ 5 đức cao thượng: giới-đức hoàn toàn, có định- đức hoàn toàn, có tuệ-đức hoàn toàn, có giải-thoát-đức hoàn toàn, có giải-thoát-tri-kiến-đức hoàn toàn.

* Như tích Ngài Trưởng-lão Ayyamitta(1) hành đạo trong động Kassaka gần một xóm nhà. Hằng ngày, Ngài Trưởng-lão đi khất thực trong xóm nhà ấy, có một gia đình nghèo khổ chỉ có hai mẹ con có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo. Hai mẹ con hằng ngày hộ độ để bát cúng dường đến Ngài Trưởng-lão Ayyamitta và xem Ngài như là người thân trong gia đình.

Một hôm, người mẹ vào rừng, đi làm sớm, trước khi đi bà căn dặn con gái rằng:

  • Này con gái yêu quý! Gạo ngon, sữa bò, bơ, đường thốt nốt, ... mẹ để ở kia. Khi sư huynh con đến khất thực, con hãy lấy những thứ đó nấu để bát cho sư huynh, phần còn lại, con ăn nhé!
Người con gái hỏi:

 
   
 

 

1 Bộ Chú-giải Dīghanikāya, Mahāvagga, kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta.

 

  • Thưa mẹ! Còn mẹ ăn gì?
  • Con à! Mẹ đã ăn cơm nguội ngày hôm qua còn lại với nước canh chua rồi.
  • Thưa mẹ! Còn buổi trưa mẹ ăn gì?
  • Này con gái yêu quý! Buổi trưa, con nấu cháo hạt tấm trộn với rau, để mẹ về ăn nghe!
Trong khi hai mẹ con bà thí-chủ đang nói chuyện với nhau, khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ayyamitta đi khất thực đứng nghe được câu chuyện giữa hai mẹ con.

Ngài Trưởng-lão tự dạy mình rằng: “Này Ayyamitta! Ngươi hãy lắng nghe đây! Sáng nay, bà thí-chủ ăn cơm nguội còn lại với nước canh chua.

Trưa nay, bà ăn cháo hạt tấm với rau. Còn những thứ gạo ngon, sữa bò, bơ, đường thốt nốt, ... bà lại để giành nấu để bát cúng dường cho ngươi.

Bà làm như vậy, không phải bà mong được những thứ của cải gì nơi ngươi, mà thật ra, bà mong được thành- tựu quả báu an-lạc trong cõi người (manussa-sampatti), mong được thành-tựu quả báu an-lạc trong cõi trời (devasampatti) và mong được thành-tựu quả báu an-lạc Niết-bàn Nibbānasampatti). Những quả báu mà bà mong ước, ngươi có thể đáp ứng được hay không?

Vậy, nếu ngươi chưa diệt tận được phiền-não trầm- luân, chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán thì ngươi không xứng đáng thọ nhận vật thực của bà thí-chủ ấy!”

Sau khi tự dạy mình xong, Ngài Trưởng-lão không đi khất thực mà trở về động cất bát, ngồi phát nguyện rằng: “Arahattaṃ apāpuṇitvā na nikkhamissāmi: Chưa chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, ta sẽ không rời khỏi nơi này.”

 

Do nhờ pháp-hành giới trong sạch làm nền tảng, Ngài Trưởng-lão Ayyamitta thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trong khoảng thời gian không lâu, Ngài Trưởng-lão đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền- não trầm-luân, mọi tham-ái, mọi ác-pháp không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Sau khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán xong, thời gian vẫn còn thời giờ sớm, nên Ngài Trưởng-lão mang bát, đi vào xóm để khất thực.

Đang chờ đợi Ngài Trưởng-lão đến, đứa em gái cung kính đảnh lễ cúng dường phần vật thực để vào bát của Ngài Trưởng-lão Ayyamitta, rồi Ngài Trưởng-lão đi trở về động.

Nhìn thấy Ngài Trưởng-lão có gương mặt trong sáng lạ thường, người con gái cảm nhận rằng: Hôm nay, sư Huynh thật đáng tôn kính biết dường nào!

Buổi chiều, khi người mẹ vừa về đến nhà, cô gái liền chạy ra đón mừng mẹ và khoe rằng:
  • Thưa mẹ! Hôm nay sư Huynh có gương mặt trong sáng lạ thường hơn mọi ngày. Thật là xứng đáng tôn kính lễ bái cúng dường biết dường nào! Mẹ à.
Nghe đứa con gái yêu quý khoe như vậy, bà thí-chủ phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ nghĩ rằng:
  • Hôm nay, Ngài Trưởng-lão, con trai cao quý của ta chắc đã hoàn thành xong phận sự của bậc xuất-gia tỳ- khưu rồi thì phải!

Qua tích này hiểu được: “Thật ra, hàng phàm-nhân chắc chắn không thể nào biết được tâm của bậc Thánh- nhân, song về sắc diện của bậc Thánh-nhân được biểu

 

hiện trên gương mặt trong sáng lạ thường, hành vi cử chỉ đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, ... trang nghiêm khác thường”. Do đó, hạng phàm-nhân có trí-tuệ nhận thức tinh tế cũng có thể biết được đó là những Bậc đáng được tôn kính.

Tương tự như trường hợp Ngài Đại-Trưởng-Lão Sāriputta khi còn là vị đạo-sĩ Upatissa, đệ-tử của vị Đạo-sư Sañcaya.

Khi nhìn thấy Ngài Trưởng-lão Assaji đang đi vào kinh-thành Rājagaha để khất thực, với dáng đi nghiêm trang, đôi mắt nhìn xuống, … Vị đạo sĩ Upatissa phát sinh đức-tin trong sạch nơi Ngài Trưởng-lão Assaji, nên thầm nghĩ rằng: “Vị tỳ-khưu này chắc là bậc Thánh A- ra-hán, Bậc xứng đáng được tôn kính trong đời này. Vậy, ta nên đến gần gũi thân cận với Ngài, rồi thỉnh Ngài thuyết pháp tế độ ta”.

Vị đạo sĩ Upatissa đến hầu đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Assaji, kính thỉnh Ngài Trưởng-lão thuyết pháp.

Ngài Trưởng-lão Assaji thuyết một bài kệ gồm có 4 câu, vị đạo-sĩ Upatissa vừa mới nghe 2 câu đầu, liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu tại nơi ấy.

Như vậy, hạng thiện trí phàm-nhân có trí-tuệ tinh tế, có nhận thức sâu sắc cũng có thể suy đoán biết được bậc Thánh-nhân thật xứng đáng được tôn kính, qua phần giới-đức, được biểu hiện nơi thân và khẩu của bậc Thánh.

Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng được tôn kính, để cho chúng-sinh lễ bái cúng dường.

 

Cho nên, ân-đức Tăng-bảo này gọi là Sāmīcippaṭi- panno Bhagavato sāvakasaṃgho.

  • Cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā, esa Bhagavato sāvakasaṃgho:
  • Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo tâm Siêu-tam-giới).
Chư Thánh thanh-văn có 4 đôi:
  • Nhập-lưu Thánh-đạo ® Nhập-lưu Thánh-quả.
  • Nhất-lai Thánh-đạo ® Nhất-lai Thánh-quả.
  • Bất-lai Thánh-đạo ® Bất-lai Thánh-quả.
  • A-ra-hán Thánh-đạo ® A-ra-hán Thánh-quả.

Chư Thánh thanh-văn có 8 bậc Thánh: 4 Thánh-đạo + 4 Thánh-quả

  • Nhập-lưu Thánh-đạo (Sotāpattimagga).
  • Nhất-lai Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga).
  • Bất-lai Thánh-đạo (Anāgāmimagga).
  • A-ra-hán Thánh-đạo (Arahattamagga).
  • Nhập-lưu Thánh-quả (Sotāpattiphala).
  • Nhất-lai Thánh-quả (Sakadāgāmiphala).
  • Bất-lai Thánh-quả (Anāgāmiphala).
  • A-ra-hán Thánh-quả (Arahattaphala).

4 Bậc Thánh-nhân

  • Bậc Thánh Nhập-lưu (Sotāpanna).
  • Bậc Thánh Nhất-lai (Sakadāgāmī).
  • Bậc Thánh Bất-lai (Anāgāmī).
  • Bậc Thánh A-ra-hán (Arahanta).

 

  1. Ân-Đức Tăng-Bảo Thứ Năm:

Āhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho

(Cách đọc: A-hú-nây-dô Phá-gá-vóa-tô Xa-vóa-cá-xăng-khô)

Āhuneyyo: Chư Thánh-tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí-chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được quả báu lớn.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là Bậc xứng đáng thọ nhận những vật dụng mà thí-chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được những quả báu, sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lớn lao và lâu dài.

Tạo Phước-Thiện Trong Phật-Giáo, Ngoài Phật-Giáo

Cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ nào đã tạo mọi phước- thiện như bố-thí, giữ giới, hành-thiền, v.v… trong thời kỳ Phật-giáo.

Cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ ấy sau khi chết tại cõi người, dục-giới thiện-nghiệp có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ trên cõi trời Tam-thập tam-thiên, có hào quang sáng chói toả ra lấn át hào quang của các chư-thiên khác kể cả Đức- vua-trời Sakka trị vì cõi trời Tam-thập tam-thiên.

Đức-vua-trời Sakka cảm thấy tủi thân phận mình vì hào quang của mình kém thua hào quang của các vị thiên-nam đã tạo phước-thiện trong thời-kỳ Đức-Phật xuất hiện trên thế gian.

* Tích Đức-vua trời Sakka trong tích Mahākassapat- therapiṇḍapātadinnavatthu(1) được tóm lược như sau:

 
   
 

 

1 Dhammapadaṭṭhakathā, Mahākassapattherapiṇḍapātadinnavatthu.

 

Một hôm, Đức-vua trời Sakka dùng thiên-nhãn theo dõi thấy Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa nhập diệt- thọ-tưởng suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7 mới xả, Đức-vua trời Sakka biết Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm bi tế độ những người nghèo khổ, nên chờ ngày Ngài Đại- Trưởng-lão xả diệt-thọ-tưởng. Đức-vua trời Sakka truyền gọi bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sujātā, cả hai cùng hiện xuống cõi người, hóa thành người già nghèo khổ đáng thương, sống trong một cái chòi lá nhỏ bên ven đường mà Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa đi khất thực ngang qua.

Đức-vua trời Sakka biến hóa thành một cụ già đáng thương và Chánh-cung Hoàng-hậu Sujātā cũng biến hoá thành bà già đáng thương sống trong chòi lá, những vật thực đã chuẩn bị sẵn sàng.

Vừa thấy Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa đi khất thực ngang qua trước chòi lá, cụ già (Đức-vua trời Sakka) bèn gọi bà già (Hoàng-hậu Sujātā) rằng:

  • Bà ơi! Ngài Đại-Trưởng-Lão đang đến trước chòi lá của mình, bà có gì đem ra làm phước-thiện bố-thí để bát cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão không?

Bà già (hoàng-hậu Sujātā) bèn tâu lại với ông cụ

(Đức-vua trời Sakka) rằng:

  • Ông à! Ông kính thỉnh Ngài dừng lại tế độ chúng ta.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa đứng lại. Ông già xin nhận cái bát của Ngài Đại-Trưởng-lão đem vào đặt đầy vật thực ngon lành, rồi cả hai ông bà già đáng thương đem cái bát ra thành kính dâng lên Ngài Đại- Trưởng-lão.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa vừa nhận cái bát, vật thực bốc lên mùi hương lạ thường, Ngài Đại-

 

Trưởng-lão suy xét biết hai vợ chồng già này chính là Đức-vua trời Sakka Chánh-cung Hoàng-hậu Sujātā, Ngài Đại-Trưởng-lão liền quở trách rằng:

  • Này Đức-vua-trời Sakka! Lão Tăng tế độ người nghèo khổ, tại sao Đức-vua trời Sakka và Chánh-cung Hoàng-hậu Sujātā biến hóa làm người già giành phước- thiện của người nghèo như vậy?

Đức-vua trời Sakka bạch với Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa rằng:

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-Lão, kính xin Ngài Đại- Trưởng-lão có tâm bi tế độ chúng con. Tiền-kiếp của chúng con làm mọi phước-thiện trong thời kỳ không có Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng xuất hiện trên thế gian.

Chúng con cảm thấy tủi thân phận nghèo nàn, bởi vì quả báu, hào-quang của con không sánh được với các chư thiên-nam, mà tiền-kiếp của họ đã từng làm phước- thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật, đến chư Đại-đức tỳ-khưu Tăng.

Đức-vua Sakka vô cùng hoan hỷ tự thốt lên rằng:
  • Aho! Dānaṃ paramadānaṃ Kassape suppatiṭṭhitaṃ.(1)
  • Ô! Được làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa, thật là phước-thiện bố-thí vô cùng cao thượng!

Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là các bậc có giới-đức, có định-đức, có tuệ-đức, có giải-thoát- đức, có giải-thoát-tri-kiến-đức đầy đủ, là phước điền cao thượng của chúng-sinh không đâu sánh được. Cho nên, chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn xứng đáng thọ nhận những vật dụng mà thí-chủ có đức-tin trong

 
   
 

 

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Mahākassapattherapiṇḍapātadinnavatthu.

 

sạch nơi Tam-bảo, từ phương xa đem đến làm phước- thiện bố-thí cúng dường đến quý Ngài.

Phước-thiện bố-thí cúng dường dù ít dù nhiều đến chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn, cũng được quả báu của phước-thiện ấy lớn lao vô lượng không sao kể xiết.

Cho nên, ân-đức Tăng-bảo này gọi là Āhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

 

 

  1. Ân-Đức Tăng-Bảo Thứ Sáu:

Pāhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Pa-hú-nây-giô Phá-gá-vóa-tô Xa-vóa-cá-xăng-khô)

Pāhuneyyo: Chư Thánh-tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí-chủ dành cho những vị khách quý như quý Ngài.

Khách quý có 2 hạng:

  • Khách quý hạng thường đó là bà con thân quyến, bạn bè, những người ân nhân, ... của mình trong mỗi kiếp.
  • Khách quý hạng đặc biệt đó là chư Thánh-Tăng, chư phàm-tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác rất hiếm có trong thế gian, bởi vì Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian là một điều khó, khi nào có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trên thế gian, khi ấy mới có chư Thánh-Tăng, chư phàm-tăng thanh-văn đệ- tử của Đức-Phật.
Thật vậy, có khi 1 a-tăng-kỳ đại-kiếp trái đất trải qua

4 a-tăng-kỳ thành-trụ-hoại-không, mà không có một

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian,

 

thì cũng không có chư Thánh-Tăng, chư phàm-tăng trên thế gian.

Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí đến khách hạng thường sẽ được quả báu trong kiếp hiện-tại và trong kiếp vị-lai có giới hạn. Còn thí-chủ làm phước-thiện bố-thí đến khách hạng đặc biệt là chư Thánh-Tăng, chư phàm- tăng sẽ được quả báu lớn lao trong kiếp hiện-tại và trong vô lượng kiếp vị-lai, không có giới hạn.

Hơn nữa, phước-thiện ấy lại còn làm phước duyên cho sự giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Đối với hạng khách quý là chư Thánh-Tăng, chư phàm-tăng, người thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, nên tôn kính đón rước, lễ bái cúng dường đến chư Thánh-Tăng, chư phàm-tăng, chắc chắn sẽ được nhiều quả báu lớn cao quý.

* Trong bài kinh Kulasutta(1) Đức-Phật dạy:

  • Này chư tỳ-khưu! Chư tỳ-khưu có giới đến gia đình, thì những người trong gia đình sẽ được 5 quả báu lớn cao quý như sau:
  1. Tỳ-khưu có giới đến gia đình, những người trong gia đình nhìn thấy và phát sinh thiện-tâm trong sạch. Những người trong gia đình ấy đã tạo các phước-thiện để được tái-sinh lên cõi trời dục-giới.
  2. Khi họ đón tiếp cung kính lễ bái tỳ-khưu ấy, thỉnh ngồi trên những chỗ cao quý. Những người trong gia đình ấy đã tạo các phước-thiện để được tái-sinh vào trong gia đình thuộc dòng dõi cao quý.
  3. Sau khi tỳ-khưu ấy ngồi chỗ cao quý, những người trong gia đình tiếp đãi mọi thứ cần thiết như dâng cơm

 
   
 

 

1 Aṅguttaranikāya, kinh Kulasutta.

 

nước, thuốc trị bệnh, … với thiện-tâm trong sạch, hoan hỷ, không có tâm keo kiệt bỏn xẻn, ... Những người trong gia đình ấy đã tạo các phước-thiện để được quả báu quyền cao chức trọng.

  1. Khi họ làm phước-thiện bố-thí đến tỳ-khưu ấy tùy theo khả năng của mình. Những người trong gia đình ấy đã tạo các phước-thiện để có được nhiều của cải tài sản, giàu sang phú quý.
  2. Khi họ lắng nghe vị tỳ-khưu thuyết giảng chánh- pháp, hoặc vấn đạo, ... Những người trong gia đình ấy đã tạo phước-thiện để phát sinh trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật tánh của các pháp, ...
  • Này chư tỳ-khưu! Khi tỳ-khưu có giới đến gia đình, thì những người trong gia đình sẽ tạo được 5 phước- thiện, và được 5 quả báu lớn cao quý như vậy.

Khách quý có 2 hạng: Khách quý hạng thường và khách quý hạng đặc biệt.

Khách quý hạng thường là bà con thân bằng quyến thuộc, bạn hữu, … mỗi kiếp tử sinh luân-hồi đều có được, đều gặp được.

Còn khách quý hạng đặc biệt là chư Thánh-Tăng, chư phàm-tăng không phải kiếp nào cũng có thể gặp được, gần gũi, thân cận được. Những chúng-sinh nào có đầy đủ phước duyên mới có được cơ hội tốt, có duyên lành gặp được chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng là chư khách quý hạng đặc biệt cao thượng.

Những chúng-sinh ấy có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo, đón tiếp, tôn kính, lễ bái cúng dường dù ít hay nhiều, chắc chắn sẽ tạo được nhiều phước-thiện lớn cao quý vô lượng, có được nhiều quả báu cũng lớn cao quý vô lượng đáng hài lòng cả trong kiếp hiện-tại lẫn vô số

 

kiếp vị-lai, và đặc biệt còn tạo được duyên lành để giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

Cho nên, ân-đức Tăng-bảo này gọi là Pāhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

 

 

  1. Ân-Đức Tăng-Bảo Thứ Bảy:

Dakkhiṇeyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Đắc-khí-nây-giô Phá-gá-vóa-tô Xa-vóa-cá-xăng-khô)

Dakkhiṇeyyo: Chư Thánh-tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đem kính dâng cúng dường đến quý Ngài, để mong được các quả báu tốt lành cho mình và còn hồi hướng các phước-thiện ấy đến những người thân quyến.

Người thí-chủ tin chắc chắn rằng: “Khi làm phước- thiện bố-thí cúng dường đến chư Thánh-Tăng, chư phàm-tăng, thì họ đã tạo được mọi phước-thiện thanh cao, chắc chắn sẽ phát sinh những quả báu tốt lành, lớn lao vô lượng đến cho họ trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai. Và họ còn có thể hồi-hướng phần phước-thiện thanh cao ấy đến cho ông bà, cha mẹ, bà con quyến thuộc, những ân nhân của họ và tất cả chúng-sinh khác đã quá vãng.

Nếu chúng-sinh nào hay biết mà phát sinh thiện-tâm hoan hỷ “sādhu” phần phước-thiện thanh cao (pattānu- modanā) mà thân quyến đã hồi-hướng, thì chúng-sinh ấy sẽ có được các quả báu an-lạc đến với họ.

Nếu chúng-sinh ấy đang sống trong cảnh khổ thì giải thoát khỏi cảnh khổ ấy, liền tái-sinh trong cõi thiện-giới:

 

cõi người hoặc cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc. Nếu chúng-sinh đang ở trong cảnh an-lạc, thì sự an-lạc càng thêm tăng trưởng.

Và thí-chủ còn có thể kính biếu phần phước-thiện thanh cao ấy đến cho ông bà, cha mẹ, bà con thân quyến, bạn hữu, và tất cả chúng-sinh đang hiện hữu trong cõi người.

Nếu những người ấy phát sinh thiện-tâm hoan hỷ “sādhu” phần phước-thiện thanh cao (pattānumodanā) thì sẽ có các quả tốt, quả an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.”

Muốn thành tựu được những quả báu thật sự, thì thí- chủ nên làm phước-thiện bố-thí cúng dường hướng đến chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng, bởi vì, chư Thánh- Tăng có ân-đức Dakkhiṇeyyo.

* Như tích Bố-thí cơm cháy.

Trong bộ Vimānavatthu, tích Ācāmadāyikāvimāna,

được tóm lược như sau:

Một bà già nghèo khổ ăn mày, sống nhờ đằng sau hiên nhà người khác, người ta nhìn thấy bà đáng thương, nên thường cho nước cơm, cháo, miếng cơm cháy, … để bà ăn sống qua ngày.

Một hôm, Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa vừa xả diệt-thọ-tưởng, rồi xem xét nên đi khất thực tế độ người nào. Với tuệ-nhãn, Ngài Đại-Trưởng-lão nhìn thấy một bà già nghèo khổ, gần chết, nếu bà chết, thì có thể đọa địa-ngục.

Với tâm bi tế độ bà tránh khỏi cõi địa-ngục, do nhờ phước-thiện bố-thí miếng cơm cháy, bà sẽ tái-sinh lên cõi trời Hóa-lạc-thiên.

 

Xem xét thấy như vậy, buổi sáng hôm ấy, Ngài Đại- Trưởng-lão mặc y mang bát đi khất thực đến chỗ ở của bà. Trong khi đó, Đức-vua trời Sakka biến hóa thành người già đem vật thực đến để cúng dường Ngài Đại- Trưởng-lão. Ngài Đại-Trưởng-lão biết người già đó là Đức-vua trời Sakka, nên bảo rằng:

- Này Đức-vua trời Sakka! Đức-vua không nên giành phước-thiện của người nghèo khổ.

Ngài Đại-Trưởng-lão không chịu mở nắp bát, vẫn đứng yên trước bà già nghèo khổ kia.

Bà nghĩ: “Ngài Đại-Trưởng-Lão là bậc có giới-đức lớn, được phần đông tôn kính, phận ta nghèo khổ không có gì quý giá để làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão.

Hằng ngày, ta chỉ có nước cơm và miếng cơm cháy không ngon lành gì cả. Vả lại, còn đựng trong một đồ dùng không sạch sẽ, ta nào dám làm phước-thiện bố-thí cúng dường để bát đến Ngài được.” Nên bà bạch rằng:

- Kính thỉnh Ngài đi nơi khác, con không có gì xứng đáng cúng dường đến Ngài cả. Bạch Ngài.

Ngài Đại-Trưởng-lão vẫn đứng yên không đi nơi khác, những người khác đem vật thực đến để bát dâng cúng, Ngài Đại-Trưởng-lão vẫn không mở nắp bát để nhận.

Bà già nghĩ tiếp rằng: “Chắc chắn Ngài Đại-Trưởng- Lão đứng đây để tế độ ta.”

Nghĩ xong, bà phát sinh đại-thiện-tâm có đức-tin trong sạch muốn làm phước-thiện bố-thí. Bà đem miếng cơm cháy đến, Ngài Đại-Trưởng-lão liền mở nắp bát, bà thành kính cúng dường, đặt miếng cơm cháy vào trong bát của Ngài Đại-Trưởng-lão một cách tôn kính.

 

Ngài Đại-Trưởng-Lão tỏ vẻ muốn thọ thực, để cho bà nhìn thấy, làm cho bà càng phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch hoan hỷ trong việc phước-thiện bố-thí của bà.

Mọi người hiểu được ý Ngài Đại-Trưởng-lão, nên sửa soạn trải chỗ ngồi, rồi kính thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão.

Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa ngồi thọ thực miếng cơm cháy ấy, uống nước xong, rồi Ngài Đại- Trưởng-lão thuyết pháp tế độ bà già nghèo khổ ăn mày. Ngài Đại-Trưởng-lão cho bà biết: “Bà đã từng là thân mẫu của Ngài trong tiền-kiếp”.

Nghe Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa cho bà biết như vậy, bà già nghèo khổ phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ có cơ hội làm phước-thiện bố-thí cúng- dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão với đức-tin trong sạch.

Về sau, không lâu bà chết, phước-thiện bố-thí thanh cao ấy cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam trong cõi Hóa- lạc-thiên (cõi thứ 5 trong 6 cõi trời dục-giới) có nhiều oai lực, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy.

* Tích Sāriputtattheramātupeta(1): Ngạ-quỷ thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta được tóm lược như sau:

Nữ ngạ-quỷ mà tiền-kiếp của bà đã từng là thân mẫu của tiền-kiếp thứ 5 của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta (kể từ kiếp hiện-tại).

Tiền-kiếp của nữ ngạ-quỷ là vợ của ông Bà-la-môn giàu có nhiều của cải. Ông Bà-la-môn có đức-tin trong sạch, có tác-ý đại-thiện-tâm, thường làm phước-thiện bố- thí cúng dường vật thực, đồ uống, y phục, … đến Sa-

 
   
 

 

1 Bộ Petavatthu, tích Sāriputtattheramātupeta.

 

môn, Bà-la-môn; bố-thí, phân phát đến những người nghèo khổ, người qua đường, …

Một hôm, ông Bà-la-môn có công việc phải đi nơi khác, ông dạy bảo vợ ở nhà thay ông gìn giữ truyền thống gia đình, lo công việc làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Sa-môn, Bà-la-môn, phân phát vật thực, đồ dùng đến những người nghèo khổ đói khát, …

Người vợ ở nhà không làm theo lời dạy bảo của chồng. Hễ có ai đến nhà, bà buông lời mắng nhiếc, ăn phẩn,

uống nước tiểu, liếm máu mủ, nước miếng,

Sau khi bà ấy chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh vào hạng ngạ-quỷ đói khát, ăn uống đồ dơ bẩn, ăn phẩn, uống nước tiểu, mủ, nước miếng, … chịu bao nỗi khổ cực đói khát, lạnh lẽo do quả của ác-nghiệp của bà đã tạo trải qua thời gian lâu dài.

Nữ ngạ-quỷ nhớ lại tiền-kiếp đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, muốn đến nương nhờ Ngài Đại-Trưởng-lão, chư-thiên giữ cổng ngăn cản không cho nữ ngạ-quỷ vào. Nữ ngạ-quỷ thưa với vị chư- thiên rằng:

  • Thưa chư-thiên, tiền-kiếp tôi đã từng là thân-mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, xin chư-thiên cho tôi được vào nương nhờ nơi Ngài Đại-Trưởng-lão.

Nữ ngạ-quỷ được vào đứng khép nép, Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta nhìn thấy nữ ngạ-quỷ, với tâm bi mẫn bèn hỏi rằng:

  • Này ngạ-quỷ! Ngươi có thân hình trần truồng, thân mình run rẩy, ốm yếu da bọc xương thật đáng thương, Ngươi là ai, lão Tăng tế độ ngươi thế nào?
Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão hỏi, nữ ngạ-quỷ thưa rằng:

 

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, tiền-kiếp của con đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão, do ác- nghiệp cho quả tái-sinh làm ngạ-quỷ chịu cảnh đói khát, đành phải ăn uống những đồ dơ bẩn như nước miếng, nước mũi, đàm người ta nhổ bỏ, uống nước vàng chảy ra từ xác chết, ăn uống đồ dơ của đàn bà, uống máu mủ của đàn ông bị chặt tay chân, uống máu mủ các loài động vật, sống không có nơi nương tựa, trong các nghĩa địa, bãi tha ma.
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài Đại- Trưởng-lão làm phước-thiện bố-thí, rồi hồi hướng phần phước-thiện ấy đến cho con. Nhờ phước-thiện ấy, may ra con mới thoát khỏi cảnh khổ ngạ-quỷ như thế này.
Lắng nghe lời than vãn của nữ ngạ-quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão trong tiền-kiếp, Ngài Trưởng-Lão Sāriputta phát sinh tâm bi mẫn, tìm cách cứu giúp nữ ngạ-quỷ ấy thoát khỏi cảnh khổ.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta thuật lại cho Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, Ngài Trưởng-lào Anuruddha, Ngài Trưởng-lão Mahākappina nghe để cứu giúp nữ ngạ-quỷ giải thoát khỏi cảnh khổ.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna đi khất thực vào cung điện gặp Đức-vua Bimbisāra. Đức-vua thỉnh cầu Ngài Đại-Trưởng-lão cần những thứ vật dụng nào để Đức-vua dâng cúng.

Nhân dịp ấy, Ngài Trưởng-Lão Mahāmoggallāna thưa cho Đức-vua biết về chuyện nữ ngạ-quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài Trưởng-Lão Sāriputta, sống trong cảnh đói khổ không có nơi nương nhờ.

Nghe như vậy, Đức-vua truyền lệnh xây cất 4 cái cốc chỗ ở của chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Khi xây cất xong,

 

Đức-vua làm lễ dâng đặc biệt đến Ngài Trưởng-Lão Sāriputta 4 cái cốc ấy.

Một lần nữa, Ngài Trưởng-Lão Sāriputta làm lễ dâng những cốc này đến chư tỳ-khưu-Tăng từ bốn phương, có Đức-Phật chủ trì, xin hồi hướng phần phước-thiện này đến cho nữ ngạ-quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài trong tiền-kiếp.

Nữ ngạ-quỷ phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí mà Ngài Trưởng-Lão Sāriputta hồi hướng. Ngay sau khi phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí ấy, liền thoát khỏi kiếp ngạ- quỷ, được tái-sinh làm thiên-nữ có hào-quang sáng ngời, có thân hình xinh đẹp, y phục lộng lẫy, có lâu đài nguy nga tráng lệ, có đầy đủ của cải của chư-thiên, hưởng mọi sự an-lạc cao quý trong cõi trời.

Hôm sau, vị thiên-nữ ấy hiện xuống cõi người cùng lâu đài, đến đảnh-lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna. Ngài Đại-Trưởng-lão hỏi thiên-nữ rằng:

  • Này thiên-nữ! Ngươi có sắc đẹp tuyệt trần, nhiều oai lực đặc biệt, có hào quang sáng chói khắp mọi nơi như vầng trăng sáng. Do phước-thiện gì mà ngươi có được quả báu sinh trong lâu đài nguy nga tráng lệ, có đầy đủ mọi thứ trong cõi trời, đáng hài lòng như vậy?

Vị thiên nữ bạch với Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā- moggallāna rằng:

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, trong tiền-kiếp con từng là thân-mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, do ác-nghiệp cho quả tái-sinh làm nữ ngạ-quỷ chịu cảnh khổ đói khát đành phải ăn uống đồ dơ bẩn như máu, mủ,

… Vừa qua, con đã đến hầu Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, cầu xin Ngài Đại-Trưởng-lão có lòng bi mẫn

 

cứu giúp con giải thoát khổ. Ngài Đại-Trưởng-lão đã làm phước-thiện bố-thí xong, rồi hồi-hướng đến cho con. Con đã phát-sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ phần phước- thiện ấy, nên con giải thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, được hoá sinh làm thiên-nữ hưởng được tất cả mọi sự an-lạc như Ngài Đại-Trưởng-lão đã thấy.

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con hiện xuống đây để đảnh lễ dưới chân Ngài và Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta là bậc Thánh đại-thiện-trí, có tâm bi mẫn cứu khổ chúng-sinh trong đời.
Những tích như trên có rất nhiều trong Tạng-Kinh Pāḷi và trong bộ Peṭavatthu, bộ Vimānavatthu.

Nếu trường hợp chính mình chưa có cơ hội làm phước-thiện, mà mình phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ phần phước-thiện của người khác, thì cũng được quả báu không kém.

Như tích Vihāravimāna (1) được tóm lược như sau:

* Tích Vihāravimāna

Một thuở nọ, Ngài Trưởng-lão Anuruddha ngự lên cung trời Tam-thập-tam-thiên nhìn thấy một thiên nữ xinh đẹp có hào quang sáng ngời chiếu tỏa khắp mọi hướng, có một lâu đài nguy nga tráng lệ, ... nên Ngài Trưởng-lão hỏi vị thiên nữ rằng:
  • Này thiên nữ! Ngươi đã từng tạo đại-thiện-nghiệp nào mà kiếp hiện-tại hoá-sinh làm thiên-nữ có được các quả báu đáng hài lòng như vậy?
Vị thiên nữ bạch với Ngài Trưởng-lão Anuruddha rằng:
  • Kính bạch Ngài Trưởng-lão, tiền-kiếp của con là người bạn thân của bà đại thí-chủ Visākhā trong kinh-

 
   
 

 

1 Bộ Vimānavatthu, tích Vihāravimāna.

 

thành Sāvatthi. Bà Visākhā cho người xây cất một ngôi chùa Pubbārama, sau đó, bà làm lễ kính dâng ngôi chùa ấy đến chư tỳ-khưu-tăng có Đức-Phật chủ trì. Con đã tham dự buổi lễ đó, con phát-sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phước-thiện kính dâng ngôi chùa Pubbārama ấy.

  • Kính bạch Ngài Trưởng-lão, do nhờ đại-thiện-tâm hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí cúng dường kính dâng ngôi chùa Pubbārama ấy, mà sau khi con chết, đại- thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh lên cõi trời Tam-thập- tam-thiên, trở thành một thiên-nữ có được các quả báu cao quý như vậy. Bạch Ngài.
Chư Thánh-Tăng là phước điền cao thượng của chúng-sinh. Quý Ngài xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng của thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.

Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến quý Ngài, để được phước-thiện thanh cao, mong được quả- báu tốt đến cho mình và những người thân khác, đặc biệt hồi-hướng phần phước-thiện thanh cao ấy đến những người thân quyến thuộc về nhóm ngạ-quỷ.

Cho  nên,  ân-đức  Tăng-bảo  này  được  gọi 

Dakkhiṇeyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

 

 

  1. Ân-Đức Tăng-Bảo Thứ Tám:

Añjalikaraṇīyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Ánh-chá-lí-cá-rá-ni-giô Phá-gá-vóa-tô Xa-vóa-cá- xăng-khô)

Añjalikaraṇīyo: Chư Thánh-tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng cho chúng-sinh chắp tay cung kính lễ bái cúng dường.

 

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn, xứng đáng cho chúng-sinh chắp tay lễ bái cúng dường, để cầu mong được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Chư Thánh-Tăng là những bậc có giới-đức hoàn toàn trong sạch, có định-đức, tuệ-đức, giải-thoát-đức, giải- thoát-tri-kiến-đức đầy đủ hoàn toàn, đã diệt tận được mọi phiền-não, nên thân, khẩu, ý của quý Ngài hoàn toàn trong sạch, không còn bị ô nhiễm bởi phiền-não. Cho nên, chư Thánh-Tăng xứng đáng cho tất cả chúng- sinh: nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên tôn kính, chắp tay lễ bái cúng dường.

* Tích Đức-vua trời Sakka đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng kinh Saṃghavandanāsutta,(1) được tóm lược như sau:

  • Này chư tỳ-khưu! Khi Đức-vua trời Sakka cõi Tam- thập-tam-thiên ngự xuống từ lâu đài Vejayanta, hướng tâm đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng.
  • Này chư tỳ-khưu! Khi ấy, thiên-nam Mātali, người đánh xe của Đức-vua trời Sakka tâu rằng:
  • Muôn tâu Đức-Thiên-vương, loài người sinh từ nơi ô trược, có sắc thân ô trược, thường đói khát nghèo hèn, đáng lẽ nên cung kính Đức-Thiên-vương. Vì sao Đức- Thiên-vương lại đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng ấy.

Vậy, kính xin Đức-Thiên-vương giảng giải cho hạ thần hiểu rõ phạm-hạnh của chư tỳ-khưu-Tăng ấy như thế nào?”

Đức-vua trời Sakka giảng giải cho Mātali hiểu rằng:

  • Này Mātali! Trẫm thành kính đảnh lễ chư tỳ-khưu- Tăng ấy, bởi vì, quý Ngài sống trong rừng, không có

 
   
 

 

1 Samyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Saṃghavandanāsutta.

 

nhà, không cất giữ lúa gạo trong kho. Quý Ngài sống bằng hạnh đi khất thực, thọ dụng những vật thực đã chín và độ trước giờ ngọ. Quý Ngài là bậc thiện-trí, thuyết pháp chân thật đem lại sự lợi ích cho chúng- sinh, quý Ngài sống nơi thanh-tịnh với đời sống phạm- hạnh cao thượng.

  • Này Mātali! Nhóm chư-thiên có oan trái với nhóm thiên A-su-ra, và ngược lại nhóm thiên A-su-ra cũng có oan trái với nhóm chư-thiên; nhân-loại có oan trái lẫn nhau, còn chư tỳ-khưu-Tăng sống không oan trái, không thù hận. Chư-thiên, nhân-loại còn chấp thủ, còn chư Thánh-Tăng không còn chấp thủ.
  • Này Mātali! Vì vậy, Trẫm cung kính đảnh lễ chư tỳ- khưu-Tăng ấy”.
Khi nghe lời giảng giải của Đức-vua Sakka như vậy, Mātali bèn tâu rằng:
  • Muôn tâu Đức-Thiên-vương, Đức-Thiên-vương cung kính lễ bái đến chư tỳ-khưu-Tăng nào, thì kẻ hạ thần cũng cung kính lễ bái đến chư tỳ-khưu-Tăng ấy.

Đức-vua trời Sakka cao cả nhất trong cõi Tam-thập- tam-thiên giảng dạy xong, cung kính đảnh lễ chư tỳ- khưu-Tăng, rồi lên xe ngự đi.

Chư Thánh-Tăng là những bậc xứng đáng cho nhân- loại, chư-thiên, phạm-thiên, cung kính lễ bái cúng dường, và chư phàm-Tăng là những bậc đang thực-hành pháp- hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, duy trì chánh-pháp của Đức-Thế-Tôn cũng xứng đáng được cung kính lễ bái cúng dường.

Những chúng-sinh có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo, thường lễ bái cúng dường đến bậc có giới-đức

 

thanh-tịnh sẽ được 4 pháp lành: Sống lâu, sắc đẹp, an- lạc, khỏe mạnh. Như Đức-Phật dạy:

“Abhivādānasīlissa, niccaṃ vuḍḍhāpacāyino. Cattāro dhammā vaḍḍhanti, āyu vaṇṇo sukhaṃ balaṃ”(1)

Đối với người thường lễ bái cúng dường, Tỏ lòng tôn kính đến bậc Trưởng-lão,

Người ấy thường tăng trưởng bốn quả báu, Sống lâu, sắc đẹp, an-lạc, sức mạnh.

Hoặc chúng-sinh có đức-tin nơi Tam-bảo, hết lòng thành kính lễ bái cúng dường đến Tam-bảo: Đức-Phật- bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, thì sẽ được 5 quả báu tốt lành là:

  • Āyu: Sống lâu trường thọ.
  • Vaṇṇa: Có sắc đẹp khả ái.
  • Sukha: Thân tâm thường được an-lạc.
  • Bala: Có sức mạnh thân tâm
  • Paṭibhāṇa: Có trí-tuệ sắc bén, nhanh trí.

Cho nên, ân-đức Tăng-bảo này gọi là Añjalikaraṇīyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

 

 

  1. Ân-Đức Tăng-Bảo Thứ Chín:

Anuttaraṃ   puññakkhettaṃ   lokassa   Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Á-nút-tá-răng pun-nhắc-khết-tăng lô-cắt-xá Phá-gá-vóa-tô Xa-vóa-cá-xăng-khô)

Anuttaraṃ puññakkhettaṃ: Chư Thánh-tăng thanh- văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là phước điền cao thượng của chúng-sinh không đâu sánh được.

 
   
 

 

1 Dhammapadagāthā câu kệ thứ 109.

 

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn, có giới-đức (sīla), định-đức (samādhi), tuệ-đức (paññā), giải-thoát-đức (vimutti), giải-thoát-tri- kiến-đức (vimuttiñāṇadassana) đầy đủ, … là phước-điền cao thượng của chúng-sinh không nơi nào sánh được.

Thật vậy, khi gieo giống phước-thiện dù ít dù nhiều, cũng sẽ được quả báu vô lượng trong kiếp hiện-tại và cả nhiều kiếp vị-lai. Một ví dụ để so sánh:
  • Chư Thánh Tăng, ví như thửa ruộng màu mỡ.
  • Thí-chủ có chánh kiến, ví như nông dân tài giỏi.
  • Tác-ý thiện-tâm bố-thí, ví như hạt giống tốt.
Người nông dân tài giỏi biết rõ thời vụ mùa màng, gieo hạt giống tốt trên thửa ruộng màu mỡ, chắc chắn khi thu hoạch sẽ được nhiều gấp bội.

Cũng như vậy, thí-chủ có chánh-kiến sở-nghiệp (kammassakatā sammādiṭṭhi: trí-tuệ chánh-kiến biết đúng nghiệp là của riêng mình, biết gieo giống phước- thiện dù ít dù nhiều nơi chư Thánh-Tăng (hoặc chư phàm-Tăng), phước điền cao thượng của chúng-sinh không nơi nào sánh được, họ chắc chắn được phước- thiện nhiều vô lượng, sẽ được quả báu vô lượng ngay cả trong kiếp hiện-tại lẫn vô số kiếp vị-lai.

Hơn thế nữa, gieo được duyên lành nơi Tam-bảo, để mong chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, mong chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn siêu-tam-giới, để giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

* Tích Thiên Nữ Lajādevadhītā(1)

Tích thiên nữ Lajādevadhītā được tóm lược như sau:

 
   
 

 

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Lajādevadhītā.

 

Trong thời kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, một cô bé nghèo được thuê giữ ruộng, cô mang theo một gói bắp rang để ăn trong ngày.

Sáng hôm ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa xả diệt-thọ-tưởng (nirodhasamāpatti) xong, xem xét thấy nên tế độ cô bé nghèo, nên Ngài Đại-Trưởng-lão mặc y mang bát đi thẳng đến chỗ cô bé để khất thực.

Nhìn thấy Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa từ xa đến, cô bé vô cùng hoan hỷ liền ra đón và đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão xong, đem phần bắp rang để ăn trong ngày, cô kính xin làm phước-thiện bố-thí để bát cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão.

Trong khi cô đang phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ với phước-thiện bố-thí cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng- lão, trên đường trở lại chỗ ở, cô bị một con rắn độc cắn chết. Do nhờ phước-thiện bố-thí cúng dường ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nữ có tên là Lajādevadhītā trong cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

Sau đó, khi nhớ lại tiền-kiếp của mình, thiên-nữ Lajādevadhītā vô cùng biết ơn Ngài Đại-Trưỡng-Lão, cô hiện xuống chỗ ở của Ngài Đại-Trưởng-lão quét dọn, đem nước dùng, ... cho Ngài Đại-Trưởng-lão, nhưng Ngài Đại-Trưởng-lão không cho phép cô làm những công việc ấy, nên cô buồn tủi khóc.

Đức-Thế-Tôn thấy vậy, liền hiện đến thuyết pháp tế độ thiên-nữ.

Sau khi nghe Đức-Phật thuyết pháp, thiên-nữ Lajādevadhītā chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết- bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu. Cô vô cùng hoan hỷ đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép trở về cõi trời.

 

* Tích Ông Puṇṇa

Tích ông Puṇṇa, người làm thuê của ông phú hộ Sumana, được tóm lược như sau:

Trong thời kỳ Đức-Phật Gotama còn hiện hữu trên thế gian, có gia đình ông Puṇṇa nghèo khổ, làm ruộng thuê của ông phú hộ Sumana, mọi người trong gia đình đều có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo.

Một buổi sáng ông đi cày ruộng, cũng vào buổi sáng hôm ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta xả diệt-thọ- tưởng (sau 7 ngày đêm), đi khất thực để tế độ gia đình ông Puṇṇa, nên Ngài Đại-Trưởng-lão đi thẳng về hướng ông Puṇṇa đang cày ruộng.

Nhìn thấy Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta từ xa đến, ông Puṇṇa liền bỏ cày, đến hầu đảnh lễ Ngài Đại- Trưởng-lão, dâng cúng cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống. Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta thọ nhận xong, đi theo đường hướng về nhà ông Puṇṇa, gặp vợ ông Puṇṇa đang đem cơm cho chồng. Bà đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta xong, bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ thọ nhận phần vật thực nghèo nàn này của gia đình chúng con.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tâm từ tế độ thọ nhận tất cả phần vật thực, bà vô cùng hoan hỷ phát nguyện:

  • Do nhờ phước-thiện bố-thí này của chúng con, cầu mong cho gia đình chúng con được một phần nhỏ pháp mà Ngài Đại-Trưởng-lão đã chứng đắc.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta chúc lành rằng:

  • Mong cho gia đình các con được như ý nguyện.

 

Bà vô cùng hoan hỷ quay trở về nhà, nấu lại phần cơm khác đem cho chồng, rồi vội vàng mang cơm ra đồng ruộng, với tâm hoan hỷ phước-thiện bố-thí đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, làm cho thân tâm của bà cảm thấy nhẹ nhàng, nhu nhuyến không sao giấu được.

Còn phần ông Puṇṇa, trễ giờ đói bụng, thả bò đi ăn cỏ, ông lên bờ ngồi dưới cây bóng mát, chờ đợi vợ. Tuy đói bụng, nhưng đại-thiện-tâm vẫn hoan hỷ, niệm tưởng lại việc làm phước-thiện bố-thí tăm xỉa răng và nước đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Nhìn từ xa, ông thấy vợ mình đang đi đến trễ hơn mọi ngày, nhưng bà có vẻ khác thường, chắc chắn bà có điều hoan hỷ gì đó. Thật vậy, vừa đến nơi, Bà liền thưa với chồng rằng:

  • Thưa anh kính yêu! Hôm nay, xin anh phát-sinh đại- thiện-tâm hoan hỷ thật nhiều. Sáng nay, em đem cơm cho anh, giữa đường gặp Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đang đi khất thực, em phát sinh đức-tin trong sạch, đem phần cơm của anh làm phước-thiện bố-thí, để bát cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Ngài Đại-Trưởng-lão không chê vật thực nghèo khó của chúng ta. Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ tế độ thọ nhận tất cả vật thực phần của anh.

Vậy, xin anh nên phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí thanh cao này!

Ông vừa lắng nghe từng tiếng, từng câu làm cho ông phát-sinh đại-thiện-tâm hỷ lạc đến cực độ, nên không thể theo dõi liên tục trọn vẹn lời nói của vợ ông.

Sực tỉnh lại, ông muốn biết chắc chắn chính ông nghe đúng sự thật là như vậy không, nên ông bảo với vợ rằng:

 

  • Này em! Em hãy nói lại cho anh nghe một lần nữa!

Bà vợ thưa lại rõ ràng một lần nữa, lần này ông nghe rõ biết chắc chắn đúng sự thật như vậy rồi, ông cảm thấy vô cùng hoan hỷ phước-thiện bố-thí của vợ, đã đem phần cơm của mình làm phước-thiện bố-thí, để bát cúng- dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Sau đó, ông nói cho vợ biết, cũng sáng hôm ấy, ông đã làm phước-thiện bố-thí cúng dường cây tăm xỉa răng và nước dùng đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Nghe chồng cho biết như vậy, bà cũng cảm thấy vô cùng hoan hỷ việc phước-thiện bố-thí của chồng.

Hai vợ chồng ông bà Puṇṇa cùng nhau phát sinh đại- thiện-tâm hoan hỷ phước-thiện bố-thí cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Dùng cơm xong, ông Puṇṇa nằm niệm tưởng đến phước-thiện bố-thí của mình, mới thiu thiu giấc ngủ, ông bừng tỉnh lại, ngồi nhìn thấy phần đất ruộng vừa cày buổi sáng ấy, đã hóa thành những thỏi vàng ròng, làm cho ông hoa cả mắt, và vợ của ông cũng cảm thấy như ông vậy.

Ông lấy lại bình tĩnh đi xuống ruộng, lấy lên một thỏi, đúng thật là thỏi vàng ròng, ông đem đến khoe và nói với vợ rằng:

  • Này em! Vợ chồng chúng ta đã làm phước-thiện bố- thí cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta. Phước-thiện bố-thí ấy liền cho quả báu đến cho vợ chồng chúng ta ngày hôm nay.

Chúng ta không thể nào giấu một số vàng lớn như thế này được!

 

Ông Puṇṇa lấy một số thỏi vàng bỏ vào khay, đem trình lên Đức-vua Bimbisāra và tâu rằng:
  • Muôn tâu Đức-vua, sáng nay tiện dân đi cày ruộng, tất cả đất cày đều hóa thành những thỏi vàng ròng.

Kính xin Đức-vua truyền lệnh cho binh lính đem xe đến chở số vàng ấy về cất trong kho báu của Đức-vua.

Đức-vua Bimbisāra truyền hỏi rằng:
  • Nhà ngươi là ai?
Ông Puṇṇa tâu rằng:
  • Tâu Đại-vương, tiện dân là Puṇṇa, một nông dân nghèo khó làm thuê.
  • Này Puṇṇa! Sáng nay, nhà ngươi đã làm gì đặc biệt?
  • Tâu Đại-vương, tiện dân làm phước-thiện bố-thí cúng dường cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta. Còn phần vợ tiện dân làm phước-thiện bố-thí cúng dường phần cơm của tiện dân đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.
Đức-vua Bimbisāra truyền rằng:
  • Này Puṇṇa! Vợ chồng ngươi đã làm phước-thiện bố- thí cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, cho nên, quả báu của phước-thiện bố-thí phát sinh ngay trong ngày hôm nay. Vậy, ngươi muốn Trẫm làm gì?
Ông Puṇṇa tâu:
  • Tâu Đại-vương, tiện dân kính xin Đại-vương truyền lệnh đem ngàn chiếc xe đến thửa ruộng kia, để khuân tất cả số vàng ấy về cung điện.
Đức-vua Bimbisāra truyền lệnh đem hàng ngàn chiếc xe đến chở vàng ròng, quân lính trong triều nghĩ và nói

 

rằng: “Vàng của Đức-vua”, tức thì những thỏi vàng trở lại thành đất như cũ.

Quân lính trong triều trở về tâu lên Đức-vua sự việc xảy ra như vậy. Đức-vua sáng suốt bèn truyền rằng:
  • Các ngươi nghĩ như thế nào, khi nhặt lấy những thỏi vàng ấy?
  • Tâu Bệ hạ, chúng hạ thần nghĩ và nói rằng: “Vàng của Đức-vua.”
Đức-vua Bimbisāra truyền rằng:
  • Này các ngươi! Số vàng ròng kia không phải là của Trẫm. Các người hãy trở lại nghĩ và nói rằng: “Vàng của ông bà Puṇṇa” rồi khuân số vàng ấy về đây.
Quân lính vâng lệnh Đức-vua trở lại nơi ấy. Thật vậy, lần này quân lính khuân toàn bộ số vàng ấy đem về, chất trước sân rồng thành một đống vàng cao 80 hắc tay.

Ông Puṇṇa Trở Thành Đại Phú Hộ

Đức-vua Bimbisāra cho truyền bảo dân chúng trong kinh-thành Rājagaha hội họp tại sân rồng, Đức-vua bèn truyền hỏi rằng:
  • Này toàn thể dân chúng! Trong kinh-thành này, người nào có số vàng lớn như thế này không?
Toàn thể dân chúng trong thành tâu:
  • Tâu bệ hạ, trong kinh-thành không có người nào có số vàng lớn như thế này cả.
Đức-vua Bimbisāra truyền hỏi tiếp.
  • Vậy, Trẫm nên tấn phong ông Puṇṇa như thế nào mới xứng đáng?
  • Tâu Hoàng-Thượng, xin Hoàng-Thượng tấn phong ông Puṇṇa địa vị đại phú hộ.

 

Đức-vua Bimbisāra phán rằng:
  • Này Puṇṇa! từ nay ngươi là Đại phú hộ, có tên Bahudhanaseṭṭhi: Đại phú hộ nhiều của cải.
Sau khi trở thành đại phú hộ Puṇṇa, gia đình ông càng có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, làm phước-thiện bố- thí cúng dường đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng có Đức- Phật chủ trì suốt 7 ngày.

Đến ngày thứ 7, Đức-Phật thuyết pháp tế độ gia đình ông Puṇṇa, toàn gia đình ông đại phú hộ Puṇṇa, hai vợ chồng và đứa con gái tên Uttarā đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, cả 3 đều trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Vợ chồng ông Puṇṇa làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta sau khi xả diệt-thọ-tưởng (nirodhasamāpatti), do năng lực phước- thiện bố-thí trong sạch và hội đủ nhân-duyên ấy, nên liền cho quả báu trong ngày hôm ấy, trở thành đại phú hộ nhiều của cải thế gian và đặc biệt hơn nữa, toàn gia đình trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Như vậy, phước-thiện bố-thí của ông bà Puṇṇa được thành tựu quả báu trong cõi người (manussasampatti) và thành tựu quả báu Niết-bàn (nibbānasampatti).

Những trường hợp trên, có không ít trong Phật-giáo.

Chư Thánh-Tăng là phước điền cao thượng của tất cả chúng-sinh nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên, ... Thí-chủ làm các phước-thiện cúng dường đến chư Thánh-Tăng với đại-thiện-tâm trong sạch, sẽ được thành tựu quả báu cõi người (manussasampatti), thành tựu quả báu cõi trời (devasampatti) và đặc biệt thành tựu quả báu chứng ngộ Niết-bàn (Nibbānasampatti).

 

Quả Báu Phước-Thiện Bố-Thí Đến Tỳ-Khưu-Tăng

Thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, dù làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư phàm-tăng vẫn được thành tựu quả báu không kém.

Thật vậy, Đức-Phật dạy Ngài Đại-đức Ānanda rằng:

  • Này Ānanda! Trong thời vị-lai, sẽ có hạng người có tên “bhikkhu: tỳ-khưu”, chỉ còn mảnh y quấn cổ (hoặc cột ở cổ tay), là người phạm-giới, hành ác-pháp. Song những thí-chủ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có tác-ý đại-thiện-tâm làm phước-thiện bố-thí cúng dường hướng đến chư tỳ-khưu-tăng, dù trong số tỳ-khưu phạm- giới ấy.
  • Này Ānanda! Người thí-chủ làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-tăng trong thời vị-lai ấy, Như-Lai dạy rằng: “Thí-chủ vẫn có phước-thiện vô lượng và có quả báu vô lượng không sao kể xiết được”.

Như-lai không hề dạy trực tiếp hoặc gián tiếp rằng: “Thí-chủ làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến cá- nhân thọ-thí, sẽ có phước-thiện nhiều hơn và có quả báu nhiều hơn làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-tăng thọ thí bao giờ”.(1)

Cho nên, ân-đức Tăng-bảo này gọi là Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa Bhagavato sāvakasaṃgho.

 

Đề-Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức Tăng-Bảo (Saṃghānussati)

9 ân-đức Tăng-bảo là đối-tượng của đề-mục thiền- định niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo. Đề-mục niệm-niệm

1 Majjhimanikāya, Uparipaṇṇāsa, kinh Dakkhiṇavibhaṅgasutta.

 

9 ân-đức Tăng-bảo là 1 trong 10 đề-mục anussati: niệm-niệm cũng là 1 trong 40 đề-mục thiền-định.

Muốn thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng- bảo, trước tiên hành-giả cần phải học hỏi, nghiên cứu cho hiểu rõ ý nghĩa 9 ân-đức Tăng-bảo kỹ càng, từng các chi pháp cho thật rành rẽ về phần pháp-học.

Về phần pháp-hành, trước khi thực-hành đề-mục niệm- niệm 9 ân-đức Tăng-bảo, hành-giả nên có đức-tin nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo.

Phương Pháp Niệm Ân-Đức Tăng-Bảo

9 ân-đức Tăng-bảo này chỉ có hiện hữu đầy đủ trong chư Thánh-Tăng mà thôi. Chư Thánh-Tăng là những bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn, có 4 đôi thành 8 bậc Thánh tính theo tâm siêu-tam-giới.

Nếu kể Thánh-nhân, thì có 4 bậc Thánh.
  • Bậc Thánh Nhập-lưu (Sotāpanna),
  • Bậc Thánh Nhất-lai (Sakadāgāmī),
  • Bậc Thánh Bất-lai (Anāgāmī),
  • Bậc Thánh A-ra-hán (Arahanta).

Muốn thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng- bảo, trước tiên hành-giả cần phải học hỏi cho hiểu rõ ý nghĩa 9 ân-đức Tăng-bảo kỹ càng từng các chi pháp về phần pháp-học.

Phần pháp-hành, trước khi thực-hành đề-mục niệm- niệm 9 ân-đức Tăng-bảo, hành-giả nên có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo.

  • Nếu là người cận-sự-nam, cận-sự-nữ, thì nên xin thọ phép quy-y Tam-bảo ngũ-giới hoặc bát giới, cửu giới, ...

 

  • Nếu là Sa-di, thì nên xin thọ phép quy-y Tam-bảo và Sa-di thập giới với vị Thầy tế độ hoặc với một vị Đại-đức.
  • Nếu là vị tỳ-khưu, thì nên xin sám hối āpatti với một vị tỳ-khưu khác.

Như vậy, hành-giả là người có giới thuộc về phần pháp-hành giới làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định, thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo.

9 ân-đức Tăng-bảo này chỉ có hiện hữu đầy đủ trong chư Thánh-Tăng mà thôi. Còn ân-đức Tăng-bảo của chư phàm-tăng có phần hạn chế.

Muốn thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng- bảo, hành-giả nên tìm một nơi thanh vắng, để thuận lợi thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo.

Phương pháp thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo có nhiều cách như sau:

  • Cách thứ nhất (phổ thông): Niệm trọn vẹn 9 ân-đức Tăng-bảo.
Hành-giả thực-hành niệm 9 ân-đức Tăng-bảo như sau:

“Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho. Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho. Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho. Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā,

esa Bhagavato sāvakasaṃgho Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññak- khettaṃ lokassa, ...” làm đối-tượng thiền-định.

Hành-giả tâm niệm đến ân-đức Tăng-bảo nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-đức Tăng-bảo ấy, định-tâm theo dõi mỗi ân-đức Tăng-bảo như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-

 

hành đề-mục niệm niệm 9 ân-đức Tăng-bảo, để làm tăng trưởng đức-tin trong sạch nơi Đức-Tăng-bảo.

  • Cách thứ nhì (đặc biệt): Niệm một ân-đức Tăng-bảo.

Hành-giả có thể chọn một ân-đức Tăng-bảo trong 9 ân-đức Tăng-bảo làm đối-tượng, để thực-hành đề-mục niệm-niệm ân-đức Tăng-bảo, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-đức Tăng-bảo ấy, luôn luôn định-tâm nơi ân-đức Tăng-bảo ấy.

dụ: Niệm ân-đức Tăng-bảo thứ nhất: “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ... Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ...) làm đối-tượng thiền-định.

Hoặc: Niệm ân-đức Tăng-bảo thứ chín: “Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa, ... Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa, …) làm đối-tượng thiền-định.

Hành-giả tâm niệm câu ân-đức Tăng-bảo ấy, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-đức Tăng-bảo ấy, định-tâm theo dõi ân-đức Tăng-bảo ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần, … trong suốt thời gian thực-hành đề- mục niệm-niệm ân-đức Tăng-bảo ấy, để làm tăng trưởng đức-tin trong sạch nơi Đức-Tăng-bảo.

Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo là một đề-mục thiền-định dễ làm cho phát sinh đức-tin nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo mà đức- tin là nền tảng cho mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện- pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp.

Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo là đề-mục thiền-định vô cùng vi-tế, vô cùng sâu sắc, rộng lớn mênh mông bao la, vô lượng vô biên. Vì vậy, định-tâm không thể an-định vào một pháp nào nhất định làm đối-tượng được. Cho nên, đề-mục niệm 9 ân-đức Tăng-bảo này chỉ

 

có khả năng đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanā- samādhi), nên không thể chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào.

Do đó, tâm cận-định vẫn còn là dục-giới thiện-tâm.

Quả Báu Trong Kiếp Hiện-Tại

Dục-giới thiện-nghiệp do hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-định với đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng- bảo rất đặc biệt. Do năng lực của dục-giới thiện-nghiệp này, trong kiếp hiện-tại hành-giả có thân tâm thường được an-lạc, tránh khỏi điều rủi ro tai hại một cách phi thường, phần đông mọi người kính mến, chư-thiên kính mến và hộ trì hành-giả.

Quả Báu Trong Những Kiếp Vị-Lai

Dục-giới thiện-nghiệp do hành-giả thực-hành thiền- định với đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo này có phần vững chắc hơn là dục-giới thiện-nghiệp được tạo do bố-thí, giữ-giới, vv…

Cho nên, hành-giả khi gần chết, tâm không mê muội, tâm bình tĩnh sáng suốt. Vì vậy, sau khi hành-giả chết, nếu dục-giới thiện-nghiệp này có cơ hội cho quả tái-sinh làm người thì sẽ là người có trí-tuệ thuộc “hạng người tam-nhân”, hoặc tái-sinh hoá-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ có trí-tuệ ở 1 trong 6 cõi trời dục-giới, vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ ấy ở cõi trời nào cũng có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời đặc biệt.

* Tuy nhiên, đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo không chỉ là pháp-hành thiền-định có khả năng đạt đến cận-định (upacārasamādhi) tâm cận-định còn là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, diệt tận tham-

 

ái, phiền-não, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn được nữa. Như Đức-Phật dạy:

  • Này chư tỳ-khưu! Có một pháp-hành mà hành-giả đã thực-hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc- pháp, để diệt tận tham-ái, sân hận, si mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng- thái khổ, trạng-thái vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

Pháp-hành ấy là pháp-hành gì ?

  • Pháp-hành ấy là Saṃghānussati: Pháp-hành niệm- niệm 9 ân-đức Tăng-bảo.
  • Này chư tỳ-khưu! Pháp-hành niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo mà hành-giả đã thực-hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân hận, si mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái- chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng- thái vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn”(1).

Qua lời giáo huấn trên của Đức-Phật, thì đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo, không chỉ là đề-mục thiền-định, mà còn làm nền tảng để thực-hành pháp- hành thiền-tuệ nữa. Cho nên, đề-mục niệm-niệm 9 ân- đức Tăng-bảo có 2 giai đoạn:

1 Aṅguttaranikāya, phần Ekadhammapāḷi.

 

  • Giai đoạn đầu: Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng- bảo thuộc về pháp-hành thiền-định mà hành-giả thực- hành niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo có khả năng dẫn đến cận-định (upacārasamādhi) (phương pháp đã trình bày).
  • Giai đoạn sau: Sau khi hành-giả đã thực-hành đề- mục niệm-niệm 9 ân-đức Tăng-bảo đã đạt đến cận-định, nếu hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, thì phải có ngũ-uẩn hoặc danh-pháp, sắc-pháp làm đối- tượng thiền-tuệ.

 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications