Theo các bản sớ giải của bộ Phật Sử và kinh Bổn Sanh, sau khi vượt thành xuất gia, thái tử Sĩ-đạt-đa nghĩ rằng bộ y phục sang trọng may bằng lụa xứ Ba-la-nại mà mình đang mặc chẳng hợp với những ai đang vân du khắp nơi để tầm cầu chân lý và vì thế thái tử đã đổi nó để nhận một bộ y phục nhạt màu từ một người thợ săn vốn là hoá thân của một Phạm thiên. Bộ y phục này được xem là khởi đầu cho truyền thống mặc y phấn tảo (pāṃśukūla) hay y bá nạp (loại y được may từ những mảnh vải rách lượm từ đống rác hay nghĩa địa được giặt sạch) trong Tăng đoàn. Đại trí độ luận giải thích rằng, trong xã hội Ấn thời xưa hàng bạch y vì tham cầu dục lạc nên thích mặc nhiều y phục, lại có những nhà ngoại đạo tu khổ hạnh nên sống lõa thể, hàng đệ tử của đức Phật theo gương của Ngài xa lánh hai cực đoan này, sống đời thiểu dục, tri túc, mặc y phục đủ để che thân. Đối với đức Phật và hàng đệ tử xuất gia của Ngài, ngoài ý nghĩa liên hệ đến các yếu tố xã hội, việc thọ trì y phục còn là việc noi theo truyền thống của chư Phật trong nhiều đời.