Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐPS T2A.007 CHƯƠNG 7 SỰ CHỨNG ĐẮC PHẬT QUẢ 
Sau khi Bồ tát ã thực hành xong các pháp khổ hạnh (dukkaracariyā) trong sáu năm, như ã ược trình bày ở trước, thời gian lúc ấy vào khỏang mồng một tháng tư (Vesākha) của năm 103, lịch Mahā Era. Vào lúc ấy Bồ tát khởi lên ý nghĩ như sau:
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:5933

Các tên gọi khác

Sau khi Bồ tát ã thực hành xong các pháp khổ hạnh (dukkaracariyā) trong sáu năm, như ã ược trình bày ở trước, thời gian lúc ấy vào khỏang mồng một tháng tư (Vesākha) của năm 103, lịch Mahā Era. Vào lúc ấy Bồ tát khởi lên ý nghĩ như sau:

General Information

Danh sách : Liên quan
:
ĐPS T2A.007 CHƯƠNG 7 SỰ CHỨNG ĐẮC PHẬT QUẢ 

CHƯƠNG 7

SỰ CHỨNG ĐẮC PHẬT QUẢ 

Sự thay ổi ường lối thực hành

Sau khi Bồ tát ã thực hành xong các pháp khổ hạnh (dukkaracariyā) trong sáu năm, như ã ược trình bày ở trước, thời gian lúc ấy vào khỏang mồng một tháng tư (Vesākha) của năm 103, lịch Mahā Era. Vào lúc ấy Bồ tát khởi lên ý nghĩ như sau:

“ Các vị Sa-môn (Samana) và Bà-la-môn (Brahmana) trong quá khứ, thực hành dukkaracariyā, chỉ có thể chịu ựng bấy nhiêu au ớn là hết mức, họ không thể chịu ựng nhiều au ớn hơn những gì Ta ang trải qua. Các vị Sa-môn và Bà-la-môn trong tương lai, thực hành dukkaracariyā, cũng sẽ chịu ựng chỉ bấy nhiêu au ớn và khổ nhọc là hết mức, họ sẽ không chịu ựng nhiều au ớn hơn mà Ta ang trải qua. Các vị Sa-môn và Bà-la-môn trong hiện tại, khi thực hành dukkaracariyā, cũng chỉ có thể chịu ựng bấy nhiêu au ớn và lao khổ là hết mức, họ không thể chịu ựng nhiều au ớn hơn mà Ta ang trải qua. Ta ã nỗ lực hết mức theo cách này, thế mà ta vẫn chưa chứng ắc Giác ngộ (Sabbaññuta-ñāna), chưa chứng ắc Phật quả. Có lẽ có một cách thực hành khác, một con ường khác ể chứng ngộ Nhất thiết trí, ể chứng ắc Phật quả.”

Khi tiếp tục suy xét như vậy, Ngài bắt ầu nhận biết rằng Ngài ã từng i vào pháp niệm hơi thở (ānapana) và nhập vào sơ thiền trong khi ang ngồi dưới bóng cây táo hồng trong dịp lễ Hạ iền do phụ vương của Ngài, là vua Suddhodāna ứng ra chủ trì. Rồi Ngài nhận ra rằng sự thực hành pháp niệm hơi thở ể nhập vào sơ thiền chắc chắn là chánh ạo, là lối thực hành úng ắn ể chứng ắc Nhất thiết trí, Phật quả. Ngài lại suy xét thêm: “Tại sao Ta lại sợ sự an lạc của thiền mà có thể giác ngộ ược qua sự thực hành thiền chỉ ề mục Hơi thở (ānapana). Đó là sự an lạc phát sanh do sự xuất ly (nekkhamma) và từ bỏ hoàn toàn các dục lạc. Ta chắc chắn không sợ sự an lạc trong sự nhập ịnh của pháp thiền chỉ, ề mục Hơi thở.”

Bồ tát lại tiếp tục suy xét: “ Ta không thể nào dốc tinh tấn và tu tập pháp thiền chỉ ề mục Hơi thở bằng tấm thân bị cạn kiệt và gầy ốm của ta. Sẽ tốt hơn nếu khi ộ một ít vật thực cứng và thô như cơm ể làm cho tấm thân gầy yếu này ược khỏe mạnh và tươi sáng trở lại, trước khi Ta phấn ấu ể chứng ắc thiền ịnh qua ề mục niệm Hơi thở.” Sau khi ã suy xét như vậy, Bồ tát lấy cái bát nơi Ngài cất, rồi i vào thị trấn Sena ể khất thực và bồi dưỡng cho tấm thân gầy ốm, héo mòn của Ngài bằng bất cứ vật thực nào nhận ược từ việc i khất thực.

Trong vòng hai hoặc ba ngày, sức mạnh và các hảo tướng của bậc ại nhân (maha-pūrisa lakkhaṇā) biến mất trong thời gian Ngài thực hành dukkaracariyā, nay xuất hiện trở lại rõ rệt như xưa và thân của Bồ tát lại tươi sáng như vàng ròng.

(Ở ây iều ặc biệt cần lưu ý là vào lúc Bồ tát quán về Chánh ạo dẫn ến giác ngộ Nhất thiết trí, chứng ắc Phật quả, sau khi từ bỏ dukkaracariyā, Ngài quán xét úng ắn rằng tám thiền chứng hợp thế mà Ngài ã thành ạt sau khi gặp hai vị giáo chủ Ālāra và Udaka chỉ là nền tảng của luân hồi khổ (vaṭṭapādaka). Ngài cũng ã quán xét rằng sự ịnh tâm trong ề mục niệm Hơi thở (ānapana) ược tu ạt dưới bóng cây táo hồng, trong khi phụ vương của Ngài, là vua Suddhodāna, ang chủ trì cuộc lễ hạ iền, là con ường úng ắn ể giác ngộ Nhất thiết trí, ể chứng ắc Phật quả, vì pháp thiền chỉ ề mục Hơi thở (ānapana) là một phần của pháp niệm thân (kāyagatāsati), và nền tảng của thiền Quán (Vipassanā) dành cho tất cả chư Bồ tát). (Mūlapaṇṇāsa Tīkā, vol. I)

Nhóm năm ạo sĩ rời bỏ Bồ tát

Theo pháp tánh (dhammatā) thì khi Bồ tát sắp chứng ắc Phật quả sau khi hoàn thành thực hành dukkaracariyā, các vị Sa-môn hầu cận rời bỏ Ngài với lý do này hay lý do khác, hoặc chính Ngài rời bỏ họ. Đúng như vậy, khi Bồ tát bắt ầu bồi dưỡng lại cho cơ thể của Ngài bằng cách ộ bất cứ món cơm thô nào mà Ngài nhận ược khi khất thực, thì nhóm năm vị Sa-môn xem thường Ngài, thất vọng than vãn rằng: “ Sa-môn Gotama ã nghiêng về pháp hành lợi dưỡng. Vị ấy ã từ bỏ pháp thiền và trở lại tích lũy vật chất.” Theo pháp tánh, họ rời bỏ Bồ tát và i ến Isipatana, vườn Nai gần Varanasi nơi mà chư Phật thuyết bài pháp ầu tiên.

Khi nhóm năm vị tỳ khưu rời bỏ Bồ tát vào ngày ầu tháng Citta và i ến Migadaya, vườn Nai. (Thật ra, vào thời iểm ó Bồ tát ã hoàn tất việc thực hành dukkaracariyā). Ngài sống ơn ộc, có ược mức ộ yên tĩnh cao dẫn ến sự tiến bộ phi thường và sự tăng mạnh về sự ịnh tâm. Sống trong cảnh vắng vẻ hoàn toàn như vậy trong mười lăm ngày, hành thiền và tạo ra sự tiến bộ. Nửa êm lúc gần sáng của ngày mười bốn tháng tư (tháng Vesākha), Bồ tát chợp ngủ và thấy năm iềm mộng lớn.

Năm ại mộng 

Năm ại mộng của Bồ tát diễn ra như sau:

  1. Bồ tát mơ thấy  mình nằm trên mặt ất là giường, tựa ầu trên dãy núi Himalaya là gối, tay trái ặt trên biển phía Đông, tay phải ặt trên biển phía Tây, và hai chân ặt trên biển phía Nam. Điềm mộng ầu tiên này báo rằng Ngài sẽ chứng ắc Nhất thiết trí và trở thành một vị Phật giữa nhân loại, chư thiên và Phạm thiên.
  2. Ngài mộng thấy một loại cỏ có tên là Tiriya, thân của nó màu ỏ nhạt và kích cỡ bằng cái ách xe bò, cây cỏ này mọc lên từ rốn của Ngài và khi Ngài ang nhìn thì nó lớn dần, ầu tiên nửa hắc tay, rồi ến một hắc tay, một sãi tay, một ta, một gāvuta, nửa do tuần, một do tuần, v.v… cứ cao dần như thế cho ến khi nó chạm ến bầu trời và ứng yên ở ó. Điềm mộng thứ hai này báo rằng Ngài sẽ có khả năng thuyết giảng Bát Chánh ạo (Aṭṭhaṅgika-magga), là con ường Trung ạo (Majjhima-paṭipadā), ến chư thiên và nhân loại.
  3. Ngài mộng thấy một àn giòi, thân trắng ầu en ang bò lên lúc nhúc ầy cả hai chân từ bàn chân ến ầu gối. Điềm mộng thứ ba này báo rằng sẽ có nhiều người ( ầu en) mặc y phục màu trắng sẽ tôn kính Đức Phật và quy y (Mahāsaranagamaṇa) Ngài.
  4. Ngài mộng thấy bốn loại chim có màu xanh, vàng, ỏ và xám bay ến từ khắp bốn hướng và khi chúng sà xuống dưới chân của Ngài thì tất cả ều hoàn toàn biến thành màu trắng. Điềm mộng thứ tư này báo rằng chúng sanh từ bốn tầng lớp của xã hội, gồm có giai cấp Khatiya (Sát-ế-lỵ - vua quan), giai cấp Bà-la-môn, giai cấp thương nhân và giai cấp nghèo khổ, sẽ tín thọ lời dạy của Đức Phật, xuất gia tỳ khưu và chứng ắc ạo quả A-la-hán.
  5. Ngài mộng thấy rằng Ngài ang i tới i lui trên một núi phẩn lớn mà không bị lấm lem chút nào. Điềm mộng thứ năm này báo rằng sẽ có sự hoạch ắc to lớn về bốn món vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ngụ và thuốc chữa bịnh và Ngài thọ dụng chúng mà không hề có chút luyến ái hoặc chấp thủ chúng.

Bốn nguyên nhân sanh mộng  

Các giấc mộng ược tạo ra bởi bốn nguyên nhân sau ây:

(1) Do sự rối loạn tiêu hóa. (2) Do những kinh nghiệm của quá khứ. 

(3) Do chư thiên hóa ra.  (4) Điềm báo một biến cố nào ó sẽ xảy ra.

  1. Do sự rối loạn tiêu hóa, như hoạt ộng không bình thường của mật, v.v… người ta mơ thấy những giấc mộng hãi hùng như bị rơi xuống từ trên núi cao, bị lơ lửng trong không trung, bị rượt uổi bởi các loại thú dữ như voi, ngựa hoang, sư tử, cọp beo, v.v… hoặc bởi những người hung ác.
  2. Do những trải nghiệm của quá khứ, người ta mộng trông thấy, nghe và ang sử dụng những vật ã trông thấy, ã nghe hoặc ã sử dụng trước kia.
  3. Tất cả những loại cảnh giả, ảnh ảo do chư thiên hóa hiện trong giấc mộng của người, cảnh ẹp nếu họ muốn em lại iều tốt ẹp cho người kia, hoặc cảnh xấu nếu họ muốn em lại iều rủi ro cho người kia. Người ta trông thấy tất cả những cảnh này do thần lực của chư thiên.
  4. Khi mơ thấy iềm mộng, người ấy sẽ thấy những cảnh vừa lòng hoặc nghịch ý báo trước biến cố sẽ xảy ra do kết quả của nghiệp thiện hoặc bất thiện trong quá khứ. Những giấc mộng giống như giấc mộng của hoàng hậu Mahā Māyā về việc thọ sanh người con trai, hoặc giống như giấc mộng của vua Kosala báo trước 16 ại sự, hoặc giống như 5 Đại mộng của Bồ tát.

Trong 4 loại giấc mộng này, những giấc mộng ược tạo ra do (1) rối loạn tiêu hóa và do (2) những kinh nghiệm quá khứ thường không úng, (3) những giấc mộng do chư thiên hóa hiện thì có thể úng hoặc không úng với thực tế. Thực vậy, khi chư thiên hóa hiện thì có thể úng hoặc không úng với thực tế; khi chư thiên phẫn nộ, họ thường cho thấy những cảnh sai sự thật trong giấc mộng như là một mưu mẹo ể gây ra tai họa (xem câu chuyện ở dưới) (4) Những câu chuyện báo trước những biến cố sắp xảy ra thường úng với thực tế.

Câu chuyện chư thiên tạo ra những cảnh sai sự thật trong giấc mộng xuất phát từ sự phẫn nộ của họ 

Tại tịnh xá Nāga, xứ Rohana, thuộc hải ảo Sihala, vị sư trụ trì sai người ốn hạ một cây thiết mộc lớn mà không thông báo với chư Tăng. Vị thọ thần (rukkha deva) ở trong cây thiết mộc ấy, ầu tiên tạo ra những giấc mộng úng trong giấc ngủ của vị trụ trì kia ể ánh lừa vị này tin vào những giấc mộng ấy. Sau khi lấy ược lòng tin của vị này, vị thiên mới bảo với vị này trong giấc mộng rằng: “ Bạch ại ức, sau bảy ngày nữa kể từ hôm nay, ức vua, người hộ ộ của ại ức sẽ chết.” Sư trụ trì tin vào những lời này, bèn báo tin dữ này ến các cung nữ của vua, hay tin dữ họ ồng loạt khóc. Đức vua cho gọi họ ến và hỏi duyên cớ. Họ bèn kể lại những lời mà vị sư trụ trì ã nói. Đức vua chờ ợi qua từng ngày, nhưng khi bảy ngày ã trôi qua mà vua vẫn còn sống, vị ấy tức giận truyền lịnh chặt tay chân của sư trụ trì. (Câu chuyện này ược nêu ra trong cuốn II của bộ Sāraṭṭha Dīpanī Ṭīkā).

Bốn loại giấc mộng kể trên dành cho những kẻ phàm phu, những bậc thánh Nhập lưu (Sotāpanna), bậc Nhất lai (Sakadāgāmi) và bậc Bất lai (Anāgāmi) vì họ chưa rủ sạch iên ảo vọng tưởng (vipallāsa). Các vị A-la-hán ã viễn ly iên ảo vọng tưởng thì không còn mộng thấy những giấc mơ như vậy.

Về thời gian, các giấc mộng xảy ra vào ban ngày, trong canh ầu, canh giữa hoặc canh cuối của êm thì thường là không úng. Những giấc mộng xảy ra vào lúc gần sáng khi vật thực trong bụng ã ược tiêu hóa và chất dinh dưỡng từ ó ược truyền i khắp cơ thể thì có khả năng úng. Một giấc mộng mang iềm tốt thường em ến iều may mắn; còn giấc mộng có iềm xấu thường em ến iều rủi ro, tai họa. (Những chi tiết này ược rút ra từ những bài trình bày về bài kinh Mahāsupina, trong Brāhmaṇa Vagga, Catuṭṭhapaṇṇāsaka Pañcaka Nipāta của Chú giải Tăng chi bộ kinh).

Năm ại mộng kể trên không xảy ến với người phàm phu, hay vua chúa, hay Chuyển luân vương, hay các ại ệ tử, hay chư Độc giác Phật và chư Phật Toàn Giác. Chỉ chư Bồ tát mới thấy những giấc mộng như vậy. Bồ tát của chúng ta thấy năm Đại mộng kể trên sau nửa êm, ngay trước khi mặt trời mọc, vào ngày 14 tháng Vesakha ( tháng Tư) của năm 103, lịch Mahā Era.

Bồ tát tự giải Năm Đại mộng 

Sau khi tỉnh giấc, Bồ tát ngồi kiết già, suy nghĩ về Năm Đại mộng và kết luận: “Nếu Ta mơ thấy Năm Đại mộng này khi ang sống tại kinh ô Kapilavatthu, thì có lẽ Ta sẽ kể lại với phụ vương, vua Suddhodāna, hoặc kể lại với mẹ của Ta, nếu bà còn sống. Nhưng bây giờ, trong khu rừng Uruveḷā này, không có ai lắng nghe Ta kể lại Năm Đại mộng ấy và diễn giải chúng. Thôi vậy, Ta sẽ tự mình giải lấy.” Và rồi Ngài tự giải năm iềm mộng như vầy: Điềm mộng thứ nhất báo trước sự chứng ắc những lợi ích như thế như thế, iềm mộng thứ hai báo trước sự hoạch ắc như vậy như vậy, v.v... như ã ược trình bày ở trên.

Sự cúng dường món cơm sữa Ghana của nàng Sujātā 

Sau khi mộng thấy năm Đại mộng và tự mình diễn giải ý nghĩa của chúng, Bồ tát kết luận rằng: “ Sự thật là Ta sẽ chứng ắc Phật quả chính ngày hôm nay.” Khi mặt trời ló dạng vào ngày rằm tháng tư, Ngài tắm rửa sạch sẽ rồi rời khỏi chỗ ấy, i ến cây a to lớn (banyan), nơi mà con gái của một vị trưởng giả, nàng Sujātā, hằng năm ến cúng dường lễ bái. Đến nơi, Ngài dừng lại và ngồi xuống dưới cội cây, mặt quay về hướng ông và ợi ến giờ i khất thực. Trong lúc ấy, toàn thể cây ại thọ sáng rực lên do hào quang phát ra từ thân của Bồ tát.

Vào lúc ấy, tại thị trấn Sena, trong khu vực của khu rừng Uruvelā, người con gái của vị trưởng giả Senānī, tên nàng là Sujātā, khi ến tuổi dậy thì, ã cầu nguyện dưới cội cây banyan như sau : “ Kính thưa thọ thần của cây banyan, nếu con ược gã vào một gia ình giàu có cùng giai cấp, con sẽ cúng lễ ến ngài món cơm sữa Ghana.” Lời cầu nguyện của nàng Sujāta ược thành tựu. Thế nên, cứ ến ngày rằm tháng tư hằng năm thì nàng Sujātā em món cơm sữa ến cúng dường vị thọ thần của cây banyan.

(Khi ọc lý do nàng Sujātā cúng dường món cơm sữa, nếu ộc giả không suy xét kỹ, có thể nghĩ rằng Sujātā cúng lễ món cơm sữa ến thọ thần của cây banyan lần ầu tiên vào ngày rằm tháng tư, ngày Bồ tát chứng ắc Phật quả. Thực ra, lời cầu nguyện ã ược thành tựu và sự cúng dường món cơm sữa ến thọ thần banyan tính ến thời gian ấy thì ược khoảng 20 lần. 

Nàng Sujātā ã sửa soạn món cơm sữa một cách kỹ lưỡng ể làm lễ vật cúng dường ến thọ thần banyan vào ngày rằm tháng tư ấy, khi Bồ tát ã thực hành xong sáu năm khổ hạnh. Nàng chuẩn bị trải qua những bước sau ây: (1) Đầu tiên nàng cho một ngàn con bò sữa ến ăn ở rừng cây cam thảo, rồi sữa lấy ược từ một ngàn con bò này ược dùng ể nuôi năm trăm con bò sữa khác. (2) Sữa của 500 con bò này ược dùng ể nuôi hai trăm năm mươi con bò khác. (3) Lần nữa, sữa của 250 con bò này ược dùng ể nuôi một trăm hai mươi lăm con bò khác. (4) Rồi sữa của 125 con bò này ược dùng ể nuôi sáu mươi bốn con khác. (5) Rồi sữa của 64 con bò này ược dùng ể nuôi ba mươi hai con khác. (3) Rồi sữa của 32 con bò này ược dùng ể nuôi mười sáu con khác. (7) Rồi sữa của 16 con này ược dùng ể nuôi 8 con bò khác. Như vậy, nàng Sujātā ã theo tuần tự mà tạo ra một lượng sữa cực kỳ bổ dưỡng và thơm ngon ể nấu thành món cơm sữa. (Bài này ược kể lại trong Chú giải Bổn sanh Kinh)

Theo bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā thì nàng Sujātā ầu tiên cho một trăm con bò sữa ến ăn ở rừng cây cam thảo. Rồi một trăm con bò sữa khác sanh ra từ một trăm con bò trước, nàng cũng cho vào ăn trong rừng cây cam thảo ấy. Và cứ thế cho ến một trăm con bò sữa thuộc thế hệ thứ bảy cũng ược công nương Sujātā cho vào ăn trong rừng cây cam thảo. Đến thế hệ bò sữa thứ bảy nàng mới lấy sữa của chúng và em nấu cơm sữa Ghana.

Với ý ịnh rằng: “ Ta sẽ dâng lễ món cơm sữa Ghana vào sáng sớm ngày mai,” nàng Sujātā ã thức dậy lúc sáng sớm của ngày rằm tháng tư và cho người lấy sữa từ tám con bò sữa nói trên. Những bê con sanh ra từ tám con bò mẹ ấy cũng không ến bú sữa nơi mẹ của chúng. Và kỳ lạ thay, ngay khi những bình sữa ược ặt dưới vú của những con bò sữa thì sữa chảy xuống liên tục ến ầy bình mà không cần ến bàn tay của con người nặn. Trông thấy cảnh tượng kỳ diệu ấy, nàng Sujātā ã tự tay bưng những bình sữa ấy em ổ vào nồi và tự tay nhúm lửa, ích thân nấu món cơm sữa Ghana.

Sự trợ giúp của chư thiên và Phạm thiên 

Khi món cơm sữa Ghana ang ược nấu như vậy thì (1) những bong bóng lớn nổi lên và quay tròn theo chiều kim ồng hồ nhưng chẳng có một giọt nhỏ nào tràn ra ngoài; (2) không có một chút khói nào bốc lên từ dưới lò; (3) Bốn vị Thiên vương - những vị hộ trì thế gian, ến và ứng canh giữ lò; (4) Đại Phạm thiên cầm cái lọng ứng che trên cái nồi cơm sữa Ghana; (5) Đế thích sắp những cây củi cho bằng phẳng và ốt lửa; (6) chư thiên dùng năng lực thần thông thâu về những chất bổ dưỡng dành cho chư thiên, và nhân loại ang sống khắp bốn châu, có hai ngàn hải ảo nhỏ bao quanh. Tựa như họ ang lấy mật từ những tổ mật ong ở trên các cành cây. Rồi em những chất bổ dưỡng ã thâu gom như vậy ổ vào nồi cơm sữa Ghana.

Chú thích : Những lúc khác, chư thiên thường ưa những chất bổ dưỡng ấy vào mỗi miếng vật thực của Đức Phật khi Ngài ang ăn. Tuy nhiên, trong hai trường hợp ặc biệt, ngày Đức Phật chứng ắc Phật quả và ngày Ngài viên tịch Đại Niết bàn, thì chư thiên bỏ những chất bổ trên vào trong nồi vật thực.

Sau khi trông thấy nhiều iều kỳ lạ xảy ra trong một ngày tại nơi nồi cơm sữa ang ược nấu, nàng Sujātā cho gọi người tớ gái Puṇṇā ến và bảo rằng: “ Này Puṇṇā con, ngày hôm nay thọ thần banyan của chúng ta xem ra có tâm trạng vui vẻ. Hai mươi năm qua, ta chưa bao giờ chứng kiến những iều kỳ lạ như vậy. Hãy gấp rút i ến cây banyan và quét dọn sạch sẽ chỗ ngụ của vị thọ thần ấy.” Người tớ gái Puṇṇā vội vàng i ến cây banyan và trông thấy Bồ tát ang ngồi dưới cội cây, mặt nhìn về hướng ông và khắp cây banyan ều phát ra ánh sáng màu vàng do hào quang phát ra từ thân của Bồ tát. Người tớ gái Puṇṇā lấy làm kinh sợ và nghĩ rằng: “Hôm nay thọ thần Banyan ã i xuống khỏi cây. Theo ta nghĩ, vị ấy dường như ngồi ở ó ể tự tay nhận lấy lễ vật cúng dường.” Rồi nàng vội vã chạy về nhà và thưa lại mọi chuyện với nàng Sujātā. Nghe qua những lời của người tớ gái, nàng Sujātā cảm thấy rất vui mừng và nói rằng: “ Kể từ hôm nay, con sẽ là ứa con gái lớn của ta.” Rồi ban tặng cho người tớ gái Puṇṇā tất cả y phục và ồ nữ trang phù hợp với vị trí ứa con gái.

Theo thông lệ (dhammatā), vị Bồ tát sẽ thọ lãnh món cơm sữa Ghana vào ngày vị ấy thành Phật; và vật thực dâng ến Bồ tát ược ựng trong cái bát bằng vàng. Rồi, nàng Sujātā với ý nghĩ rằng : “ Ta sẽ ặt món cơm sữa Ghana trong cái bát bằng vàng,” rồi lấy cái bát vàng ở trong phòng của nàng. Đoạn nàng nghiêng cái nồi cơm sữa và trút nó vào bát bằng vàng cho ến giọt cuối cùng như giọt nước lăn xuống từ ngọn lá sen. Toàn thể lượng cơm sữa vừa ủ ể làm ầy cái bát ến ngang miệng, không hơn không kém.

Sujātā ặt bát ấy trong một cái bát bằng vàng khác và phủ lên bằng một tấm vải trắng tinh. Rồi nàng mặc vào bộ y phục lộng lẫy và trang sức rực rỡ, ặt bát sữa lên ầu, nàng i ến cây banyan. Thấy Bồ tát ang ngồi dưới cội cây và quá ỗi vui mừng nhầm tưởng ó là thọ thần, nàng ến gần trong thái ộ khiêm cung và tôn kính. Sau khi ã dừng lại ở một nơi phải lẽ và ể xuống bát sữa mà nàng ang ội trên ầu, dở nắp khăn ra và mang một cái bình bằng vàng ựng nước thơm ược ngâm bằng tất cả các loại hoa thơm, nàng tiếp tục tiến ến phía Bồ tát và ứng gần Ngài.

Cái bát bằng ất mà Phạm thiên Ghaṭikāra ã dâng tặng Bồ tát lúc Ngài xuất gia ã theo Ngài suốt sáu năm thực hành khổ hạnh, bỗng biến mất vào lúc công nương Sujātā ến dâng món cơm sữa Ghana. Vì không trông thấy cái bát, Bồ tát ưa bàn tay phải ra ể nhận lấy nước. Công nương Sujātā bèn dâng cúng bát cơm sữa Ghana và ặt nó trong ôi tay của Bồ tát. Bồ tát nhìn công nương Sujātā, hiểu rõ cách nhìn của Ngài, nàng kính cẩn thưa rằng: “ Kính lạy Ngài, con xin dâng cúng ến Ngài món cơm sữa Ghana trong cái bát bằng vàng. Mong ngài hoan hỉ thọ nhận nó cùng với cái bát bằng vàng và i bất cứ nơi nào Ngài thích.” Rồi nói lời khấn nguyện: “ Ước nguyện của con ã ược thành tựu, cầu mong ước nguyện của Ngài cũng ược thành tựu.” Nàng rời i mà không hề luyến tiếc chút nào về cái bát bằng vàng ắt giá ấy, tựa như nó là chiếc lá úa vàng.

Bồ tát cũng ứng dậy rời khỏi chỗ ngồi, sau khi i vòng quanh cây banyan, Ngài i tiếp ến bờ sông Nerañjarā mang theo cái bát bằng vàng có ựng cơm sữa Ghana. Ở dòng sông Nerañjarā, có bãi tắm tên Suppatitthita nơi chư Bồ tát ến và tắm vào ngày chư vị ắc Phật quả. Sau khi tắm xong, Bồ tát ngồi dưới bóng mát của một cội cây, mặt hướng về phía ông. Rồi Ngài em món cơm sữa vắt thành bốn mươi chín vắt lớn bằng trái cau già và ăn hết những vắt cơm ấy mà không uống nước. Bốn mươi chín vắt cơm sữa Ghana ấy, sau khi ăn vào biến thành chất dinh dưỡng (āhāra) ể nuôi sống Ngài ủ bốn mươi chín ngày (sattasattāha),  khi Ngài ang ngụ trong khu vực gần cây bồ-ề sau khi chứng ắc Phật quả. Suốt bốn mươi chín ngày này, Đức Phật trú trong sự an lạc của Quả giải thoát mà không dùng ến chút vật thực nào cả, không tắm, không rửa mặt và không lau rửa tay chân.

Sau khi ộ xong món cơm sữa Ghana do nàng Sujātā dâng cúng, Bồ tát cầm lên cái bát bằng vàng và phát nguyện rằng: “ Nếu Ta thành Phật trong ngày hôm nay thì hãy cho cái bát bằng vàng này trôi ngược dòng nước; nếu Ta không thành Phật ngày hôm nay thì cái bát này hãy trôi xuôi dòng nước.” Rồi Ngài quăng cái bát ra giữa dòng sông Nerañjarā, cái bát bằng vàng kia cắt ngang dòng nước i vào giữa con sông, rồi trôi ngược dòng với tốc ộ của một con ngựa ang phi nhanh, xa khoảng tám mươi hắc tay, rồi chìm xuống trong một luồng nước xoáy. Khi chìm xuống ến cung iện của chúa Rồng – Kala, nó chạm vào ba cái bát vàng của ba vị Phật quá khứ - Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Konāgamana và Đức Phật Kassapa, vào ngày các Ngài sắp thành Phật, tạo ra tiếng “leng keng” và rồi nằm dưới ba cái bát vàng trên.

Khi nghe tiếng leng keng, chúa Rồng bèn nói rằng “ Chỉ mới hôm qua có một vị Phật xuất hiện, hôm nay thêm một vị Phật khác xuất hiện.” Rồi vị ấy ngâm lên những bài kệ tán dương. (Thời gian xuất hiện giữa Đức Phật Kassapa và Đức Phật của chúng ta dài bằng một kiếp trái ất. Nhưng ối với chúa Rồng thì thời gian ngắn ngủi ến ộ vị này nói sự xuất hiện như ‘hôm qua và hôm nay’).

Rồi Bồ tát vào nghỉ trong rừng cây sala, trên bờ sông Nerañjarā, nơi có nhiều loại hoa thơm, cây cối xanh tươi và dễ mến. Rồi Ngài thực hành pháp niệm Ānapana. Sau khi chứng ắc bát ịnh và ngũ thông (abhiññā), Ngài i dọc theo con ường ã ược chư thiên và Phạm thiên trang hoàng xinh ẹp buổi chiều tối. Sau khi xuống con sông Nerañjarā và tắm nơi ó, Ngài hướng ến cây ại bồề bằng con ường do chư thiên và Phạm thiên mở ra. Nhân ó, các vị rồng (naga), dạ-xoa (yakkha) và càn-thát-bà (gandhabba) tôn kính cúng dường Ngài bằng các loại hương liệu và hoa thơm của chư thiên. Họ cũng trỗi lên những khúc ca và tiếng nhạc ầy hân hoan và khả ái. Khi ấy toàn thể mười ngàn thế giới hầu như ược phủ ầy hương liệu và hoa của chư thiên, không trung vang dội tiếng tung hô của chư thiên và Phạm thiên.

Lúc bấy giờ, một người cắt cỏ thuộc dòng Bà-la-môn tên là Sotthiya, ang i ến từ hướng ối diện mang theo những bó cỏ. Hiểu ược ước muốn của Bồ tát là cần ến một ít cỏ, ông ta dâng ến Ngài tám nắm cỏ. Bồ tát mang tám nắm cỏ ấy i lên chỗ ất cao của cây bồề, ứng ở phía nam của cây, mặt nhìn về phía bắc. Ngay khi ấy, phần phía nam của mười ngàn thế giới bỗng nhiên chìm xuống như thấu ến ịa ngục A-tỳ (Mahā Avici); và phần phía bắc của mười ngàn thế giới thì nổi cao lên như thấu ến cõi Sắc cứu cánh thiên (Bhavagga). Trông thấy hiện tượng này, Bồ tát suy xét như vầy: “ Đây không phải là nơi mà A-la-hán ạo trí (arahatta-magga-ñāṇa) và Nhất thiết trí (sabbaññuta-ñāṇa) có thể ược giác ngộ.” Rồi Ngài tiếp tục i quanh cây bồ-ề theo chiều kim ồng hồ và dừng lại ở hướng Tây, mặt nhìn về hướng ông. Ngay khi ấy, phần phía tây của mười ngàn thế giới cũng chìm xuống như thấu ến ịa ngục A-tỳ (mahā avici); và phần phía ông thì trồi lên cao như thấu ến cõi Sắc cứu cánh thiên (Bhavagga), Bồ tát lại suy nghĩ: “ Đây cũng không phải là chỗ mà Ala-hán ạo trí (arahatta-magga-ñāṇa) và Nhất thiết trí (sabbaññutañāṇa)  có thể ược giác ngộ”. Rồi Ngài i vòng tiếp ến hướng bắc và mặt nhìn về hướng nam. Ngay khi ấy, phần phía bắc của mười ngàn thế giới chìm xuống như thấu ến cõi A-tỳ ịa ngục (mahā avici); và phần phía nam thì trồi cao lên như thấu ến cõi Sắc cứu cánh thiên (Bhavagga). (Vị trí của ại ịa ở những chỗ tại hướng nam , hướng tây và hướng bắc, nơi Bồ tát ã ứng, nó chìm xuống ở phía sau lưng Ngài và trồi lên ở trước mặt Ngài - giống như bánh xe bò nằm ngang trên ất, nó chao ảo hoặc chông chênh khi có người ạp lên ở mép vành). Trông thấy hiện tượng này, Bồ tát lại suy nghĩ: “Chỗ này cũng không phải là nơi mà A-la-hán ạo trí (arahatta-magga-ñāṇa) và Nhất thiết trí (sabbaññuta-ñāṇa) có thể ược chứng ắc.” Rồi Ngài lại i vòng tiếp về hướng ông và mặt nhìn về hướng tây.

(Về vấn ề này, bộ Chú giải Buddhavaṃsa chỉ nêu ra iều này: “ Bồ tát i tiếp ến cây bồ ề, và sau khi i quanh ba vòng, ứng tại góc ông bắc và rải tám nắm cỏ.” Bộ Chú giải không ề cập vấn ề ại ịa nghiêng một bên khi Ngài ứng ở hướng nam, hướng tây và hướng bắc. Tuy nhiên, bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā thì giải thích rằng: “ Khi Bồ tát ứng ở hướng nam, hướng tây và hướng bắc thì ại ịa rung chuyển như giọt nước rơi xuống ngọn lá sen” và ứng ở góc ông bắc, Ngài rải xuống nắm cỏ.”)

Vị trí mà vô ịch bảo tọa (aparājita) xuất hiện ở hướng ông của cây bồ ề thì vững chắc không chao ộng (avijahitaṭṭhāna), nơi mà các bảo tọa của chư Phật quá khứ ã xuất hiện. Khi biết rằng: “ Nơi ây chắc chắn là chỗ chiến thắng, là chỗ mà tất cả chư Phật oạn trừ phiền não.” Và cầm ở ầu ngọn cỏ, Bồ tát rải ra tám nắm cỏ mà Ngài mang ến. Ngay khi tám nắm cỏ vừa ược rải ra, chúng biến thành bảo tọa châu báu to lớn, kích thước mười bốn hắc tay, lộng lẫy ến nỗi không một họa sĩ hay nhà iêu khắc tài giỏi nào có thể vẽ hay chạm trổ lại y như thế.

Cây bồ-ề phía sau lưng, mặt nhìn về hướng ông và với tâm kiên quyết, Bồ tát công bố:

  1. Cho dù chỉ còn da,
  2. Cho dù chỉ còn gân,
  3. Cho dù chỉ còn xương,
  4. Cho dù toàn thân của ta, và tất cả thịt  cùng máu ều khô cạn,

nếu chưa chứng ắc Phật quả Ta sẽ không thay ổi thế ngồi kiết già này. Với tứ phần tinh tấn nguyện như vậy, Ngài ngồi trên bảo tọa châu báu trong thế ngồi kiết già bất khả chiến bại, dầu hằng trăm cái chùy sấm sét tấn công cùng một lúc.

Sự thắng phục thiên ma Vasavatti trước khi mặt trời lặn  

Khi Bồ tát ngồi trên vô ịch bảo tọa (aparājita) dưới cội cây bồ-ề với mục ích chứng ngộ Nhất thiết trí (sabbaññuta-ñāṇa), Đế thích ến ảnh lễ và ứng thổi cái tù và Vijayuttara (cái tù và này dài 120 hắc tay và khi ược thổi thì âm thanh của nó ngân vang suốt 4 tháng mới ngưng), vị thiên Pañcasikha ến ảnh lễ và ứng gảy àn Beluva, vị thiên Suyama ứng phe phẩy cái phất trần, vị thiên Santusita ứng phe phẩy cái quạt tròn bằng hồng ngọc, và Phạm thiên Sahampati ứng cầm cái lọng trắng dài ba do tuần. Long vương Kāla ến với hội chúng tám chục ngàn nữ rồng và bày tỏ sự tôn kính bằng cách ngâm lên hằng trăm bài kệ tán dương Bồ tát. Tất cả chư thiên và Phạm thiên khắp mười ngàn thế giới ều ến bày tỏ sự tôn kính bằng những loại hoa thơm ngát, những loại hương liệu, bột thơm và ca lên hằng ngàn bài ca tán dương Bồ tát.

Ma vương của cõi Tha hóa tự tại thiên, sau khi rời bỏ các lạc thú ở  cõi chư thiên của vị ấy, hằng theo sát Bồ tát suốt sáu năm lúc Ngài thực hành dukkaracariyā, chờ ợi cơ hội xem Bồ tát có khởi lên các tà tư duy như dục tư duy (micchāvitaka), v.v... hay không. Nhưng vì không tìm thấy một dấu hiệu nhỏ nhoi nào về sự khởi sanh các tà tư duy nơi Bồ tát, Ma vương tự nghĩ như vầy: “ Bây giờ Thái tử Siddhattha ã ến cây bồ-ề ể chứng ắc Phật quả. Hiện tại vị ấy ang cố gắng thoát khỏi phạm vi kiểm soát của ta (trong ba cõi nhân loại, chư thiên và Phạm thiên). Dù thế nào chăng nữa, ta cũng không thể ể cho vị ấy có cơ hội thoát ra khỏi tam giới dưới quyền kiểm soát của ta.” Với ý nghĩ này, y trở về cõi Tha hóa tự tại thiên (Vasavatti deva) và sau khi triệu tập các oàn binh ma, y truyền lịnh : “ Này các chiến hữu, hãy tự mình hóa thành những hình thù ghê sợ và mỗi vị cầm những khí giới khác nhau, rồi tiến nhanh ến thái tử Siddhattha như một dòng thác lũ ang ổ xuống.” Còn thiên ma, vị ấy i sau oàn binh ma, cỡi trên con voi Girimekhala lớn 150 do tuần, và hóa ra 1000 cánh tay trên thân, mỗi cánh tay cầm một loại khí giới.

(Thiên ma - Mara deva ở ây không phải là kẻ cai trị hợp pháp của cõi Tha hóa tự tại. Vị thiên vương trị vì hợp pháp của cõi Tha hóa tự tại là một vị thiên khác. Cũng như một thủ lãnh của phe nổi loạn trong cõi nhân loại, nổi dậy ể chống lại quốc gia, quấy phá và cướp oạt, Thiên ma thực ra chỉ là vị thiên có quyền lực ở cõi Tha hóa tự tại, lãnh ạo ám tùy tùng nổi loạn gồm những chư thiên ác, tạo ra mối phiền nhiễu to lớn cho nhân loại, chư thiên và Phạm thiên khi thực hành các việc phước).

Những oàn binh ông ảo của Ma vương ang tiến ến Bồ tát số lượng thật khổng lồ, phía trước Ma-vương kéo dài 12 do tuần, bên phải 12 do tuần, bên trái 12 do tuần, ở trên ầu Ma vương cao 9 do tuần và ở ằng sau nó trải dài ến tận cùng của mười ngàn thế giới. Những âm thanh ghê rợn từ những tiếng la hét có thể nghe từ một khoảng xa một ngàn do tuần, giống như âm thanh ất lỡ. Ma vương với ngàn tay cầm một ngàn loại khí giới khác nhau, và những oàn binh ông ảo của y, mỗi oàn cầm một loại khí giới riêng, biến ra những hình thù dữ tợn với những khuôn mặt kỳ dị, tất cả tiến ến Bồ tát nhằm ánh bại và tiêu diệt Ngài.

Khi những ạo binh ma khổng lồ tiến ến cây ại bồ-ề như vậy, thì không một ai trong số những chư thiên do Đế thích dẫn ầu i ến ể tôn kính Bồ tát mà có ủ gan dạ ể ứng ó. Họ bỏ chạy tán loạn khắp các hướng. Sakka vác cái tù và Vijjayuttara bỏ chạy và dừng lại ứng ở bờ vực của mười ngàn thế giới. Đại phạm thiên cũng vậy, vị ấy quăng bỏ cái lọng trắng ở bờ vực của mười ngàn thế giới và trở về cõi Phạm thiên. Long vương Kāla cũng thế, vị ấy bỏ lại tất cả nữ rồng và ộn thổ trở về long cung Manjerika, rộng năm trăm do tuần, rồi nằm ngủ với tay che mặt. Không có một vị thiên hay vị Phạm thiên nào dám ứng gần Bồ tát và cây ại bồ-ề. Lúc bấy giờ, Bồ tát ngồi lại một mình như Đại phạm thiên một mình ngụ trong cung iện trống vắng.

Những iềm xấu hiện ra báo hiệu Ma vương xuất hiện 

Những iềm xấu hiện ra rõ ràng ể báo hiệu Ma vương sắp ến. Những iềm tướng này là : hằng ngàn sao băng rơi xuống; bóng tối phủ xuống với sương mù nổi lên; ại ịa cùng ại dương chấn ộng dữ dội; sương muối nổi lên trên biển; nhiều con sông chảy ngược dòng; á trên ỉnh núi ổ ào xuống; cây cối ngã ổ; gió bão thổi mạnh; những tiếng rít và tiếng gầm thét rợn người phát ra từ những cơn gió bão này; mặt trời chìm vào bóng tối. Ma vương ến  với sự xuất hiện rõ ràng của những hiện tượng báo iềm này, Bồ tát vẫn ngồi yên một cách can ảm, không chút sợ hãi, như ại bàng chúa Garuda giữa bầy chim hoặc như sư tử chúa Kesarajā xuất hiện giữa muôn thú.

Ngay khi những iềm xấu kể trên xuất hiện thì Ma vương i ến nhưng phải ứng lại vì không thể i vào khu vực trung tâm của cây ại bồ-ề (Mahā Bodhi maṇḍāla). Không dám tiến vào, những ạo binh ma ông ảo bèn vây quanh Bồ tát từ khắp các hướng. Nhìn các ạo binh của mình, Ma vương truyền lịnh: “ Nào, hãy bắt lấy vị ấy.” Nhưng chính Y không thể nào ến gần cây ại bồ-ề giống như con ruồi không thể ến gần thanh sắt nóng ỏ, Ma vương nói với tùy tùng: “ Hỡi các chiến hữu, không một ai có thể ịch lại Thái tử Siddhattha, con vua Suddhodāna. Chúng ta không thể tấn công từ phía trước, vậy chúng ta hãy tấn công thái tử Siddhattha từ sau lưng vị ấy.”

Khi quán xét ở ba mặt: phía trước, bên phải và bên trái, Bồ tát không nhìn thấy một ai ngoài sự trống rỗng vì tất cả chư thiên và Phạm thiên ã bỏ chạy. Rồi nhìn vào những ạo binh ma ang tiến ến ể quật ngã Ngài từ phía bắc, Ngài tự nghĩ: “Những ạo binh ông ảo của Ma vương ang cố gắng bằng mọi cách với mục ích duy nhất là tấn công Ta. Giờ ây nơi này, không mẹ, không cha, anh em hay quyến thuộc cũng không. Chỉ có mười pháp Ba-la-mật mà Ta ã tu tập và nuôi dưỡng từ nhiều ời nhiều kiếp, là những người bạn sát cánh và những người hầu trung thành của ta. Nhờ nương vào những ồng chí trung thành này, tức mười Ba-la-mật, sẽ thích hợp ể Ta tiêu diệt những ạo binh ma này bằng vũ khí Ba-la-mật của Ta.” Rồi Ngài ngồi như vậy mà quán xét về mười pháp Ba-la-mật của ngài.

Cuộc tấn công của Ma vương bằng chín loại khí giới 

Trong khi Bồ tát ang suy xét về mười pháp Ba-la-mật của Ngài như vậy thì Ma vương ra kế hoạch tấn công: “ Bằng cách tung ra chín loại khí giới hủy diệt, ta sẽ khiến thái tử Siddhattha phải bỏ chạy.”

  1. Trước hết y tung ra một trận cuồng phong dữ dội. Ngay lập tức gió ông, gió tây, gió nam và gió bắc nổi lên ào ào, và dầu chúng có khả năng phá vỡ và cuốn i những ỉnh núi có kích thước nửa do tuần, một do tuần, hai do tuần hoặc ba do tuần, cuốn phăng những cây ại thọ và nghiền nát những làng mạc, phố chợ ở vùng lân cận, chúng lại trở nên vô hiệu khi ến gần Bồ tát, thậm chí không thể làm lay ộng chéo y của Ngài do oai lực các pháp Ba-la-mật của Bồ tát.
  2. Ma vương nôn nóng nhìn quanh với ý nghĩ rằng: “ Vào lúc này, Sa-môn Gotama có lẽ ã bị cơn gió lốc của ta cuốn i và va vào ngọn núi Cakkavāla mà tan ra từng mảnh.” Y tức giận khi thấy Bồ tát vẫn ngồi bất ộng ở ó như cái trụ có ế ược chôn chặc trong lòng ất, Ma vương lại khởi lên ý ịnh khác: “ Ta sẽ giết chết Thái tử Siddhattha bằng cách nhận chìm Thái tử trong những dòng nước rất mạnh.” Và tức thì vị ấy tạo ra những ám mây mưa vần vũ và cơn mưa lũ trút xuống. Quả ất to lớn này biến thành vùng trũng sâu do sức mạnh của lượng mưa ược Ma vương hóa ra. Dòng nước lũ này, sau khi chảy tràn khắp bìa rừng và cây cối, nó tiến gần Bồ tát nhưng không thể làm ướt ngay cả một sợi chỉ trên chiếc y của Ngài, nó chuyển hướng và chảy i nơi khác.
  3. Trông thấy hiện tượng trên, Ma vương dự ịnh: “ Ta sẽ biến Thái tử Siddhattha này thành cát bụi bằng trận mưa á,”  và y tạo ra trận mưa á. Những tảng á có kích thước rất lớn lăn xuống từ hư không giống như những ngọn núi lớn, làm nổi lên khối bụi mịt mù. Khi ến gần Bồ tát, chúng biến thành những tràng hoa chư thiên và những quả cầu hoa.
  4. Sau ó, với ý nghĩ rằng: “ Ta sẽ em ến cái chết cho Thái tử Siddhattha. Ta sẽ giết chết vị ấy bằng cách băm nhỏ vị ấy ra từng mảnh, ” Ma vương bèn hóa ra trận mưa ao. Tất cả các loại ao, kiếm, v.v... bay vần vũ trong không trung phát ra những ám khói và lửa, nhưng khi i vào khu vực của cây ại bồ-ề thì chúng biến thành các loại hoa thơm và xinh ẹp như hoa lài, v.v... và rơi xuống người của Bồ tát.
  5. Dù Ma vương ã dự ịnh, “ Thái tử Siddhattha sẽ biến thành khối thịt ược băm nhỏ.” Nhưng y ã thất bại, và rất ngạc nhiên khi thấy Thái tử Siddhattha vẫn ngồi ở ó, uy nghi như ngọn núi Kim cương. Bởi vậy, y lại cho ổ xuống ám mưa than ỏ. Chúng rơi xuống kèm theo khói lửa mịt mù nhưng rồi cũng biến thành các loại hoa khi ến gần Bồ tát.
  6. Sau ó, y tạo ra ám mưa tro nóng ỏ. Khối tro khổng lồ rất nóng như lửa rơi xuống từ không trung nhưng lại biến thành bột àn hương của chư thiên khi chúng ến gần chân của Bồ tát.
  7. Lại nữa, Ma vương biến hóa ra cát nóng rơi xuống như mưa. Cát ở dưới dạng bột rất mịn i xuống từ hư không và rơi xuống chân của Bồ tát thành những óa hoa chư thiên.
  8. Sau ó, y hóa ra một ám mưa bùn nóng. Bùn bốc khói và lửa ngọn cũng xuyên qua hư không rơi xuống dưới chân Bồ tát sau khi biến thành nước hoa của chư thiên.
  9. Cuối cùng, Ma vương hóa ra màn êm en tối với ý ịnh : “ Ta sẽ cho Thái tử Siddhattha phải bỏ chạy bằng cách tạo ra màn êm en tối ể e dọa vị ấy.” Màn êm en tối do Ma vương tạo ra bốn yếu tố, ó là : êm 30 không có trăng, trời ầy mây en, lúc nửa êm, ở giữa rừng sâu; nhưng khi bóng tối ấy tràn ến Bồ tát thì nó biến mất như êm tối bị ánh sáng mặt trời xua tan.

(Ở ây, cần hiểu rằng bóng tối do Ma vương tạo ra bị xua tan do bởi mạng lưới hào quang tỏa ra từ những lỗ chân lông trên thân của Ngài).

Ma vương tung ra loại khí giới cực kỳ nguy hiểm 

Dầu Ma vương ã tiến hành những cuộc tấn công bằng chín loại khí giới kể trên, nhưng chúng không hiệu quả. Bởi vậy Y tiếp tục khiến sao băng rơi xuống, làm cho mười ngàn thế giới tràn ngập mây khói. Sấm sét ùng ùng vang dậy cả bầu trời dầu không có mưa. Hằng ngàn tia chớp lóe sáng khủng khiếp. Tuy vậy, Ma vương cũng không thể nào làm hại Bồ tát. Rồi y lại chuyển sang cuộc tấn công bằng vũ khí cực kỳ nguy hiểm, nói rằng: “ Này Thái tử Siddhattha, ta sẽ làm cho cái ầu của người bể ra từng mảnh và rơi xuống ất.”

Công năng của loại khí giới ấy nguy hiểm ến nổi nếu nó ược ném xuống ất thì suốt 12 năm liền cỏ không mọc nổi. Nếu nó ược phóng lên trời thì trời ất sẽ bị hạn hán suốt mười hai năm không một giọt mưa. Nếu nó ược phóng vào ỉnh núi Meru thì núi Meru sẽ vỡ ôi và ổ xuống tan tành. Khi ma vương tung ra loại khí giới ấy, nó i xuống xuyên qua hư không, phát ra tiếng ùng ùng như sấm sét và rơi xuống dưới chân Bồ tát cuộn tròn lại như cuộn dây thừng ược dùng làm thảm chà chân, và như vậy tánh kiêu ngạo hung hăng của Ma vương cũng bị triệt hạ.

Vì chẳng biết làm gì hơn và quá tức giận, Ma vương lớn tiếng truyền lịnh cho binh ma: “ Tại sao các ngươi ứng trơ ra ó? Đừng ể Thái tử Siddhattha có cơ hội nào ể thành tựu ước nguyện chứng ắc Phật quả. Hãy tóm lấy hắn! Hãy âm chém hắn! Hãy hạ gục hắn!

Đừng                ể hắn trốn thoát!” Chính Ma vương cỡi trên con voi

Grimekhala tiến ến Bồ tát, một tay vung lên vù vù và nói với Bồ tát rằng: “ Này Thái tử Siddhattha, từ nay trở i hãy rời khỏi bảo tọa kia i.” Vào lúc ấy, những ạo binh ma tự hóa ra những hình thù kỳ dị, hăm dọa bằng nhiều cách.

Đức bi mẫn của Bồ tát 

(Đoạn kệ cảm thắng Thiên ma ược mô tả trong bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā với nhiều chi tiết và làm khởi sanh lòng tịnh tín nhiều hơn so với bộ Chú giải Jātaka và bộ Chú giải Buddhavaṃsa. Vì vậy, hầu hết những những chi tiết sau ây phần lớn ược trích ra từ bộ Jinālaṅkāra

Ṭīkā.)

  1. Sa pādamule kiḷantaṁ,         passanto tarunaṁ sutaṁ        pitāvudikkhi taṁ māraṁ        mettāyanto dayāparo.

Đối với người cha nhân từ rất yêu thương con cái, khi ứa con nhỏ ang ùa giỡn với ông ta, dầu nó có ánh ấm, cào xé, nhổ râu, giật tóc của ông, ông ta cũng không hề tỏ vẻ nóng giận. Trái lại, người cha còn ẳm nó lên, vỗ về cho nó ngủ trong lòng, trong tình thương của người cha. Cũng vậy, Bồ tát hằng nhẫn nại, chịu ựng tất cả những hành vi sái quấy của Ác ma, không chút buồn phiền. Ngài nhìn Ma vương với tâm không chút sợ hãi mà chỉ với tâm từ ái và lòng bi mẫn.

  1. Tadā so āsabhiṁ vācaṁ           sīhanādaṁ nadī mun          na jānāti sayaṁ mayhaṁ     dāsabhāvampayaṁ khalo.
  2. Yena kenaci kammena   jāto devapure vare   sakaṁ gattiṁ ajānanto   lokajeṭṭhomhi maññati.

Khi ma vương tiến ến Bồ tát với những ạo binh hùng hậu và không ngừng quấy nhiễu Ngài, Ngài thốt lên những lời dũng cảm như vầy: “ Ác ma này, quả thật chẳng hay biết chút nào rằng chính y ã trở thành người hầu của Ta rồi. Sau khi ã tái sanh trong cõi Tha hóa tự tại thiên (Vassavati), chỉ do có chút phước, nhưng chẳng biết một chút nào về thọ mạng của chính y, tức mạng chung vào khổ cảnh mà y phải bị ọa vào sau khi chết. Y lại nghĩ về mình rằng: “ Ta thường hằng, Ta là người duy nhất thống trị khắp thế gian.” Y chẳng hề suy xét, chẳng hay biết về số phận của chính y và về ại họa này y sẽ bị rơi xuống khổ cảnh. Do vô minh, y mới dám phạm những iều ác như vậy.”

  1. Anantalokadhātumhi        sattānaṁ hi kātaṁ subhaṁ        mayhe kapāramitāyāpi        kalaṁ nāgghati soḷasim.

 

  1. Tiracchāno saso hutvā       disvā yācakamāgataṁ        pacitvāna sakaṁ maṁsaṁ        patitoggimhi dātave.

Nếu em số phước tích lũy của tất cả chúng sanh trong toàn thể vô số thế giới ặt một bên của chiếc cân trí tuệ và bên kia của chiếc cân là những việc phước tích lũy từ những pháp Ba-la-mật của Ta thì số phước của tất cả chúng sanh không bằng một phần hai trăm năm mươi sáu (1/256) số phước phát sanh từ một trong mười Ba-la-mật của ta. Quả thật, ngay cả trong kiếp sanh làm con thỏ bé nhỏ ở cõi súc sanh, Ta ã nhảy vào ống lửa với can ảm to lớn ể làm món thịt nướng khi một người ến xin món thịt từ thân mạng của ta.

[Thông thường, lời nói ầy gan dạ ược Bồ tát nói ra : “ Nếu phước tích lũy của tất cả chúng sanh trong toàn thể vô số thế giới mà em so với những việc phước phát sanh từ duy nhất một trong mười pháp Ba-la-mật của ta thì phước kia không bằng một phần hai trăm năm mươi sáu (1/256) số phước của một Ba-la-mật ấy”, xem ra có vẻ hơi khoa trương. Thực tế thì không khoa trương chút nào, những lời nói ấy rất tự nhiên và úng thật. Giải rõ, những chúng sanh khác ngoài Bồ tát ra, thường làm những việc phước với ước nguyện ược thọ hưởng hạnh phúc trong cõi nhân loại và chư thiên. (Ngay cả những người tu Phật sanh ra làm người trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật hiện tại, và biết rõ rằng hành ộng bố thí với ước nguyện tái sanh vào những cõi an vui ầy ủ dục lạc, vaṭṭanissita dāna không thù thắng và nhiều lợi ích bằng hành ộng bố thí với ước nguyện chứng ắc Niết bàn, vivaṭṭanissata dāna, trong thâm tâm của họ vẫn có ước muốn tái sanh vào cảnh giới tốt ẹp với ời sống hạnh phúc tuy họ không bày tỏ ước muốn này một cách rõ ràng khi bố thí cúng dường). Như vậy, việc làm tích lũy phước ược thực hiện bởi những kết quả khác trong vòng luân hồi, tựa như những người này ang tiêu xài của cải do phước của họ em lại khi họ ang có kiếp sống làm người và hạnh phúc trong cõi người, cõi chư thiên. Do ó, giống như người xài tiền cho những nhu cầu cá nhân mỗi khi người ấy kiếm ược tiền và không thể dành dụm tiết kiệm ược ồng nào. Ngoài Bồ tát, tất cả chúng sanh hữu tình, vui thích trong khoái lạc của luân hồi, vaṭṭābhirata, tất cả ều là những kẻ nghèo túng, không có ược của cải tích lũy của những việc phước.

 Còn ối với Bồ tát, Ngài chỉ mong cầu Nhất thiết trí, mỗi lần Ngài thực hiện việc phước là ể hoàn thành các pháp pāramī. Kết quả, tất cả những việc phước ược thực hiện bởi Bồ tát vẫn nguyên vẹn trong dòng tâm của Ngài như một kho tích lũy các việc phước (kammasamaṅgi) chừng nào chúng chưa ra quả Nhất thiết trí (sabbaññuta-ñāṇa). Thế nên, như người không tiêu xài phung phí mà tiết kiệm tiền bạc mỗi ngày một nhiều hơn, cũng vậy Bồ tát tích lũy các việc phước từ kiếp này sang kiếp khác, trở thành người rất giàu có về phước.

Đối với một người giàu có, tài sản ến hằng triệu ồng tiền vàng thì dù ông ảo người nghèo góp chung lại cũng không thể sánh với ông ta về mặt tài sản. Cũng vậy, Bồ tát là người có tài sản về phước nhiều vô lượng do những Ba-la-mật của Ngài em lại. Nên chúng sanh trong vô số thế giới không thể so với Ngài về mặt phước báu. Họ nhất ịnh bị ánh bại vì họ nghèo khổ về mặt tài sản phước báu do họ ã sử dụng hết khi họ vừa kiếm ược qua sự thành tựu kiếp sống hạnh phúc (bhavasampatti) và sự thọ hưởng các dục lạc (bhogasampatti). Cho nên Bồ tát thốt lên những lời ầy tự tin như vậy là không cường iệu chút nào. Những lời như vậy rất tự nhiên và trung thực.]

  1. Evaṃ anantapunnehi          siddhaṁ dehamimaṁ pana         yaṭhābhūtaṁ ajātnanto          manussoti hi maññati.

Ta có ược nhân cách này trong kiếp sống này là do kết quả của vô lượng phước báu kể trên, Ma vương vẫn không biết Ta thực sự là người như thế nào và vì thế y cho rằng Ta chỉ là một người bình thường.

  1. Nāhaṃ namusso nāmanusso                           na Brahmā na ca devatā                          darāmaranaṁ lokassa                          dassetum panidhāgato.

Thực ra, Ta không phải là một con người bình thường bảy ngày tuổi, Ta cũng không phải là dạ xoa, Phạm thiên hay chư thiên nhưng Ta ã thọ sanh trong lòng của một nữ nhân ể chỉ cho chúng sanh thấy cái khổ của già, bịnh và chết trong vòng luân hồi.

(Giải thích: Không thể nói rằng Bồ tát là người, dạ xoa, chư thiên hay Phạm thiên, vì mỗi loại chúng sanh này ều không có những công việc ược thực hiện bởi Bồ tát.

Nếu vậy thì có thể ặt ra câu hỏi: Tại sao Bồ tát sanh ra từ một người nữ (hoàng hậu Māyā)? Câu trả lời ã ược nói ở trên rằng Ngài ã thọ sanh trong bào thai của một nữ nhân ể chỉ cho tất cả chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên thấy khổ già, khổ bịnh và khổ chết trong vòng luân hồi.

Giải thích thêm: Không có chư thiên, Ma vương, Phạm thiên hay Đại ngã (Atta) có thể tạo ra hay làm cho hiện hữu một chúng sanh nào. Thực tế thì chính do ái dục (taṅhā) khởi sanh trong dòng tâm của mỗi cá nhân chịu trách nhiệm về sự tái sanh (paṭisaṅdhi). Cũng chính do năng lực của ái dục mà hành ộng phước và tội.

Giải rõ hơn: Hành vi tạo nghiệp (kamma) giống như ất trong ruộng. Tâm thức (viññana) i chung với nghiệp giống như hạt giống; ái dục hay tham (taṇhā hay lobha) giống như nước. Chính do sự kết của ba yếu tố: ất của kamma, hạt giống của viññāna và nước mà taṇhā hay lobha mọc lên; chính do 3 yếu tố này mà có chúng sanh. Nếu taṇhā hay lobha không có, thì dù có kammaviññāna cũng không thể có chúng sanh. Do ó, những vị A-la-hán ã oạn tận ái dục thì không còn tái sanh vào kiếp sống mới.

Như vậy, chúng sanh xuất hiện do sự kết hợp của ba nguyên nhân, phải chịu nhiều au khổ như sanh, già, v.v... Bồ tát là người muốn oạn diệt tất cả những au khổ này cho chúng sanh.

Nguyên nhân chính tạo ra tất cả au khổ là ái dục (taṅhā) . Nếu ái dục ược oạn tận thì sự sanh không xảy ra. Nếu sanh không có thì già, chết, v.v… cũng không có. Cho nên chỉ ái dục cần phải ược oạn tận trước hết; và do vô minh (moha) mà ái dục sanh khởi trong chúng sanh, khiến họ khao khát hạnh phúc với quan niệm rằng sáu cảnh (ārammana) như: sắc (rupārammana) … là thường (nicca-saññā), lạc (sukha-saññā), ngã (atta-saññā) hoặc tịnh (subha-saññā). Và ái dục có thể ược oạn trừ chỉ khi nào những khuyết iểm của sáu cảnh, nguồn gốc của ái dục, ược làm cho hiện bày.

Lại nữa, những khuyết iểm của sáu cảnh là bản chất vô thường, v.v... có thể nhận rõ khi nào thấy ược bản chất của già và chết; chỉ khi nào thấy già và chết thì mới trông thấy các khuyết iểm của sáu cảnh, như trạng thái vô thường, v.v... và chỉ khi nào trông thấy những khuyết iểm của sáu cảnh này thì ái dục và tham ái dính mắc với sáu cảnh mới ược loại trừ. Và chỉ khi nào ái dục và tham ái ược loại trừ thì au khổ luân hồi như sanh, già, v.v… mới chấm dứt. Như thế, sự giác ngộ bản chất của già và chết hình thành yếu tố căn bản và nòng cốt nhất trong sự chấm dứt khổ luân hồi. Và vì vậy, Bồ tát i ến cõi nhân loại này và thọ sanh trong bào thai như hoa sen của hoàng hậu Māyā ể chỉ cho tất cả chúng sanh thấy ược bản chất của già và chết hình thành yếu tố căn bản và nòng cốt trong việc chấm dứt cái khổ trong luân hồi.

 (Giải rõ hơn nữa) Nếu Bồ tát, sau khi sanh làm một vị thiên hay Phạm thiên mà thuyết giảng bản chất của già và chết và thị hiện các phép lạ, thì chư thiên hoặc Phạm thiên sẽ không tin vì họ cho rằng: “ Vị thiên này hay Phạm thiên này vốn là kẻ ang thọ hưởng hạnh phúc, vị ấy thường tồn và bền vững (ngã), lại ến thuyết giảng về vô thường, khổ và vô ngã. Giáo pháp của vị ấy là giáo pháp gì vậy?” Họ sẽ không tôn kính lắng nghe Ngài. Họ chỉ ưa ra ý kiến rằng: “ Có iều gì mà một vị thiên hay Phạm thiên không thể giảng thuyết và có phép lạ nào mà vị ấy không làm ược? Thực ra, vị ấy có thể thị hiện tất cả các phép  lạ. Bởi vậy, sự thuyết giảng giáo lý hay sự thị hiện các phép lạ của vị ấy chẳng có gì là kỳ diệu cả.”

Trước sự chứng kiến của phần ông, Bồ tát ược sanh ra từ hoàng hậu Māyā; lớn lên Ngài thọ hưởng dục lạc, lấy vợ và khi có con, Ngài từ bỏ thế gian và trở thành vị Sa-môn. Sau khi thực hành sáu năm dukkaracariya, cuối cùng Ngài chứng ạt Đạo tuệ và Nhất thiết trí (trở thành một vị Phật). Do ó, khi Ngài bắt ầu thuyết pháp hay làm hiện bày bản chất của già và chết, hoặc giảng giải về Tam tướng: vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta), tất cả chúng sanh tôn kính lắng nghe lời dạy của Ngài với ý nghĩ rằng : “ Ngay cả một con người cao quý như Ngài, có ại oai lực và trí tuệ và biết rõ tất cả mọi khía cạnh của Pháp, vẫn không thể vượt qua già, bịnh và chết. Nói gì ến chúng ta?”

“ Đức Phật của chúng ta, Bậc giảng dạy phương pháp oạn trừ mọi au khổ như sanh, già, v.v… quả thật ã liễu ngộ bản chất thật của tất cả các pháp!  Thật vậy, Niết bàn, nơi diệt tận tất cả mọi au khổ như sanh, già, v.v... là hạnh phúc tuyệt ối!” Với niềm tin này, họ thực hành theo lời dạy của Đức Phật, vận dụng trí tuệ theo lời dạy và nhờ vậy họ thấy rõ thân này (atta-bhava) úng thực là năm thủ uẩn (upādānakkhandha) là khổ (dukkha) và nguyên nhân của dukkha. Họ cũng phân biệt rõ những khuyết iểm của ái dục và tham sanh khởi trong thân này, mà thực tế ó là năm thủ uẩn. Sau khi thấy rõ như vậy, chúng sanh cảm thấy sợ hãi, xấu hổ và ghê tởm ái dục  là nguồn gốc của khổ (samudaya-saccā), năm thủ uẩn, tức là sự thực về khổ (dukkha-saccā) sanh lên từ ái dục, và họ hoàn toàn oạn trừ ái dục. Khi thực hành như vậy, họ sẽ có ủ khả năng ể chứng ạt Niết bàn tối hậu (anupādaparinibbāna), sự chấm dứt hoàn toàn dukkha. Cho nên Bồ tát nói rằng: “ Ta ến cõi nhân loại này và chấp nhận thọ thai trong lòng hoàng hậu Māyā ể chỉ cho tất cả chúng sanh thấy cái khổ của sanh, già và chết trong vòng luân hồi.”

  1. Anapulitto lokena                            jātonantajino ahaṁ                           Buddho bodhitale hutvā                           Tāremi janātaṁ bahuṁ.

Này Ma vương, dầu ã ra ời trong cõi nhân loại này, Ta hoàn toàn không bị ô nhiễm bởi bất cứ trạng thái hữu vi nào của chúng sanh. Sau khi oạn diệt trạng thái hữu vi vô lượng của chúng sanh và vô lượng phiền não, ta ã ạt ược danh hiệu “ Bậc Chiến thắng giả” (Anantajina). Ngay cả trong khi ang ngồi trên vô ịch bảo tọa mà không rời bỏ thế ngồi kiết già này, Ta ã thiêu ốt và oạn diệt tất cả phiền não. Ta quả thật ã trở thành một vị Phật giữa nhân loại, chư thiên và Phạm thiên. Và Ta sẽ cứu vớt tất cả chúng sanh này ra khỏi biển luân hồi (saṁsarā) và ưa họ ến vùng ất hướng thượng của Niết bàn. Ngươi không còn cách nào có thể kềm hãm ược Ta. Điều ó không phải là mối quan tâm của ngươi.

  1. Samantā dhajinin disvā                                yuddhaṁ māraṁ savāhanaṁ                                yuddhāya paccugacchāmi                                Mā maṁ ṭhānā acāvayi.
  2. Yaṁ te taṁ nappasahati                               senam loko sadevako                               taṁ te paññāya bhecchāmi                               āmam pakkam va asmanā.

Này Ma vương, khi trông thấy ạo binh to lớn của ngươi ang tiến ến từ khắp các phía với cờ xí rầm rộ và ngươi trên con voi Girimekkhala, Ta ối mặt với ngươi bằng trí tuệ ể chiến ấu một cách dũng cảm. (Nghĩa rằng,  không chiến ấu bằng thể chất mà chiến ấu bằng trí tuệ). Ngươi không thể làm cho Ta ứng dậy hoặc rời khỏi vô ịch bảo tọa này. Ta biết chắc rằng ngươi không thể làm ược iều ó.

Này Ma vương, giống như một người khỏe mạnh cầm cục á lớn ập bể tất cả nồi niêu, thau chậu bằng ất nung, Ta với sức mạnh của trí tuệ, sẽ ánh tan tác và ẩy lùi mười ạo binh dục ái (kāma-rāga) của ngươi mà toàn thể thế gian ã phải thất bại trong nhục nhã. Hoặc cho dù những ạo binh to lớn của ngươi, dài mười hai do tuần, phía trước, bên phải và bên trái, cao 9 do tuần và xa ến những bức thành ở tận cùng của hệ thống thế giới, Ta sẽ ẩy lùi những ạo binh ấy, khiến không còn một tên binh ma nào còn lại. Ngay từ bây giờ, Ta sẽ khiến cho ngươi và những ạo binh của ngươi phải bỏ chạy như àn quạ en bị ném á tan tác bay i.

(Câu kệ thứ 9 và 10 ược Đức Phật giảng thuyết trong bài kinh Padhāna. Câu kệ số 1 ến câu kệ số 8 và những câu kệ sau ây ược biên soạn bởi trưởng lão Buddharakkhita, tác giả của Jinālaṅkāra, rút từ kinh tạng Pāḷi phù hợp với giáo Pháp của Đức Phật).

  1. Icchantosāsape gabbhe,                                     cankamami iti cito                                     icchanto lokadhātumhi                                    attabhāvena chādayi.

Này Ma vương, nếu muốn (nếu Ta muốn thu nhỏ lại), Ta có thể i lui i tới trong hạt cải. Nếu muốn (nếu Ta muốn hóa hiện lớn) Ta có thể làm cho thân (atta-bhava) của Ta che phủ cả thế giới.

  1. Ete sabbe gahetvāna,                 cuṇṇnetuṃ iccharāyapi                 Atthi ṭhāmabalaṁ mayhaṁ,                 pānagāto na ruccati.

Này Ma vương, Ta có năng lực tóm bắt và nghiền nát ngươi cùng với tất cả những ạo binh của ngươi chỉ bằng cái búng ngón tay, nhưng Ta không vui thích chút nào trong việc lấy mạng của kẻ khác, vì ó là hành ộng bất thiện.

  1. Imassa gaṇḍupādassa,                 avudhena balena kim                 Meyhaṁ hi tena pāpena,                 sallāpopi na ruccati.

Có lợi ích gì nếu Ta dùng vũ khí hoặc sức mạnh của thân ể chống lại ngươi, là Ma vương chỉ bằng con giun ất? Quả thật vậy, ngay cả nói chuyện với Ác ma như mi Ta cũng không thích.

Trước khi Bồ tát nói lên những lời ầy dũng khí này, Ma vương ã hỏi: “ Này thái tử Siddhattha, tại sao ngươi chiếm vô ịch bảo tọa này của ta?” Bồ Tát áp lại: “ Ai làm chứng rằng bảo tọa này là của ngươi?” Ma vương duỗi hai tay ra và nói rằng: “ Cần gì phải dùng những kẻ khác ể làm chứng cho ta. Tất cả những ạo binh ma ang hiện hữu trước mặt ngươi là nhân chứng của ta.” Ngay khi ấy, hằng triệu triệu binh ma cùng hiện ra và la to: “ Ta là nhân chứng, ta là nhân chứng.” Bởi vậy, ể iều phục những ạo binh ma, Bồ tát ọc lên những câu kệ sau ây ể cho thấy những nhân chứng của Ngài.

  1. Pallaṅkaṁ mama bhāvāya         kimatthaññena sakkhinā,         kampitā maddiyā dānā         sakkhi hoti ayam hahī.

Này Ma vương, ể có ược vô  ịch bảo tọa này, không có việc bố thí (dāna) nào mà Ta chưa làm; không có giới (sīla) nào mà Ta không giữ; không pháp khổ hạnh nào mà Ta chưa thực hành qua nhiều kiếp sống trong các cõi. Này Ma vương, không kể ến những pháp Ba-la-mật của Bố thí, v.v... mà Ta ã làm trong nhiều kiếp ở nhiều cõi, chỉ trong một kiếp sanh làm Vessantara thôi, Ta ã thực hiện bảy lần ại thí, trong ó sự bố thí cao nhất là bố thí hoàng hậu Maddi và quả ất này ã rung chuyển ến bảy lần. Giờ ây, Ta ang ngồi trên vô ịch bảo tọa này ể chinh phục toàn thể thế giới, và những ạo binh ma của ngươi ến tấn công Ta, tại sao quả ất này có thể im lặng mà không rung chuyển? Này Ma vương, ngươi ã khiến những ạo binh của ngươi ưa ra bằng chứng không thật, nhưng quả ất này tuy không có tâm nhưng rất công bình ối với ngươi cũng như ối với Ta, quả ất này không thiên vị về phía ngươi hoặc về phía Ta, giờ ây nó sẽ là nhân chứng của Ta.” Khi nói vậy, Bồ tát ưa bàn tay phải rực rỡ của Ngài từ bên trong chiếc y và chỉ xuống ại ịa giống như tia chớp vẹt ra từ trong ám mây.

Ngay khi ấy, ại ịa quay nhanh như bánh xe của người thợ gốm và lăn tròn dữ dội. Âm thanh phát ra từ ại ịa khiến cho toàn thể bầu trời vang dội như tiếng sấm. Bảy rặng núi bao quanh Tu di sơn (Meru) cũng như dãy Himalaya ều phát ra âm thanh vang dội. Toàn thể mười ngàn thế giới ều quay cuồng với những âm thanh kinh hồn và rùng rợn, nổ lách tách, ầm ầm như rừng tre bị bốc cháy. Toàn thể bầu trời không mây cũng phát ra tiếng nổ vang rền như chảo bắp rang ược ặt trên lửa; những tia lửa rơi xuống, tung tóe như khối than hồng cháy ỏ, và sấm sét nổ ầm ầm. Ma vương ầy kinh sợ nhận thấy mình ang kẹt giữa sự giận dữ của trời ất, không tìm âu ra nơi nương tựa và sự trợ giúp, bèn quăng bỏ cờ trận cùng với một ngàn loại khí giới của vị ấy, rồi nhanh chóng bỏ chạy mà không kịp nhìn lại con voi Girimekhala của y. Thấy Ma vương bỏ chạy, bọn binh ma cũng cắm ầu bỏ chạy tán loạn như tro bụi bị cơn bảo thổi phăng. Cuối cùng tất cả bọn chúng ều trở về cõi Tha hóa tự tại thiên (Vasavatti).

Như vậy, chiến thắng Ác ma Vasavatti trước khi mặt trời lặn vào ngày rằm tháng tư, năm 103 theo lịch Mahā Era, Bồ tát trở thành bậc Chiến thắng toàn thể thế giới hữu tình chúng sanh và ạt ến trạng thái vô hại, vô sân, vô úy.

Ngay khi ấy, trông thấy những ạo binh ma bị tan rã trong hỗn loạn, chư thiên và Phạm thiên sau khi ã bỏ chạy vì sợ hãi trước sự tấn công ồ ạt của Ma vương và ang chờ ợi quan sát xem “Ai sẽ là bậc Chiến thắng? Ai sẽ là kẻ thua cuộc?”, ồng thanh nói những lời hoan hô như “jayo hi Buddhassa sirimato ayaṁ”, v.v... Tin kiết tường: “ Ma vương ã bị ánh bại. Thái tử Siddhattha ã chiến thắng. Chúng ta sẽ tổ chức lễ kỷ niệm và tôn vinh sự chiến thắng của Người.” ược truyền i từ vị rồng (nāga) này ến vị rồng khác, từ vị kim-xí-iểu (garuda) này ến vị kim-xí-iểu khác; từ vị thiên này ến vị thiên khác; từ vị Phạm thiên này ến vị Phạm thiên khác. Tất cả tay cầm hương hoa v.v... ều ến cu hội tại vô ịch bảo tọa của cây Đại bồ-ề, nơi mà Bồ tát ang ngồi.

  1. Jayo hi Buddhassa sirimato ayaṁ mārassa ca pāpimato parājayo ugghosayuṁ Bodhimaṇḍe pamoditā  jayam tadā Nagagaṇā mahesino 

Cuộc chiến thắng ộc nhất vô nhị này ược trời ất ca ngợi bằng tiếng ầm ầm vang dội, trời ất vô tri mà như hữu tri. Đó là sự chiến thắng chỉ thuộc về Đức Phật, Bậc với Nhất thiết trí, Ngài có trí tuệ thấu hiểu tất cả chân lý cần biết mà không bỏ sót một chi tiết nhỏ nhặt nào. Chiến thắng này ược nhân loại, chư thiên và Phạm thiên hoan hô vang rền khắp cả không trung. Chính vì iều ác mà Ác ma phải chịu hoàn toàn thất bại, phải rút lui vì oai lực của Đức Phật. Ác ma do bị vô minh che lấp, ã rầm rộ kéo ến cùng với ông ảo binh ma làm náo ộng cả mặt ất, và tấn công bằng mọi hình thức e dọa ể chiếm lấy Bồ ề thọ vương bảo tọa (Bodhimakuta pallaṅka).

Như vậy , vào ngày chiến thắng vĩ ại này, ngày rằm tháng tư, năm 103 Maha Era, tại khu vực của Vô ịch bảo tọa, nơi Đức Phật ã chứng ắc Nhất thiết trí, tất cả những nhóm rồng, vui sướng hân hoan với chiến thắng của Đức Phật, ã công bố sự chiến thắng của Đức Phật bằng âm thanh to lớn như làm vang dội khắp mười ngàn thế giới.

  1. Jayo hi Buddhassa sirimato ayaṁ     Mārassa ca pāpimato parājayo.     Ugghosayuṁ Bodhimande pamoditā      jayam tadā supaññāsanghāpi mahesino. 

Cuộc chiến thắng ộc nhất vô nhị này ược trời ất ca ngợi bằng tiếng ầm ầm vang dội, trời ất vô tri mà như hữu tri. Đó là sự chiến thắng chỉ thuộc về Đức Phật, là bậc với Nhất thiết trí, Ngài có trí tuệ thông suốt chân lý cần biết mà không bỏ sót một chi tiết nhỏ nhặt nào. Chiến thắng này ược nhân loại, chư thiên và Phạm thiên hô vang rền khắp cả không trung. Chính vì iều ác mà Ác ma phải chịu hoàn toàn thất bại, phải rút lui vì oai lực của Đức Phật. Ác Ma do bị vô minh che lấp, ã rầm rộ kéo ến cùng với ông ảo binh ma như làm náo ộng cả mặt ất, tấn công bằng mọi hình thức e dọa ể chiếm lấy Bồ ề thọ vương bảo tọa.

Như vậy, vào ngày chiến thắng vĩ ại này, ngày rằm tháng tư, năm 103 Maha era, tại khu vực của Vô ịch bảo tọa, nơi Đức Phật ã chứng ắc Nhất thiết trí, tất cả những nhóm kim-xí-iểu (garula), vui sướng và hân hoan với chiến thắng của Đức Phật, ã công bố sự chiến thắng của Ngài bằng âm thanh to lớn như làm vang dội khắp mười ngàn thế giới.

  1. Jayo hi Buddhassa sirimato ayaṁ  Mārassa ca pāpimato parājayo  Ugghosayuṁ Bodhimaṇde pamoditā   jayaṁ tadā devaganā mahesino. 

Cuộc chiến thắng ộc nhất vô nhị này ược trời ất ca ngợi bằng tiếng ầm ầm vang dội, trời ất vô tri mà như hữu tri. Đó là sự chiến thắng chỉ thuộc về Đức Phật, là bậc với Nhất thiết trí, Ngài có trí tuệ thông suốt chân lý cần biết mà không bỏ sót một chi tiết nhỏ nhặt nào. Chiến thắng này ược nhân loại, chư thiên và Phạm thiên hô vang rền khắp cả không trung. Chính vì iều ác mà Ác ma phải chịu hoàn toàn thất bại, phải rút lui vì oai lực của Đức Phật. Ác Ma do bị vô minh che lấp, ã rầm rộ kéo ến cùng với ông ảo binh ma như làm náo ộng cả mặt ất, tấn công bằng mọi hình thức e dọa ể chiếm lấy Bồ ề thọ vương bảo tọa.

Như vậy, vào ngày chiến thắng vĩ ại này, ngày rằm tháng tư, năm 103 Maha era, tại khu vực của Vô ịch bảo tọa, nơi Đức Phật ã chứng ắc Nhất thiết trí, tất cả chư thiên vui sướng và hân hoan với chiến thắng của Đức Phật, ã công bố sự chiến thắng của Ngài bằng âm thanh to lớn như làm vang dội khắp mười ngàn thế giới.

  1. Jayohi Buddhassa sirimato ayaṁ Mārassa ca pāpimato parājayo  Ugghosayuṁ Bodhimaṇde pamoditā  jayaṁ tadā Brahmaganāpi mahesino.

Cuộc chiến thắng ộc nhất vô nhị này ược trời ất ca ngợi bằng tiếng ầm ầm vang dội, trời ất vô tri mà như hữu tri. Đó là sự chiến thắng chỉ thuộc về Đức Phật, là bậc với Nhất thiết trí, Ngài có trí tuệ thông suốt chân lý cần biết mà không bỏ sót một chi tiết nhỏ nhặt nào. Chiến thắng này ược nhân loại, chư thiên và Phạm thiên hô vang rền khắp cả không trung. Chính iều ác mà Ác ma phải chịu hoàn toàn thất bại, phải rút lui vì oai lực của Đức Phật. Ác Ma do bị vô minh che lấp, ã rầm rộ kéo ến cùng với ông ảo binh ma như làm náo ộng cả mặt ất, tấn công bằng mọi hình thức e dọa ể chiếm lấy Bồ ề thọ vương bảo tọa.

Như vậy, vào ngày chiến thắng vĩ ại này, ngày rằm tháng tư, năm 103 Maha era, tại khu vực của Vô ịch bảo tọa, nơi Đức Phật ã chứng ắc Nhất thiết trí, tất cả Phạm thiên vui sướng và hân hoan với chiến thắng của Đức Phật, ã công bố sự chiến thắng của Ngài bằng âm thanh to lớn như làm vang dội khắp mười ngàn thế giới.

Tất cả chư thiên và Phạm thiên ở mười ngàn thế giới khác cũng cu hội trước Bồ tát, ảnh lễ và cúng dường Ngài bằng những bông hoa, vật thơm và ngâm lên những bài kệ tán dương hay tung hô bằng ủ mọi cách.

(Đây là những bài kệ nói về sự chiến thắng Ác ma Vassavati)

Chú ý: (Trong việc mô tả lộ trình mà Bồ tát ã i qua và những họat ộng của Ngài vào ngày rằm tháng Vesakha, năm 103 Maha Era, bộ sách Buddhavaṁsa Aṭṭhakathā, bộ Jātaka Aṭṭhakathā Nidāna và bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā ều mô tả giống nhau tuy hơi khác về cách trình bày. Một số thì tóm gọn và số khác thì trình bày chi tiết hơn. Tuy nhiên, trong sự mô tả thời nghỉ trưa của Bồ tát trong rừng cây Sala. Bộ Buddhavaṁsa Aṭṭhakathā và bộ Jātaka Aṭṭhakathā Nidāna không nêu ra sự chứng ắc các tầng thiền (samāpatti) và các thắng trí (abhiññā). Ngược lại, bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā thì nói rằng Bồ tát chứng ắc tám tầng thiền hợp thế và ngũ thông trong khi  nghỉ trong rừng cây sala. Bộ sách ấy cũng nói rằng vào lúc Bồ tát i ến cây Đại bồ-ề, Ngài ã có sức mạnh của thân bằng sức mạnh  của một trăm ngàn triệu người bậc trung (majjhima-purisa) và các năng lực thần thông. Tác giả của bộ Jinālaṅkāra nói như vậy là úng với những bài trình bày của vị ấy như, “Khi Ma vương tấn công Bồ tát, Ngài nói rằng ‘ Nếu ta muốn, Ta có thể khiến cho thân Ta che hết toàn thể thế giới.” và “ Bồ tát chỉ ra những ại thí trong kiếp Ngài sanh làm Vessantara ể làm nhân chứng,” việc này chỉ biết ược qua Túc mạng thông (pubbenivasanussati-abhiññā). Như vậy, sự trình bày này không sai lạc.

Theo tác giả của bộ Jinālaṅkāra này, Bồ tát ã có bát thiền và ngũ thông vào lúc Ngài gặp hai  vị giáo chủ Ālāra và Udaka. Vì không sử dụng ến chúng suốt sáu năm dukkaracariya nên chúng mờ nhạt i ( giống như những cái tách bằng vàng ể lâu mà không ược dùng ến). Bồ tát ã làm cho chúng trở nên mới khi ở tại rừng cây sala (giống như ánh bóng lại những cái tách ã ố màu). Điều muốn ề cập ở ây là, chỉ sau khi chiến thắng Ma vương, Bồ tát mới sử dụng hai loại thần thông mà Ngài ã ạt ược rồi, ó là túc mạng thông (pubbenivasa-abhiññā) và thiên nhãn thông (dibbhacakkhu-abhiññā), ể tiến ến giai oạn thông ạt các chân lý. (Đây là những iểm cần lưu ý theo cuốn Jinālaṅkāra).

Sự chứng ngộ Tam minh: Pu, Di, Ā

Sau khi chiến thắng Ma vương Vasavatti, cũng ược gọi là Devaputta Māra, vào ngày rằm tháng tư, năm 103 Mahā Era, trước khi mặt trời lặn, Bồ tát lần lượt chứng ngộ Tam minh (vijja): Túc mạng minh (pubbenivasanussati-ñāṇa) trong canh ầu, Thiên nhãn minh (dibbacakkhu-ñāṇa) trong canh hai và Lậu tận minh (āsavakkhayañāṇa) trong canh cuối của êm, và chứng ắc Phật quả trong chính canh cuối ấy của êm rằm tháng Vesakha. Những biến cố này ược mô tả như sau:

Sự chứng ắc Túc mạng minh (Pubbenivasanussati-abhiññā) 

Những tiến trình danh sắc ã xảy ra trong quá khứ. Niết bàn ược chứng ngộ từ những tiến trình danh sắc này; những tên riêng hay họ tộc của một người, v.v… chỉ là những từ chế ịnh - Tất cả những iều này (thuộc về quá khứ) ược gọi theo từ Pāḷi là ‘Pubbenivasa’. Thắng trí hay thần thông (abhiññā) i chung với pubbenivasa thì ược gọi là Pubbennivasanussati-abhiññā - Trí biết rõ những kiếp quá khứ. Đức Phật thuyết giảng loại trí này là Minh thứ nhất (Vijjā-ñāṇa). Vijjā-ñāṇa ược các Chú giải sư tiền bối gọi tắt là Pu - hai mẫu tự ầu tiên của chữ Pubbennivasanussati-ñāṇa. Sau ây là bài mô tả chi tiết về cách giác ngộ Minh thứ nhất (Vijjā-ñāṇa) của Bồ tát :

Khi Bồ tát ngồi trên Vô ịch bảo tọa, ầy hân hoan và hạnh phúc sau khi chiến thắng Ma vương Vasavati, chư thiên và Phạm thiên trong mười ngàn thế giới, bao gồm chư thiên ịa cầu ều i ến Bồ tát hội họp và dõng dạc hô to rằng: “Này các bạn, chư thiên và Phạm thiên, sự chiến thắng của Bồ tát và sự thất bại của Ma vương ã rõ ràng. Chúng ta hãy cùng nhau tổ chức lễ tôn vinh chiến thắng của Bồ tát và sự chứng ắc Phật quả sắp ến của người.”

Vào lúc ấy, mặt trời, rộng năm mươi do tuần, rực rỡ với ngàn tia sáng, sắp biến mất như bánh xe bằng vàng chìm vào dòng nước xoáy của ại dương. Bánh xe mặt trăng, rộng bốn mươi do tuần, em lại sự mát mẻ, tỏa ra những chùm tia sáng, làm sáng rực toàn thể thế giới, ang chầm chậm i lên từ ại dương có màu sữa ở về hướng ông, như bánh xe bằng bạc ược ném lên không trung. Giữa trời ất bao la, Bồ tát trông rất rực rỡ, màu vàng trên thân của Ngài làm cho mô ất dưới cội cây bồ-ề và tất cả vạn vật ở quanh ó tựa như ược thấm nhuần trong ánh sắc vàng ấy. Ngồi kiết già ung dung trên Vô ịch bảo tọa dưới cội cây bồ-ề ược ví như cái lọng làm bằng những viên ngọc Indanila quý giá, Bồ tát quán xét về Pháp. (Chi tiết về sự quán Pháp của Bồ tát sẽ ược trình bày sau).

Sự tôn vinh vĩ ại của chư thiên và Phạm thiên 

Lúc bấy giờ, tại cõi Ba-mươi-ba (Tāvatiṁsa deva), Sakka cầm cái tù-và Vijayuttara dài 120 do tuần và thổi vang ể triệu tập chư thiên và Phạm thiên. Âm thanh chiếc tù-và của vị ấy có thể nghe xa ến mười ngàn do tuần trong cõi chư thiên. Khi thổi chiếc tù-và Vijayuttara liên tục, Đế thích vừa thổi vừa chạy nhanh ến cây bồ-ề. (Không chỉ Đế thích của vũ trụ này mà tất cả Đế thích của mười ngàn thế giới khác cũng liên tục thổi những chiếc tù-và của họ khi ang i ến Bồ tát).

Đại phạm thiên ến và tôn kính bằng cách cầm cái lọng trắng mà ã bị bỏ lại trên ỉnh núi Cakkavāla và ứng che trên ầu của Bồ tát. (Tất cả những vị Đại phạm thiên từ mười ngàn thế giới khác cũng ến và ứng cầm những chiếc lọng trắng của họ, chiếc này sát chiếc kia, dày ặc không có kẽ hở).

Suyama, thiên vương của cõi Dạ-ma (yāmā) cũng ến và ứng gần Bồ tát, tôn kính Ngài bằng cách ứng quạt cho Ngài bằng chiếc quạt phất trần dài ba gavuta. (Tất cả chư thiên cõi yāmā từ mười ngàn thế giới khác cũng ến tôn vinh, mỗi vị cầm một cái phất trần, họ ứng ầy cả thế giới này).

Santusita, thiên vương của cõi Đâu suất à (Tusitā) cũng ến và tôn vinh Bồ tát bằng cách ứng quạt cho Ngài  bằng cái quạt tròn ược cẩn những viên hồng ngọc, cái quạt rộng ba gāvuta. (Tất cả chư thiên Tusitā từ mười ngàn thế giới khác cũng ến tôn vinh, mỗi vị cầm một cái quạt tròn bằng hồng ngọc, ứng ầy cả thế giới này).

Vị thiên Pañcasika cũng ến mang theo cây àn luýt Beluva cùng với nhóm vũ nữ chư thiên, và tôn vinh bằng cách múa hát và tấu nhạc. (Tất cả những vũ nữ chư thiên từ mười ngàn thế giới khác cũng ến và tôn vinh bằng cách múa, hát và tấu nhạc).

Hơn nữa, tất cả chư thiên nam nữ trú ngụ trong mười ngàn thế giới ều cu hội về thế giới này và ứng ở vùng chung quanh ể làm lễ tôn vinh. Một số ứng cầm cái cổng hình cung bằng châu báu, số khác ứng vòng tròn tạo thành một nhóm riêng, một số mang ến những vật cúng dường ược làm bằng bảy loại châu báu, một số cầm những cây chuối bằng vàng, một số cầm những lâu ài rực rỡ, một số cầm những cái quạt bằng lông uôi của con bò Tây tạng, một số cầm những chiếc gậy hích ( ể iều khiển voi), một số cầm những cặp cá chép, một số cầm những bông hoa Anh thảo (loại hoa dại màu vàng nhạt nở vào mùa xuân), những cái bệ tròn bằng vàng, những cái bát chứa ầy nước, những cái bình ầy nước, những cái tù và, những cái chân èn dầu bằng hồng ngọc, những tấm gương bằng vàng, những tấm gương bằng loại á studded, những tấm gương  có cẩn bảy loại châu báu, những èn dầu bằng á hồng ngọc, các loại cờ phướn, và những cây như ý. Tất cả chư thiên trong mười ngàn thế giới ều ến, họ hóa ra những nghệ sĩ chư thiên, và cúng dường Bồ tát bằng iệu múa, bài ca, thiên hoa, trầm hương và bột thơm. Lúc bấy giờ, toàn thể không trung ầy những trận mưa hoa và vật thơm ang ổ xuống ịa cầu.

Lễ tôn vinh và cúng dường to lớn này ược chư thiên và Phạm thiên tự nguyện thực hiện vì tâm của họ hân hoan với niềm tin rằng: “ Khi vị Bồ tát này chứng ắc Phật quả, chúng ta chắc chắn sẽ ược cơ hội nghe Pháp từ nơi Ngài, và nhờ ó mà nhận ược pháp siêu thế bất tử là Đạo Quả và Niết bàn; và chúng ta sẽ có ược hỉ (pīti) nhờ trú tâm vào chín Pháp siêu thế (bốn Đạo, bốn Quả và Niết bàn). Chúng ta cũng sẽ chứng kiến tất cả những pháp thần thông, là những cảnh em lại hoan hỉ cho mắt. Đức Phật, bằng cách thuyết giảng cho chúng ta Pháp Bất tử, sẽ em lại cho chúng ta sự giải thoát khỏi sanh (jāti), già (jarā), bịnh (vyādhi), chết (marāṇa), sầu (soka), than (parideva), khổ (dukkha), ưu (domanassa) và não (upāyāsa).

Dù chư thiên và Phạm thiên tôn vinh và cúng dường Ngài bằng sự tôn kính và ầy hoan hỉ, kín cả mười ngàn thế giới với lý do trên và Ngài tận mắt nhìn thấy những hành ộng tôn kính phi thường bằng ủ mọi cách. Tuy nhiên, Bồ tát không lấy ó mà vui sướng và luyến ái chút nào cả, Ngài hoàn toàn không chú ý ến tất cả những sự tôn kính ấy. Ngài chỉ trú trong Pháp là nơi nương tựa duy nhất của Ngài.

Dãy núi Cakkavāla nâng ỡ cho Bồ tát khi Ngài ang ngồi như vậy, giống như tấm màng che và bầu trời bao la ở bên trên với vô vàn tinh tú giống như cái lọng ược cẩn những ngôi sao bằng vàng và bạc. Mười ngàn thế giới với bảy cõi hạnh phúc của nó (sugati bhumi), giống như  lâu ài lớn với bảy tầng. Gò ất cao dưới cội cây bồ-ề giống như cái lọng lớn ược làm bằng bảy loại á quý - tất cả ều ở bên trong cung iện bảy tầng này của mười ngàn thế giới.

Trong khi Bồ tát ang ngồi trên Vô ịch bảo tọa giống như ại pháp tọa, ở trên mô ất cao của cây ại bồ-ề giống như ại giảng ường, ược che mát ở bên trên bởi cây ại bồ-ề cao 100 hắc tay và rộng một trăm hắc tay, trông như chiếc lọng lớn ược trang trí bởi các loại ngọc lục bảo, Ngài không chú ý ến chư thiên và Phạm thiên ở quanh Ngài ang ứng ầy cả mười ngàn thế giới và ang tôn kính cúng dường Ngài vì Ngài ang quán xét về Pháp, sự tinh tấn (viriya) của Ngài không thối giảm và rất kiên ịnh, niệm (sati) của Ngài vững chắc và trong sáng, và thân tâm của Ngài rất an tịnh. Do ó, Ngài chứng và trú trong Sơ thiền sắc giới (rūpavacara).

Dòng tâm của Bồ tát an trú trong sơ thiền, hoàn toàn thoát khỏi năm triền cái (nivarana) và xa lìa ngũ dục (vatthu-kāma), phiền não dục (kilesa-kāma); hỉ (pīti) và lạc (sukha) sanh khởi trong Ngài rất sung mãn.

Lại nữa, khi Bồ tát chứng và trú trong nhị thiền sắc giới (rūpavacara), dòng tâm của Ngài thoát khỏi tầm và tứ (vitakkavicara); nội tâm thanh tịnh và trong sáng và ịnh của Ngài tuyệt ối vững chắc, pītisukha của Ngài ược gia tăng.

Lại nữa, khi Bồ tát chứng và trú trong tam thiền sắc giới (rūpavacara), ngay cả pīti mà ã hiện khởi trong dòng tâm của Ngài cũng biến mất và Ngài chỉ trú trong lạc thọ (sukha-vedanā). Hoàn toàn xa lìa cả lạc thọ ấy ở ỉnh cao của nó, Ngài ược thấm nhuần trong trạng thái trung bình xả (tatramajjhattatā) hoặc thiền xả  (jhānupekkhā). Niệm của Ngài trở nên trong sáng và tuệ của Ngài rất nhạy bén.

Lại nữa, khi Bồ tát chứng trú trong tứ thiền sắc giới (rūpavacara), vì Ngài ã loại trừ khổ và lạc của thân và tâm ra khỏi dòng tâm của Ngài, Ngài trú trong xả thọ (upekkhā-vedanā) và nhìn ngắm ngũ dục với tâm an tịnh. Do năng lực của upekkhā-vedanā này và tatramajjhattatā, và các sở hữu tâm như niệm, v.v… là những chi pháp của Tứ thiền, trong sáng như ánh trăng rằm.

Tám ặc tánh trong dòng tâm của Bồ tát 

Nếu xét ến dòng tâm của Bồ tát xuất phát từ lòng tịnh tín, chúng ta sẽ thấy rằng suốt sáu năm Ngài thực hành khổ hạnh (dukkaracariya); dòng tâm của Ngài cực kỳ thanh tịnh, không bị ô nhiễm bởi ba tà tư duy (miccha-vitakka) là dục tầm (kama-vitakka), sân tầm (vyapada-vitakka) và hại tầm (vihimsa-vitakka), khiến ma vương không thể tìm thấy cơ hội ể chỉ trích Ngài. Lại nữa, khi Ngài trải qua thời gian trong rừng cây sala vào ngày rằm tháng Vesakha, ngày mà Ngài ắc quả vị Phật, dòng tâm của Ngài thật áng kính ngưỡng vì bát thiền làm cho thanh tịnh. Hơn nữa, khi tất cả chư thiên và Phạm thiên từ khắp từ khắp mười ngàn thế giới ến cu hội ở thế giới này và tôn kính cúng dường Bồ tát trong khi Ngài ang ngồi trên Vô ịch bảo tọa sau khi chiến thắng Ma vương Devaputta, Ngài không chú ý ến họ, chỉ chú tâm vào việc thực hành Pháp. Và như thế, dòng tâm của Bồ tát, bậc ã chứng ắc và an trú trong tứ thiền sắc giới (rūpavacara) - (nét ặc thù của những bậc có trí tuệ nhạy bén) có năng lực ịnh tâm tăng lên rất mạnh nhờ ịnh vào tứ thiền sắc giới, dòng tâm ấy mang tám ặc tánh như sau:

  1. Do trạng thái tâm tứ thiền sắc giới  (rūpa jhāna cittuppāda) rất thanh tịnh, dòng tâm hoàn toàn thanh tịnh suốt quá trình họat ộng.
  2. Do sự thanh tịnh như vậy, dòng tâm có tính chất chói sáng như vàng ròng mới ược chùi bóng.
  3. Sau khi ã loại bỏ hỉ lạc (sukha somanassa), là nguyên nhân của tham (lobha), và sau khi loại bỏ ưu khổ (dukkha domanassa), là nguyên nhân của sân (dosa), dòng tâm thoát khỏi các trạng thái ô nhiễm là lobha và  dosa.
  4. Tham và sân ược oạn trừ dẫn ến các tùy phiền não (upakkilesa) cũng ược oạn trừ.
  5. Tâm ược kiểm soát bởi năm pháp tự tại (vāsibhāva), và ược iều phục bởi mười bốn cách, nên dòng tâm của Bồ tát trở nên nhu nhuyến, tế nhị dễ phục tùng theo những ước muốn của Ngài, như miếng da ược khéo thuộc hay như khối cây ược khéo chế biến.
  6. Nhờ tánh chất mềm dẽo như vàng ròng khéo tinh luyện, dễ kéo thành sợi và dễ dát mỏng ể làm ra các vật trang sức, dòng tâm ấy dễ phục tùng theo những ước muốn của Bồ tát, giúp Ngài dễ dàng thành tựu tất cả các loại thần thông như nhớ lại, thấy rõ các sự kiện trong những kiếp quá khứ, hoặc thấy bằng thiên nhãn các vật ở cách xa, các vật tinh vi và ẩn khuất.
  7. Sau khi dòng tâm ã ược khéo tu tập ể không bị mất i những ặc tánh trên, hoặc nhu nhuyến và thích ứng ể em lại sự thành tựu bất cứ iều gì ược mong muốn nên dễ phục tùng theo ước muốn của Bồ tát.
  8. Sau khi ược an trú vững chắc như vậy, tâm của Ngài hoàn toàn kiên cố; hay nhờ an trụ như vậy, dòng tâm của Ngài rất mạnh về ức tin (saddhā), tinh tấn (viriya), niệm (sati), ịnh (samādhi), và ánh sáng của trí tuệ (paññā). Do ó, không hề có sự dao ộng của tâm xảy ra do thiếu ức tin, lười biếng, dể duôi, phóng dật, vô minh và bóng tối khởi sanh từ các phiền não. Nói cách khác, sự thiếu ức tin, v.v… không thể len lỏi vào dòng tâm của Bồ tát.

Cách trình bày khác 

(1) Dòng tâm của Bồ tát ược khéo an trú trong tứ ịnh. (2) Dòng tâm hoàn toàn thanh tịnh nhờ thoát khỏi năm triền cái (nivarana). (3) Sau khi ã vượt qua các chi thiền thô thiển (jhānanga) như tầm (vitakka), v.v... dòng tâm ược thanh tịnh và trong sáng tựa như sắp phát sáng. (4) Dòng tâm thoát khỏi các phiền não như mạn (māna), gian dối (māya), phản bội (sāṭheyya), v.v... thường khởi sanh do sự chứng thiền. (5) Dòng tâm ấy cũng thoát khỏi trạng thái tham dục (abhijjhā), v.v... là nguyên nhân của các tùy phiền não (upekkilesa). (6) Dòng tâm trở nên dễ phục tùng sau khi ạt ược năm pháp tự tại (vasibhāva). (7) Sau khi trở thành nền tảng cho các loại thần thông (iddhi), dòng tâm ạt ến khả năng làm thành tựu mọi iều mong ước của Bồ tát. (8) Sau khi ược hoàn thiện do bởi sự tu tập (bhāvanā), dòng tâm của Ngài trở nên bất ộng và ược an trú vững chắc.

Tâm của bồ tát có ược tám ức tánh như vậy nên sẽ dễ dàng giác ngộ các pháp cần ược giác ngộ nhờ thắng trí (abhiññā). Khi tâm hướng về ối tượng abhiññā, thì những tốc lực tâm thắng trí (abhiññājavana) khởi sanh một cách dễ dàng.

(1) Sự chứng ắc Túc mạng thông (Pubbenivāsanussati-  abhiññā)  (Vijjañāna - Minh thứ nhất)

Dòng tâm có tám ặc tánh kể trên, rất thanh tịnh và trong suốt, Thắng trí (abhiññā-javana) dễ dàng khởi sanh trong trạng thái hoàn hảo khi tâm hướng ến ối tượng của abhiññā-javana. Bồ tát hướng tâm ến Túc mạng thông (pubbenivasanussati-abhiññā), là thắng trí có thể nhớ lại những hoạt ộng, những sự kiện và những kinh nghiệm trong quá khứ. Thế nên, pubbenivasanussati-abhiññā ã khởi sanh trong Ngài một cách dễ dàng. Qua thần thông ấy, Ngài nhớ lại và thấy tất cả những hoạt ộng, những sự kiện và những kinh nghiệm trong những kiếp quá khứ từ kiếp trước cho ến kiếp Ngài sanh làm ạo sĩ Sumedha. Ngài cũng nhớ lại nhiều kiếp và nhiều ại kiếp xa hơn, rồi lần lượt quay trở về kiếp gần nhất là kiếp Ngài sanh vào làm vị thiên có tên gọi là Setaketu.

(Loại thắng trí này ược chứng ắc trong canh ầu của êm. Ở ây, có nghi vấn là làm sao có thể biết ược những iều xảy ra và những kinh nghiệm trong rất nhiều kiếp quá khứ chỉ bằng một tốc lực tâm thắng trí (abhiññā-javana) khởi sanh chỉ một lần trong một lộ trình tâm (vithi). 

Câu trả lời: Tuy chỉ có khởi sanh một tốc lực thắng trí trong một lộ trình tâm, nhưng si mê (moha) mà ã che lấp những sự kiện xảy ra và những kinh nghiệm trong những kiếp quá khứ ấy ã bị oạn diệt do bởi tốc lực tâm ấy. Tất cả các loại biến cố và kinh nghiệm của những kiếp quá khứ ược nhớ lại chỉ ngay sau ó bằng lộ trình quán sát (paccavekkhanā-vīthi) theo sau lộ trình thắng trí (abhiññā-vīthi).

Đức Bồ tát lần lượt nhớ lại những kiếp quá khứ nhờ Túc mạng minh (Pubbenivasanussati Vijjāñāṇa), cũng ắc ược những thắng trí mà có thể quả quyết rằng Ngài sẽ chứng ắc Đạo Quả siêu thế (lokuttarā magga-phala) bằng thông ạt tuệ như vầy:

“ Chỉ có những hiện tượng danh-sắc (nāma-rūpa) trong vô số kiếp luân hồi; sự bắt ầu của vòng luân hồi hay khởi thủy của kiếp sống không thể biết ược. Trong ba giai oạn: sanh, tồn tại và tử, chỉ có hai hiện tượng nāmarūpa mà thôi. Quả thật vậy, trong tất cả các cõi và trong mọi lúc, hiện tượng nāma-rūpa ở trong trạng thái trôi chảy liên tục, như ngọn lửa của cây èn dầu hay như dòng nước của con sông, và qua sự nối tiếp nhau của nhân và quả, chỉ có dòng nāmarūpa làm thành tựu nhiều phận sự khác nhau như thấy cảnh sắc, nghe cảnh thinh, v.v... ở sáu cửa là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, và như vậy làm khởi sanh nhiều loại biểu tri (viññatti) bởi cử ộng của thân và sự diễn ạt bằng lời. Trên thực tế, không có một nhân vật hữu tình nào ược gọi là ‘ta’, ‘anh ta’, ‘người àn ông’, v.v... Quả thật vậy, không có vị thiên, Ma vương hay Phạm thiên nào có thể tạo ra một chúng sanh hữu tình như vậy.”

Qua Túc mạng trí (Pubbenivasanussati-ñāṇa), Bồ tát tạm thời oạn trừ (vikkhambhana-pahāna) hai mươi ngã kiến; ó là bốn ngã kiến liên quan ến sắc uẩn - sắc là ta; ta có sắc; sắc hiện hữu trong ta; ta hiện hữu trong sắc và tương tự, thọ, tưởng, hành và thức cũng vậy. Như vậy, Ngài cũng ã loại trừ si mê (moha) mà ã xảy ra trong nhiều ời nhiều kiếp quá khứ. 

        (2)  Sự chứng ắc Thiên Nhãn Thông (Dibbacakkhu-abhiññā

                                (Vijjañāna - Minh thứ hai)

Sau khi Đức Bồ tát ã chứng ắc Túc mạng minh (pubbenivasanussati-abhiññā) trong canh ầu của êm, Ngài nhớ ược nhiều sự kiện trong quá khứ và nhiều kiếp quá khứ, và sau khi oạn trừ hai mươi thân kiến (sakkāyadiṭṭhi), cùng với moha ã xảy ra trong quá khứ, Ngài hướng dòng tâm có tám ặc tánh của Ngài ến Sanh tử trí (cutūpupāta-ñāṇa) - trí trông thấy sự sanh và tử của chúng sanh, và hướng ến Như nghiệp sanh trí (yathākammūpaga-ñāṇa) - trí phân biệt và thấy chính những hành ộng tội phước của chúng sanh tạo thành nguồn gốc của chúng sanh.

(Sanh tử trí - cutūpupāta-ñāṇa cũng giống như Thiên nhãn trí - dibbacakkhu-ñāṇa vì Thiên nhãn trí cũng ược gọi là Sanh tử trí. Khi dibbacakkhu-ñāṇa ược tu tập và chứng ắc thì Như nghiệp sanh trí - yathakammūpaga-ñāṇa và Vị lai trí - anāgataṁsa-ñāṇa cũng ược tu tập và chứng ắc). 

Khi tâm ược hướng ến Thiên nhãn trí – dibbacakkhu-ñāṇa như vậy, cũng ược gọi là Sanh tử trí – cutūpupāta-ñāṇa, thì Thiên nhãn thông (dibbacakkhu abhiññā - Minh thứ hai) sanh lên rất dễ dàng. Qua thần thông (abhiññā)  này, Bồ tát có thể nhìn thấy chúng sanh ang lúc mạng chung, hoặc ngay sau tái sanh; những chúng sanh thấp hèn hoặc cao quý, những kẻ xinh ẹp hoặc xấu xí sanh ến cõi an vui hoặc au khổ. Nói cách khác, Ngài thấy những chúng sanh giàu có, thịnh ạt do bởi phước quá khứ của họ có nền tảng là vô tham (alobha), và những chúng sanh nghèo khổ do bởi những ác nghiệp quá khứ của họ sanh lên từ căn tham (lobha).

Qua Thiên nhãn thông (dibbacakkhu-abhiññā)  trông thấy những tội ồ chịu khổ trong khổ cảnh (apāya), Ngài suy xét: “ Những chúng sanh này chịu những au khổ áng sợ như vậy là do những ác nghiệp nào?” Nhân ó Như nghiệp sanh trí (yathākammūpaga-ñāṇa) khởi sanh trong Bồ tát và Ngài thấy những ác nghiệp của họ.

Qua Thiên nhãn thông (dibbacakkhu-abhiññā)  trông thấy những chúng sanh ang thọ hưởng hạnh phúc ở cõi nhân loại, chư thiên và Phạm thiên, Ngài suy xét : “ Các chúng sanh ở cõi nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ang thọ hưởng hạnh phúc thù thắng hơn là do họ ã gieo tạo nghiệp gì?” Nhân ó, Như nghiệp sanh trí (yathākammūpaga-ñāna) sanh khởi trong Ngài và Ngài thấy ược những thiện nghiệp mà họ ã làm.

Do nhờ Như nghiệp sanh trí (yathākammūpaga-ñāna), Ngài quan sát chi tiết những thiện nghiệp và ác nghiệp của chúng sanh và biết rõ chúng như thật: “ Những chúng sanh ở khổ cảnh này trong quá khứ ã phạm vào những ác nghiệp về hành vi, lời nói và ý nghĩ. Họ ã nói xấu, chưởi mắng và lăng mạ các bậc thánh; họ bảo thủ tà kiến, và vì sống theo các tà kiến này, họ tự thân làm ác và bảo kẻ khác làm ác. Sau khi thân hoại mạng chung, họ bị tái sanh vào các khổ cảnh (apāya), ó là ịa ngục (niriya), súc sanh (tiracchana), ngạ quỷ (peta), a-tu-la (asūrahya). Và “ Các chúng sanh ở các cõi hạnh phúc, họ ã từng làm các thiện nghiệp về thân, khẩu và ý; họ không nói xấu hoặc lăng mạ các bậc thánh (ariyā); họ có chánh kiến và với chánh kiến họ làm nhiều loại phước và cũng bảo kẻ khác làm phước. Sau khi thân hoại mạng chung, họ ược sanh vào nhàn cảnh ở cõi nhân loại, chư thiên và hai mươi cõi Phạm thiên.”

Bồ tát chứng ắc Minh thứ hai này – Thiên nhãn minh (dibbacakkhu-abhiññā) vào lúc canh hai của êm. Nhờ có Minh thứ hai này, dòng tâm của Bồ tát không có hai yếu tố là vô minh và si mê (avijjāmoha-dhātu), là những yếu tố làm che lấp sự mạng chung và tái sanh của chúng sanh. Và nhờ Như nghiệp sanh trí (yathākammūpaga- abhiññā) khởi sanh từ Thiên nhãn minh (dibbacakkhu-abhiññā), Ngài có thể dò xét và thấy rõ những sự kiện có thật về những nghiệp quá khứ của chúng sanh, và sau khi oạn trừ mười sáu loại hoài nghi (kaṅkhā), Bồ tát ạt ến giai oạn Đoạn nghi thanh tịnh - Kaṅkhā vitarana visuddhi.

    (3)  Sự chứng ắc Lậu Tận Minh (Asavakkhaya Ñāna) và thành                        một vị Phật (Vijjañāna- Minh thứ ba)

(Bài này ược chia làm hai phần: phần tóm tắt và phần chi tiết)

TÓM TẮT:

Đức Bồ tát chứng ắc A-la-hán ạo trí (arahatta-magga-ñāṇa), cũng ược gọi là Lậu tận trí (Asavakkhaya-ñāṇa) vào canh cuối của êm và nhờ ó mà giác ngộ Nhất thiết trí (sabbaññuta-ñāṇa). Rồi trở thành một vị Phật giữa nhân loại, chư thiên và Phạm thiên, Ngài hướng dòng tâm của Ngài ến tám ặc tính ể ạt A-la-hán ạo trí (arahatta-magga-ñāṇa); sau ó trú tâm trong Pháp Duyên khởi gồm có 12 chi, ó là : Vô minh (avijjā), Hành (sankhāra), Thức (viññāna), Danh sắc (nāma-rūpa), Lục nhập (salāyatana), Xúc (phassa), Thọ

(vedanā), Ái (taṇhā), Thủ (upadāna), Hữu (bhava), Sanh (jāti), Lão (jarā), Tử (maraṇa). Sau khi quán xét toàn bộ giáo lý Duyên khởi này theo thứ tự xuôi và ngược trong nhiều lần, Ngài chứng ắc Thánh ạo (Ariya-magga), cũng ược gọi là Như thật tri kiến (Yaṭhābhūta ñāṇadassana).

CHI TIẾT:

Tứ ạo tuệ (Magga-ñāṇa), cũng ược gọi là Như thật tri kiến (Yathābhūtañānadassana), không xuất hiện trong dòng tâm của những nhân vật như Đế Thích và Phạm thiên, là những bậc có quyền lực rất lớn trong thế gian, và những ẩn sĩ cao quý Kaladevila và Nārada, những bậc ã chứng ắc các thiền và các thắng trí (abhiññā). Bởi vậy, có thể hỏi rằng : “Tại sao Tứ ạo tuệ rất vi tế và rất thâm sâu, thậm chí không ược mơ tưởng ến suốt chuỗi dài luân hồi không khởi thủy và không bao giờ ược giác ngộ trước kia, lại xuất hiện trong dòng tâm của Bồ tát, bậc tự mình i vào ời sống Sa-môn mà không có một người thầy nào hướng ạo?” Câu trả lời là:

Tánh chất vĩ ại của các pháp Ba-la-mật 

Đức Phật của chúng ta, suốt 4 A-tăng-kỳ (asaṅkkheyya) và 100.000 ại kiếp, trải qua vô số kiếp mà không thể ếm ược bằng con số hằng trăm, hằng ngàn, và hằng trăm ngàn, ã tích lũy nhiều việc phước về bố thí Ba-la-mật (dāna-pāramī), ã thực hành trên bốn cách tu tập ( ã ược giải thích ở Chương Tạp phẩm), thậm chí ến mức ộ hy sinh cả mạng sống của chính Ngài. Và trong mỗi kiếp như vậy, Ngài ã tự mình oạn diệt hoàn toàn, hoặc làm giảm thiểu tham phiền não khởi sanh vào mỗi lúc Ngài chú ý ến ối tượng này hay ối tượng khác. Nhờ thế Ngài ạt ến giai oạn mà người khác phải ngạc nhiên nhận xét rằng : “Phải chăng không có tham phiền não trong con người cao quý này?”

Tương tự, qua giới ba-la-mật (sīla-pāramī), nhẫn nại ba-la-mật (khantī-pāramī), và từ ái ba-la-mật (mettā-pāramī) ược tu tập suốt 4 A-tăng-kỳ (asaṅkkheyya) và 100.000 ại kiếp, Ngài ã ngăn chặn ược sân (kodha) và tội (dosa) và nhờ tu tập pháp từ ái mát mẻ suốt thời gian dài như vậy, Ngài ã dập tắt ngọn lửa kodha và cũng oạn trừ những tùy phiền não của nó, gồm có ganh tỵ (issā), bỏn xẻn (macchariya) và hối (kukkucca).

Do nhờ Trí tuệ Ba-la-mật (paññā-pāramī)  ược khéo tu tập và tích lũy trải qua nhiều kiếp và nhiều ại kiếp, Ngài ã loại trừ trạng thái tối tăm là si mê (moha). Ngài cũng ã loại bỏ các tà kiến. Nhờ ó Ngài trở thành bậc vĩ ại có trí tuệ rất thanh tịnh. Ngài cũng ã i ến tất cả chư Phật, chư Bích chi Phật và chư Thinh văn ệ tử, cũng như những bậc thông thái khác mà Ngài tình cờ gặp ược và hỏi họ những câu hỏi như: “ Pháp nào là có tội và Pháp nào là vô tội? Pháp nào là pháp en và nhơ bẩn; và Pháp nào là pháp trắng và trong sạch?” Do nhờ sự tầm cầu học hỏi như vậy, Ngài ã loại trừ các hoài nghi liên quan ến Pháp và ược tăng trưởng về trí tuệ từ kiếp này ến kiếp khác.

Trong gia tộc, Ngài tôn kính các bậc bề trên như cha mẹ, chú bác, v.v… bằng cách cúi ầu, tỏ sự quý trọng, mời ngồi, ứng dậy chào ón họ. Ngài cũng tỏ sự kính trọng ến những bậc trí tuệ có giới hạnh. Nhờ vậy, Ngài oạn trừ ược ngã mạn (māna) và trạo hối (uddhacca) và ược thoát khỏi kiêu ngạo như con rắn bị mất i những cái răng ộc, hay con bò bị gãy cặp sừng, hay như cuộn dây thừng ược dùng ể chà chân. Ngài có thói quen hay khen ngợi pháp nhẫn nại, ức vị tha và khen ngợi những người có hảo tâm giúp ỡ những kẻ bất hạnh.

Bằng pháp xuất gia, Bồ tát ã từ bỏ những vinh hoa phú quý của ời sống ế vương, và trở thành vị Sa-môn. Sau khi chứng ắc các tầng thiền lúc ngụ ở rừng, Ngài oạn trừ ược năm triền cái và xa lìa dục ái (kāmarāga), và trong mỗi kiếp sống Ngài cũng từ bỏ sự mê ắm nữ sắc (itthirati) mỗi khi họ xuất hiện trước mặt.

Với Chân thật Ba-la-mật, Ngài tránh xa tà ngữ (micchavaca) dẫn ến sự sai lạc của thế gian; với Tinh tấn Ba-la-mật, Ngài cũng oạn trừ trạng thái bất lạc (arati) và giải ãi (kosajja) trong thiền Chỉ và thiền Quán bằng cách giữ tâm họat ộng liên tục, và siêng năng trong các việc phước. Bằng sự tu tập như vậy, Bồ tát ã cố gắng làm cho dòng tâm của Ngài mỗi kiếp một thanh tịnh hơn.

Đức Bồ tát, Bậc ã oạn trừ các phiền não (kilesa) như vậy bằng sự tích lũy phước phát sanh từ những việc phước ba-la-mật như bố thí (dāna), v.v... ã phải trải qua quá trình thanh lọc nhiều lần, dầu chỉ trong một kiếp, những phiền não mà Ngài ã oạn trừ lại xuất hiện. Rồi Ngài lại oạn trừ chúng mỗi khi chúng xuất hiện trở lại (vì chúng chưa ược oạn diệt hoàn toàn bằng Đạo Tuệ (magga-ñāṇa). Tuy nhiên, Bồ tát không ầu hàng mà cố gắng oạn trừ chúng tạm thời hoặc bằng sự áp chế oạn trừ qua những việc phước to lớn (mahā-kusala) và những việc phước phi thường (mahāggata-kusala).

Những iểm chú thích sau ây ược trích ra từ bộ Vipassanā Dīpanī của Thượng tọa Ledi Sayadaw ể làm sáng tỏ hơn ý nghĩa của oạn này. Các phiền não khởi sanh trong những kẻ phàm phu tầm thường trải qua ba giai oạn: Vitikkamabhūmi là giai oạn phiền não bộc phát rất mạnh và dữ dội dẫn ến những hành vi và những lời nói ác. Phiền não trong giai oạn này có thể oạn trừ bằng giới (sīla) nhưng chỉ tạm thời. Do ó, sự oạn trừ bằng sīla, v.v.., ược gọi là Tadaṅgapahāna, nghĩa là oạn trừ tạm thời. Phiền não ở giai oạn kế tiếp: Pariyutthānabhūmi - Triền xứ, là giai oạn mà phiền não khởi sanh ở cửa tâm (ý môn) khi cảnh có sức mạnh ánh thức chúng tạo ra sự xáo ộng ở một trong sáu môn. Những phiền não như vậy có thể ược áp chế bằng thiền ịnh. Sự oạn trừ phiền não bằng thiền ịnh (Samādhi) ược gọi là Trấn phục oạn trừ (Vikkhambhana-pahāna). Lại nữa, tầng thiền có thể trấn áp phiền não trong một thời gian thích hợp. Nhưng vẫn còn các phiền não ở giai oạn thứ ba, Anusayabhūmi - Tuỳ miên xứ: là chỗ mà các phiền não nằm tiềm ẩn trong dòng tâm, không xuất hiện thành các sở hữu tâm. Chúng không thể ược oạn trừ bằng sīla và samādhi. Chỉ có Tuệ Đạo (magga-ñāṇa) ạt ược nhờ tu tập thiền Quán phát sanh ra Tuệ (pañña) mới có thể oạn diệt tận gốc những phiền não này. Sự oạn trừ các phiền não bằng Tuệ như vậy ược gọi là Chánh oạn (Samuccheda-pahāna - sự oạn trừ vĩnh viễn các phiền não.

Ở ây, sự thực hành các pháp Ba-la-mật (như Lục ộ vạn hạnh) và sự thọ trì giới dẫn ến sự oạn trừ tạm thời các phiền não - những việc phước ấy thuộc về Đại thiện (mahā-kusala); sự thực hành thiền Chỉ dẫn ến chứng thiền ắc ịnh, trấn áp phiền não trong một thời gian, ược xem là những việc thiện áo ại hay áo quảng (mahāggatā kusala). Sự thực hành thiền Quán sanh Tuệ (paññā), Đạo Tuệ (magga-ñāṇa) dẫn ến sự oạn diệt hoàn toàn các phiền não (samuccheda-pahāna) thuộc về thiện siêu thế (lokuttara-kusala).

                               

Như vậy, suốt 4 A-tăng-kỳ (asaṇkkheyya) và 100 ngàn ại kiếp, Ngài ã oạn diệt các nhóm phiền não làm ô nhiễm tâm của

Ngài, và cũng loại trừ vô minh và si mê (avijjā-moha) hành ộng như vị tướng dẫn ầu những ạo binh phiền não, theo sát bên Ngài. Đồng thời Ngài cũng làm cho năm Quyền: Tín, Tấn, Niệm, Định và Tuệ tăng trưởng mỗi kiếp một mạnh hơn. Như vậy, Ngài ã trải qua những kiếp luân hồi khó khăn, liên tục thực hành các pháp ba-la-mật với sức tinh tấn mãnh liệt, cho ến lúc Ngài sanh làm vua Vessantara, Ngài ã bố thí hoàng hậu Maddī, như là việc phước tối hậu giúp Ngài có thể chứng ắc Phật quả. Sau ó, Ngài tái sanh vào cõi Đâu suất à thiên (Tusīta), thọ hưởng lạc thú của chư thiên và chờ úng thời gian ể Ngài thành Phật.

Bởi vì Ngài là bậc ã ạt ến ỉnh cao của trí tuệ sau khi ã oạn trừ các phiền não như tham, sân, v.v... bằng sự tích lũy các việc phước ba-la-mật như bố thí, v.v… nên Tứ Đạo Tuệ (magga-ñāṇa), rất thâm diệu chỉ xuất hiện trong dòng tâm của bồ tát.

Hơn nữa, bắt ầu từ lúc Ngài em cả thân mạng phục dưới chân Đức Phật Nhiên Đăng (Dīpaṅkarā), Ngài ã nỗ lực cố gắng tu tập và tích lũy các việc phước qua sự thực hành các pháp Ba-la-mật (pāramī) như bố thí (dāna), v.v… là quả phước thiện,  không mong cầu khoái lạc ở bất cứ cõi nào mà kẻ phàm phu tầm thường khó có thể làm ược. Bằng tất cả những việc phước mà Ngài thực hiện, Bồ tát chỉ có ước nguyện như vầy : “ Cầu mong những việc phước Ba-la-mật

này hãy là cận y duyên (những iều kiện ầy ủ – upanissayapaccaya) ể Nhất thiết trí (sabbaññuta-ñāṇa) sanh khởi trong ta.”

Còn ối với những kẻ khác, họ cầu ước các lạc thú của chư thiên và nhân loại sau khi làm các việc phước. Và úng theo ước nguyện họ, họ ạt ược những lạc thú của chư thiên và nhân loại, là quả của những việc phước. Nó giống như sự tiêu xài phung phí bất cứ tài sản nào có ược từ những việc phước mà họ ã tích lũy. Không giống như những người này, vị Bồ tát, theo cách của người cho lúa vào vựa và luôn luôn gìn giữ nó mà không sử dụng, Ngài tích lũy các việc phước kiếp này qua kiếp khác với ước nguyện như vầy: “ Mong rằng việc phước này sẽ góp phần tạo ra túc duyên cho sự giác ngộ Đạo Tuệ (magga-ñāṇa), với ỉnh cao của sự giác ngộ là Nhất thiết trí (sabaññūta-ñāṇa).

Sự tích luỹ các việc phước từ những ba-la-mật suốt 4 A-tăngkỳ (asaṇkkheyya) và 100 ngàn ại kiếp ể rồi cho quả một lần là sự chứng ắc Phật quả trong kiếp cuối cùng của Ngài sanh làm thái tử Siddhattha. Nhưng vì có vô số phước ều trổ quả chỉ trong một kiếp nên kiếp này xem ra dày ặc quả phước.

Do bởi ước nguyện duy nhất là sự chứng ắc Phật quả, nên các việc phước của Ngài trổ quả tràn ầy trong kiếp cuối cùng này thật mạnh mẽ. Cho nên, chỉ trong dòng tâm của Bồ tát mới xuất hiện Tứ ạo tuệ rất thâm diệu mà không cần sự trợ giúp của bất cứ ai.

Sự triển khai 3.600.000 koṭi Đại Kim Cang Quán Trí của Bồ tát

(Mahāvajira Vipassanā Ñāṇa) 

Sau khi ã oạn trừ các phiền não như tham (lobha), sân (dosa), v.v... nhờ những việc phước ược tích lũy qua sự thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật (pāramī) như bố thí (dāna), v.v… như ã nói ở trước, Bồ tát, Bậc ã loại trừ si mê (moha) - moha là kẻ dẫn ầu các phiền não cùng với những tùy tùng của chúng thường hay ngăn cản và che lấp con ường dẫn ến Niết bàn. Ngài ã thực hành và phát triển thiền Đại kim cang quán trí (Mahāvajira Vipassanā) vào lúc rạng ông (trong canh cuối của êm), ngày rằm tháng Vesakha. Phương pháp thực hành và khai triển ược tóm lượt như sau:

Có mười trăm ngàn triệu hay triệu triệu thế giới ược gọi là Oai lệnh sát thổ (Āṇākhetta), phạm vi thuộc quyền lực của một vị Phật (1) . Khi Bồ tát quán thật tánh của những chúng sanh sống trong mỗi thế giới và thuộc về ba thời kỳ (quá khứ, hiện tại và vị lai), Ngài thông suốt rằng, dầu số nhân loại, chư thiên và Phạm thiên trong một số thế giới có nhiều ến bao nhiêu, cũng ược thu gọn trong 12 nhân duyên (Paṭiccasamuppāda), ược xem là thực tại tối thượng: vô minh (avijjā) và hành (saṅkhara) - hai chi quá khứ là nhân; thức (viññāna), danh sắc (nāma-rūpa), lục nhập (salāyatana), xúc (phassa), thọ (vedanā) - những yếu tố hiện tại là nguyên nhân; và sanh (jati) (hay sanh hữu – upapatti-bhava), lão (jara) và tử (maraṇa) - những yếu tố tương lai là kết quả.

Có ba loại lãnh vực (sát thổ - khetta) liên quan ến Đức Phật, theo bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā và bộ Parajika Aṭṭhakathā:

  1. Sanh ản sát thổ (Jāti khetta) ược giới hạn bởi mười ngàn thế giới mà chấn ộng vào lúc Bồ tát thọ sanh vào lòng mẹ trong kiếp chót. 
  2. Oai lệnh sát thổ (Āṇākhetta): ược giới hạn bởi triệu triệu thế giới nơi mà những bài kinh hộ trì (paritta) có năng lực: Ratana Sutta, Khandha Paritta, Dhajagga Paritta, Ātanātiya Paritta và Mora

Paritta. 

  1. Cảnh sở duyên sát thổ (Visaya khetta) ược gọi là sát thổ không giới hạn, và vô cùng tận, trong ó Đức Phật có thể vận dụng Nhất thiết trí (sabbaññuta-ñāṇa) của Ngài ể biết bất cứ iều gì ở bất cứ nơi nào.

Khi Ngài quán thật tánh của nhân loại, chư thiên và Phạm thiên sống trong các thế giới còn lại và thuộc ba thời kỳ, Ngài biết thông suốt rằng: cũng như trường hợp của chúng sanh ở thế giới này, cũng chính mười hai yếu tố ấy của Pháp Duyên khởi (Paṭiccasamuppāda) hình thành những ối tượng của thiền quán, bắt ầu từ vô minh (avijjā) ến sanh (jāti), lão (jarā) và tử (maraṇa).

Như vậy, số ối tượng của thiền quán ược tổng kết như sau: vì có 100.000 koṭi thế giới (1 koti =10.000.000) nên cũng có 100.000 koti pháp duyên khởi sanh lên, mỗi pháp có 12 yếu tố, mỗi yếu tố là một ối tượng. Do ó, tổng cộng có 1.200.000 koṭi ối tượng.

Như một người ốn hạ và dọn sạch khu rừng rậm với những bụi cây và dây leo chằng chịt, anh ta mài bén cây rựa trên cục á mài và mài nhiều lần; Bồ tát cũng vậy, ể dọn sạch khu rừng rậm và những bụi cây phiền não (kilesa), số lượng là một ngàn năm trăm, ã mài bén nhiều lần lưỡi dao Đại kim cang quán tuệ (Mahāvajira Vipassanā-ñāṇa) trên cục á mài của tứ thiền ề mục hơi thở (ānāpāna) ( tức là nhiều lần nhập vào tứ thiền ề mục hơi thở - ānāpāna). Sau ó Ngài quán từng chi của 12 nhân duyên, số lượng là

1.200.000 koti, bằng cách quán 3 tướng của chúng là : vô thường (anicca-lakkhaṇā), khổ (dukkha-lakkhaṇā) và vô ngã (anatta- lakkhaṇā).

Vì mỗi chi của Paṭiccasamuppāda, số lượng 1.200.000 koti, khởi sanh ba loại Quán trí (ñāṇa) là Vô thường quán trí (Anicca Vipassanā-ñāṇa), Khổ quán trí (Dukkha Vipassanā-ñāṇa) và Vô ngã quán trí (Anatta Vipassanā-ñāṇa), tất cả khởi sanh 3.600.000 koti Đại kim cang quán tuệ (Mahāvajira Vipassanā-ñāṇa).

(Bài tóm tắt về Đại kim cang quán tuệ (Mahāvajira Vipassanāñāṇa) ược chứa trong bài kinh Anupāda, Uparipaṇṇāsa Ṭīkā và trong bài Sariputta Moggallāna Pabbajjakathi, Mahākhandhaka Vinaya Sāraṭṭhadīpanī Ṭikā).

Theo thông lệ, sự thực hành của mỗi vị Bồ tát vào êm trước khi chứng ắc quả Phật là quán Pháp Duyên khởi theo thứ tự xuôi và ngược. Bồ tát của chúng ta, như chư Bồ tát quá khứ, cũng quán pháp Duyên khởi theo thứ tự xuôi và ngược. Nhân ó, mười ngàn thế giới hình thành Sanh ản sát thổ (jāti-khetta) ã chấn ộng ến các ại dương tận cùng của thế giới.

Sau khi Bồ tát khai triển loại tuệ Sammāsana-ñāṇa, gồm có 3.600.00 koṭi Đại kim cang quán tuệ, bằng cách quán sát Paṭiccasamuppāda như tất cả các vị Bồ tát quá khứ ã từng quán sát, Ngài lại nhập vào tứ thiền ề mục hơi thở (ānāpāna) (Ngài làm như vậy ể mài  bén lưỡi gươm tuệ quán bậc cao như Sanh diệt trí Udayabbaya-ñāṇa (trí biết sự sanh khởi và hoại diệt) trên cục á mài tứ thiền ề mục hơi thở). 

Khi ã nhập vào Tứ thiền ề mục hơi thở (ānāpāna)  ( sau khi mài bén lưỡi gươm của tuệ quán bậc cao), Ngài xuất khỏi ịnh ấy và chứng ắc dễ dàng trí tuệ bậc cao như Sanh diệt trí (Udayabbayañāṇa).

    Sanh diệt trí :  Trí thấy sự sanh và diệt của các pháp hữu vi.

    (Udayabbaya-ñāṇa)                                                         

   Hoại diệt trí  :  Trí thấy sự hoại diệt của các pháp hữu vi

    (Bhaṅga-ñāṇa)

   Bố úy trí (Bhaya-ñāṇa): Trí thấy rõ và ghê sợ các pháp hữu vi.

   Quá hoạn trí :  Trí nhờm gớm và ghê sợ các pháp hữu vi.

    (Ādinava-ñāṇa)                                              

   Yểm ly trí (Nibbidā-ñāṇa): Trí nhàm chán các pháp hữu vi.

   Dục thoát trí : Trí muốn thoát khỏi các pháp hữu vi.

    (Muccitukaṃyatā-ñāṇa)                                                                 Tỉnh sát trí  :  Trí làm khởi dậy sự tinh tấn ặc biệt.

     (Paṭisaṅkhāra-ñāṇa)                                                   

   Hành xả trí (Saṅkhārupekkhā-ñāṇa): Trí xả ly các pháp hữu vi.

(Cần lưu ý rằng Bồ tát ã dễ dàng giác ngộ Quán trí bậc cao (Vipassaṇa-ñāṇa) vì Ngài ã từng xuất gia tỳ khưu trong giáo pháp của chư Phật quá khứ, ã từng thông suốt Tam tạng và thực hành thiền Minh sát tuệ, ã khai triển và tu tiến ến mức chứng ạt Sanh diệt trí (Udayabbaya-ñāṇa), Hoại diệt trí (Bhaṅga-ñāṇa), Bố úy trí (Bhayañāṇa), Quá hoạn trí (Ādinava-ñāṇa), Yểm ly trí (Nibbidā-ñāṇa), Dục thoát trí (Mucchitukamyatā-ñāṇa), Tỉnh sát trí (Paṭisaṇkha-ñāṇa),  và Hành xả trí (Sankhārupekkha-ñāṇa). Và cũng vì tuệ quán của Ngài ã phát triển và lớn mạnh do bởi 3.600.000 koṭi Đại-kim-cang quán trí (Mahāvajīra Vipassanā Sammāsana Ñāṇa). Tất cả những chi tiết này ược căn cứ vào bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā và Sutta Mahāvagga Ṭīkā).

Như người sau khi trải qua chặng ường dài, về thấy cửa nhà mở, không dừng lại ở ngưỡng cửa mà i thẳng vào trong. Đức Bồ tát sau khi giác ngộ dễ dàng các Quán trí bậc cao (Vipassanā-ñāṇa) ã trải qua lần lượt tám giai oạn quán trí như Sanh diệt trí (Udayabbaya-ñāṇa), v.v... cuối cùng ạt ến giai oạn Tuỳ thuận quán trí (Anuloma-ñāṇa), Ngài không dừng lại ở ó. Thay vì dừng lại ở Đế Tuỳ thuận trí (Saccānuloma-ñāṇa) như cái cổng i vào thành phố Niết bàn, Ngài lập tức phá tan những ám mây mù và bóng tối của vô minh và si mê (avijjā-moha) ã che lấp Tứ Đế, ó là Khổ ế (Dukkha Saccā), Tập ế (Samudaya Saccā), Diệt ế (Nirodha Saccā) và Đạo ế (Magga Saccā) bằng ba loại Đế thuận thứ trí (Saccānuloma-ñāṇa) tên là Sơ ổng lực (parikamma), Cận hành ổng lực (upaccāra) và Thuận thứ ổng lực (anuloma), ba loại thuận thứ này diễn ra trong Đạo lộ (magga-vithī).

Sau khi ã xua tan bóng tối dày ặc che lấp chân lý, Ngài thấy rõ ràng như người nhìn thấy rõ mặt trăng trong bầu trời không mây, và giác ngộ ánh sáng to lớn của Niết bàn nhờ Đệ nhất ạo tuệ (sotapattimagga-ñāṇa) theo ngay sau Chuyển tộc trí (gotrabhū-ñāṇa), là những loại tuệ vượt qua những trói buộc của thế gian và chuyển qua dòng thánh (sát na ổng lực Đệ nhất ạo tuệ khởi sanh một lần và diệt mất). Ngay sau ó khởi sanh và hoại diệt ba ổng lực Dự lưu quả (sotapattiphala) theo úng ân ức của Pháp là Akālika (Quả khởi sanh ngay sau ạo). Rồi theo sau là dòng tâm bhavaṅga-citta (hữu phần).

Do bởi Dự lưu ạo tuệ (sotāpatti-phala) ã ược chứng ắc như vậy, dòng tâm của Bồ tát hoàn toàn thoát khỏi ba phiền não, là thân kiến (sakkāya-diṭṭhi), hoài nghi (vicikicchā) và giới cấm thủ (sīlabbataparāmasa). Những phiền não này sẽ vĩnh viễn không bao giờ khởi sanh trở lại trong dòng tâm của Bồ tát. 

Việc chứng ắc Phật quả do bởi sự giác ngộ các Đạo và các Quả bậc cao 

Sau khi giác ngộ Dự lưu ạo (sotāpatti-magga) và Dự lưu quả (sotāpatti-phala), Bồ tát xem xét lại (1) sotāpatti-magga, (2) sotāpatti-phala, là kết quả của sotāpatti-phala, (3) Niết bàn là cảnh của chúng, (4) các phiền não ã bị oạn tận bởi sotāpatti-phala và (5) các phiền não chưa ược oạn tận bởi ạo kể trên (năm loại trí quán sát này ược gọi là Ngũ quán sát trí – Paccavekkhana-ñāṇa).

Sau khi ã xem xét bằng Ngũ quán sát trí về sotāpatti-maggasotāpatti-phala, cảnh của chúng là Niết bàn, các phiền não ã ược oạn tận bởi Dự lưu ạo và các phiền não vẫn còn chưa ược oạn tận, Bồ tát lại trau dồi và phát triển các tuệ Minh sát (Vipassanā-ñāṇa) như Sanh diệt trí (udayabbaya-ñāṇa), v.v... Ngay sau ó, Ngài chứng ngộ Nhất lai ạo (sakadāgāmi-magga) và Nhất lai quả (sakadāgāmiphala). Qua sakadāgāmi-magga, Ngài oạn trừ các phiền não ở dạng thô, ó là dục ái (kāma-rāga) và sân (vyāpāda hay dosa). Từ ó trở i, dòng tâm của Bồ tát hoàn toàn thoát khỏi các phiền não loại thô của kāma-rāgavyāpāda (dosa).

Sau khi chứng ngộ Nhất lai ạo (sakadāgāmi-magga)  và Nhất lai quả (sakadāgāmi-phala), Bồ tát bằng các tốc lực tâm của Ngũ quán sát trí (paccavekkhana-ñāṇa), quán về Nhất lai ạo, Nhất lai quả, cảnh của chúng là Niết bàn, các phiền não ã ược oạn diệt và các phiền não chưa ược oạn diệt. Ngài lại phát triển các tuệ Minh sát như Sanh diệt trí (udayabbaya-ñāṇa), v.v... Ngay sau ó, Ngài chứng ngộ tầng thánh thứ ba, là ạo quả Bất lai hay A-na-hàm ạo (anāgāmimagga) và A-na-hàm quả (anāgāmi-phala).

Qua anāgāmi-magga, Ngài oạn tận hoàn toàn dục ái (kāmarāga kilesa) và sân (dosa) vi tế. Từ ó trở i, dòng tâm của Bồ tát hoàn toàn thoát khỏi kāma-rāgavyāpāda (dosa).

Sau khi chứng ngộ anāgāmi-maggaanāgāmi-phala, Bồ tát bằng các tốc lực tâm (javanavāra) của Ngũ quán sát trí (Paccavekkhana-ñāṇa), lại quán xét về anāgāmi-maggaanāgāmiphala ã chứng ắc, cảnh của chúng là Niết bàn, các phiền não ã ược oạn diệt và những phiền não chưa ược oạn diệt. Lại nữa, Ngài phát triển các tuệ Minh sát (Vipassanā-ñāṇa) như Sanh diệt trí (udayabbaya-ñāṇa), v.v... Ngay sau ó, Ngài chứng ắc tầng thánh thứ tư là A-la-hán ạo (arahatta-magga) và A-la-hán quả (arahattaphala). Bằng arahatta-magga, Bồ tát oạn diệt hoàn toàn tất cả những phiền não còn lại, ó là dục ái ở cõi sắc giới (rūpa-raga), dục ái ở cõi vô sắc giới (arūpa-raga), ngã mạn (māna), phóng dật (uddhacca) và vô minh (avijjā). Từ ó trở i, tâm của Bồ tát hoàn toàn thoát khởi một ngàn năm trăm loại phiền não (kilesa) cùng với những huân tập trong quá khứ (vāsanā) và bảy pháp ngủ ngầm.

(Sau khi ã chứng ngộ A-la-hán ạo (arahatta-magga) và A-lahán quả (arahatta-phala) thì những tốc lực tâm (javanavāra) của quán sát trí (paccavekkhana) sanh khởi ể quán xét về arahatta-maggaarahatta-phala, cảnh của chúng là Niết bàn, và các phiền não ã ược oạn tận. Có tất cả mười chín Quán sát trí, năm Quán sát trí khởi sanh sau khi chứng ắc ạo quả Tu-à-hườn (sotāpatti-magga-phala), ạo quả Từ- à-hàm (sakadāgāmi-magga-phala), ạo quả A-na-hàm (anāgāmi-magga-phala) và bốn thắng trí khởi sanh sau khi chứng ắc ạo quả A-la-hán (arahatta-magga-phala). Mười chín quán sát trí này cũng ược gọi là Giải thoát tri kiến (Vimutti Ñāṇa Dassana). Sau khi chứng ắc A-la-hán ạo (arahatta-magga), chẳng còn phiền não dư sót nên không có quán sát trí xem xét phiền não dư sót. Do ó, chỉ có 4 Quán sát trí - paccavekkhana-ñāṇa sau khi chứng ắc arahattamagga-phala.)

Sự chứng ắc Phật quả giữa chúng sanh của ba cõi.

Bồ tát giác ngộ arahatta-phala ngay sau khi giác ngộ arahattaphala, dòng tâm của Ngài rất trong sáng và ngài chứng ắc trạng thái của bậc Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha), bậc lãnh ạo tối cao của ba cõi, bằng sự hoạch ắc Nhất thiết trí (Sabbannuta-ñāṇa) cùng với Tứ thánh ế, Tứ vô ngại giải trí (Patisambhidā-ñāṇa), Lục bất cộng trí (Assādhāraṇa-ñāṇa), tạo thành 14 loại trí của một vị Phật; và 18 Bất cộng pháp (Āvenika dhamma), Tứ vô sở uý trí (Vesārajja- ñaṇa). Đồng thời với sự chứng ắc Nhất thiết trí (sabbañuta-ñāṇa) thì bình minh vừa xuất hiện. (Sự giác ngộ sabbañuta-ñāṇa nghĩa là sự chứng ắc Phật quả).

Bảy pháp Thanh tịnh của một vị Phật 

Về vấn ề này, chúng tôi ề nghị ưa vào bộ Phật sử này một bài trình bày tóm tắt về bảy Pháp Thanh tịnh (visuddhi) của một vị Phật.

                       (1) Giới Thanh tịnh (Sīla Visuddhi)

Vào lúc Bồ tát dừng chân ở trên bờ sông Anoma và mặc vào bộ y phục của vị Sa-môn, Ngài bắt ầu thọ trì Luật nghi giới (Saṃvara sīla)

Luật nghi giới: sự thực hành giới có sự khác nhau tùy thuộc vào người thọ trì là xuất gia hay tại gia. Các bài kinh trong các bộ Nikāya có giải thích về sự thực hành giới mà rất cần thiết cho người hành thiền. Bộ Thanh tịnh ạo (Visuddhi-magga) giải thích về giới tu tập có bốn loại: (1) Biệt biệt giải thoát giới (Pāṭimokkha-saṃvara); (2) Lục căn thu thúc giới (Indriya-saṃvara), (3) Chánh mạng thanh tịnh giới (Ājivapārisuddhi), (4) Tư cụ y chỉ giới (Paccayāsannissita). Pāṭimokkha saṃvara là giới dành cho các vị tỳ khưu, ệ tử của Đức Phật. Do ó, nó không ược nêu ra trong bài trình bày này về Giới thanh tịnh của Bồ tát.

Luật nghi giới (Saṃvara-sīla) là Chánh mạng ệ bát giới (Ājivaṭṭhamaka-sīla). Đó là kiên tránh sát sanh, kiên tránh trộm cắp hay cướp lấy những tài vật mà chủ nhân chưa cho bằng hành vi hoặc lời nói; kiên tránh thông dâm (kiên tránh những hành ộng tà hạnh lớn nhỏ); kiên tránh nói dối; kiên tránh âm thọc; kiên tránh chửi mắng và lời nói thô lỗ, kiên tránh nói lời vô ích, phù phiếm; kiên tránh sự nuôi mạng không chân chánh. Bằng thọ trì loại giới này, Bồ tát cũng thành tựu sự thọ trì Hượt mạng biến tịnh giới (Ājivaparisuddhi-sīla).  

Lục căn thu thúc giới (Indriya-saṃvara-sīla) là sự thực hành pháp phòng hộ sáu căn môn. Không giống như những kẻ phàm phu tầm thường, Đức Phật không cần một sự cố gắng ặc biệt ể tu tập lại Indriya-saṃvara-sīla vì sự  thu thúc lục căn ối với Ngài vốn là pháp tự nhiên bẩm sinh và ã ược thành tựu rồi.

Ngài cũng không cần phải vận dụng một sự cố gắng ặc biệt nào trong việc thọ trì Tư cụ y chỉ giới (Paccyasannissita-sīla)  ể oạn trừ các phiền não có thể khởi sanh do sự thọ dụng bốn món vật dụng.

Ngay vào lúc Ngài sắp từ bỏ thế gian, Ngài cũng ã oạn trừ tạm thời một số phiền não dẫn ầu là tham luyến và ái dục. Những phiền não ngủ ngầm chỉ ược oạn trừ bởi arahatta-magga. Đây là Giới thanh tịnh (sīla-visuddhi) của Bồ tát.

                      (2)  Tâm Thanh tịnh (Citta Visuddhi)

Bát thiền và ngũ thông (abhiññā) mà Bồ tát ã chứng ắc trong thời gian ở chung với hai vị giáo chủ Ālāra và Udaka ã trở nên bất tịnh và mờ nhạt tựa như bị lấm nhơ bởi những vật bất tịnh ( như những chiếc bình lớn bằng vàng mà không ược dùng ến) do bị bỏ quên không tu tập và không trau dồi suốt sáu năm Ngài thực hành pháp khổ hạnh (dukkaracariya). Vào ngày Ngài sắp chứng ắc quả Phật, Ngài ộ món cơm sữa do nàng Sujātā dâng cúng và trải qua cả ngày trong rừng cây sāla. Khi Ngài ang trú nơi ó, Ngài thanh lọc lại tám thiền chứng và ngũ thông bằng cách tu tập chúng lại một lần nữa (như chùi rửa lại cái bình bằng vàng bị lấm bụi). Tám thiền chứng và ngũ thông này hình thành tâm thanh tịnh (citta-visuddhi) của Bồ tát.

                       (3) Kiến Thanh tịnh (Diṭṭhi Visuddhi)

Sau ó, Đức Bồ tát i ến chỗ ất cao nơi cây Đại bồ ề vào lúc chiều tối và ngồi trên Vô ịch bảo tọa. Ngài ánh bại Devaputta Mara trước khi mặt trời lặn. Trong canh ầu của êm, Ngài chứng ắc Túc Mạng minh. Ngài thông suốt các hiện tượng nāma-rūpa và oạn diệt hai mươi thân kiến (sakkāya-diṭṭhi). Đây là Kiến thanh tịnh (diṭṭhi-visuddhi) của Bồ tát.

  1. Đoạn Nghi Thanh tịnh (Kaṅkhāvitaraṇa Visuddhi)

Vào canh giữa của êm, bằng Như nghiệp sanh trí (yathākammūpaga-ñāṇa) sanh lên từ Thiên nhãn trí (dibbacakkhuñāṇa), Ngài trông thấy chúng sinh sanh ến các cõi khác nhau theo nghiệp của họ. Khi thấy như vậy, Ngài giác ngộ ịnh luật Nghiệp báo (nghiệp và quả của nghiệp) và do sự giác ngộ này, Ngài thoát khỏi các hoài nghi. Đây là Đoạn nghi thanh tịnh của Bồ tát (Kaṅkhāvitaraṇa visuddhi).

  1. Đạo phi ạo Tri kiến Thanh tịnh

                       (Maggāmaggañāṇadassana Visuddhi)

Vào canh cuối, Bồ tát trú trong mười hai Nhân duyên của Pháp Duyên khởi, và bắt ầu bằng pháp quán Danh sắc (Kalāpa- sammāsana) dựa vào bảy pháp quán như vô thường quán (aniccanupassanā), khổ quán (dukkha-nupassanā), vô ngã quán (anattanupassanā), Ngài giác ngộ Sanh diệt tuệ (udayabbaya-ñāṇa) thấy rõ sự sanh và diệt của nāma-rūpa. Vào lúc ấy, trong Bồ tát khởi sanh những Quán tùy nhiễm (Vipassānupakkilesa) như hào quang, v.v...  

 Quán tùy nhiễm (Vipassānupakkilesa) - vị hành giả khi hành thiền Minh sát, ến một giai oạn tiến bộ nào ó, quán liên tục sự sanh và diệt của Danh và sắc, ạt ến giai oạn ầu của udayabbaya-ñāṇa. Ở giai oạn này, vị hành giả thường trông thấy ánh sáng (obhāsa), cảm thọ trạng thái hỉ (pīti), tịnh (passaddhi), thắng giải (adhimokkha), tinh cần (paggaha),lạc (sukha), tri kiến (ñāṇa), niệm mạnh (upaṭṭhāna), xả (upekkha), và dục cầu ối với trạng thái này (nikanti). Vị hành giả khi ạt ến giai oạn này có thể bị dính mắc trong các phiền não của tuệ minh sát và tâm bị dao ộng trong chúng. Ví dụ: khi hào quang khởi sanh, vị hành giả có thể cảm thấy rằng ây là kinh nghiệm của ạo và vì vậy, vị hành giả bị dừng lại, không thể tiến bộ cao hơn. Khi hào quang xuất hiện, vị hành giả nghĩ rằng : “ Quả thật trước ây ta chưa từng có hào quang như vậy. Chắc chắn ta ã chứng Đạo rồi, ta ã chứng Quả rồi. Như vậy vị hành giả cho rằng cái không phải Đạo là Đạo, và cái không phải là Quả lại cho là Quả. Do sự lầm lẫn này, sự tiến bộ về thiền minh sát của vị ấy bị dừng lại. Vị ấy cứ mãi vui thích trong hào quang ấy mà quên mất ề mục của thiền.”

Hào quang của Đức Phật không giống như hào quang của những kẻ khác, không bị giới hạn trong một chỗ hoặc một vùng. Thật vậy, khi Bồ tát qua Đại kim cang quán trí (Mahāvajjra Vipassanāñāṇa) Ngài quán xét các pháp (dhamma) trong dòng tâm của Ngài, cũng như các nhóm pháp trong dòng tâm của vô số chúng sanh suốt ba thời kỳ quá khứ, hiện tại và vị lai. Ngài giản lược chúng thành mười hai nhân duyên của pháp Duyên khởi (Paṭiccasamuppāda) và lại chia chúng ra thành hai nhóm nāma-rūpa khi Ngài quán chúng bằng Sanh diệt trí (udayabbaya-ñāṇa). Tinh tấn mạnh mẽ, niệm vững chắc, tâm iềm tỉnh và vì vậy trí tuệ của Ngài rất sắc bén. Niềm tin của Ngài rất mạnh, thân tâm an lạc, và sự an tịnh phát triển không ngừng. Sở hữu xả (tataramajjhattā-cetasika) cũng ược gọi là quán xả (vipassanupekkha) rất mạnh, làm công việc xem xét tất cả các trạng thái hữu vi bằng trạng thái tâm quân bình. Dòng tâm của Bồ tát ược nâng ỡ và trợ giúp bởi lạc (sukha) và tịnh (passaddhi) như vậy tràn ngập năm loại hỉ, ó là : (1) hỉ làm lông tóc dựng ứng (tiểu hỉ - khuddaka pīti), (2) hỉ chợt hiện chợt tắt như tia chớp (sát na hỉ - khanika pīti), (3) hỉ ngập tràn cả thân rồi hạ xuống như những cơn sóng ổ vào bờ (kế khởi hỉ - okkantika pīti), (4) hỉ rất mạnh như muốn nhấc bổng hành giả lên không trung (dũng dược hỉ - ubbega pīti), (5) hỉ tràn ngập toàn thân như bông gòn ược nhúng trong dầu. Máu, tim và các căn như mắt, tai, mũi, v.v... cũng rất trong sáng.

Do ó, hào quang xuất hiện từ thân của Bồ tát tràn ngập cả quả ất, khối không khí và khối nước ở ịa ngục và khiến cho chúng thấm nhuần một màu vàng. Rồi hào quang i xuyên qua khoảng không vô tận ở bên dưới lên ến cõi trời cao nhất là Hữu ảnh thiên (Bhavagga), mọi thứ ều mang sắc vàng. Hào quang liên tục xuyên thấu không gian vô tận ở bên trên. Hào quang ấy cũng xuyên thấu khắp mười ngàn thế giới, và nhanh chóng tỏa rộng khắp vô biên thế giới. 

(Khi những quán tùy nhiễm ấy xuất hiện, các hành giả thường hiểu lầm chúng là Đạo và Quả. Họ từ bỏ ề mục ban ầu của thiền và vui thích dính mắc trong những trạng thái quán tùy nhiễm). Tuy nhiên, khi những quán tùy nhiễm này xuất hiện trong dòng tâm của Bồ tát thì Ngài quán xét rằng: “ Đây không phải là con ường dẫn ến A-la-hán ạo trí (arahatta-magga-ñāṇa) và Nhất thiết trí (sabbaññuta-ñāṇa), chúng chỉ làm ô nhiễm tuệ quán mà thôi. Chỉ có Sanh diệt trí (udayabbaya-ñāṇa), v.v... trong pháp thiền nguyên thủy của Ta mới là con ường úng ắn dẫn ến A-la-hán ạo trí (arahatta-magga-ñāṇa) và Nhất thiết trí (sabbaññuta-ñāṇa).” Ngài không cho tâm của Ngài trôi theo những tùy quán nhiễm này và luyến ái theo chúng. Ngài khiến cho tâm nghiêng về ối tượng của thiền quán.

Khi những tùy quán nhiễm như vậy xuất hiện trong dòng tâm của Bồ tát như trong trường hợp của những vị hành giả khác, Ngài không ể cho trạng thái tham muốn, dục cầu sanh khởi dầu ở dạng vi tế nhất. Ngài có trí trong sáng siêu trần, thấy rõ rằng nhóm tùy quán nhiễm này không phải là con ường úng ắn dẫn ến giác ngộ, nó chỉ dẫn ến sự ô nhiễm của tuệ quán. Chỉ có Sanh diệt trí (udayabbaya-ñāṇa), v.v... mới là con ường úng ắn dẫn ến giác ngộ. Đây là Đạo phi ạo Tri kiến thanh tịnh

(Maggāmaggañāṇadassana Visuddhi) của Bồ tát.

                        (6) Hành ạo Tri kiến Thanh tịnh                               (Paṭipadāñāṇadassana Viduddhi)

                       (7) Tri kiến Thanh tịnh (Ñāṇadassana Visuddhi)

Nhóm chín Tuệ Minh sát (Vipassanā-ñāṇa), từ Sanh diệt trí (udayabbaya-ñāṇa), ến Tuỳ thuận trí (anuloma-ñāṇa) mà khởi sanh trong dòng tâm của Bồ tát, ược gọi là Hành ạo tri kiến thanh tịnh. Bốn Thánh ạo (Ariyā magga) ược gọi là Tri kiến thanh tịnh (Ñānadassana-visuddhi).

(Về mặt này, cần ặc biệt lưu ý rằng Dự lưu ạo (Sotapattimagga) ược Đức Phật chứng ắc là Sơ thiền ạo (jhāna-magga) với năm chi thiền là tầm (vitakka), tứ (vicāra), hỉ (pīti), lạc (sukha), và nhất tâm (ekaggatā). Nhất lai ạo (Sakadāgāmi-magga) là nhị thiền ạo (jhāna-magga) với ba chi thiền là pīti, sukhaekaggatā. Bất lai ạo (Anagāmi-magga)  là Tam thiền ạo với hai chi thiền là sukhaekaggatā. A-la-hán ạo (Arahatta-magga) là Tứ thiền ạo với hai chi thiền là sukhaekaggatā). (Trích dẫn từ phần diễn giải của bài kinh Upakkilesa trong bộ Chú giải Uparipaṇṇāsa). 

Như vậy, chuỗi bảy pháp Thanh tịnh, ã ược mô tả ở trên, tạo thành con ường dẫn ến Niết bàn. Chư Phật, chư Độc giác Phật và chư Thinh văn ệ tử Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, giác ngộ Niết bàn chỉ qua bảy pháp Thanh tịnh này; và nói rằng ít nhất thì các bậc thánh chứng ắc Thánh ạo bằng cách tu tập tối thiểu là pháp thiền Tacapaṅcaka (năm thể trược) hoặc nghe một thời Pháp dưới dạng kệ do Đức Phật thuyết khi Ngài ngồi ở tịnh xá  và phóng hình ảnh của Ngài ến trước mặt họ. Tất cả họ chứng ắc Thánh ạo (ariya-magga) chỉ nhờ trải qua lần lượt bảy pháp Thanh tịnh này.

Câu hỏi ược ưa ra như vầy : Nếu tất cả chư Phật, chư Độc giác Phật (Paccekabuddha) và chư Thinh văn ệ tử Phật trong ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai ều giác ngộ Niết bàn chỉ nhờ trải qua bảy pháp Thanh tịnh, thì tại sao tất cả những bậc thánh này không giống nhau về mọi phương diện? Tại sao có những khác biệt như vị này là Đức Phật, vị kia là Độc giác Phật, vị nọ là Thượng thủ thinh văn (agga-sāvaka), vị khác là Đại thinh văn (mahā-sāvaka), và vị khác nữa là Thinh văn bình thường (pakati-sāvaka)?

Câu trả lời là : Dù Niết bàn ược giác ngộ bởi tất cả chư Phật, chư Độc giác Phật và chư Thinh văn ệ tử của Phật chỉ nhờ trải qua bảy pháp Thanh tịnh, nhưng các ngài có nguồn gốc khác nhau về trí tuệ (pañña), sự thực hành (paṭipadā), niềm tin (saddhā) và căn tánh (ajjhāsaya-dhātu). Do ó, những vị thánh chứng ắc A-la-hán quả (arahatta-phala) nhờ trí tuệ có ược do nghe pháp từ những vị khác (văn sở thành tuệ - sutamaya-ñāṇa), sau khi tu tập các pháp ba-la-mật theo sức mạnh của saddhāpañña của vị ấy suốt một trăm ngàn ại kiếp, các ngài trở thành những Đại thinh văn (mahā-sāvaka) và những vị Thinh văn thường (pakati-sāvaka).

Những vị Thánh chứng ắc arahatta-phala nhờ sutamaya-ñāṇa sau khi ã tu tập các pháp ba-la-mật suốt thời gian một A-tăng-kỳ (asaṅkhyeyya) và một trăm ngàn ại kiếp hay ít hơn thì trở thành những vị Thượng thủ Thinh văn (agga-sāvaka). Các vị Thánh chứng ắc arahatta-phala nhờ trí tuệ của tự thân (sayambhu-ñāṇa – trí tự mình có ược không nhờ người khác chỉ dạy) sau khi ã tu tập các pháp Ba-la-mật suốt thời gian hai asaṅkhyeyya và một trăm ngàn ại kiếp, nhưng không thể thuyết pháp tế ộ kẻ khác chứng ắc magga, phala và Niết bàn thì trở thành những vị Độc giác Phật (Paccekabuddha).

Những bậc thánh vô song, sau khi ã anh dũng thực hành viên mãn các pháp ba-la-mật trong thời gian tối thiểu là bốn asaṅkhyeyya và một trăm ngàn ại kiếp và ã thực hành năm pháp Đại thí mà những vị Bích chi Bồ tát (Pacceka Bodhisatta) và Thinh văn bồ tát (Sāvaka Bodhisatta) không làm ược. Các Ngài chứng ắc arahattamaggasabbaññuta-ñāṅa nhờ vào trí tuệ của tự thân. Do thiện xảo bậc nhất trong việc sử dụng ngôn từ, các Ngài thuyết pháp bằng tứ Vô ngại giải trí, dùng nhiều phương cách ể thích ứng với căn tánh của mỗi chúng sanh. Các Ngài có thể dẫn dắt tất cả chúng sanh áng ược dẫn dắt ến Magga, PhalaNibbāna, và như vậy các Ngài trở thành nơi nương tựa cho tất cả chúng sanh. Những bậc thánh vô song này là những bậc Chánh ẳng giác, những vị Phật Toàn giác, những ấng Thế tôn của ba cõi. Vì Đức Bồ tát của chúng ta cũng có bản tánh như vậy nên Ngài cũng là vị Phật Chánh Đẳng Giác, Thế tôn của ba cõi. ( Đây là câu trả lời).

Hiện tượng kỳ diệu xuất hiện vào lúc Bồ tát chứng ắc Phật quả 

Khi Bồ tát chứng ắc Nhất thiết trí và trở thành một vị Phật trong ba cõi chúng sanh vào lúc rạng ông, khiến cho tất cả mười ngàn thế giới ều rung chuyển và vang lừng, ạt ến mức xinh ẹp cao nhất nhờ những hiện tượng kỳ diệu sau ây:

Những cờ phướn ủ màu sắc nổi lên ở tận cùng thế giới từ Đông sang Tây; cờ phướn ủ màu sắc nổi lên ở tận cùng thế giới về hướng Tây và thấu ến tận cùng thế giới ở hướng Đông. Tương tự, những cờ phướn ủ màu sắc nổi  lên ở tận cùng thế giới về hướng Nam và thấu ến tận cùng thế giới ở hướng Bắc; và những cờ phướn ủ màu sắc nổi lên ở tận cùng của thế giới về hướng Bắc và thấu ến tận cùng của thế giới ở hướng Nam. Những cờ phướn ủ màu sắc nổi lên trên mặt ất và thấu ến cõi Phạm thiên và những cờ phướn ủ màu sắc nổi lên ở cõi Phạm thiên và thấu xuống mặt ất.

Tất cả những loại cây ra hoa ở trong mười ngàn thế giới ều ồng loạt nở hoa. Tất cả những loại cây cho trái cùng ồng loạt ra trái trĩu cành. Các loại hoa cũng nở một cách khác thường trên thân, cành và trên những cây leo. Những chùm hoa hiện ra lơ lửng trong không trung. Các loại hoa sen nở hoa một cách kỳ diệu trên thân không lá, mỗi bông hoa có bảy tầng, xuyên qua những tảng á lớn và mọc ra thành những dãi hoa. Đúng như vậy, mười ngàn thế giới của Sanh ản sát thổ (jātikkhetta – cõi ản sanh của Bồ tát) ều chuyển ộng nhẹ vào lúc ấy và trông như khối hoa khổng lồ ược thổi tung lên hoặc như những luống hoa ược khéo sắp ặt.

Ngoài những hiện tượng kỳ diệu này, ba mươi hai hiện tượng kỳ diệu khác cũng hiện khởi, như ã ược mô tả trong chương nói về sự ản sanh của Bồ tát.

Cảm hứng kệ ( Udāna

Đức Phật sau khi chứng ắc Nhất thiết trí và thành tựu tất cả mọi ân ức và oai lực của một vị Phật, ã suy xét như vầy:

“ Ta quả thật ã thoát khỏi nổi thống khổ to lớn của luân hồi. Quả thật ta ã ạt ược ịa vị áng tôn kính nhất của một bậc Chánh biến tri, vị Đạo sư của ba cõi. Quả thật ta ã thành ạt thắng lợi to lớn. Ta là người có thể giải thoát tất cả chúng sanh ra khỏi những xiềng xích của tam giới bằng sự thuyết giảng chánh pháp.” Khi Ngài quán xét như vậy thì hỉ (pīti) ào ạt trào dâng trong dòng tâm của Ngài. Với sức trào dâng của pīti, Đức Phật thốt lên hai câu cảm hứng kệ sau ây úng như thông lệ của chư Phật.

  1. Anekajātisaṁsarāṁ, sandhāvissaṁ anibbisaṁ                 gahakāraṁ gavesanto, dukkhā jāti punappunnaṁ.

Không thể nhổ ược gốc luân hồi (saṁsāra), phải tái sanh trở i trở lại qua bốn hình thức thọ sanh: noãn, thai, thấp và hóa. Đã mang lấy tấm thân thời phải chịu già, bịnh và chết, chẳng có hạnh phúc chút nào chỉ có buồn khổ và chán ngán. Do ó, khi bước chân vào con ường của vị Bồ tát, Ta mãi i tìm người thợ cần mẫn xây nên ngôi nhà ‘ngũ uẩn’ (khanda) này, nhưng vẫn không tìm thấy hắn vì bấy giờ Ta chưa có ược Nhất thiết trí vĩ ại (sabbaññuta-ñāṇa) là trí thấy rõ ược kẻ tội phạm ích thực xây nên ngôi nhà au khổ này, ó là ái dục. Ta ã phải lang thang bất ịnh, quay vòng theo bánh xe saṁsāra dầu chẳng ưa thích chút nào, lại thường xuyên sợ hãi kẻ sản sanh ra dukkha, bao gồm ngũ uẩn.

  1. Gahatāraka diṭṭhosi, puna gehaṁ na kāhasi      sabbā te phāsuka bhagga, gahakutaṁ visankhataṁ      visaṅkharamgataṁ citta, tanhanaṁ khayamajjhaga.

Ngươi! Kẻ ái dục xây dựng nên ngôi  nhà này, nguyên nhân xấu xa của mọi dukkha! Giờ ây, sau khi trở thành một vị Phật và có ược Nhất thiết trí (sabbaññuta-ñāṇa), Ta ã thấy rõ ngươi. Này ái dục, kẻ xây dựng ngôi nhà! Ngươi sẽ không còn xây dựng ngôi nhà ngũ uẩn này với ầy dẫy dukkha, bởi vì tay chân và cả mạng sống của ngươi ã bị chặt ứt bằng bốn nhát rìu Đạo trí (magga-ñāṇa) và ngươi giờ ây giống như gốc cây ã bị bứng lên khỏi mặt ất. Tất cả rui mè kèo cột của phiền não ược gắn vững chắc trong ngôi nhà ngũ uẩn của ngươi ã bị phá sập tan tành, không ể lại dù một dấu vết nhỏ. Vô minh (avijja), cái cột chính của ngôi nhà, ã từng che lấp Tứ Diệu ế và Nibbāna trong bóng tối sâu thẳm của nó, ã bị giật sập. Tâm của Ta ã thoát khỏi bụi bậm của phiền não, ã ạt ến Nibbāna, lâu ài của hạnh phúc, vượt ra ngoài tất cả pháp hữu vi và tất cả au khổ của luân hồi. Ta, Đức Phật, Vô Thượng Tôn của tam giới, ã chứng ngộ Arahatta-magga-phala, ã diệt tắt một trăm lẻ tám loại ái dục khiến cho chư thiên và Phạm thiên khắp mười ngàn thế giới vui mừng tán dương.  

Chú Thích: Có hai loại cảm hứng kệ (udāna) - manasā-udāna (ý cảm hứng kệ), là kệ chỉ khởi sanh trong tâm, và vacasā-udāna (ngữ cảm hứng kệ), là kệ ược thốt ra bằng lời. Bài kệ udāna-gāthā bắt ầu bằng ‘Anekajātisaṁsāraṁ v.v…’ chỉ khởi lên trong tâm của Đức Phật nên ược xem là manasā udāna. Những bài kệ udāna trong bộ kinh Udāna  bằng tiếng Pāḷi, bắt ầu bằng câu ‘Yadā have pātu bhavanti dhammā v.v…’ ược Đức Phật thốt ra bằng lời. Vì vậy, những bài udāna bằng tiếng Pāḷi ược xem là vacasā-udāna.

( Những loại Pháp ược nêu ra trong Chương  Sự chứng ắc Phật quả này, ó là Paṭiccasamuppāda, bốn Paṭisambhidā-ñāṇa, sáu Āsādhārana-ñāṇa, Dasabala-ñāṇa, Cuddasabuddha-ñāṇa, mười tám Avenika-guna, và 4 Vesārajja-ñāṇa sẽ ược mô tả, không quá tóm gọn cũng không quá chi tiết trong Chương về Pháp Bảo – Dhammaratanā).

KẾT THÚC CHƯƠNG 7  

SỰ CHỨNG ĐẮC PHẬT QUẢ

]œ

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications