Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tỳ kheo ni BHADDÀ KÀPILÀNÌ (MỸ HẠNH) – người vợ đầy đủ thiện căn trước khi xuất gia của ngài Đại Ca Diếp
Tỳ kheo ni BHADDÀ KÀPILÀNÌ (MỸ HẠNH) – người vợ đầy đủ thiện căn trước khi xuất gia của ngài Đại Ca Diếp
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:34

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2023-02-25 06:15:47
Chỉnh sửa gần nhất : 11/19/2025 13:48:03
Tỳ kheo ni BHADDÀ KÀPILÀNÌ (MỸ HẠNH) – người vợ đầy đủ thiện căn trước khi xuất gia của ngài Đại Ca Diếp

Nội dung được Tâm Học tham khảo link bên dưới , tuy nhiên do bài viết nói về tỳ kheo ni BHADDÀ KÀPILÀNÌ (MỸ HẠNH) – mà tích của bà lại liên quan đến ngài Đại Ca Diếp. Bạn có thể tìm thấy trong các phim hoạt hình thời Phật tại thế trên Youtube .BHADDÀ KÀPILÀNÌ (MỸ HẠNH) là người vợ trước khi xuất gia của ngài Đại Ca Diếp , cả 2 đều có tấm lòng nhân từ , và không bị dục nhiễm ngay từ khi trước khi xuất gia. Ngài Đại CA Diếp có dặn là sau khi tìm được đạo sư sẽ về bày lại cho người vợ cũ… ( cái này Tâm Học nhớ mang mang thế). Việc tiêu đề đặt như trên chủ yếu để người đọc có thể nhớ hơn về vị tỳ kheo ni này

  • Bhaddā Kapilānī Therī

  • The daughter of a Kosiyagotta Brahmin of Sāgala, in the Madda country.

    Ap.ii.583 (vs. 57) says that her mother was Sucīmatī and her father Kapila, whence, probably, her title of Kāpilānī. When the messengers sent by the parents of Pipphali-mānava (Mahā Kassapa) were wandering about seeking for a wife for him to resemble the image they carried with them, they discovered Bhaddā and informed Pipphali's parents. The parents arranged the marriage without the knowledge of the young people and Bhaddā went to Pipphali's house. There they lived together, but, by mutual consent, the marriage was never consummated. It was said that, she brought with her, on the day of her marriage, fifty thousand cartloads of wealth. When Pipphali desired to leave the world, making over to her his wealth, she wished to renounce it likewise, and together they left the house in the guise of recluses, their hair shorn, unobserved by any. In the village, however, they were recognized by their gait, and the people fell down at their feet. They granted freedom to all their slaves, and set forth, Pipphali leading and Bhaddā following close behind. On coming to a fork in the road, they agreed that he should take the right and she the left. In due course she came to the Titthiyārāma (near Jetavana), where she dwelt for five years, women not having yet been admitted to the Buddha's Order. Later, when Pajāpatī Gotamī had obtained the necessary leave, Bhaddā joined her and received ordination, attaining arahantship not long after. Later in the assembly, the Buddha declared her foremost of nuns who could recall former lives.

    In the time of Padumuttara Buddha she was the wife of Videha, a setthi of Hamsavatī, and having heard a nun proclaimed in the first rank of those who could recall former lives, she resolved to acquire a similar rank, while her husband (Mahā Kassapa in this life) resolved to be chief among those who practise austere vows (dhutavādinam). Together they did many good deeds and were reborn in heaven.

    In the time of Vipassī Buddha, the husband was the brahmin Ekasātaka and she was his wife. In his next birth he was king of Benares and she his chief queen. Together they entertained eight Pacceka Buddhas on a very lavish scale. In the interval between the appearance in the world of Konāgamana and Kassapa Buddha, the husband was a clansman and she his wife. One day a quarrel arose between her and her sister-in law. The latter gave alms to a Pacceka Buddha and Bhaddā, thinking "She will win glory for this," took the bowl from her hand and filled it with mud. But later she was filled with remorse, took back the bowl, emptied it, scrubbed it with scented powder and, having filled it with the four sweet foods, sprinkled over the top ghee of the colour of a lotus calyx. Handing it back to the Pacceka Buddha, she prayed to herself "May I have a shining body like this offering."

    In a later birth, Bhaddā was born as the daughter of a wealthy treasurer of Benares; she was given in marriage, but her body was of such evil odour that she was repulsive to all and was abandoned by several husbands. Much troubled, she had her ornaments made into an ingot of gold and placed it on the shrine of Kassapa Buddha, which was in process of being built, and did reverence to it with her hands full of lotuses. Her body immediately became fragrant and sweet, and she was married again to her first husband. The Apadāna account mentions two other lives: one when she was the wife of Sumitta and gave a blanket to a Pacceka Buddha, and again when she was born among the Koliyans and attended on one hundred Pacceka Buddhas of Koliya.

    Later, she was the queen of Nanda, king of Benares (Brahmadatta, according to the Apadāna, which gives King Nanda as the name of her husband in another life), with whom she ministered to five hundred Pacceka Buddhas, sons of Padumavatī. When they passed away she was greatly troubled and left the world to give herself up to ascetic practices. She dwelt in a grove, developed jhāna, and was reborn in the Brahma world. (ThigA.67ff.; Ap.ii.578ff.; AA.ii.93ff., 203f.; A.i.25; Thig.vs.63-6).

    Bhaddā Kāpilānī's name is mentioned several times (e.g., Vin.iv.227, 268, 269, etc.) in the Vinaya rules in connection with her pupils who were found guilty of transgressing them. She and Thullanandā were both famous as preachers, and the latter, being jealous of Bhaddā, went out of her way to insult her (Vin.iv.290). Once Bhaddā sent word to Sāketa asking Thullanandā if she could find her a lodging in Sāvatthi. Nandā agreed to do this, but made things very unpleasant for Bhaddā when she arrived. (Vin.iv.292)

    Bhaddā Kāpilānī is identified with the brahmin woman in the Hatthipāla Jātaka (J.iv.491) and with Sāma's mother in the Sāma Jātaka (J.vi.95).


     

  • 'Bhaddā Kapilānī Therī

Con gái của một người Bà la môn Kosiyagotta ở Sāgala , vùng Madda .

Ap.ii.583 (câu 57) nói rằng mẹ bà là Sucīmatī và cha bà là Kapila , do đó, có lẽ, danh hiệu của bà là Kāpilānī. Khi các sứ giả do cha mẹ của Pipphali-mānava ( Mahā Kassapa ) sai đi khắp nơi để tìm một người vợ cho ông để giống với hình ảnh mà họ mang theo, họ đã phát hiện ra Bhaddā và thông báo cho cha mẹ của Pipphali. Cha mẹ đã sắp xếp cuộc hôn nhân mà không cho những người trẻ tuổi biết và Bhaddā đã đến nhà của Pipphali. Họ sống ở đó, nhưng, theo sự đồng ý của cả hai, cuộc hôn nhân đã không bao giờ được hoàn thành. Người ta nói rằng, vào ngày cưới, bà đã mang theo năm mươi nghìn xe ngựa đầy của cải. Khi Pipphali muốn rời khỏi thế gian, trao lại cho bà toàn bộ của cải của mình, bà cũng muốn từ bỏ nó, và cùng nhau họ rời khỏi nhà dưới hình dạng của những ẩn sĩ, tóc cạo trọc, không ai nhìn thấy. Tuy nhiên, trong làng, họ đã bị nhận ra bởi dáng đi của họ, và mọi người đã quỳ xuống dưới chân họ. Họ trả tự do cho tất cả nô lệ của họ, và lên đường, Pipphali dẫn đầu và Bhaddā theo sát phía sau. Khi đến một ngã ba đường, họ đồng ý rằng anh ta sẽ rẽ phải và cô ấy sẽ rẽ trái. Sau đó, cô ấy đến Titthiyārāma (gần Jetavana ), nơi cô ấy cư trú trong năm năm, phụ nữ vẫn chưa được nhận vào Tăng đoàn của Đức Phật. Sau đó, khi Pajāpatī Gotamī đã xin được sự cho phép cần thiết, Bhaddā đã theo cô ấy và thọ giới, đạt được quả vị A-la-hán không lâu sau đó. Sau đó, trong hội chúng, Đức Phật tuyên bố cô ấy là nữ tu sĩ số một có thể nhớ lại tiền kiếp.

Vào thời Đức Phật Padumuttara, bà là vợ của Videha, một nữ tu sĩ ở Hamsavatī, và sau khi nghe một nữ tu sĩ được tuyên bố là bậc nhất trong số những người có thể nhớ lại tiền kiếp, bà quyết tâm đạt được một bậc tương tự, trong khi chồng bà (Mahā Kassapa trong kiếp này) quyết tâm trở thành người đứng đầu trong số những người thực hành giới hạnh khổ hạnh (dhutavādinam). Họ cùng nhau làm nhiều việc thiện và được tái sinh lên cõi trời.

Vào thời Đức Phật Tỳ-kheo , người chồng là Bà-la-môn Ekasātaka và bà là vợ của ông. Trong kiếp sau, ông là vua xứ Benares và bà là hoàng hậu. Họ cùng nhau chiêu đãi tám vị Phật Độc Giác một cách vô cùng xa hoa. Trong khoảng thời gian giữa khi Đức Phật Konāgamana xuất hiện trên thế gian và Đức Phật Kassapa , người chồng là một người trong bộ tộc và bà là vợ của ông. Một hôm, một cuộc cãi vã nổ ra giữa bà và chị dâu. Chị dâu đã cúng dường cho một vị Phật Độc Giác và Bhaddā, nghĩ rằng "Nàng sẽ được vinh quang vì điều này", nên đã lấy bát từ tay bà và đổ đầy bùn vào. Nhưng sau đó, bà tràn đầy hối hận, lấy lại bát, đổ hết ra, cọ rửa bằng bột thơm và đổ đầy bốn loại thực phẩm ngọt vào, rắc lên trên một lớp bơ ghee màu như đài hoa sen. Trả lại bát cho Đức Phật Độc Giác, bà tự cầu nguyện: "Nguyện cho ta có được thân thể sáng ngời như vật cúng dường này."

Trong một kiếp sau, Bhaddā được sinh ra là con gái của một vị thủ quỹ giàu có ở Benares; bà được gả đi, nhưng cơ thể bà có mùi hôi thối đến mức khiến tất cả mọi người đều ghê tởm và bị nhiều người chồng bỏ rơi. Quá đau khổ, bà đã cho đúc đồ trang sức của mình thành một thỏi vàng và đặt nó lên bàn thờ Đức Phật Kassapa, đang trong quá trình xây dựng, và đã đảnh lễ với đôi tay đầy hoa sen. Cơ thể của bà ngay lập tức trở nên thơm tho và ngọt ngào, và bà đã tái hôn với người chồng đầu tiên của mình. Bản tường thuật Apadāna đề cập đến hai kiếp khác: một khi bà là vợ của Sumitta và tặng một chiếc chăn cho một vị Phật Pacceka, và một lần nữa khi bà được sinh ra giữa những người Koliya và phục vụ một trăm vị Phật Pacceka của Koliya.

Về sau, bà trở thành hoàng hậu của Nanda , vua xứ Benares (Brahmadatta, theo Apadāna, ghi lại tên chồng bà trong kiếp trước là vua Nanda), cùng với người mà bà đã phụng sự năm trăm vị Phật Độc Giác, con trai của Padumavatī . Khi các vị qua đời, bà vô cùng đau khổ và từ bỏ thế gian để tu khổ hạnh. Bà sống trong một khu rừng, đắc thiền và được tái sinh vào cõi Phạm Thiên. (ThigA.67ff.; Ap.ii.578ff.; AA.ii.93ff., 203f.; Ai25; Thig.vs.63-6).

Tên của Bhaddā Kāpilānī được nhắc đến nhiều lần (ví dụ, Vin.iv.227, 268, 269, v.v.) trong Luật tạng liên quan đến các đệ tử của bà, những người bị kết tội vi phạm. Bà và Thullanandā đều nổi tiếng là những nhà thuyết pháp, và Thullanandā, vì ghen tị với Bhaddā, đã tìm cách sỉ nhục bà (Vin.iv.290). Có lần Bhaddā nhắn tin cho Sāketa hỏi Thullanandā xem bà có thể tìm cho Thullanandā một chỗ trọ ở Sāvatthi không . Nandā đồng ý, nhưng lại làm cho Bhaddā rất khó chịu khi bà đến (Vin.iv.292).

Bhaddā Kāpilānī được đồng nhất với người phụ nữ Bà la môn trong Hatthipāla Jātaka (J.iv.491) và với mẹ của Sāma trong Sāma Jātaka (J.vi.95).

 

 

Về nguồn gốc gia tộc thì Ðại Ca Diếp, cũng như hai thượng tông đồ Xá Lợi Phất (Sàrìputta) và Mục Kiền Liên (Moggallàna) của đức Phật. Ông xuất thân từ giai cấp Bà-la-môn (Brahamin). Và cũng tương tự như Thánh Tăng kia, Ðại Ca Diếp đã lớn tuổi hơn đức Phật. Ông sinh ra trong xứ Ma Kiệt Ðà (Magadha), tại một làng gọi là Mahàtittha (tạm dịch là làng Giao Lưu, nghĩa là nơi đó là ngã tư của các trục giao thông, dân chúng tứ phương có thể qua lại thường xuyên bằng đường bộ lần đường thủy!).

Ông là con của đại bá hộ Bà-la-môn tên Kapila, và thân mẫu là bà Sumanadevì (Căn cứ theo chú giải trong kinh Samyutta Nikàya: Tạp A Hàm). Khi sinh ra, ông được đặt tên là Pipphali (tạm dịch là Thường Tịnh) vì tính khí luôn luôn yên tĩnh ngay từ lúc lọt lòng mẹ của ông. Và thân phụ ông có thể xem như một vị tiểu vương, vì làm chủ một lãnh thổ bao trùm đến mười sáu ngôi làng. Công tử Pipphali (Thường Tịnh), dĩ nhiên đã được nuôi dưỡng trong một khung cảnh giàu sang phú quý.

Nhưng ngay từ nhỏ, người ta đã nhận thấy ở công tử Pipphali nầy những nét siêu phàm thoát tục. Ông biểu lộ hẳn ý muốn sống một cuộc đời thanh tịnh xuất gia, nên đến tuổi trưởng thành, ông đã không màng cưới vợ.

Khi song thân Pipphali Kassapa thúc giục cậu con trai lập gia đình, cậu bèn thưa với cha mẹ rằng:

“Con chỉ muốn sống độc thân phụng dưỡng cha mẹ cho đến mãn phần, rồi sau đó sẽ xuất gia làm đạo sĩ! “

Nhưng song thân của Pipphali cứ năn nỉ con lấy vợ hoài! Vì thương cha mẹ ông buộc lòng phải nhận lời. Rồi để kéo dài thời gian, Pipphali liền nêu điều kiện là chàng chỉ cưới làm vợ, cô gái nào thật hoàn toàn, có đủ những tiêu chuẩn mà chàng cố ý nghiêm khắc đặt ra. Và để thực tế hóa những tiêu chuẩn ấy, Pipphali đã thuê thợ điêu khắc tạc ra một tượng thiếu nữ bằng vàng ròng tuyệt đẹp. Chàng trang sức cho tượng vàng ấy bằng những y phục lộng lẫy và đồ nữ trang quý giá nhất. Ðoạn chàng đem tượng vàng trình diện trước cha mẹ mà nói rằng:

“Nếu song thân có thể tìm cho con một người bạn gái như thế nầy, thì con sẽ cưới nàng làm vợ, và dẹp bỏ ý nguyện xuất gia!”

Nghe thế, song thân Pipphali liền tìm đến tám hương chức Bà-la-môn, nổi tiếng mai mối và biết hết mọi dân cư trong vùng, để đặt những món tiền thưởng quan trọng, rồi yêu cầu họ vẽ lại hình ảnh của tượng “nữ kim hoàn” kia, hầu tỏa ra tìm kiếm từ làng nầy qua làng khác, một thiếu nữ đẹp như kim thân ấy!

Tám người Bà-la-môn liền nghĩ rằng:

“Chúng ta trước tiên, thử đến vùng Madda (tức là vùng “nhồi đất” hay vùng “thợ đúc”, vì nơi đó có mỏ vàng, có nhiều tiệm kim hoàn, thì may chăng chúng ta sẽ tìm ra một cô gái xinh đẹp như thế. Bởi lẽ nơi nào chưng bán lắm đồ nữ trang nơi đó có nhiều mỹ nhân lui tới!”

Và đúng như điều họ dự đoán, tám ông Bà-la-môn đã tìm thấy tại làng Sàgala, một cô gái mà nét đẹp chẳng kém gì hình ảnh tượng vàng kia. Người con gái ấy tên là Bhaddhà Kàpilànì, quý nữ của một gia đình Bà-la-môn giàu có. Nàng vừa tròn mười sáu tuổi xuân, tức là nhỏ hơn Pipphali Kassapa bốn tuổi! Một cái tuổi cập kê đẹp đẽ nhất đời người con gái.

Tên nàng Bhaddà Kàpilànì có thể tạm dịch là Mỹ Hạnh! (Vì Bhaddà có nghĩa là may mắn, hữu hạnh, còn chữ Kàpilànì ám chỉ một màu sắc thâm trầm giống như màu thẩm chu!)

Cha mẹ Bhaddà Kàpilànì (Mỹ Hạnh) sau khi nghe lời “làm mai” của tám ông Bà-la-môn kia, liền nhận lời. Và tám ông mai lập tức quay về trình với song thân Pipphali Kassapa, sự thành công đã tìm ra người đẹp của họ.

Nhưng một điều trùng hợp lạ lùng, là nàng Bhaddà Kàpilànì (Mỹ Hạnh) cũng không muốn lấy chồng. Nàng chỉ ước ao được xuất gia, sống đời sống phạm hạnh của một nữ đạo sĩ.

Bản chất và hạnh nguyện hướng thượng giống nhau của cả nàng Bhaddà Kàpilànì và của chàng Pipphali Kassapa hiển nhiên chính là một biểu lộ thiện căn đã phát triển trong nhiều kiếp trước. Họ đã từng kết bạn, hành đạo chung với nhau, trong những hoàn cảnh cộng nghiệp. Nên kiếp nầy quả lành đã chín muồi, đưa đẩy họ cùng có những quyết định tương tự trong lúc tuổi thanh niên, cũng như về già sau này, trên con đường mỗi người phát nguyện đi một hướng, để tìm phương pháp giải thoát!

Riêng Pipphali Kassapa (Thường Tịnh Ca Diếp) từ ngày tạc tượng nữ nhân bằng vàng, rồi yêu cầu cha mẹ hãy đi tìm một nàng dâu như thế, thì chàng cứ yên trí trên đời này làm gì có một người xinh đẹp cỡ ấy. Nhưng khi chàng nghe các ông mai Bà-la-môn xác nhận đã tìm ra một mỹ nữ siêu hạng, thì ngạc nhiên vô cùng. Pipphali lập tức gởi cho nàng một bức thơ, vắn tắt nói rằng:

“Này Bhaddà (Mỹ Hạnh)! Xin nàng hãy lấy một người khác làm chồng, để xứng đáng với các sắc đẹp và tư cách của nàng, hầu tạo nên một mái gia đình đầy đủ hạnh phúc! Còn tôi, tôi không muốn cưới vợ. Tôi chỉ mong ước đi tu, tìm lối giải thoát! Mong nàng đừng phiền trách!”

Về phía Bhaddà (Mỹ Hạnh)! Cũng vậy. Tuy không hẹn mà nàng cũng gởi cho Pipphali một bức thư đại khái như sau:

“Này Pipphali! Em mong chàng sẽ tìm ra một người con gái xứng đáng khác, có bản chất yêu thích bổn phận làm vợ, làm mẹ trong gia đình, để kết bạn trăm năm. Phần em, em vốn muốn xuất gia đi tu đã từ lâu, chỉ chờ dịp thực hiện. Mong chàng thông cảm!”.

Nhưng đáng tiếc thay, cả hai thư cao quý vừa kể đã chẳng có lá nào đến tay người đáng nhận cả. Nguyên nhân là do sự “can thiệp” của cha mẹ đôi bên. Họ đã khéo léo sắp đặt cho gia nhân chận trước hai bức thư thanh bạch ấy, rồi thay vào đó bằng hai lá thư khác, đầy tình tứ, thề non hẹn biển, nhất định lấy nhau, cho dù có bị chia rẽ kẻ chân trời người góc bể, cũng không hề từ bỏ…!

Kết quả, ngày cưới đã đến, nàng Bhaddà (Mỹ Hạnh) được cha mẹ “đưa dâu” về nhà chồng (theo phong tục Ấn Ðộ) ở xứ Ma Kiệt Ðà (Magadha), và hôn lễ vẫn được cử hành như ước định.

Tuy nhiên, sau lễ cưới, do hạnh nguyện của đôi vợ chồng son, khi nói chuyện với nhau mới biết được sự thật về các bức thư “sắp đặt” kia.

Cả hai càng quý mến người bạn đời, và cùng ước hẹn sẽ giữ nết hạnh thanh tịnh: Tuy gần chăn gối nhưng không hợp thân như vợ chồng. Mỗi buổi tối, truớc khi lên nằm ngủ, hai người đều để lên giữa giường, một tràng hoa, rồi mỗi người an giấc một bên. Ấy là sự tinh tấn nhắc nhở nhau gìn giữ phạm hạnh!

Thời gian lặng lẽ trôi qua, đôi “vợ chồng” Trưởng giả Pipphali và Bhaddà (Thường Tịnh và Mỹ Hạnh) đã sống những ngày tháng cao thượng. Cả hai đã không màn đến chuyện tìm hiểu xem tài sản mà cha mẹ đôi bên sẽ để lại cho mình là những thứ gì!

Nhưng khi song thân cả hai bên đã qua đời, ông bà tân bá hộ Pipphali và Bhaddà bắt buộc phải thay thế cha mẹ làm chủ ruộng đất…

Ngày kia, khi đang kiểm kê những thửa ruộng của mình, Pipphali Kassapa bất chợt, với một nhãn quang thanh tịnh, “nhìn thấy” những hình ảnh khổ đau của nhiều chúng sinh trong quá khứ! Ông chứng kiến trước mắt một gia nhân đang cày ruộng. Những giun dế, sâu bọ, trong lòng đất bị hất lên trên quằn quại, làm mồi cho từng đàn chim từ không trung đáp xuống sát hại…!

Hình ảnh nầy, tuy đối với một nông dân rất thông thường, chẳng có gì đáng chú ý hết, nhưng đối với Pipphali Kassapa, đó là một hiện tượng gợi lên bao nhiêu niềm đau khổ! Ông suy nghĩ: “Sự sung túc của ta phải chăng là kết quả của những hành động vô tình hay gián tiếp sát hại sinh linh nầy? Tài sản ấy, phải chăng đang gắn liền với sự đau khổ của nhiều loại côn trùng, thấp sinh, ẩn thân trong lòng đất? Những gì ta hưởng thụ hằng ngày phải chăng là nguyên nhân thí bỏ bao nhiêu sinh mạng thấp kém bất hạnh kia?”.

Suy nghĩ như thế Pipphali liền quay qua hỏi một người cày ruộng:

“Nầy bạn nông dân! Bạn có thấy chim chóc sát hại những sâu bọ, côn trùng giữa các luống cày nầy không? Nếu thấy thì yêu cầu bạn hãy cho ta biết ai là kẻ chịu trách nhiệm trước các sự sát hại đó!”

“Thưa ông bá hộ! Chính ông là người phải nhận trách nhiệm ấy, vì lưỡi cày nầy chỉ xới đất dưới thẩm quyền của ông!”

Nghe câu trả lời của người nông phu, ông bá hộ Pipphali Kassapa vô cùng kinh động. Tâm tư ông liền nghĩ đến mối liên quan cộng nghiệp giữa một chúng sanh nầy với một chúng sanh khác. Ông tỏ ra buồn bã, bỏ quay về nhà. Vừa đi ông vừa để một mối ưu tư quay cuồng trong óc. Ông tự nhủ: “Nếu nguyên nhân tội ác sát hại những sinh vật kia quy về ta thì tài sản, ruộng vườn, ấy đối với ta vô nghĩa quá. Nó chẳng những đã không giúp ta phát triển được thiện hạnh, mà còn kéo ta vướng vào trong những cộng nghiệp trầm luân. Tốt hơn, kể từ hôm nay ta sẽ tặng hết ruộng nương đất đai, của cải cho nàng Bhaddà. Dẫu sao nàng cũng là vợ chính thức của ta, để ta sớm tìm đường thoát ly cảnh tội ác, sống đời sống thanh tịnh của một đạo sĩ!”

Một sự trùng hợp là ngay lúc ấy tại nhà, vợ ông bá hộ, nàng Bhaddà cũng có những ưu tư như thế. Nàng đứng nhìn một khoảng sân lát gạch để phơi ngũ cốc. Những cây mè và những hạt mè tươi được gia nhân trải ra nền gạch nóng.

Rồi những con quạ, những chim sâu, những cánh diều, những con ó, từ không trung đáp xuống, nuốt trửng các sâu mè vô tội, vì không chịu nổi sức nóng, đã từ trong các trái mè chui ra, tìm lối thoát thân. Ðối với Bhaddà (Mỹ Hạnh), hình ảnh ấy gợi lại cho nàng một sự kinh sợ về nghiệp ác trong cuộc sống chung trên thế gian này. Nàng vội hỏi vài gia nhân phải chăng nàng cũng có trách nhiệm trong việc phơi khô những cây mè mà họ đang làm kia!? Các gia nhân liền thành thật trả lời:

“Thưa bà bá hộ! Nếu không có lệnh của bà thì những cây mè nầy vẫn còn nằm ngoài vườn và những sâu bọ kia vẫn ở yên trong tổ của chúng!”

Nàng Bhaddà lập tức suy nghĩ: “Chỉ một việc gặt hái những hạt mè thôi, mà ta đã vô ý phạm đến chừng ấy tội, thì trong đời sống hằng ngày của một bà bá hộ, quản thủ bao nhiêu ruộng đất, thu hoạch bao nhiêu hoa mầu, ta sẽ vướng vào nghiệp ác biết là chừng nào! Những nghiệp ác ấy chắc chắn sẽ không bao giờ để cho ta, dù trải qua muôn ngàn kiếp, có thể vượt lên khỏi biển khổ trầm luân được! Vậy khi Pipphali về nhà, ta sẽ giao lại hết mọi quyền làm chủ tài sản cho chàng rồi ta sẽ đi tu…!”

(Lời bàn của dịch giả: Theo kinh điển chánh thống của Phật giáo, nhất là theo tạng Luật (Vinaya) và tạng Luận (Abhidhamma) thì một nghiệp ác (Akusala kamma) chỉ phát sinh khi có đủ hai yếu tố: tác ý (Cetasika) và hành động (Karana) đi đôi! Như vậy, ông bà bá hộ Pipphali và Bhaddà nói trên, đã không phạm tội sát sinh, vì cả hai người đều không có tác ý giết hại các côn trùng, sâu bọ, cũng như hai người không đích thân làm việc ác ấy! Câu trả lời của những thợ cày và gia nhân của họ vốn dựa trên sự phê phán phàm tình, chứ không đúng theo tinh thần Phật giáo!)

Khi vợ chồng cặp bá hộ gặp nhau tại nhà, bày tỏ những điều tư duy của mỗi bên cho nhau nghe, thì ý định thoát ly gia đình của người này đã được người kia hoan nghinh khuyến khích. Thế là họ chọn y phục màu vàng nhạt, sắm bình bát, cắt tóc và cạo râu, rồi tự mình sống hạnh xuất gia, buông bỏ sau lưng bao nhiêu gia tài, của cải giao hết cho gia nhân, phân phối đến dân nghèo…!

Và kể từ đó, người ta đã thấy hai hiền nhân khất sĩ công khai phát nguyện: Họ sẽ đi tìm các bậc chân nhân, A-la-hán giải thoát, để học sống cuộc đời trong sạch. Ông bà bá hộ Pipphali và Bhaddà (Thường Tịnh và Mỹ Hạnh) bây giờ là hai đạo sĩ, bình bát sẵn trên vai, chờ dịp thanh vắng, để yên lặng thoát khỏi gia trang, cốt tránh sự phát giác, cản ngăn của các hàng gia nhân thân tín…! Và họ đã yên ổn ra đi…!

Nhưng khi họ đến ngôi làng bên cạnh, cũng thuộc quyền cai quản của nhà bá hộ Pipphali, thì nhiều nông dân và họ hàng thấy họ trong y phục khất sĩ, liền mọp xuống dưới chân khóc lóc, khuyên can thảm thiết …:

“Ông bà bá hộ nhân từ ơi! Sao ông bà nỡ bỏ chúng tôi như những dân lao động mồ côi, không người giúp đỡ!?”

Hỡi quý dân làng! Chúng tôi tình nguyện xuất gia, chỉ vì chúng tôi đã nhận thấy tam giới nầy như một ngôi nhà đang cháy! Nếu chúng ta không sớm thoát ly thì sẽ bị khổ não mà thôi!”

Ðoạn quay sang những nông nô (dân nô lệ nhà nông) đạo sĩ Pipphali Kassapa hiền từ tuyên bố trả tự do cho họ…! Rồi ông cùng nữ đạo sĩ Bhaddà (Mỹ Hạnh) tiếp tục lên đường, để lại đám dân làng sau lưng nhìn họ khóc than cho đến khi khuất mắt.

Trong khi hành trình, Kassapa đi trước và Bhaddà đi sau. Ðạo sĩ Kassapa (Ca Diếp) chợt nghĩ rằng: “Giờ đây, nếu Bhaddà Kàpilànì (Mỹ Hạnh) cứ luôn luôn theo ta, mà nàng có một sắc đẹp phi thường. Người đời sẽ dị nghị rằng: “Ðã trở thành đạo sĩ rồi, sao đôi cựu vợ chồng bá hộ nầy vẫn không thể sống tách rời nhau được. Như thế, chắc chi họ đã là hai đạo sĩ chân chính?”.

Than ôi! Nếu thế nhân đa nghi, ô nhiễm tư tưởng của họ bằng những tin đồn xấu xa như thế, thì ý nghiệp và khẩu nghiệp ác của họ, sẽ nặng nề vô cùng! Vậy ta và Bhaddà không nên vô tình gây ra cho họ sự suy nghĩ tội lỗi! Tốt hơn hết ta và nàng nên tách rời nhau…!

Ðang suy nghĩ thì hai người đến một ngã tư đường, Kassapa liền nói:

“Nầy Bhaddà! Nàng hãy đi về hướng nầy. Còn ta, ta sẽ đi trên hướng khác. Như thế sẽ thích hợp cho cả hai hơn!”

Nữ đạo sĩ Bhaddà (Mỹ Hạnh) trước đó chẳng bao lâu, vốn cũng có cùng ý nghĩ như Pipphali Kassapa nên vui vẻ đáp:

“Nầy đạo huynh Kassapa! Quả đúng như vậy. Sự có mặt của một nữ nhân xinh đẹp bên cạnh một nam đạo sĩ là một điều bất tiện! Người đời có thể nghĩ lầm và bàn lầm về phẩm hạnh tu tập của chúng ta! Vậy yêu cầu người hãy đi con đường của người, còn tiện nữ tiến bước trên con đường của tiện nữ! Chúng ta có thể chia tay từ đây!”

Nói xong, Bhaddà cung kính đi xung quanh đạo sĩ Pipphali Kassapa ba vòng, đoạn theo phong tục cổ Ấn Ðộ, nàng quỳ mọp dưới chân, chắp tay từ giã rằng:

“Ðạo phu thê, ơn đồng hành, nghĩa bằng hữu cao quý của chúng ta đã bền chắc trong vô lượng kiếp qua, hôm nay có lẽ kết tụ bằng ngã đường chia tay giải thoát nầy. Vậy yêu cầu đạo huynh hãy đi vào con đường bên phải, còn tiểu nữ sẽ đi vào con đường bên trái!”

Và cũng kể từ đó, hai đạo sĩ chia tay nhau, mỗi người đi một ngã, mưu tìm Thánh quả tối thượng là diệt tận phiền não, giải thoát sinh tử luân hồi, đạt đạo A-la-hán.

Sử chép: Lúc ấy quả địa cầu đã rung động vì oai lực do đức hạnh vô song của hai bậc đạo sĩ vĩ nhân!

  1. BHADDÀ KÀPILÀNÌ (MỸ HẠNH)

Bây giờ chúng ta hãy theo chân nữ đạo sĩ Mỹ Hạnh (Bhaddà Kàpilànì). Lộ trình tầm đạo đã ngẫu nhiên đưa vị nữ tu nầy đến thành Xá Vệ (Sàvatthì). Ở đó, bà được nghe nhiều bài pháp của đức Phật thuyết tại Kỳ Viên Tịnh Xá (Jetàvanà Vihàra).

Vì lúc ấy đức Phật chưa cho phép thành lập hệ thống ni giới, nên bà phải tạm ẩn cư trong một tu viện của các nữ đạo sĩ không thuộc Phật giáo. Tu viện nầy cách không xa Kỳ Viên Tịnh Xá lắm. Ðạo sĩ Mỹ Hạnh ở đó đến năm năm, cho tới khi Giáo hội Tỳ-khưu-ni Phật giáo ra đời, bà mới được thụ giới Tỳ-khưu-ni. Rồi chẳng bao lâu sau đó, bà lại đắc quả A-la-hán.

Một hôm, nhân để ca ngợi hạnh kiểm của đại Sa-môn Kassapa (Ca Diếp), và đồng thời tiết lộ sự đắc quả giải thoát của mình. Thánh Tỳ-khưu-ni A-la-hán Bhaddà (Mỹ Hạnh) đã ngâm mấy câu kệ rằng:

“Ðệ tử Phật ông là người thừa tự,
Ca Diếp ngày nay tâm tịnh, ý trong.
Thấy rõ tiền thân sinh tử xoay vòng,
Nhân với quả từ muôn đời quá khứ.
**
Chấm dứt tái sinh, Thánh tâm đắc thủ.
Hiểu biết siêu phàm vạn pháp tinh thông.
“Ba tuệ lực ” là “phạm hạnh tam ân”.
Không với có, có không cùng một thư ù!
**
Mỹ Hạnh nhất tâm không ngoài liễu sự,
Giác, Huệ đồng sinh dứt khổ: Niết Bàn.
Thắng Ma Vương chấm dứt cả thời gian,
Ðây kiếp chót, hết trời, người, cầm thú…
**
Tam giới khổ, vui, nhân duyên thấy đủ…
Phiền não tách rời, tâm tính thuần chân!
Thanh tịnh là đây, ơn ích cõi trần…
Trong thanh tịnh đầy tự do Pháp Tụ!

(Nguyễn Ðiều phỏng dịch theo Tôn Túc Nữ Kệ Ngôn số 63-66: Therìgàthà n. 63-66).

Là một Thánh Bất Lai (A-la-hán), Tỳ-khưu-ni Bhaddà (Mỹ Hạnh) hằng ngày đã dồn nỗ lực vào việc dạy dỗ và hướng dẫn những nữ tu sĩ mới nhập môn trong kỷ luật phạm hạnh. Theo những bài phân tích về “Luật Phần Tỳ-khưu-ni” (Bhikkhùni Vibhanga) thì có nhiều trường hợp đã được ghi lại trong kinh điển, liên quan đến các nữ đệ tử của bà, đưa tới việc chế ra một số giới luật. (Theo Bhikkhùni Vibhanga: Luật Phần Tỳ-khưu-ni. Pàcitiya 10-12 – 13: Ưng Ðối Trị 10 -12 – 13 và Sangha-disesa 1: Tăng Tàn giới số 1).

Mặt khác, có hai câu chuyện được thuật lại về việc Thánh ni Bhaddà Kàpilànì (Mỹ Hạnh) đã là nạn nhân của sự ganh tị, bởi một Tỳ-khưu-ni khác, vốn là người có nhiều ác tâm với Sa-môn Ðại Ca Diếp. Ðó là Tỳ-khưu-ni Thullanandà, một giảng sư có trình độ học thức và có tài thuyết pháp. Nhưng đáng tiếc thay, là nhân tâm của nữ giảng sư nầy đã không được nổi bật như trí thông minh và sức học vấn, nên bà đã bị tính ích kỷ chận đứng sự phát triển phạm hạnh. (Nguyên tích chế ra giới cấm trong tạng Luật cũng có nhắc đến tên Tỳ-khưu-ni Thullanandà ấy nhiều lần).

Số là khi Thánh ni Bhaddà (Mỹ Hạnh) trở thành một giảng sư được nhiều người ưa thích, trong đó có cả những đệ tử của Tỳ-khưu-ni Thullanandà. Nữ tu sĩ nầy, vì ganh tị, mà trở thành tức giận. Bà phá rối “đối thủ” bằng cách dẫn một nhóm đệ tử trung tín, đi tới đi lui, tụng kinh lớn tiếng, gây kinh động trước tịnh thất của Thánh ni Bhaddà. Kết quả, Tỳ-khưu-ni ác tâm kia đã bị đức Phật quở trách và chế điều luật có liên quan đến sự làm ồn! (Theo Bhikkhùni Vibhanga, Pàcitiya 33: Tỳ-khưu-ni Luật Phần, Ưng Ðối Trị số 33).

Một lần khác, dù có lời yêu cầu của đồng đạo, Tỳ-khưu-ni Thullanandà đã không xếp đặt chỗ ngụ ổn định cho Thánh ni Bhaddà (Mỹ Hạnh). Kết quả, vị nữ Thánh nhân khả kính ấy đã lâm vào tình trạng chẳng có chỗ ở. (Theo Bhikkhùni Vibhanga n. 35)

Tuy nhiên, Thánh ni Bhaddà, vì đã đắc quả A-la-hán, nên những sự ngược đãi của bất kỳ ai cũng không làm cho bà buồn giận. Trái lại, Thánh ni còn biểu lộ một lòng từ bi, và tử tế vô bờ bến đối với nữ giảng sư Thullanandà. Thánh ni luôn luôn khen ngợi trình độ học vấn của vị Tỳ-khưu-ni thích giảng đạo nầy, một cách đầy khuyến khích và thành thật!

Chính đức Phật cũng đã nhiều lần xác nhận Thánh ni là bậc đã đạt được Túc Mạng Thông (nhớ được tất cả các kiếp trước). – Theo Anguttara Nikàya: Tăng Chi A Hàm! – Các bài chú giải chữ Phạn (Pàlì) về Túc Sinh Truyện (Jàtakas) cũng ghi lại cho đời sau nhiều thuật sự về tiền kiếp của Thánh ni Mỹ Hạnh (Bhaddà). Hầu hết trong các kiếp quá khứ ấy, bà đều có cộng nghiệp phu thê với tiền thân Thánh Ðại Ca Diếp.

-ooOoo-

.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm


Bhaddākāpilānī

27. Bhaddākāpilāni-apadānaṃ
27. Ký Sự về Bhaddākāpilānī:


882. Padumuttaro nāma jino sabbadhammesu pāragū,
ito satasahassamhi kappe uppajji nāyako.

Trước đây một trăm ngàn kiếp, vị Lãnh Đạo, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, bậc thông suốt về tất cả các pháp đã hiện khởi.



883. Tadāhu haṃsavatiyaṃ videho nāma nāmato,
seṭṭhi pahūtaratano tassa jāyā ahos’ ahaṃ.

Khi ấy, ở tại Haṃsavatī có người triệu phú tên là Videha có rất nhiều châu báu. Tôi đã là vợ của người ấy.



884. Kadāci so narādiccaṃ upecca saparijjano,
dhammamassosi buddhassa sabbadukkhakkhayāvahaṃ.

Có lần nọ, người ấy cùng nhóm tùy tùng đã đi đến đấng Mặt Trời của nhân loại và đã lắng nghe Giáo Pháp đưa đến sự diệt tận tất cả khổ đau của đức Phật.



885. Sāvakaṃ dhutavādānaṃ aggaṃ kittesi nāyako,
sutvā sattāhikaṃ dānaṃ datvā buddhassa tādino.

Đấng Lãnh Đạo đã ngợi khen vị Thinh Văn đứng đầu trong số các vị thuyết về sự giũ bỏ (pháp đầu-đà). Sau khi lắng nghe, chồng tôi đã cúng dường vật thí đến đức Phật như thế ấy trong bảy ngày.



886. Nipacca sirasā pāde taṃ ṭhānaṃ abhipatthayi,
sa hāsayanto parisaṃ tadā hi narapuṅgavo.

Chồng tôi trong khi làm hội chúng vui vẻ đã quỳ xuống đê đầu ở bàn chân và đã ước nguyện vị thế ấy. Chính vào khi ấy, đấng Cao Quý của loài người ...



887. Seṭṭhino anukampāya imā gāthā abhāsatha:
“Lacchase patthitaṃ ṭhānaṃ nibbuto hohi puttaka.

... vì lòng thương tưởng đến người triệu phú, đã nói những lời kệ này: “Này con trai, ngươi sẽ đạt được vị thế đã ước nguyện rồi ngươi hãy Niết Bàn.



888. Satasahasse ito kappe okkākakulasambhavo,
gotamo nāma gottena satthā loke bhavissati.

Vào một trăm ngàn kiếp về sau này, bậc Đạo Sư tên Gotama, thuộc dòng dõi, xuất thân gia tộc Okkāka sẽ xuất hiện ở thế gian.



889. Tassa dhammesu dāyādo oraso dhammanimmito,
kassapo nāma nāmena hessasi satthusāvako.”

(Người nam này) sẽ trở thành nam thinh văn của bậc Đạo Sư, là người thừa tự Giáo Pháp của vị (Phật) ấy, là chánh thống, được tạo ra từ Giáo Pháp, có tên là Kassapa.”



890. Taṃ sutvā mudito hutvā yāvajīvaṃ tadā jinaṃ,
mettacitto paricari paccayehi vināyakaṃ.

Nghe được điều ấy, chồng tôi đã trở nên hoan hỷ. Khi ấy, với tâm từ ái chồng tôi đã chăm sóc đấng Chiến Thắng, bậc Hướng Đạo bằng các vật dụng cho đến hết cuộc đời.



891. Sāsanaṃ jotayitvāna madditvā ca kutitthiye,
veneyye vinayitvā ca nibbuto so sasāvako.

Vị (Phật) ấy đã làm chói sáng Giáo Pháp, đã chế phục các ngoại đạo, đã hướng dẫn những ai đáng được hướng dẫn, rồi đã Niết Bàn cùng các vị Thinh Văn.



892. Nibbute tamhi lokagge pūjanatthāya satthuno,
ñātimitte samānetvā saha tehi akārayi.

Khi đấng Cao Cả của thế gian ấy đã Niết Bàn, nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đạo Sư chồng tôi đã tập hợp các bạn bè thân quyến rồi cùng với những người ấy đã cho xây dựng ...



893. Sattayojanikaṃ thūpaṃ ubbiddhaṃ ratanāmayaṃ,
jalantaṃ sataraṃsīva sālarājaṃva phullitaṃ.

... ngôi bảo tháp làm bằng châu báu cao bảy do-tuần, chói sáng như là trăm ánh hào quang, được mở rộng ra như là hoa Sālā chúa.



894. Sattasatasahassāni pātiyo tattha kārayi,
naḷaggi viya jotantī rataneheva sattahi.

Tại nơi ấy, chồng tôi đã cho thực hiện bảy trăm ngàn chiếc đĩa nhỏ bằng chính bảy loại châu báu, chúng đang chói sáng như là ngọn lửa của cây sậy.



895. Gandhatelena pūretvā dīpānujjālayi tahiṃ,
pūjatthāya mahesissa sabbabhūtānukampino.

Chồng tôi đã cho đổ đầy với dầu thơm rồi đã cho thắp sáng các ngọn đèn tại nơi ấy nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ, đấng Bi Mẫn của mọi sanh linh.



896. Satta satasahassāni puṇṇakumbhāni kārayi,
rataneheva puṇṇāni pūjatthāya mahesino.

Chồng tôi đã cho thực hiện bảy trăm ngàn chậu đầy đặn được chứa đầy với thuần các loại châu báu nhằm mục đích cúng dường đến bậc Đại Ẩn Sĩ.



897. Majjhe aṭṭhaṭṭhakumbhīnaṃ ussitā kañcanagghiyā,
atirocanti vaṇṇena saradeva divākaro.

Ở giữa của mỗi nhóm tám chậu là những vật giá trị như vàng được chất đống. Chúng sáng rực với màu sắc tợ như ánh mặt trời vào mùa thu



898. Catudvāresu sobhanti toraṇā ratanāmayā,
ussitā phalakā rammā sobhanti ratanāmayā.

Chiếu sáng ở bốn cửa là các vòm cổng làm bằng châu báu. Chiếu sang là những tấm ván xinh xắn làm bằng châu báu được dựng đứng.



899. Virocanti parikkhittā avataṃsā sunimmitā,
ussitāni paṭākāni ratanāni virocare.

Chói sáng là các lẳng hoa khéo tạo ra được đặt vòng quanh. Chói sáng là các cờ xí bằng châu báu được dựng đứng.



900. Surattaṃ sukataṃ cetaṃ cetiyaṃ ratanāmayaṃ,
atirocati vaṇṇena sasañjhova divākaro.

Và ngôi bảo điện làm bằng ngọc quý này khéo được tô màu, khéo được thực hiện, sáng rực với màu sắc tợ như mặt trời vào lúc hoàng hôn.



901. Thūpassa vediyo tisso haritālena pūrayi,
ekaṃ manosilāyekaṃ añjanena ca ekikaṃ.

Ngôi bảo tháp có ba bệ thờ. Chồng tôi đã chất đầy một bệ với đá màu vàng, một bệ với đá màu đỏ, một bệ với đá màu đen.



902. Pūjametādisaṃ rammaṃ kāretvā varavādino,
adāsi dānaṃ saṅghassa yāvajīvaṃ yathābalaṃ.

Sau khi đã cho thực hiện việc cúng dường đáng yêu như thế ấy đến bậc Thuyết Giảng cao quý, chồng tôi đã dâng vật thí đến hội chúng tùy theo năng lực cho đến hết cuộc đời.



903. Sahāhaṃ seṭṭhinā tena tāni puññāni sabbaso,
yāvajīvaṃ karitvāna sahāva sugatiṃ gatā.

Sau khi đã cùng với người triệu phú ấy thực hiện toàn bộ những việc phước báu ấy cho đến hết cuộc đời, tôi đã đi đến cõi an vui cùng với chính người ấy.



904. Sampattiyonubhotvāna devatte atha mānuse,
chāyā viya sarīrena saha teneva saṃsariṃ.

Sau khi đã thọ hưởng sự thành công ở bản thể chư thiên rồi nhân loại, tôi đã luân hồi cùng với chính người ấy như là hình bóng với xác thân vậy.



905. Ekanavute ito kappe vipassī nāma nāyako,
uppajji cārunayano sabbadhammavipassako.

Trước đây chín mươi mốt kiếp, đấng Lãnh Đạo Thế Gian Vipassī, vị có ánh mắt thu hút, vị thấy rõ tất cả các pháp đã hiện khởi



906. Tadā ’yaṃ bandhumatiyaṃ brāhmaṇo sādhusammato,
aḍḍho satthāgamen’ āsi dhanena ca suduggato.

Khi ấy ở tại Bandhumatī, người này là vị Bà-la-môn được xem là thánh thiện, giàu có nhờ vào sự đạt được kiến thức, và đã bị lâm vào cảnh vô cùng khó khăn về tài sản.



907. Tadāpi tass’ ahaṃ āsiṃ brahmaṇī samacetasā,
kadāci so dijavaro saṃgamesi mahāmuniṃ.

Cũng vào khi ấy, với tâm ý tương đồng tôi đã là nữ Bà-la-môn của người ấy. Có lần, người Bà-la-môn cao quý ấy đã đi đến bậc Đại Hiền Triết.



908. Nisinnaṃ janakāyasmiṃ desentaṃ amataṃ padaṃ,
sutvā dhammaṃ pamudito adāsi ekasāṭakaṃ.

(Đức Phật) ngồi ở đám người đang thuyết giảng về đạo lộ Bất Tử. Sau khi nghe Pháp, được hoan hỷ người ấy đã cúng dường một tấm vải choàng.



909. Gharamekena vatthenāganvānetaṃ mamabravi,
anumoda mahāpuññe dinnaṃ buddhassa sāṭakaṃ.

Quay về lại nhà với một mảnh vải, người ấy đã nói với tôi điều này: “Nàng hãy tùy hỷ việc phước lớn lao; tấm vải choàng đã được dâng đến đức Phật.”



910. Tadā ’haṃ añjaliṃ katvā anumodiṃ supīṇitā,
sudinno sāṭako sāmi buddhaseṭṭhassa tādino.

Khi ấy, hài lòng xiết bao tôi đã chắp tay lên nói lời tùy hỷ rằng: “Phu quân à, tấm vải choàng là đã khéo được dâng đến đức Phật tối thượng như thế ấy.”



911. Sukhito sajjito hutvā saṃsaranto bhavābhāvo,
bārāṇasipure ramme rājā āsi mahīpati.

Được an vui, trở nên gắn bó, trong khi luân hồi cõi này cõi khác, người ấy đã trở thành đức vua, vị chủ tể trái đất ở thành phố Bārāṇasī đáng yêu.



912. Tadā tassa mahesīhaṃ itthigumbassa uttamā,
tassātidayitā āsiṃ pubbasnehena bhattuno.

Khi ấy, tôi trở thành chánh hậu của người ấy, là tối cao trong đám nữ nhân. Tôi đã được cảm tình rất mực của người ấy do sự yêu mến trước đây của chồng.



913. Piṇḍāya vicarante so aṭṭha paccekanāyake,
disvā pamudito hutvā datvā piṇḍaṃ mahārahaṃ.

Sau khi nhìn thấy tám vị Lãnh Đạo Độc Giác đang đi quanh để khất thực, vị ấy đã trở nên hoan hỷ và đã dâng thức ăn vô cùng giá trị.



914. Puno nimantayitvāna katvā ratanamaṇḍapaṃ,
kammārehi kataṃ chattaṃ sovaṇṇaṃ satahatthakaṃ.

Sau khi thỉnh mời lần nữa, vị ấy đã thực hiện mái che bằng châu báu. Lọng che bằng vàng (rộng) trăm cánh tay đã được những người thợ rèn kiến thiết.



915. Samānetvāna te sabbe tesaṃ dānamadāsi so,
soṇṇāsanopaviṭṭhānaṃ pasanno sehi pāṇihi.

Sau khi đã hướng dẫn tất cả các ngài ấy tiến vào các chỗ ngồi bằng vàng, được tịnh tín vị ấy đã dâng cúng vật thí đến các ngài ấy bằng hai bàn tay của mình.



916. Tampi dānaṃ sah’ ādāsiṃ kāsirājen’ ahaṃ tadā,
punāhaṃ bārāṇasiyaṃ ajāyiṃ dvāragāmake.

Khi ấy, tôi cũng đã dâng cúng vật thí ấy cùng với đức vua xứ Kāsi. Tôi đã được sanh ra ở Bārāṇasī lần nữa, tại ngôi làng nhỏ ngoại thành.



917. Kuṭumbikakule phīte sukhito so sabhātuko,
jeṭṭhassa bhātuno jāyā ahosiṃ supatibbatā.

(Sanh ra) ở trong gia đình giàu có thịnh vượng, người ấy được an lạc, có em trai. Tôi đã là người vợ vô cùng chung thủy của người anh cả.



918. Paccekabuddhaṃ disvāna mama bhattukanīyasī,
bhāgannaṃ tassa datvāna āgate tamhi pāvadi.

Sau khi nhìn thấy vị Phật Độc Giác, người em gái của chồng tôi đã dâng phần cơm đến vị ấy, rồi khi chồng tôi đi đến đã thuật lại.



919. Nābhinandittha so dānaṃ tato tassa adās’ ahaṃ,
ūkhā āniya taṃ annaṃ puno tasseva so adā.

Chồng tôi không hoan hỷ với việc cúng dường. Do đó, tôi đã lấy lại phần cơm ấy từ bình bát rồi đã trao cho chồng. Chồng tôi đã cúng dường (phần cơm ấy) một lần nữa đến chính vị Phật ấy.



920. Tadannaṃ chaḍḍhayitvāna duṭṭhā buddhass’ ahaṃ tadā,
pattaṃ kalalapuṇṇaṃ taṃ adāsiṃ tassa tādino.

Khi ấy, tôi đã quăng bỏ đi phần cơm ấy và đã độc ác đối với đức Phật. Tôi đã dâng bình bát ấy chứa đầy bùn đến vị Phật như thế ấy.



921. Dāne ca gahaṇe ceva amejjhe padume yathā,
samacittamukhaṃ disvā tadāhaṃ saṃvijiṃ bhusaṃ.

Về vật cho cũng như việc nhận giống như là vật không trong sạch và đóa hoa sen, khi ấy tôi đã nhìn khuôn mặt có tâm bình thản và đã vô cùng chấn động.



922. Puno pattaṃ gahetvāna sodhayitvā sugandhinā,
pasannacittā pūretvā saghataṃ sakkharaṃ adaṃ.

Sau khi nhận lại bình bát, tôi đã làm sạch bằng chất thơm, rồi với tâm tịnh tín, tôi đã chứa đầy với bơ lỏng và đã dâng lên một cách cung kính.



923. Yattha yatthūpapajjāmi surūpā homi dānato,
buddhassa apakārena duggandhā vadanena ca.

Ở bất cứ nơi đâu tôi được sanh ra, tôi đều có sắc xinh đẹp do sự bố thí và có mùi hôi do lời nói và do thái độ không phải phép đối với đức Phật.



924. Puna kassapavīrassa niṭṭhāyantamhi cetiye,
sovaṇṇa-iṭṭhakavaraṃ adāsiṃ muditā ahaṃ.

Lần khác, khi ngôi bảo điện của đấng Chiến Thắng Kassapa đang được hoàn tất, được hoan hỷ tôi đã cúng dường phiến ngói cao quý bằng vàng.



925. Catujjātena gandhena nicayitvā tamiṭṭhakaṃ,
muttā duggandhadosamhā sabbaṅgasusamāgatā.

Tôi đã tẩm phiến ngói ấy bằng hương thơm sanh lên từ bốn nguồn. Tôi đã được thoát khỏi khuyết điểm về mùi hôi thối và đã được thành tựu tốt đẹp về toàn bộ các phần thân thể.



926. Sattapātisahassāni rataneheva sattahi,
kāretvā ghatapūrāni vaṭṭiyo ca sahassaso.

(Chồng tôi) đã cho thực hiện bảy ngàn cái đĩa bằng chính bảy loại châu báu chứa đầy bơ lỏng và hàng ngàn tim đèn.



927. Pakkhipitvā padīpetvā ṭhapayī sattapantiyo,
pūjatthaṃ lokanāthassa vippasannena cetasā.

Với tâm ý thanh tịnh, sau khi đã đặt (tim đèn) vào và thắp sáng, vị ấy đã xếp thành bảy hàng nhằm mục đích cúng dường đến bậc Lãnh Đạo Thế Gian.



928. Tadāpi tamhi puññamhi bhāginī ’haṃ visesato,
puna kāsisu sañjāto sumitto iti vissuto.

Khi ấy, tôi cũng có phần đóng góp đặc biệt trong việc phước thiện ấy. Vị ấy đã được sanh ra ở xứ Kāsi lần nữa, được nổi danh là Sumitta.



929. Tassāhaṃ bhariyā āsiṃ sukhitā sajjitā piyā,
tadāpi paccekamunino adāsi ghanaveṭhanaṃ.

Tôi đã là vợ của người ấy, được an vui, được gắn bó, được yêu quý. Khi ấy, người ấy cũng đã dâng đến vị Hiền Triết Độc Giác tấm vải choàng bền chắc.



930. Tassāpi bhāginī āsiṃ moditvā dānamuttamaṃ,
punāpi kāsiraṭṭhamhi jāto koliyajātiyā.

Tôi đã hoan hỷ về việc bố thí tối thượng và cũng đã có phần trong việc ấy. Vị ấy cũng đã sanh ra lần nữa trong quốc độ Kāsi thuộc dòng dõi Koliya.



931. Tadā koliyaputtānaṃ satehi saha pañcahi,
pañca paccekabuddhānaṃ satāni samupaṭṭhahi.

Khi ấy, cùng với năm trăm người con trai dòng Koliya, vị ấy đã hộ độ năm trăm vị Phật Độc Giác.



932. Temāsaṃ tappayitvāna adāsi ca ticīvaraṃ,
jāyā tassa tadā āsiṃ puññakammapathānugā.

Và sau khi đã làm hài lòng (chư Phật Độc Giác) trong ba tháng, vị ấy đã dâng ba y. Khi ấy, đi theo lộ trình của nghiệp phước thiện tôi đã là vợ của vị ấy.



933. Tato cuto ahu rājā nando nāma mahāyaso,
tassāpi mahesī āsiṃ sabbakāmasamiddhinī.

Từ nơi ấy chết đi, vị ấy đã trở thành vị vua tên là Nanda có danh tiếng vĩ đại. Tôi cũng đã trở thành chánh hậu của vị ấy, có sự thành tựu về tất cả các điều dục lạc.



934. Tadā ca so bhavitvāna brahmadatto mahīpati,
padumavatīputtānaṃ paccekamuninaṃ tadā.

Và khi ấy, vị ấy đã trở thành vị chúa tể Brahmadatta. Khi ấy, đối với các bậc Hiền Triết Độc Giác con trai của bà Padumavatī, ...



935. Satāni pañc’ anūnāni yāvajīvaṃ upaṭṭhahi,
rājuyyāne nivāsetvā nibbutāni ca pūjayi.

... vị ấy đã hộ độ năm trăm vị không thiếu vị nào cho đến hết cuộc đời. Chư Phật Độc Giác đã cư ngụ tại vườn hoa của đức vua rồi đã Niết Bàn, và vị ấy đã tôn vinh.



936. Cetiyāni ca kāretvā pabbajitvā ubho mayaṃ,
bhāvetvā appamaññāyo brahmalokaṃ aggamhase.

Và sau khi cho xây dựng các ngôi bảo điện, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Sau khi tu tập các vô lượng (tâm), chúng tôi đã đi đến cõi Phạm Thiên.



937. Tato cuto mahātitthe sujāto pipphalāyano,
mātā sumanadevīti kosiyagotto dijo pitā.

Từ nơi ấy chết đi, người ấy đã được sanh ra tại Mahātittha là Pipphalāyana. Mẹ là Sumanadevī, cha là người Bà-la-môn dòng tộc Kosiya.



938. Ahaṃ maddajanapade sāgalāyaṃ puruttame,
kapilassa dijass’ āsiṃ dhītā mātā sucīmatī.

Tôi đã là người con gái của vị Bà-la-môn Kapila, mẹ là Sucīmatī, tại kinh thành Sāgalā trong xứ sở Madda.



939. Ghanakañcanabimbena nimmiṇitvāna maṃ pitā,
adā kassapadhīrassa kāmāsāvajjitassa maṃ.

Sau khi tạo ra tôi với hình tượng bằng vàng khối, người cha đã gã tôi cho bậc trí Kassapa là người đã kiêng cử các dục.



940. Kadāci so kāruṇiko gantvā kammantapekkhanaṃ,
kākādikehi khajjante pāṇe disvāna saṃviji.

Vào lúc nọ, vị có lòng bi mẫn ấy đã đi xem xét công việc làm. Sau khi nhìn thấy các sinh vật bị những loài như là quạ, v.v... ăn thịt, vị ấy đã bị chấn động.



941. Ghare cāhaṃ tile jāte disvānātapatāpane,
kimi kākehi khajjante saṃvegamalabhiṃ tadā.

Và tôi ở nhà, sau khi nhìn thấy những cây mè mọc lên trong sự thiêu đốt của ánh nắng mặt trời và loài sâu bọ bị các con quạ ăn thịt, khi ấy tôi đã có sự động tâm.



942. Tadā so pabbajī dhīro ahaṃ tamanupabbajiṃ,
pañca vassāni nivasiṃ paribbājavate ahaṃ.

Khi ấy, con người sáng suốt ấy đã xuất gia. Tôi đã xuất gia theo vị ấy. Tôi đã sống theo hạnh du sĩ ngoại đạo trong năm năm.



943. Yadā pabbajitā āsi gotamī jinaposikā,
tadā ’haṃ tamupāgantvā buddhena anusāsitā.

Đến khi bà Gotamī người nuôi dưỡng đấng Chiến Thắng đã được xuất gia, khi ấy tôi đã đi theo bà ấy và đã được chỉ dạy bởi đức Phật.



944. Na cireneva kālena arahattamapāpuṇiṃ,
aho kalyāṇamittattaṃ kassapassa sirīmato.

Trong thời gian không bao lâu tôi đã thành tựu phẩm vị A-la-hán. Ôi, tính chất bạn hữu tốt lành đối với vị Kassapa vinh quang!



945. Suto buddhassa dāyādo kassapo susamāhito,
pubbe nivāsaṃ yo vedi saggāpāyañca passati.

Kassapa là con trai, là người thừa tự của đức Phật, khéo được định tĩnh, nhìn thấy được cõi trời và địa ngục, và là vị đã biết được đời sống trước đây.



946. Atho jātikkhayaṃ patto abhiññāvosito muni,
etāhi tīhi vijjāhi tevijjo hoti brāhmaṇo.

Rồi (vị ấy) đã đạt đến sự diệt tận của sự sanh, là vị hiền triết được hoàn hảo về thắng trí, với ba sự hiểu biết ấy trở thành vị Bà-la-môn có tam minh.



947. Tatheva bhaddā kāpilānī tevijjā maccuhāyinī,
dhāreti antimaṃ dehaṃ jetvā māraṃ savāhiniṃ.

Tương tợ như thế ấy, Bhaddā Kāpilānī là vị ni có tam minh, có sự dứt bỏ Tử Thần, mang thân mạng cuối cùng sau khi đã chiến thắng Ma Vương cùng với đạo quân binh.



948. Disvā ādīnavaṃ loke ubho pabbajitā mayaṃ,
tyamhā khīṇāsavā dantā sītibhūtāmha nibbutā.

Sau khi nhìn thấy điều tai hại ở thế gian, cả hai chúng tôi đã xuất gia. Chúng tôi đây có các lậu hoặc đã cạn kiệt, đã được huấn luyện, đã có được trạng thái mát mẻ, Niết Bàn.



949. Kilesā jhāpitā mayhaṃ bhavā sabbe samūhatā,
nāgīva bandhanaṃ chetvā viharāmi anāsavā.

Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi cái (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.



950. Svāgataṃ vata me āsi buddhaseṭṭhassa santike,
tisso vijjā anuppattā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy của đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.



951. Paṭisambhidā catasso vimokkhāpi ca aṭṭhime,
chaḷabhiññā sacchikatā kataṃ buddhassa sāsanaṃ.

Tôi đã đắc chứng bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.



Itthaṃ sudaṃ Bhaddākāpilānī bhikkhunī imā gāthāyo abhāsitthāti.

Tỳ khưu ni Bhaddākāpilānī đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.



Bhaddākāpilānitheriyāpadānaṃ sattamaṃ.

Ký sự về trưởng lão ni Bhaddākāpilānī là phần thứ bảy.

Xuất hiện ở nikaya khác ( tiểu bộ kinh )



15 Thời Phật tại thế Xóa
241 Thời Phật tại thế Xóa
546 Ni trưởng và thánh ni thời Phật Xóa


1163 Vương quốc Magadha Xóa

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
6133
Bài viết
786
Nhân vật
45
Hình ảnh

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications