Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐPS T2A.004 CHƯƠNG 4 SỰ CẮT TÓC VÀ TRỞ THÀNH SA-MÔN 
Khi ến bờ sông Anomā, Thái tử cho ngựa dừng lại và hỏi quan Channa: “ Con sông này mang tên gì ?” Khi Channa áp lại rằng tên của nó là Anomā, Thái tử xem ó là iềm tốt và nói rằng: “ Sự xuất gia Sa-môn của ta chẳng phải thấp hèn; thực ra, ó là sự xuất gia cao quý.” (Vì chữ anomā nghĩa là ‘ không thấp hèn’). Rồi bằng cách thúc gót chân vào hông của con ngựa, Thái tử ra hiệu cho tuấn mã Channa vượt qua dòng sông và Kaṇḍaka ã phóng qua bên kia của con sông Anomā rộng 8 usabha và ứng ở ó.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:5930

Các tên gọi khác

Khi ến bờ sông Anomā, Thái tử cho ngựa dừng lại và hỏi quan Channa: “ Con sông này mang tên gì ?” Khi Channa áp lại rằng tên của nó là Anomā, Thái tử xem ó là iềm tốt và nói rằng: “ Sự xuất gia Sa-môn của ta chẳng phải thấp hèn; thực ra, ó là sự xuất gia cao quý.” (Vì chữ anomā nghĩa là ‘ không thấp hèn’). Rồi bằng cách thúc gót chân vào hông của con ngựa, Thái tử ra hiệu cho tuấn mã Channa vượt qua dòng sông và Kaṇḍaka ã phóng qua bên kia của con sông Anomā rộng 8 usabha và ứng ở ó.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
ĐPS T2A.004 CHƯƠNG 4 SỰ CẮT TÓC VÀ TRỞ THÀNH SA-MÔN 

CHƯƠNG 4

SỰ CẮT TÓC VÀ TRỞ THÀNH SA-MÔN 

Vượt qua dòng sông Anomā và cắt tóc  

Khi ến bờ sông Anomā, Thái tử cho ngựa dừng lại và hỏi quan Channa: “ Con sông này mang tên gì ?” Khi Channa áp lại rằng tên của nó là Anomā, Thái tử xem ó là iềm tốt và nói rằng: “ Sự xuất gia Sa-môn của ta chẳng phải thấp hèn; thực ra, ó là sự xuất gia cao quý.” (Vì chữ anomā nghĩa là ‘ không thấp hèn’). Rồi bằng cách thúc gót chân vào hông của con ngựa, Thái tử ra hiệu cho tuấn mã Channa vượt qua dòng sông và Kaṇḍaka ã phóng qua bên kia của con sông Anomā rộng 8 usabha và ứng ở ó.

Sau khi xuống khỏi ngựa, ứng trên bờ cát óng ánh màu ngọc trai, Thái tử nói với quan Channa rằng: “Này bạn Channa, hãy mang Kaṇḍaka cùng với những vật trang sức trở về. Ta sẽ trở thành Samôn.” Khi Channa nói rằng vị ấy cũng muốn trở thành Sa-môn, Thái tử ba lần không cho phép vị ấy nói rằng: “Này Channa, ngươi không thể xuất gia Sa-môn ược. Hãy trở về kinh ô ngay.”  Rồi Ngài trao tuấn mã Kaṇḍaka và các vật trang sức cho Channa.

Sau ó, Thái tử suy xét: “ Những lọn tóc này của ta thật không thích hợp với một Sa-môn, ta sẽ cắt chúng bằng cây kiếm của ta.” Và với cây kiếm trong tay phải, Thái tử cắt ứt búi tóc rồi tay trái nắm búi tóc cùng với vương miện. Những sợi tóc dài hai ngón tay còn lại trên ầu của Ngài tự xoắn lại về phía phải và nằm sát ầu. Chiều dài của tóc vẫn cứ như thế cho ến hết cuộc ời mà không cần phải cắt lại một lần nào nữa. Râu của Ngài cũng vẫn như thế suốt cuộc ời với bề dài vừa phải, trông xinh ẹp như tóc vậy. Và như vậy, Bồ tát không cần phải cạo lại chúng thêm một lần nào nữa.

Tóc ược ném lên không trung kèm theo lời phát nguyện 

Khi cầm mớ tóc và vương miện trong tay, Bồ tát phát nguyện rằng: “ Nếu ta là người sẽ thành một vị Phật, hãy ể mớ tóc này ứng giữa hư không. Nếu không, mớ tóc hãy rơi xuống ất, ” và ném chúng vào hư không. Nhân ó, mớ tóc và vương miện bay lên cao một do tuần và ứng lơ lửng giữa hư không một cách kỳ diệu như chuỗi hoa lơ lửng giữa trời.

Đế Thích tôn tạo bảo tháp Cūlamaṇi ở cõi Ba mươi ba (Tāvatiṁsa)  

Vào lúc ấy, Sakka, vua của chư thiên, bằng thiên nhãn ã trông thấy mớ tóc của Bồ tát và nhận lấy nó cùng cái vương miện với chiếc hộp báu, rộng một do tuần, và em chúng về cõi Tāvatiṁsa. Rồi Sakka tôn trí chúng trong bảo tháp Cūḷamaṇī mà vị ấy ã dựng lên, ược trang trí bằng bảy loại ngọc báu và cao ba do tuần.

Việc trở thành Sa-môn với các món vật dụng ược Phạm thiên

Ghaṭikāra dâng cúng 

Bồ tát lại suy xét: “ Những y phục này của Ta ược làm bằng các loại vải ở xứ Kāsi rất ắc giá. Chúng không thích hợp cho một Samôn.” Khi ấy Phạm thiên Ghaṭikāra là bạn cũ của Bồ tát trong thời Đức Phật Kassapa, ã suy xét bằng tâm từ ái (mettā) chân thật và cao quý của vị ấy ã hiện khởi và tồn tại suốt cả một trung gian Phật thời (Buddhantara kappa): “Ồ, hôm nay Bồ tát bạn của ta, sau khi thấy mối nguy hiểm trong các pháp ầy au khổ như sanh, già, v.v... ã thực hiện sự xuất gia vĩ ại (mahābhinikkhamana). Ta sẽ i và mang theo các món vật dụng của Sa-môn cho người bạn cũ này.” Đó là (1) ại y, (2) y vai trái ekacci, (3) y nội, (4) dây lưng, (5) kim và chỉ, (6) dao cạo, (7) bát cùng áo bát, và (8) cái lọc nước, và cúng dường ến Bồ tát.

Nhân ó, Bồ tát xuất hiện trong y phục của vị Sa-môn - những chiếc y mà có thể gọi là lá cờ của A-la-hán quả (arahatta-phala) và do Phạm thiên dâng tặng. Rồi Ngài ném bộ y phục thế tục lên trên không trung.

(Thời gian giữa hai vị Phật ược gọi là trung gian Phật thời (Buddhantara-kappa). Trung gian Phật thời ở ây ám chỉ khoảng thời gian giữa Đức Phật Kassapa và Đức Phật Gotama. Đức Phật Kassapa xuất hiện khi thọ mạng của loài người là hai chục ngàn năm, thọ mạng ấy giảm dần xuống còn mười năm và từ ó lại tăng lên A-tăng-kỳ tuổi. Khi thọ mạng ấy giảm xuống 100 tuổi thì Đức Phật Gotama xuất hiện. Do ó, trung gian Phật thời trong trường hợp này lâu hơn một trung kiếp (antara-kappa). Tuy không ai hướng dẫn Bồ tát cách mặc y, v.v... chúng ta cũng nên hiểu rằng Ngài biết cách sử dụng các vật dụng vì Ngài ã từng trải nghiệm, Ngài ã là  Sa-môn trước sự hiện diện của các vị Phật quá khứ và vì Ngài có trí tuệ vĩ ại).

Sự tôn tạo bảo tháp Dussa ở cõi Phạm thiên Sắc cứu cánh (Akaniṭṭha Brahmā) 

Nhân ó, Phạm thiên Ghaṭkāra bắt lấy bộ y phục của Bồ tát ã ược ném lên không trung. Vị ấy ã dựng lên một bảo tháp có kích thước mười hai do tuần ược hoàn thành bởi nhiều loại ngọc quí; và y phục của Ngài ược tôn trí trong ó. Vì bảo tháp dùng ể tôn thờ y phục của Bồ tát nên nó ược gọi là bảo tháp Dussa.

(Liên quan ến ịa iểm và chiều cao của bảo tháp, Sayadaw Monywe Zetawun ã viết trong bộ Samantacakkhu Dīpanī, cuốn I, như sau: “ Vì bộ y phục ược Phạm thiên Ghaṭikāra em về tôn thờ ở cõi Sắc cứu cánh thiên (Akaniṭṭha) nên bảo tháp ược gọi là bảo tháp Dussa ở cõi Phạm thiên trên. Và khi trích dẫn từ bộ  Jinālaṅkāra Ṭīkā và những tác phẩm khác, ngài nói thêm rằng: “ Bảo tháp Dussa cao mười hai do tuần nên ược xem là ang ở cõi Phạm thiên Suddhavasa Akaniṭṭha.”) 

(Liên quan ến tám món vật dụng do Phạm thiên Ghaṭikāra cúng dường, cuốn thứ nhất của bộ Chú giải Apādāna giải thích một cách khác như sau: “ Brahmunā ānīte iddhimaye kappassa santhānakāle padumagabbhe nibbatte atthaparikkhare paṭiggahetvā pabbajitvā - Bồ tát trở thành Sa-môn sau khi nhận lấy tám món vật dụng, do oai lực các pháp Ba-la-mật của Ngài  ã xuất hiện trong một chùm hoa sen trên mô ất của Mahābodhi vào lúc bắt ầu của thế giới và ược Phạm thiên em ến từ ó.” Trong bộ Saṃvara Pyo, sự kiện này ược mô tả bằng thể kệ (thơ), bộ Jinatthapakāsanī cũng có oạn nói rằng: “ Tám món vật dụng này xuất hiện ầy ủ trong óa sen nở như iềm báo hiệu thế giới bắt ầu xuất hiện.”

Tuy nhiên, trong bài kinh Mahāpadāna trong bộ Chú giải kinh Mahāvagga nói rằng: “ Vùng ất nơi cây ại bồ ề cuối cùng biến mất, vào lúc thế giới tiêu hoại và nó sanh lên ầu tiên vào lúc thế giới bắt ầu. Khi thế giới bắt ầu hiện hữu thì chùm hoa sen xuất hiện như là iềm báo tại Bodhimaṇḍala. Nếu chư Phật xuất hiện trong ại kiếp ấy thì chùm sen ra hoa; nếu chư Phật không xuất hiện thì chùm sen không ra hoa. Nếu là kiếp chỉ có một vị Phật thì chỉ một bông hoa nở. Nếu ó là kiếp có hai vị Phật thì hai hoa sen nở. Nếu là kiếp có ba, bốn hoặc năm vị Phật thì ba, bốn hoặc năm hoa sen nở từ chùm sen.”  Sự ề cập như vậy chỉ nói về sen ra hoa hay không, nhưng không ề cập về các món vật dụng sanh lên có sẵn trong hoa.

Tuy bộ y Sa-môn do Phạm thiên Ghaṭikāra dâng cúng ược giải thích trong Chú giải Apādāna là “ iddhimaya parikkharā, các món vật dụng xuất hiện do oai lực của phước Ba-la-mật của Bồ tát,” Đại trưởng lão Buddhaghosa trong bộ Chú giải kinh Nipāta của vị ấy, cuốn II, nói rằng: “Devadattiyaṁ paṃsukūlacīvaraṁ pārupitvā mattikāpattaṁ gahetvā pācīnadvārena nagaraṁ pavisitvā anugharaṃ pinḍā-ya acari - Sau khi khoác vào những chiếc y do Phạm thiên Ghaṭikāra dâng tặng và mang bình bát bằng ất nung, Bồ tát i vào thành phố bằng cổng phía ông và khất thực từng nhà.” Xét qua câu nói này của Đại trưởng lão Buddhaghosa, chúng ta nên hiểu rằng những chiếc y do Phạm thiên Ghaṭikāra trao tặng không phải là iddhimaya ( tức là những chiếc y xuất hiện do oai lực từ những việc phước của Bồ tát) mà chỉ là devadattiya ( tức là những chiếc y do chư thiên trao tặng). Theo như lời giải thích của Đại trưởng lão Buddhaghosa, tất cả những iều ược nêu ra ở ây, là ể suy xét xem có phải rằng những món vật dụng do Phạm thiên trao tặng, là những thứ ược chứa trong cụm hoa sen xuất hiện như là iềm báo ở trên gò ất Mahabodhi vào lúc bắt ầu của thế giới hay không).

Cho Channa trở về kinh ô 

Sau khi trở thành Sa-môn, Bồ tát cho quan Channa trở về với những lời nhắn nhủ như vầy: “ Này bạn Channa, hãy em những lời này của Ta ến mẹ của Ta ( tức là di mẫu Mahāpajāpati Gotamī) và cha của Ta rằng Ta vẫn khỏe mạnh.” Sau khi ảnh lễ và i ba vòng quanh Ngài, Channa ã em trang sức cùng con ngựa ra i.

Tuấn mã Kaṇḍaka tái sanh vào cõi chư thiên 

Nghe ược cuộc trò chuyện giữa Bồ tát và vị quan Channa, tuấn mã Kaṇḍaka ta thán với ý nghĩ: “ Từ nay, ta sẽ không còn cơ hội gặp lại chủ của ta.” Khi i ược một khoảng xa và không còn nhìn thấy Bồ tát, nó không thể chịu ược sự thương tiếc khởi sanh từ sự chia ly với người mà nó yêu thương nhất (piyehivippayoga), vì thế nó ã vỡ tim chết tại chỗ và ược tái sanh vào cung trời Đạo lợi (Tāvatiṁsa), làm một vị thiên mang tên Kaṇḍaka. Còn Channa, ầu tiên ã có một nỗi buồn vì phải chia ly với Bồ tát, giờ ây lại chứng kiến cái chết của ngựa Kaṇḍaka, nỗi ưu sầu thứ hai chồng chất trong lòng của vị ấy. Bị è nặng bởi hai nỗi buồn, Channa lủi thủi trở về kinh ô Kapilavatthu, vừa khóc lóc vừa ta thán.

(Sau khi chết, tuấn mã Kaṇḍaka tái sanh làm vị thiên cũng mang tên như vậy, sống giữa sự vinh hoa, khoái lạc và tùy tùng to lớn ở cõi Tāvatiṁsa. Vì vị ấy ã từng có sự gắn bó thân thiết với Bồ tát và ã phục vụ Ngài nhiều kiếp trong quá khứ nên vị ấy chết vì không thể chịu nỗi sự au ớn do phải chia ly với Bồ tát. Sự tái sanh của tuấn mã Kaṇḍaka vào cõi chư thiên không phải do nỗi sầu khổ ấy làm duyên. Lời của Bồ tát nói với nó khi Ngài sắp lên lưng tuấn mã, trước khi Ngài lên ường i xuất gia: “ Này Kaṇḍaka, Ta sắp từ bỏ thế gian ể thành ạt Nhất thiết trí.” Do nghe những lời của Bồ tát về sự xuất gia, là pháp không liên quan gì ến các dục lạc, nên Kaṇḍaka rất hoan hỉ và mãn nguyện với tâm rất trong sạch có ức tin dẫn ầu. Do kết quả của việc phước này mà tuấn mã Kaṇḍaka ược tái sanh vào cõi Tāvatiṁsa. Về sau, khi vị ấy ến yết kiến Đức Phật và nghe pháp, vị ấy chứng ắc quả Thánh nhập lưu (sotāpanna). Tất cả iều này ược nêu ra trong bộ Chú giải Vimānavatthu. Muốn biết thêm chi tiết, hãy tìm ọc bộ Chú giải này).

Bồ tát viếng kinh ô Rājagaha 

Sau khi trở thành Sa-môn, Bồ tát trải qua bảy ngày hưởng sự an lạc của ời sống Sa-môn gần khu vườn xoài Anupiya và sau khi i bộ một quãng ường dài ba mươi do tuần trong một ngày, Ngài i vào kinh thành Rājagaha. (Lời kể này ược trích ra từ bộ Chú giải Buddhavaṃsa và bộ Chú giải Jātaka).

(Theo bộ Chú giải kinh Nipāta thì Bồ tát sau khi trở thành Samôn ã thọ trì giới Ājīvatthamaka sīla - Tám giới thanh tịnh, và i bộ ến Rājagaha từ bờ sông Anomā, dài ba mươi do tuần trong bảy ngày).

Bồ tát i vào thành Rājagaha ể khất thực 

Khi Bồ tát sắp vào thành Rājagaha ể khất thực, Ngài ứng ở cổng phía ông của kinh thành, ý nghĩ sau ây khởi sanh trong tâm của Ngài: “ Nếu ta nhắn tin ến vua Bimbisāra về chuyến viếng thăm của ta thì vị ấy sẽ biết rằng thái tử Siddhattha, con trai của vua Suddhodāna, ã ến kinh ô của vị ấy, và với sự quan tâm úng mức, vị ấy sẽ gởi nhiều lễ vật cúng dường. Là một vị Sa-môn như ta thì không nên báo tin và nhận lãnh bốn món vật dụng. Ngay bây giờ, ta sẽ i khất thực.” Bởi vậy, sau khi mặc những chiếc y paṁsukūlika do Phạm thiên Ghaṭikāra dâng tặng và mang bình bát trong tay, Bồ tát i vào kinh thành qua cổng phía ông và i khất thực từng nhà.

Bảy ngày trước khi Bồ tát i vào thành Rājagaha ể khất thực, tất cả dân chúng trong thành ã tổ chức một lễ hội to lớn và vui chơi. Ngày Bồ tát i vào kinh thành, vua Bimbisāra truyền lịnh ánh trống công bố với mọi người rằng: “ Lễ hội ã kết thúc. Dân chúng nên bắt ầu lại công việc làm ăn của mình.”  Vào lúc ấy, dân chúng vẫn còn tụ tập trước quãng trường của hoàng cung. Khi ức vua mở cánh cửa sổ có ế hình con sư tử và nhìn ra ể ban lời giáo huấn, vua trông thấy Bồ tát ang i vào thành Rājagaha ể khất thực với các căn rất thanh tịnh.

Khi trông thấy tướng mạo tuyệt ẹp của Bồ tát, dân chúng thành Rājagaha tất cả ều bàng hoàng kinh ngạc và cả thành phố rơi vào trạng thái hỗn loạn, xôn xao như khi voi Nālāgīri i vào thành phố vậy, hoặc như khi Vepacitta, vua của các vị A-tu-la, i vào thành phố chư thiên ở cõi Tāvatiṁsa.

Khi Bồ tát i khất thực với vẻ oai nghi của voi chúa Chaddanta từ nhà này sang nhà khác trong kinh thành Rājagaha; trông thấy tướng hảo quang minh của Bồ tát, dân chúng lòng ầy hoan hỉ và kinh ngạc, họ chỉ biết nhìn ngắm Ngài không chớp mắt

Rồi một người trong bọn họ nói với người kia rằng: “ Này bạn, làm sao thế? Phải chăng cung iện của mặt trăng ã hạ xuống cõi nhân loại với tất cả hào quang của nó ược thu lại do sợ hãi Rāhu, vị A-tula vương?” Người thứ hai lại chế giễu người thứ nhất bằng cách nói rằng: “ Này ông bạn, ông ang nói gì thế? Ông có khi nào thấy mặt trăng i xuống cõi người này chưa? Sự thực là Kāma, vị thiên của dục lạc, vì trông thấy sự rực rỡ của ức vua và thần dân của người nên ã giả dạng ến vui chơi với chúng ta.” Rồi người thứ ba chế giễu người thứ hai rằng: “ Này ông bạn, làm sao thế? Ông có iên không ó? Vị thiên Kāma là kẻ có thân en sì vì bị ốt cháy dữ dội bởi ngọn lửa của bá quyền, kiêu căng và phẫn nộ. Sự thực là người mà chúng ta ang thấy là Sakka, vua của chư thiên, bậc có ngàn con mắt i vào thành phố của chúng ta vì tưởng nhầm ó là chỗ ngụ của vị ấy ở cõi Tāvatiṁsa.”

Rồi người thứ tư phát biểu càng khôi hài hơn: “ Làm sao ông có thể nói như vậy ược? Những lời nói của ông tự thân vốn ã mâu thuẫn. Nếu ông bảo vị ấy là Sakka, vậy thì ngàn con mắt của vị ấy âu? Cái kim cang chùy của vị ấy âu? Con voi Erāvaṇa của vị ấy âu? Thực ra, ó là vị Phạm thiên, vì biết rằng các vị bà la môn ã quên Tam phệ à và những môn học khác nên ến ể thúc dục họ ừng quên những kiến thức ấy và nên thực hành theo chúng.” Rồi một người khác có trí dõng dạc nói rằng: “ Đây không phải là mặt trăng, không phải vị thiên Kāma, không phải Sakka, cũng không phải Phạm thiên. Thực ra, vị ấy là con người phi thường nhất, người ứng ầu trong nhân loại, bậc lãnh ạo và ạo sư của ba cõi.”

Trong khi dân chúng của kinh thành Rājagaha ang bàn luận với nhau như vậy, mỗi người có một quan iểm riêng, thì quân hầu của vua i ến ức vua Bimbisāra và tâu lên như vầy: “ Tâu ại vương, một con người kỳ diệu mà không ai biết, ó là vị thiên, cànthát-bà (gandhabba), rồng (nāga) hay dạ-xoa (yakkha) ang i khất thực trong kinh thành Rājagaha của chúng ta.” Nghe qua lời tâu của họ, ức vua ã trông thấy Bồ tát trong khi ang ứng trên sân thượng của hoàng cung nên vị ấy rất kinh ngạc và truyền lịnh cho các quan rằng: “ Hãy i và tìm hiểu kỹ lưỡng về người ấy; nếu ó là dạ xoa thì người ấy sẽ biến mất khi ra khỏi thành phố; nếu ó là chư thiên thì vị ấy sẽ i trên không trung; nếu là rồng thì vị ấy sẽ ộn thổ và biến mất. Nếu vị ấy là người thực sự thì vị ấy sẽ ộ thực ở một nơi nào ó.”

Với các căn thanh tịnh và tác phong tao nhã, ôi mắt nhìn xuống chỉ xa bằng chiều dài một cái cày  (4 hắc tay) tựa như vị ấy ang thu hút ôi mắt tò mò của dân chúng thành Rājagaha, Ngài i quanh và nhận vật thực vừa ủ cho sự nuôi mạng - vật thực bao gồm tất cả các loại có thể ăn ược, thượng vị và thô thiển với nhiều màu sắc ược trộn chung với nhau. Rồi Bồ tát hỏi mọi người: “ Những vị Sa-môn ến kinh thành này thường ngụ ở âu?” Dân chúng trả lời rằng: “ Họ thường ngụ ở lối vào hang ộng, mặt quay về hướng ông trên ỉnh núi Paṇḍava.” Bồ tát ra khỏi kinh thành bằng cửa ông quan, nơi Ngài ã i vào. Sau ó, Ngài ngồi mặt quay hướng ông ở lối vào hang ộng trên ngọn núi, và cố gắng ăn món vật thực hỗn hợp vừa thượng vị vừa tầm thường mà Ngài ã khất thực.

Sau khi thọ hưởng hạnh phúc của ời sống ế vương như vị Chuyển luân chỉ cách vài ngày, giờ ây Bồ tát phải cố gắng ăn miếng vật thực ngon, dở lẫn lộn với ủ màu sắc. Khi sắp ưa miếng vật thực vào trong miệng, Ngài cảm thấy khổ sở cứ như ruột bị ảo lộn và muốn nôn ra vì Ngài chưa bao giờ thấy loại vật thực như vậy trong cuộc ời, và cảm thấy nó thật ghê tởm. Rồi Ngài tự sách tấn chính mình: “ Này Siddhattha, dù ngươi ã từng nắm quyền cai trị tối cao ở hoàng cung, nơi mà ồ ăn và thức uống luôn luôn có sẵn ể ngươi thọ hưởng, lại có món cơm ược nấu bằng loại gạo trồng ba năm có hương vị thơm ngon, nhưng khi thấy vị Sa-môn mặc y phấn tảo, ngươi ã suy nghĩ: “ Khi nào ta sẽ ăn những vật thực i bát sau khi trở thành Sa-môn như vị ấy? Đến khi nào ta mới sống bằng những vật thực i bát như vậy? Và không phải rằng ngươi ã từ bỏ thế gian và trở thành Sa-môn do những ý nghĩ như vậy sao? Bây giờ ước mơ của ngươi ã thành hiện thực, tại sao lại muốn ổi ý?” Rồi Ngài ộ thực một cách bình thường, không chút cảm giác khó chịu.

Ba vị quan do vua Bimbisāra phái i iều tra, họ i ến Bồ tát và dò hỏi mọi iều liên quan ến Ngài. Rồi hai vị quan ở lại, còn vị thứ ba thì trở về tâu với vua rằng: “ Tâu bệ hạ, vị Sa-môn ấy sau khi i khất thực thì ang ngồi một cách an lạc ở lối vào hang ộng, mặt hướng về phía ông, tại ỉnh núi Paṇḍava, hoàn toàn không chút sợ hãi như sư tử vương, hay hổ vương hoặc ngưu vương. Vị ấy ộ thực một cách bình thường với vật thực ã kiếm ược.” Nhân ó, vua Bimbisāra vội vã lên ường trên chiếc long xa thù thắng và ến chỗ của Bồ tát trên núi Paṇḍava. Khi ến oạn ường mà xe không thể i ược, vị ấy xuống xe và i bộ. Khi ến gần Bồ tát, ức vua ngồi trên một phiến á lạnh, và ầy hoan hỉ trước oai nghi, diện mạo của Bồ tát, ức vua chuyện trò một cách vui vẻ: “ Này hiền hữu, hiền hữu còn trẻ và tao nhã như thế, lại có thân sắc và tướng hảo xinh ẹp. Trẫm nghĩ rằng hiền giả thuộc dòng dõi cao quý, úng hơn là thuộc giai cấp trị vì thuần tuý. Trẫm muốn trao tặng nhiều của cải và khoái lạc của ời sống ế vương ến hiền giả, tùy thích thọ hưởng trong hai vương quốc dưới quyền cai trị của trẫm, ó là Aṅga và Magadha. Hãy làm hoàng ế và trị vì thiên hạ! Xin nói cho trẫm biết về dòng tộc của hiền giả.” Như vậy ức vua ã hỏi về Bồ tát và dâng hiến vương quyền ến Ngài.

Bồ tát suy nghĩ: “ Nếu ta ã có ước muốn làm vua thì vua của chư thiên như Tứ ại thiên vương và những vị thiên vương khác ắt cũng ã tình nguyện dâng hiến ến ta những iều may mắn vương giả của họ. Hoặc nếu ta tiếp tục sống cuộc ời ế vương trong hoàng cung của ta, thì chắc chắn ta sẽ thành vị Chuyển luân vương. Do không biết iều này, vua Bimbisāra ã ưa ra những lời thỉnh cầu ến ta bằng cách nói những lời như vậy. Ta sẽ nói cho vị ấy biết về ời sống ế vương của ta.” Khi nghĩ vậy, Ngài duỗi cánh tay phải và chỉ về hướng mà từ ó Ngài ã ến và rồi nói lên bài kệ sau ây:

      Ujuṃ janapado kaja, Himavantassa passato                   dhanavīriyena sampanno Kosalesu niketino.

 “ Hỡi ại vương cao quý, ngài là bậc em lại an lạc cho muôn dân bằng pháp từ ái (mettā), trị vì chúng dân bằng bốn nhiếp sự (sangaha-vatthu)! Tại xứ sở của dân tộc Kosala gần ngọn núi Hy-mãlạp-sơn, từ ây i thẳng về hướng bắc, có một xứ sở tên gọi là Kapilavatthu, nơi có dồi dào ngũ cốc, ồ ăn và thức uống và lừng danh như thành phố chư thiên Amaravati – là miền ất thuộc về phụ vương Suddhodana của ta, là ngọn uốc tối thắng của dòng dõi mặt trời mà từ lâu là dòng dõi tổ tiên cao quí từ khi thế giới bắt ầu. Đó là nơi có bảy loại vật báu và những con người dũng cảm số lượng lên ến tám mươi hai ngàn, họ có khả năng hái lấy ngôi sao ở cuối bầu trời bằng tài năng thiện xảo của họ.”

     Ādiccā nāma gottena, Sākiyā nāma jātiyā                 tamhā kulā pabbajito’mhi kāme abhipatthayaṁ

“ Hỡi ại vương cao quý, ngài ược công nhận là một vị thiên tử! Vì tôi không phải là người xa lạ mà có quan hệ với thần mặt trời. Thị tộc của tôi là Ādicca, và dòng dõi ế vương Sākiya, tôi ã từ bỏ thế gian với chí nguyện thành Phật, chẳng mong mỏi quả vị nào liên quan ến ngũ dục cả.”

  Kāmesvādīnavaṃ disvā Nekkhammaṃ daṭṭhu khemato               padhānāya gamissāmi ettha me rañjati mano

“ Hỡi ại vương cao quý, bậc ược tôn xưng là thiên tử! Với tri kiến, tôi thấy các vật dục em lại nhiều au khổ mà ít khoái lạc, tôi cũng thấy sự từ bỏ các vật dục và các phiền não dục là nơi trú ẩn an toàn tránh khỏi mọi iều nguy hiểm. Sau khi ã trông thấy như vậy, tôi ã trở thành Sa-môn  với mục tiêu là ạo quả Phật. Tôi sẽ tiếp tục phấn ấu ể thành ạt Niết bàn, là thực tại cùng tột ược thành tựu qua con ường xuất gia và cũng là pháp an lạc thù thắng nhất. Tâm của tôi luôn luôn tầm cầu trạng thái Niết bàn, vượt trội mọi trạng thái an lạc khác.”

Với ba câu kệ này, Bồ tát ã trả lời ức vua Bimbisāra rằng Ngài xuất thân từ dòng dõi Sākiya và ã sống cuộc ời Sa-môn , rằng Ngài chẳng ham muốn chút nào về năm loại dục lạc, và sau khi trở thành Sa-môn với mục tiêu thành ạt Niết bàn, Ngài sẽ an cư trong rừng sâu ể thực hành pháp khổ hạnh ngõ hầu chứng ắc chính trạng thái Niết bàn một cách nhanh chóng. Khi nghe nói vậy, vua Bimbisāra áp lại: “ Thưa tôn giả, trẫm ã từng nghe rằng ‘ Thái tử Siddhattha, con trai của vua Suddhodana, sau khi tận mắt trông thấy bốn iềm tướng và từ bỏ thế gian ể trở thành Sa-môn, sẽ chứng ắc Chánh ẳng giác, trở thành một bậc tối thượng trong ba cõi.’ Sau khi bản thân biết ược chí nguyện cao cả của tôn giả là chứng ngộ Niết bàn, trẫm tin chắc rằng Ngài sẽ thành Phật. Thưa tôn giả, hãy cho phép trẫm ược thỉnh cầu ến Ngài. Khi Ngài ã chứng ắc Phật quả rồi, xin hãy viếng thăm vương quốc trẫm trước nhất!” Sau khi nói lên lời thỉnh cầu trân trọng như vậy, vua Bimbisāra bèn trở về kinh ô của vị ấy.

                                   KẾT THÚC CHƯƠNG 4

 

                        SỰ CẮT TÓC VÀ TRỞ THÀNH SA-MÔN

]œ

 

 

 

 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications