Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tôn Giả Ưu Ba Ly Upali Trì Giới Đệ Nhất
Trong cuộc sống, từ quốc gia xã hội, đến đoàn thể, luật pháp, nội quy, điều lệ là những điều kiện giúp cho tổ chức được kiện toàn, vững mạnh, trường tồn. Ngược lại trong một tổ chức có nhiều người không giữ nội quy, điều luật sẽ trở thành ô hợp dễ tan rã, cụ thể như trong quân đội nếu không có kỷ luật sắt, khi ra trận sẽ bị thất bại. Với tôn giáo cũng thế, tín đồ không tuân giữ điều răn cấm, đạo giáo sẽ bị suy tàn. Khi Đức Phật sắp Niết Bàn, Ngài A Nan hỏi Phật nhiều vấn đề trong đó có câu hỏi: · Sau khi Thế Tôn Niết Bàn chúng con nhận ai làm thầy?  Đức Phật trả lời: · Hãy lấy giới luật làm thầy, giới luật còn đạo ta còn.  Như vậy người Phật tử không luận tăng hay tục đều phải tuân giữ giới luật. Trong số các vị đại đệ tử của Phật có Ưu Ba Ly là người tu hành, hành trì giới luật rất đầy đủ. Do đó Ngài được suy tôn là bậc Trì Giới Đệ Nhất.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:28

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2023-02-22 19:07:00
Chỉnh sửa gần nhất : 11/19/2025 14:00:38
Tôn Giả Ưu Ba Ly Upali Trì Giới Đệ Nhất

 

1. Upāli Thera.-One of the most eminent of the Buddha's immediate disciples. He belonged to a barber's family in Kapilavatthu and entered the service of the Sākiyan princes. When Anuruddha and his cousins left the world and sought ordination from the Buddha at Anupiyā Grove, Upāli accompanied them. They gave him all their valuable ornaments, but, on further consideration, he refused to accept them and wished to become a monk with them. The reason given for his refusal is that he knew the Sākyans were hot-headed, and feared that the kinsmen of the princes might suspect him of having murdered the young men for the sake of their belongings.

At the request of the Sākiyan youths, the Buddha ordained Upāli before them all, so that their pride might be humbled. (Vin.ii.182; DhA.i.116f; see also Bu.i.61; but see BuA.44; the Tibetan sources give a slightly different version, see Rockhill, op. cit., pp. 55-6; according to the Mahāvastu iii.179, Upāli was the Buddha's barber, too).

Upāli's upajjhāya was Kappitaka (Vin.iv.308). When Upāli went to the Buddha for an exercise for meditation, he asked that he might be allowed to dwell in the forest. But the Buddha would not agree, for if Upāli went into the forest he would learn only meditation, while, if he remained amongst men, he would have knowledge both of meditation and of the word of the Dhamma. Upāli accepted the Buddha's advice and, practising insight, in due course won arahantship. The Buddha himself taught Upāli the whole of the Vinaya Pitaka (ThagA.i.360f, 370; AA.i.172).

In the assembly of the Sangha, the Buddha declared him to be the most proficient of those who were learned in the Vinaya (vinayadharānam) (A.i.24; see also Vin.iv.142, where the Buddha is mentioned as speaking Upāli's praises). He is often spoken of as having reached the pinnacle of the Vinaya, or as being its chief repository (Vinaye agganikkhitto), (E.g., Dpv.iv.3, 5; v.7, 9) and three particular cases - those of Ajjuka (Vin.iii.66f), the Bhārukacchaka monk (Vin.iii.39) and Kumāra-Kassapa (AA.i.158; MA.i.336; J.i.148; DhA.iii.145) - are frequently mentioned in this connection as instances where Upāli's decisions on Vinaya rules earned the special commendation of the Buddha. In the Rājagaha Council, Upāli took a leading part, deciding all the questions relative to the Vinaya, in the same way as Ananda decided questions regarding the Dhamma (Vin.ii.286f; DA.i.11f; Mhv.iii.30).

In accordance with this tradition, ascribing to Upāli especial authority regarding the rules of the Order, various instances are given of Upāli questioning the Buddha about the Vinaya regulations. Thus we find him consulting the Buddha as to the legality or otherwise of a complete congregation performing, in the absence of an accused monk, an act at which his presence is required (Vin.i.325f). Again, he wishes to know if, in a matter which has caused altercations and schisms among members of the Order, the Sangha declares re-establishment of concord without thorough investigation, could such a declaration be lawful? (Vin.i.358f). When a monk intends to take upon himself the conduct of any matter that has to be decided, under what conditions should he do so? What qualities should a monk possess in himself before he takes upon himself to warn others? (Vin.ii.248f). In what case can there be an interruption of the probationary period of a monk who has been placed on probation? (Vin.ii.33f).

A whole list of questions asked by Upāli and answers given by the Buddha on matters pertaining to the Vinaya rules is found in the chapter called Upāli-Pañcaka in the Parivāra (Vin.v.180-206; see also the Upālivagga of the Anguttara Nikāya X.31).

It is not possible to determine which of these and other questions were actually asked by Upāli, and which were ascribed to him on account of his traditional reputation.

It is said (E.g., Vin.iv.142; Sp.iv.876) that even in the Buddha's lifetime monks considered it a great privilege to learn the Vinaya under Upāli. The monks seem to have regarded Upāli as their particular friend, to whom they could go in their difficulties. Thus, when certain monks had been deprived by thieves of their clothes, it is Upāli's protection that they seek (Vin.iii.212; see also the story of Ramanīyavihārī, ThagA.i.116).

The canon contains but few records of any discourses connected with Upāli, apart from his questions on the Vinaya. In the Anguttara Nikāya (A.iv.143f) he is mentioned as asking the Buddha for a brief sermon, the Buddha telling him that if there were anything that did not conduce to revulsion and detachment, Upāli could be sure that such things did not form part of the Buddha's teaching. There is a record of another sermon (A.v.201ff) which the Buddha is stated to have preached when Upāli expressed the desire to retire into the solitude of the forest. The Buddha tells him that forest-life is not for the man who has not mastered his mind or attained to tranquillity.

For other sermons see Upāli Sutta and Ubbāhika Sutta.

Three verses are ascribed to Upāli in the Theragāthā (vv. 249-51; but see Gotama the Man, p.215; another verse ascribed to Upāli, but so far not traced elsewhere, is found in the Milinda p.108) where he admonishes the brethren to seek noble friends of unfaltering character, to learn the monks' code of discipline and to dwell in solitude.

In the time of Padumuttara, Upāli was a very rich brahmin named Sujāta. When the Buddha came to his father's city in order to preach to him the Dhamma, Sujāta saw him, and in the assembly be noticed an ascetic named Sunanda, holding over the Buddha for seven days a canopy of flowers. The Buddha declared that Sunanda would, in the time of Gotama Buddha, become famous as the Elder Punna Mantānī-putta. Sujāta, too, wished to seethe future Buddha Gotama, and having heard Padumuttara praise the monk Pātika as chief of the Vinayadharas, he wished to hear, regarding himself, a similar declaration from Gotama. With this end in view he did many deeds of merit, chief of which was the erection of a monastery named Sobhana, for the Buddha and his monks, at an expense of one hundred thousand.

As a result he was born in heaven for thirty thousand kappas and was one thousand times king of the devas. One thousand times, too, he was cakkavatti.

Two kappas ago there was a Khattiya named Añjasa, and Upāli was born as his son Sunanda. One day he went to the park riding an elephant named Sirika, and met, on the way, the Pacceka Buddha Devala, whom he insulted in various ways. Sunanda was, thereupon, seized with a sensation of great heat in his body, and it was not till he went with a large following to the Pacceka Buddha and asked his pardon that the sensation left him. It is said that if the Buddha had not forgiven him, the whole country would have been destroyed. This insult paid to the Pacceka Buddha was the cause of Upāli having been born as a barber in his last birth (Ap.i.37ff).

Buddhaghosa says (Sp.i.272, 283) that while the Buddha was yet alive Upāli drew up certain instructions according to which future Vinayadharas should interpret Vinaya rules, and that, in conjunction with others, he compiled explanatory notes on matters connected with the Vinaya.

In direct pupillary succession to Upāli as head of the Vinayadharas was Dāsaka, whom Upāli had first met at the Valikārāma, where Upāli was staying (Mhv.v.10). Upāli taught him the whole of the Vinaya.

Upāli's death was in the sixth year of Udāyibhadda's reign. Dpv.v.7ff.

1. Upāli Thera. - Một trong những đệ tử xuất chúng nhất của Đức Phật. Ngài xuất thân từ một gia đình thợ cạo ở Kapilavatthu và gia nhập vào hàng ngũ các hoàng tử dòng Thích Ca. Khi Anuruddha và các anh em họ xuất gia và xin thọ giới với Đức Phật tại Vườn Anupiyā , Upāli đã đi cùng họ. Họ dâng tặng ngài tất cả trang sức quý giá, nhưng sau khi suy nghĩ kỹ hơn, ngài từ chối và muốn xuất gia cùng họ. Lý do được đưa ra cho sự từ chối này là vì ngài biết dòng Thích Ca rất nóng tính, và sợ rằng thân quyến của các hoàng tử có thể nghi ngờ ngài đã giết hại các chàng trai trẻ để chiếm đoạt tài sản của họ.

Theo lời yêu cầu của những thanh niên Sākiyan, Đức Phật đã truyền giới cho Upāli trước mặt tất cả bọn họ, để lòng kiêu hãnh của họ có thể được hạ thấp. (Vin.ii.182; DhA.i.116f; xem thêm Bu.i.61; nhưng xem BuA.44; các nguồn tài liệu Tây Tạng đưa ra một phiên bản hơi khác, xem Rockhill, op. cit., trang 55-6; theo Mahāvastu iii.179, Upāli cũng là thợ cắt tóc của Đức Phật).

Upāli là Kappitaka (Vin.iv.308). Khi Upāli đến gặp Đức Phật để xin thực tập thiền định, ngài đã xin được phép ở trong rừng. Nhưng Đức Phật không đồng ý, vì nếu Upāli vào rừng, ngài chỉ học được thiền định, còn nếu ở giữa loài người, ngài sẽ có được cả kiến ​​thức về thiền định lẫn giáo lý của Giáo Pháp. Upāli nghe theo lời khuyên của Đức Phật và nhờ thực hành tuệ quán, cuối cùng ngài đã đắc quả A-la-hán. Chính Đức Phật đã dạy Upāli toàn bộ Luật Tạng (ThagA.i.360f, 370; AA.i.172).

Trong buổi họp Tăng đoàn, Đức Phật tuyên bố ông là người thông thạo nhất trong số những người học Luật tạng (vinayadharānam) (Ai24; xem thêm Vin.iv.142, trong đó Đức Phật được nhắc đến là đã khen ngợi Upāli). Ông thường được nói đến là đã đạt đến đỉnh cao của Luật tạng, hoặc là kho lưu trữ chính của Luật tạng (Vinaye agganikkhitto), (Ví dụ, Dpv.iv.3, 5; v.7, 9) và ba trường hợp cụ thể - trường hợp của Ajjuka (Vin.iii.66f), nhà sư Bhārukacchaka (Vin.iii.39) và Kumāra-Kassapa (AA.i.158; MA.i.336; Ji148; DhA.iii.145) - thường được đề cập trong mối liên hệ này như những trường hợp mà quyết định của Upāli về các quy tắc Luật tạng đã nhận được lời khen ngợi đặc biệt của Đức Phật. Trong Hội đồng Rājagaha , Upāli đã đóng vai trò chủ đạo, quyết định mọi câu hỏi liên quan đến Luật tạng, giống như cách Ananda quyết định các câu hỏi liên quan đến Pháp (Vin.ii.286f; DA.i.11f; Mhv.iii.30).

Theo truyền thống này, khi trao cho Upāli quyền hạn đặc biệt liên quan đến các quy tắc của Giáo đoàn, có nhiều trường hợp Upāli chất vấn Đức Phật về các quy định của Luật tạng. Do đó, chúng ta thấy ông tham khảo ý kiến ​​của Đức Phật về tính hợp pháp hay không của việc một giáo đoàn hoàn chỉnh thực hiện, khi không có một nhà sư bị buộc tội, một hành động mà sự hiện diện của ông là bắt buộc (Vin.i.325f). Một lần nữa, ông muốn biết liệu trong một vấn đề đã gây ra tranh cãi và chia rẽ giữa các thành viên của Giáo đoàn, Tăng đoàn tuyên bố tái lập sự hòa hợp mà không có sự điều tra kỹ lưỡng, thì tuyên bố như vậy có hợp pháp không? (Vin.i.358f). Khi một nhà sư có ý định tự mình đảm nhận việc tiến hành bất kỳ vấn đề nào cần được quyết định, thì ông nên làm như vậy trong những điều kiện nào? Một nhà sư nên sở hữu những phẩm chất gì trước khi tự mình cảnh báo những người khác? (Vin.ii.248f). Trong trường hợp nào có thể có sự gián đoạn thời gian thử thách của một nhà sư đã được đặt vào thời gian thử thách? (Vin.ii.33f).

Toàn bộ danh sách các câu hỏi do Upāli đặt ra và câu trả lời của Đức Phật về những vấn đề liên quan đến luật Vinaya được tìm thấy trong chương có tên là Upāli-Pañcaka trong Parivāra (Vin.v.180-206; xem thêm Upālivagga của Anguttara Nikāya X.31).

Không thể xác định được câu hỏi nào trong số này và những câu hỏi khác thực sự do Upāli đặt ra, và câu hỏi nào được cho là do danh tiếng truyền thống của ông đặt ra.

Người ta nói rằng (Ví dụ, Vin.iv.142; Sp.iv.876) rằng ngay cả khi Đức Phật còn tại thế, các nhà sư vẫn coi việc được học Luật Tạng dưới sự hướng dẫn của Upāli là một đặc ân lớn. Các nhà sư dường như đã xem Upāli như một người bạn đặc biệt, người mà họ có thể tìm đến khi gặp khó khăn. Vì vậy, khi một số nhà sư bị kẻ trộm lấy mất y phục, họ tìm đến sự che chở của Upāli (Vin.iii.212; xem thêm truyện về Ramanīyavihārī , ThagA.i.116).

Kinh điển chỉ ghi chép rất ít về bất kỳ bài giảng nào liên quan đến Upāli, ngoài những câu hỏi của ông về Luật Tạng. Trong Tăng Chi Bộ Kinh (A.iv.143f), ông được nhắc đến là đã thỉnh cầu Đức Phật giảng một bài pháp ngắn, và Đức Phật nói với ông rằng nếu có điều gì không dẫn đến sự chán ghét và buông bỏ, Upāli có thể chắc chắn rằng những điều đó không nằm trong giáo lý của Đức Phật. Có một ghi chép về một bài pháp khác (Av201ff) mà Đức Phật được cho là đã thuyết giảng khi Upāli bày tỏ mong muốn được ẩn dật trong rừng sâu. Đức Phật nói với ông rằng cuộc sống trong rừng không dành cho người chưa làm chủ được tâm trí hoặc chưa đạt đến sự an tĩnh.

Để biết thêm các bài giảng khác, hãy xem Upāli Sutta và Ubbāhika Sutta .

Ba câu thơ được cho là của Upāli trong Theragāthā (các câu 249-51; nhưng hãy xem Gotama the Man, trang 215; một câu thơ khác được cho là của Upāli, nhưng cho đến nay vẫn chưa được tìm thấy ở nơi nào khác, được tìm thấy trong Milinda trang 108) trong đó ông khuyên các anh em nên tìm kiếm những người bạn cao quý có phẩm chất kiên định, học hỏi giới luật của các nhà sư và sống trong sự cô độc.

Vào thời Padumuttara, Upāli là một bà la môn rất giàu có tên là Sujāta. Khi Đức Phật đến thành phố của cha mình để thuyết giảng Giáo pháp cho ông, Sujāta đã nhìn thấy ông, và trong hội chúng được chú ý đến một vị khổ hạnh tên là Sunanda, cầm trên tay Đức Phật một lọng hoa trong bảy ngày. Đức Phật tuyên bố rằng Sunanda, vào thời Đức Phật Gotama, sẽ trở nên nổi tiếng là Trưởng lão Punna Mantānī-putta. Sujāta cũng muốn gặp Đức Phật tương lai Gotama, và sau khi nghe Padumuttara ca ngợi nhà sư Pātika là người đứng đầu của Vinayadharas, ông muốn nghe, về bản thân mình, một lời tuyên bố tương tự từ Gotama. Với mục đích này, ông đã làm nhiều việc công đức, trong đó quan trọng nhất là xây dựng một tu viện tên là Sobhana, cho Đức Phật và các tăng sĩ của ngài, với chi phí là một trăm ngàn.

Kết quả là ngài được sinh lên cõi trời ba mươi ngàn kiếp và làm vua chư thiên một ngàn lần. Ngài cũng làm Cakkavatti một ngàn lần nữa.

Hai kiếp trước, có một vị Khattiya tên là Añjasa, và Upāli được sinh ra làm con trai của vị ấy là Sunanda. Một ngày nọ, ông cưỡi một con voi tên là Sirika đến công viên và trên đường đi, ông gặp Đức Phật Độc Giác Devala, người mà ông đã sỉ nhục bằng nhiều cách. Ngay lúc đó, Sunanda cảm thấy một cảm giác nóng bừng trong cơ thể, và mãi cho đến khi ông cùng một đoàn tùy tùng đông đảo đến gặp Đức Phật Độc Giác và xin Ngài tha thứ thì cảm giác đó mới biến mất. Người ta nói rằng nếu Đức Phật không tha thứ cho ông, cả đất nước sẽ bị hủy diệt. Sự sỉ nhục Đức Phật Độc Giác này là nguyên nhân khiến Upāli phải tái sinh làm thợ hớt tóc trong kiếp cuối cùng của mình (Ap.i.37ff).

Buddhaghosa nói (Sp.i.272, 283) rằng khi Đức Phật còn tại thế, Upāli đã soạn thảo một số hướng dẫn mà các Vinayadhara tương lai nên diễn giải các quy tắc Vinaya, và rằng, cùng với những người khác, ông đã biên soạn các ghi chú giải thích về các vấn đề liên quan đến Vinaya.

Người kế nhiệm trực tiếp Upāli làm người đứng đầu Vinayadharas là Dāsaka, người mà Upāli đã gặp lần đầu tiên tại Valikārāma, nơi Upāli đang lưu trú (Mhv.v.10). Upāli đã dạy cho ông toàn bộ Vinaya.

Upāli mất vào năm thứ sáu triều đại của Udāyibhadda . Dpv.v.7ff.

 

 

Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung

THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ PHẬT
Thích Minh Tuệ
Sàigòn 1991- Pl 2535
 

Tôn Giả Ưu Ba Ly
Upali Trì Giới Đệ Nhất

Trong cuộc sống, từ quốc gia xã hội, đến đoàn thể, luật pháp, nội quy, điều lệ là những điều kiện giúp cho tổ chức được kiện toàn, vững mạnh, trường tồn. Ngược lại trong một tổ chức có nhiều người không giữ nội quy, điều luật sẽ trở thành ô hợp dễ tan rã, cụ thể như trong quân đội nếu không có kỷ luật sắt, khi ra trận sẽ bị thất bại. Với tôn giáo cũng thế, tín đồ không tuân giữ điều răn cấm, đạo giáo sẽ bị suy tàn. Khi Đức Phật sắp Niết Bàn, Ngài A Nan hỏi Phật nhiều vấn đề trong đó có câu hỏi:

· Sau khi Thế Tôn Niết Bàn chúng con nhận ai làm thầy? 

Đức Phật trả lời:

· Hãy lấy giới luật làm thầy, giới luật còn đạo ta còn. 

Như vậy người Phật tử không luận tăng hay tục đều phải tuân giữ giới luật. Trong số các vị đại đệ tử của Phật có Ưu Ba Ly là người tu hành, hành trì giới luật rất đầy đủ. Do đó Ngài được suy tôn là bậc Trì Giới Đệ Nhất.

Dòng Họ và Nghề nghiệp của Tôn Giả Ưu Ba Ly 

Ngày xưa ở Ấn Độ luật Ma Nu chia thành phần xã hội ra làm 4 giai cấp:

· Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Phệ Xá, Thủ Đà La. 

Người sinh vào giai cấp nào phải giữ truyền thống của giai cấp đó. Người sinh vào dòng Bà La Môn được làm đạo sĩ học thánh điển Vệ Đà, lo việc tế tự. Người sanh vào dòng Sát Đế Lợi được làm vua chúa quan quyền, cai trị Ấn Độ. Người sinh vào dòng Phệ Xá mãi mãi là công thương. Người sinh vào dòng Thủ Đà La suốt đời làm nô lệ, bị bạc đãi nhất trong xã hội, khi ra đường Thủ Đà La gặp đạo sĩ hoặc vua quan, phải tìm bờ bụi ẩn nấp, nếu lén nhìn sẽ bị móc mắt. Nếu nói tên Bà La Môn bị cắt lưỡi, không tuân pháp luật vua quan bị đổ dầu sôi vào lỗ tai. Ưu Ba Ly sanh vào dòng Thủ Đà La, bởi thế ngay từ thuở nhỏ đã không được hưởng quyền lợi về học vấn. Lúc lớn khôn cha mẹ định chọn cho Ưu Ba Ly một nghề sinh nhai, nhưng trong các nghề mà người nô lệ được phép làm như lao động tay chân, cày cuốc, đánh xe, giữ ngựa, gánh phân, Ưu Ba Ly không đủ sức vì ốm yếu mảnh mai. Cuối cùng Ưu Ba Ly được chọn đi học nghề thợ cạo râu tóc, nghề nhẹ nhàng nhất, học chẳng bao lâu Ưu Ba Ly thành thạo nghề nghiệp một cách tài tình.

Nhờ có người giới thiệu, Ưu Ba Ly được nhận vào vương cung Ca Tỳ La Vệ để hớt cạo râu tóc cho các vương tôn công tử. Nhờ đức tính thuần lương nhu mì, trung hậu, Ưu Ba Ly được các vương tôn công tử tín nhiệm và cho ở lại trong cung đình. Ma Ha Bạt Đề, A Na Luật, Kiếp Tân Na rất thích Ưu Ba Ly, qua sự khéo léo tay nghề. Khi Đức Phật trở vào thành Ca Tỳ La Vệ, Ưu Ba Ly được đưa đến cạo tóc cho Phật. Tương truyền, vì lo ngại thất lễ, lúc cạo tóc Ưu Ba Ly khom lưng, cúi đầu. Mẹ của Ưu Ba Ly hỏi Phật về kỹ thuật của con, Phật bảo: “Thân thể rất cong”.

Nghe thế Ưu Ba Ly ngẩng đầu lên và tập trung tâm ý trong việc hớt tóc, tâm Ưu Ba Ly thể nhập sơ thiền. Mẹ Ưu Ba Ly lại thưa Phật về kỹ thuật, Phật bảo: “Lúc này thân thể ngay thẳng”. Nghe Phật phát biểu ý kiến, Ưu Ba Ly càng nhất tâm hơn, không dám suy nghĩ vọng tưởng gì ngoài việc cạo tóc, tâm Ưu Ba Ly thể nhập nhị thiền. Vì quá chú tâm hơi thở dồn dập nên khi bà mẹ lại hỏi Phật về cách cạo có nhẹ nhàng không? Phật nói:”Hơi thở vào quá thô”. Nghe nói Ưu Ba Ly lại tập trung tâm ý vào hơi thở, thể nhập tam thiền.

Lúc cạo gần xong râu tóc, bà mẹ lại hỏi Phật xem Ưu Ba Ly đã thiện nghệ hay chưa, Phật nói: “Hơi thở quá thô”. Vì quá chú tâm đến công tác, Ưu Ba Ly không còn tưởng niệm gì cả, Đức Phật biết Ưu Ba Ly đang ở trong trạng thái tứ thiền. Hớt cạo râu tóc cho Phật xong Ưu Ba Ly thấy lòng thơ thới, sung sướng vô cùng, vì đã có dịp tiếp cận với Phật. Qua sự chú tâm lưu ý đến việc hớt tóc, nhất là mỗi khi nghe Phật phê phán, Ưu Ba Ly cố sức sửa đổi tâm tư động tác, những cử chỉ đó đã mở đầu cho thấy Ưu Ba Ly sẽ là một con người rất nghiêm túc trong từng tác phong cử chỉ. Bởi thế, sau khi xuất gia Ưu Ba Ly trở thành vị trì giới đệ nhất.

Đạo Nghiệp của Ưu Ba Ly 

Ưu Ba Ly Được Vào Giáo Đoàn

Trong thời gian lưu lại thành Ca Tỳ La Vệ Đức Phật đem giáo pháp đã chứng ngộ truyền giảng, tất cả các vị hoàng thân, vương tôn, công tử và bá quan đều vô cùng hoan hỷ và tán thán Đức Phật. Nhờ thấm nhuần mưa pháp một số vương tôn từ bỏ cuộc sống giàu sang nơi cung vàng để xin theo Phật xuất gia. Ngoài các vị đã xuất gia từ trước như Ma Ha Nam, Ma Ha Bạt Đề, kỳ này có các vị như Đề Bà Đạt Đa và A Nan con vua Bạch Phạn. A Na Luật con Cam Lộ Vương. Ma Ha Bà Sa con Hộc Phạn Vương và La Hầu La cháu nội vua Tịnh Phạn. Khi được Phật nhận A Na Luật hăng hái gọi Ưu Ba Ly đến nhờ cạo tóc. Ưu Ba Ly vốn là người đã hầu hạ Bạt Đề ngày trước. Rồi tuần tự Ưu Ba Ly cạo tóc cho các vương tôn công tử khác. Vốn đã được gặp Phật trong khi cạo tóc cho Phật từ trước, nay thấy cảnh xuất gia nồng nhiệt, vui vẻ của các vương tôn tại hoàng cung, Ưu Ba Ly thấy tủi hổ cho thân phận kẻ nô lệ, khôn có cách nào để xuất gia thoát tục. Ngài Xá Lợi Phất thấy vậy an ủi:

· Này Ưu Ba ly! Vì chưa thấu hiểu được giáo thuyết bình đẳng của Phật ông mới buồn tủi và khóc than. Ông nên biết rằng trên đường giáo hóa, Đức Phật không có tâm phân biệt, người này giàu sang, kẻ kia ngu si nghèo đói, ai muốn xuất gia cầu giải thoát sinh tử luân hồi Phật đều nhận tất cả. Vì từ tâm của Phật là hơi thở của vạn vật, là mạng mạch của nhân sinh, là trái tim của chánh pháp, lòng từ bi đó không khác biển cả hay hư không. Biển cả dung chứa mọi sinh vật, làm sạch tất cả dơ bẩn do sông rạch chảy vào, hư không trùm khắp cả muôn loài, không loại trừ bất cứ một vật nào, có bao nhiêu loài hữu tình hay vô tình đều được dung chứa. Còn chúng sanh muốn được giải thoát, muốn được Đức Phật cho gia nhập giáo đoàn, cần yếu phải nghiêm trì giới luật. Với bản tính thật thà, khiêm cung, cần mẫn, chu đáo… sẳn có, được xuất gia ông sẽ giữ tròn giới pháp của Phật, ông hãy tin tưởng chớ chán nản, tôi sẽ hướng dẫn đến bái yết Phật, chắc chắn Phật sẽ hoan hỷ đón nhận. 

Đúng như ý của Xá Lợi Phất, khi gặp Ưu Ba Ly Phật rất niềm nở đón nhận và dạy rằng:

· Này Ưu Ba Ly! trước đây khi cạo tóc cho ta, ông đã biểu thị đức tánh của người xuất gia, rất khiêm cung lễ độ, chăm chú vào việc làm, tâm không dấy động. Thâm tâm của ông lúc đó đã chuyển từ trạng thái sơ thiền sang trạng thái tứ thiền, giờ này ông xin xuất gia rất là hợp thời điểm. Trước đây ta đi xuất gia một phần là vì muốn công bằng xã hội, do đó giáo pháp của ta mang tính bình đẳng trước mọi người oán cũng như thân, giai cấp cao cũng như giai cấp thấp. Bất cứ ai nếu tinh tấn giữ gìn giới luật tất sẽ được giải thoát, ta sẽ thế phát cho ông bây giờ. Còn lễ thế phát cho các vương tôn công tử sẽ cử hành sau bảy ngày nữa, vì đó là tuần huấn nhục, giúp họ tập quen khó nhọc, lãng quên tâm lý hưởng thụ giàu sang. 

Trong các vương tôn đều xuất gia cùng một ngày, nhưng Phật cho Ưu Ba Ly thế phát trước, các vương tôn thế phát sau, với dụng ý như nêu trên. Ngày Bạt Đề xuất gia, Đức Phật bảo Bạt Đề hãy đảnh lễ Ưu Ba Ly, lý do là vì Ưu Ba Ly lớn tuổi hơn. Những việc làm này, ngoài một phần như lý do đã nêu trên, còn có mục đích để phá tan tâm kiêu mạn của các vương tôn và cho thấy tinh thần bình đẳng của giáo pháp, nhằm xóa bỏ mọi giai cấp trong xã hội. trên đường giáo hóa, Ưu Ba Ly là người đầu tiên thuộc dòng họ nô lệ Thủ Đà La được Phật thu nhận vào hàng đệ tử. Đó cũng là một bước tiến bộ đầu tiên đã ghi vào lịch sử văn minh Ấn Độ. 

Ưu Ba Ly Hỏi giới

Trong giáo đoàn, Tôn giả Ưu Ba Ly rất được trọng nể nhờ nghiêm trì giới luật. Với tính thận trọng sợ lỗi lầm, Tôn giả thường hỏi Phật về giới luật, những giới mà Ưu Ba Ly thưa hỏi Phật rất nhiều tất cả có ghi trong luật tạng. Tuy nhiên để thấy sự chú ý của Ưu Ba Ly về giới luật, cần nêu ra một vài trường hợp.

· Theo luật của Sát Đế Lợi, người dòng họ Thích không được kết hôn với người ngoài dòng họ Thích. Có một cô gái thuộc dòng họ Thích tên là Hắc Ly Xa, lúc đang độ thanh xuân chẳng may chồng cô chết sớm, sau một thời gian cô muốn kết nghĩa với người ngoài dòng họ Thích, nhưng người em chồng không ưng thuận lại muốn Hắc Ly Xa làm vợ mình. Để trả thù vì bị Hắc Ly Xa cự tuyệt, trong một bữa ăn tên em chồng bỏ thuốc mê vào thực phẩm. Khi ăn xong Hắc Ly Xa bất tỉnh, tên này dùng roi đánh đập nàng tàn nhẫn và dẫn đến trình quan với lời mạo nhận rằng: 

· Cô này là vợ của tôi, cô thường tư thông với người ngoài dòng họ, xin quan xét xử và nghiêm trị đích đáng. 

Vua xử Hắc Ly Xa phải chịu tử hình, khi bị giam giữ thừa dịp người gác tù lơ đễnh, Hắc Ly Xa bỏ trốn và đến một ni viện ở Xá Vệ xin xuất gia. Tại Ca Tỳ La Vệ sau khi truy nã tù nhân không có kết quả, nhà vua nghe Hắc Ly Xa đã trốn sang Xá Vệ, nhà vua viết biểu yêu cầu vua Xá Vệ truy nã Hắc Ly Xa và bắt giải về Ca Tỳ La Vệ gấp. Truy nã không ra nhà vua mới biết nữ tù nhân đã vào tu trong ni viện, nơi bất khả xâm phạm. Vua Ba Tư Nặc lại viết biểu trả lời vua Ca Tỳ La Vệ và cho biết sự cố. Tin nữ tù nhân vượt ngục vào trong ni viện được lan truyền khắp nơi, khiến dư luận xôn xao và hai nước trở nên hiềm khích. Nghe sự tình khó giải quyết, Ưu Ba Ly đến trình Phật:

· Bạch Thế Tôn! Người đã phạm quốc pháp, chúng ta có thể thu nhận cho xuất gia không? 

· Này Ưu Ba Ly! Quốc pháp hợp lý hay không hợp lý đó là việc của chính phủ và dân chúng, còn đối với người phạm tội khi chưa được tuyên bố ân xá, tăng đoàn không được làm phép cho xuất gia. 

Sau khi trả lời cho Ưu Ba Ly, Phật gọi Ni chúng cho Hắc Ly Xa xuất gia đến quở trách, lúc bấy giờ có nhiều người phàn nàn cho Phật là thiếu từ bi không che chở cho tội nhân. Biết tin đó Phật họp đại chúng lại cho hay:

· Tăng đoàn cần thanh tịnh, phạm giới luật còn bị tẩn xuất thì phạm pháp nước phải chịu luật nước xử trị. Phật pháp không thể che chở cho tội nhân vì tăng đoàn cần phải được mọi người trọng nể. 

Một lần khác có người nhờ Tỳ kheo mai mối giữa nam và nữ, không biết xử lý cách nào Ưu Ba Ly đến hỏi Phật.

· Bạch Thế Tôn! Tỳ kheo và Tỳ kheo ni có thể làm mai mối cho nam nữ được không? 

Phật trả lời:

· Nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đem tâm tình người nam ngõ với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam cho đến giới thiệu giáo hội một lần, sẽ phạm Tăng già bà thi sa, cần phải hối quá vì căn bản sinh tử dục là tội thứ nhất. 

· Bạch Thế Tôn! Đối với việc hôn lễ của các tín đồ tại gia, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nên có thái độ lưu tâm như thế nào? 

· Không nên lưu tâm lắm, nếu việc hợp pháp có thể đối trước tam bảo làm lễ chứng minh cho họ. 

Phép Thăm Nuôi Bệnh Nhân

Một hôm, Ưu Ba Ly đi sau Phật thấy một bịnh nhân nằm rên la ở chỗ dơ uế. Một hôm khác trên đường hóa đạo, các Tỳ kheo gặp một bệnh nhân nằm bên vệ đường. Vì chưa nghe Phật giảng về phép thăm nuôi bệnh nhân, các Tỳ Kheo đi nhiễu một vòng rồi tiếp tục lên đường. Lại một lần khác, trong đại chúng có một Tỳ kheo bệnh mà không ai chăm sóc. Vì buồn tình Tỳ kheo bệnh nghĩ đang lúc bệnh hoạn có thể không cần giữ giới, tự ý buông lung. Động lòng trắc ẩn, Ưu Ba Ly đến thưa hỏi Phật:

· Bạch Thế Tôn! Nếu có đại đức, tỳ kheo bệnh, chúng con nên chăm sóc như thế nào? 

· Này Ưu Ba Ly! Khi có tỳ kheo bệnh, chúng tăng nên đem bệnh nhân đến ở phòng chính nơi thoáng khí, cắt cử người thay phiên chăm sóc, ăn uống thuốc thang. Các đệ tử cũng thay phiên nhau túc trực hầu hạ, quét dọn sạch sẽ, cắm hoa, đốt hương, theo dõi bệnh tình, hơi thở… Khi có người đến thăm cần tiếp đón nồng hậu, khách hỏi bệnh nhân điều gì hãy thay bệnh nhân trả lời đầy đủ. Nếu có Phật tử đến thăm, hãy mời họ ngồi đằng sau, hoặc phía từ nửa mình bệnh nhân trở xuống. Nếu họ phát tâm cúng dường những gì, hãy niệm Phật chú nguyện, rồi tiếp thọ nói pháp cho họ nghe. Khi người bệnh cần đại tiểu tiện, hãy mời khách ra ngoài rồi lo cho bệnh nhân.

Ở ngoài cửa cũng cần có người trực để hướng dẫn khách thăm bệnh. Đó là đối với các Tỳ kheo đại đức, còn các tỳ kheo nhỏ cũng hãy chăm sóc như thế, có điều là không nên đem bệnh nhân đến ở phòng chính. Nếu bệnh nhân không có sư trưởng hoặc đệ tử, các Tỳ kheo đồng trú xứ nên phân công chăm sóc bệnh nhân. Nếu trong chúng không đủ điều kiện thuốc thang cho bệnh nhân, có thể lấy vật dụng của họ đem bán lấy tiền lo thuốc cho bệnh nhân. Nếu bệnh nhân không ưng thuận, hãy mời vị trưởng thượng đến thuyết phục, nếu không có vật đổi chác, khi đi khất thực, tỳ kheo mang hai bát, một cho mình và một cho bệnh nhân. Khất thực về hãy chọn các thức ăn bổ dưỡng dành cho người bệnh. Nếu họ viên tịch hãy xử lý vật dụng còn lại một cách hợp lý, như cúng dường tam bảo hoặc quan phân cho đại chúng. 

Với tâm từ bi, Tôn giả Ưu Ba Ly rất quan tâm đến người bệnh, nhất là người xuất gia vì họ đã cắt ái từ thân, cho nên lúc lâm bệnh họ rất cô độc và cần có người chăm sóc. Đức Phật dạy, trong các phước điền, chăm sóc bệnh nhân là phước điền đệ nhất.

Phá Tăng và Hòa Tăng

Là vị giữ giới đệ nhất, Tôn giả luôn luôn quan tâm đến các vấn đề pháp chế, nhưng quan trọng nhất vẫn là vấn đề phá tăng và hòa tăng. Chư Tăng sống theo hạnh lục hòa, cho nên nếu bất hòa là mối tai họa lớn lao. Với tập thể, có hòa hợp mới dễ dàng thành tựu các hoạt vụ, nhỏ như một gia đình có thuận vợ thuận chồng mới tát cạn bể đông. Bởi thế khi họp tăng làm phép yết ma, vị thủ tọa hỏi tăng đã họp xong chưa rồi lại hỏi: Tăng có hòa hợp không? Nếu Tăng không hòa hợp là Yết ma không thành. Một hôm tại thành Xá Vệ, Ưu Ba Ly hỏi Phật rằng:

· Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Phá hòa hợp Tăng? 

· Này Ưu Ba Ly! Nếu trong Tăng đoàn, có người hay chỉ trích, chê bai, đâm thọc để các Tỳ kheo phải tyï hiềm nhau, hoặc gây sự bất ổn, đó là phá sự hòa hợp Tăng. Nếu đối với chư Tăng, có Phật tử tại gia tạo sự bất hòa phân chia nhân ngã, khiêu khích làm chia rẽ tăng đoàn, làm rối loạn mất hòa khí, gọi đó là phá hòa hợp tăng. Ngoài đời, nếu chính quyền chen vào nội bộ tăng đoàn, tự viện, chỉ trích này nọ, hoặc yêu cầu trục xuất tăng ni ra khỏi tự viện, tăng đoàn gọi đó là phá hòa hợp tăng. Người phá hòa hợp tăng mang tội rất nặng, chết đọa vào địa ngục chịu các cực hình trong thời gian một kiếp. 

· Bạch Thế Tôn! Còn thế nào gọi là hòa hợp tăng? 

· Này Ưu Ba Ly! Người lễ bái cúng dường, hỗ trợ tùy thuận ngợi khen các tỳ kheo đúng phép, đúng luật gọi đó là hòa hợp tăng. 

· Người đem lại hòa hợp tăng được những công đức gì? 

· Công đức người tạo hòa hợp tăng được sinh vào thế giới có nhiều phước báu, hưởng các lạc thú trọn kiếp. 

Vốn là một con người có tác phong khiêm tốn, hiểu rõ nghĩa lý của giới luật, giữ giới nghiêm minh, Tôn giả không phải không biết thế nào là Phá Tăng và Hòa tăng, nhưng vì muốn tăng đoàn lưu tâm đến sự ổn định nội bộ tránh các tranh chấp, nên Tôn giả đem vấn đề ra hỏi Phật để nhắc nhở.

Kiết Tập Luật Tạng

Ở trong tăng đoàn không những lo giữ giới luật, bàn với Phật nhiều điều về giới luật, Tôn giả còn xử lý các Tỳ kheo phạm tội, làm phép Yết ma sám hối, giảng giải giới luật cho các Tỳ kheo, Về phía nữ với tính rụt rè, các tỳ kheo ni không dám đem vấn đề ra hỏi Phật, các vị thường đem những gì không biết hoặc còn nghi ngờ về luật học thưa hỏi Tôn giả. Ngoài Đức Phật ra Tôn giả gần như là người có đủ thẩm quyền quyết định về mọi vấn đề liên quan đến giới luật. 

Sau khi Phật Niết Bàn trong cuộc kiết tập Kinh, Luật, Luận tại động Kỳ Xà Quật gồm 1.250 vị A La Hán do Đại Ca Diếp làm chủ tọa, Ngài A Nan tuyên trì tạng kinh, Ngài Ca Chiên Diên tuyên trì tạng luận, Ngài Ưu Ba Ly tuyên đọc 80 lần các giới luật do Phật chế. Từ cuộc kiết tập nầy bộ Bát Thập Tụng Luật được hình thành và đó là bộ luật căn bản đầu tiên của văn học Phật giáo. Theo Nam truyền sử, Tôn giả Ưu Ba Ly không những là vị kiết tập Luật tạng, mà còn là vị kế thừa Đức Phật lãnh đạo giáo đoàn và trở thành Sơ tổ. Đây cũng là điểm mà Phật giáo Bắc tông khác với Phật giáo Nam tông. Theo truyền thống Bắc tông: Đại Ca Diếp là vị Sơ tổ thừa kế Phật lãnh đạo giáo đoàn, nguyên nhân sự khác biệt này xét ra cũng dễ thấy.

· Nam tông thiên về tư tưởng giải thoát, muốn giải thoát phải trì luật. Tôn giả Ưu Ba Ly là vị trì luật đệ nhất nên được suy ton là Sơ tổ. Còn Bắc tông thiên về tư tưởng giác ngộ, lấy tâm ấn tâm không cần văn tự, ấn truyền ngoài kinh điển. Tôn giả Đại Ca Diếp là vị đã lãnh hội được ý chí đó nơi Đức Phật trước nhất, qua cành hoa sen của Phật đưa ra tại hội Linh Sơn. Sau khi Đức Phật Niết Bàn Tôn giả là vị chủ tọa, lãnh đạo cuộc kiết tập kinh điển, nên Phật giáo Bắc tông suy tôn Ngài là Sơ tổ. 

Nhận Thức và Kết Luận

Trong các sử truyện không ghi rõ giai đoạn cuối của cuộc đời Tôn giả, do đó chúng ta không rõ Ngài nhập Niết Bàn vào lúc nào. Nhưng sau cuộc kiết tập kinh điển lần thứ nhất, sử truyện không ghi chép một sự xuất hiện nào của Ngài. Bởi thế chúng ta có thể suy đoán sự nhập Niến Bàn của Tôn giả trong khoảng trước hoặc sau Tôn giả Đại Ca Diếp mà thôi. Về sự tương truyền Ưu Ba Ly trong lúc cạo tóc cho Phật đã thể nhập từ sơ thiền đến tứ thiền nghe qua có viễn vông, nhưng xét kỹ đó không phải là một vấn đề không tưởng, vì đó chỉ là một vấn đề hiện tượng tâm lý thông thường, mọi người có thể trải qua. trên lý thuyết thiền chia có 4 bậc là để định mức trạng thái tâm lý của một hành giả qua 4 bậc, từ thấp đến cao.

Khi chưa tọa thiền tâm lý con người rất loạn động, hết nghĩ đến vấn đề này liền dấy động đến vấn đề khác. Phật cho tâm lý con người như một con ngựa không cương, như vượn khỉ chuyền cây. Khi tọa thiền, hành giả khởi đầu loại trừ các triền cái, nhiếp tâm vào một vấn đề nào đó, càng nhất tâm nhiếp niệm thì định lực càng cao, đi từ bâc sơ thiền đến tứ thiền. Lúc cạo tóc cho Phật, Tôn giả đã chú tâm vào động tác nghề nghiệp, quên hết những vấn đề khác, tâm chuyển từ trạng thái sơ thiền đến tứ thiền. Noi gương Tôn giả, dùng giới chế ngự hết các phóng dật, chúng ta sẽ trở nên con người tốt có phẩm hạnh cao, có tư cách để từ đó không làm gì hại đến gia đình, đoàn thể, quốc gia, xã hội. Chỉ trong phạm vi giữ giới như thế chúng ta đã là người có ích cho đời rồi, còn nói gì khi chúng ta bước vào guồng máy của hoạt động tích cực của xã hội. Sự cường thịnh của quốc gia và xã hội căn bản là con người hoạt động với tinh thần đạo đức, cần kiệm liêm chính. mạng mạch của chính pháp được nuôi dưỡng từ các tăng sĩ có giới hạnh.
 – Hết –

 

II. Phim hoạt hình tôn giả Ưu Ba Ly

https://youtu.be/cjNFFz7U3Y4?list=PLSzieD1aaoS5qogezo_TN-rRulcNI5p5f

III. Thông tin từ cuốn Đại Phật sử 6a

 

      1. Nguyện vọng quá khứ

        Upāli tương lai, sanh trong một gia đinh danh giá trong kinh thành Haṃsāvatī, thời của Đức Phật Padumuttara. Khi đang nghe Đức

        Phật thuyết pháp, vị ấy chứng kiến một vị tỳ khưu được chỉ định là vị tỳ khưu tối thắng trong số những Thinh văn đệ tử thọ trì giới luật trang nghiêm. Vị ấy muốn được vinh danh như vậy bởi một vị Phật đương lai, và sau khi tổ chức cúng dường to lớn đến Đức Phật, vị ấy bày tỏ ước nguyện của mình trước Đức Phật. Và Đức Phật đã thọ ký cho vị ấy.

      2. Đời sống Sa môn trong kiếp chót

        Người đàn ông danh giá ấy đã trải qua suốt cuộc đời của mình làm các việc phước và khi mạng chung chỉ tái sanh vào những cõi hạnh phúc. Trong thời của Đức Phật Gotama, vị ấy sanh vào gia đình thợ cao và được đặt tên là Upāli. Khi đến tuổi trưởng thành, vị ấy làm nghề thợ cạo phục vụ cho sáu vị hoàng tử Sakyan là: Bhaddiya, Anuruddha, Kimbila, Bhagu, Ānanda và Devadatta. Và khi sáu vị hoàng tử Sakyan từ bỏ thế gian và đi đến Đức Phật ở khu vườn xoài Anupiya để được thâu nhận vào Tăng chúng, Upāli cũng trở thành tỳ khưu chung với họ.

        Sau khi trở thành tỳ khưu, đại đức Upāli nghe Đức Phật thuyết pháp và bạch với Ngài rằng:

        “ Bạch Thế Tôn, cầu xin Thế Tôn cho phép con được trú ngụ trong rừng.” Đức Phật đáp lại, “ Này con, nếu con sống trong rừng thì con chỉ thực hành thiền quán. Nếu con sống bên cạnh Như Lai thì con vừa thực hành thiền quán cũng như trau dồi pháp học.” Đại đức Upāli hoan hỉ đồng ý, và bằng sự tinh cần vị ấy chứng đắc đạo quả A-la-hán không lâu sau đó. Rồi Đức Phật dạy Luật cho đại đức Upāli một cách rộng rãi.

      3. Sự hoạch đắc danh hiệu Etadagga

Trưởng lão Upāli đã tự mình chứng tỏ là vị Thinh văn đệ tử vĩ đại nhất về phương diện các điều Luật – Vinaya bởi những phân xử về luật của vị ấy trong ba trường hợp, đó là: (1) Bhārukacchaka vatthu,

  1. Ajjuka vatthu, và (3) Kumāra Kassapa vatthu. (Trong ba trường

    hợp này, Kumāra Kassapa vatthu xuất hiện trong Chương này. Hai câu chuyện còn lại được kể tóm tắt dưới đây).

    Chuyện về một tỳ khưu bản địa ở xứ Bhārukaccha

    Một vị tỳ khưu xuất thân từ Bhārukacchaka nằm mơ thấy rằng vị ấy hành dâm với người vợ cũ trong lúc còn cư sĩ. Vị ấy bị day dứt lương tâm “ Ta chẳng còn là tỳ khưu nữa,” vị ấy tự mình suy xét và trở về quê hương ở tại Bhārukacchaka, là một thành phố cảng, định hoàn tục. Trên đường đi, vị ấy gặp trưởng lão Upāli và kể lại câu chuyện của mình cho ngài nghe. Trưởng lão Upāli nói rằng, “ Này hiền giả, điều mà hiền giả vi phạm trong giấc mơ không được xem là phạm luật.” (Đoạn này được ghi lại trong bộ Vinaya, Pārājika.)

    Trưởng lão Upāli đang xét xử về vấn đề liên quan đến điều mà không có sự quyết định được công bố bởi Đức Phật vì vinaya không cho rằng những giấc mơ (những hành động có cố ý) là tội. Nhưng vị ấy biết rằng sự mơ tưởng không tạo thành tội và vì thế, vị ấy đã quyết định đúng đắn rằng vị tỳ khưu từ Bhārukaccha là vô tội.

    Khi Đức Phật biết được quyết định ấy Ngài khen ngợi trưởng lão Upāli như sau: “ Này các tỳ khưu, Upāli đã xét xử vấn đề đúng đắn. Vị ấy đã làm điều như kẻ in dấu chân trong không trung.”

    Câu chuyện về tỳ khưu Ajjuka

    Một hôm trong thành Vesalī, một thiện tín của trưởng lão Ajjuka có một đứa con trai và một đứa cháu trai là những người có khả năng thừa kế của ông, chúng được giao cho trưởng lão để làm công việc nặng nhọc cá nhân. Ông ta nói với trưởng lão Ajjuka: “ Bạch trưởng lão, đây là con trai của tôi và đây là cháu trai của tôi. Trong hai đứa nhỏ này, xin trưởng lão chỉ chỗ tài sản của tôi cho đứa nào mà có lòng tịnh tín với Tam bảo.” Sau khi lập ra một sự tín nhiệm cá nhân như vậy, vị thiện nam kia qua đời.

    Trưởng lão Ajjuka thấy rằng đứa cháu trai của ông thiện nam có lòng tịnh tín với Tam bảo và vì vậy đại đức chỉ cho cậu ta chỗ cất tài sản của vị thiện nam. Cậu bé sử dụng tài sản vào công việc buôn bán, kết quả là giữ gìn được tài sản của ông chú và giúp cậu ta có thể làm những việc phước.

    Đứa con trai của vị thiện nam quá vãng đem câu hỏi này đến hỏi trưởng lão Ānandā: “ Bạch trưởng lão, giữa con trai ruột và cháu trai ai là người thừa kế hợp pháp đối với người quá cố?”

    “ Này thiện nam, đứa con trai là người thừa kế hợp pháp.”

    “ Bạch đại đức, đại đức Ajjuka đã chỉ tài sản mà theo đúng pháp là của con cho người anh chú bác của con.”

    Trưởng lão Ānanda vì không đi vào chi tiết của vấn đề, đã vội vã nói rằng: “ Trong trường hợp ấy trưởng lão Ajjuka không còn là tỳ khưu nữa ( tức là vị ấy đã rớt khỏi đời sống phạm hạnh).

    Khi ấy trưởng lão Ajjuka nói với trưởng lão Ānanda rằng, “ Thưa hiền giả Ānanda, hãy cho tôi quyết định của hiền giả về vấn đề này.” Trong vấn đề này trưởng lão Upāli đứng về phía trưởng lão Ajjuka. ( Ở đây trưởng lão Upāli không nghiêng về phe mà không có nguyên nhân chánh đáng. Vị ấy trú trong nguyên nhân đúng pháp của Ajjuka là người vô tội về các điều luật. Nói cách khác, vị ấy đang bảo vệ tạng Luật).

    Trưởng lão Upāli đặt câu hỏi này với trưởng lão Ānanda: “ Này hiền giả Ānanda, một vị tỳ khưu được người ta bảo là hãy chỉ chỗ cất dấu tài sản của ông ta cho một người nọ’ và vị tỳ khưu đã làm đúng theo lời căn dặn của người kia, thì vị tỳ khưu ấy bị lỗi gì?”

    “ Chẳng có lỗi nào cả, thưa trưởng lão, dầu một tội nhỏ cũng

    không.”

    “ Này hiền giả Ānanda, tỳ khưu Ajjuka làm theo lời căn dặn của chủ sở hữu tài sản là chỉ nó cho một người nọ, và vị ấy đã chỉ nó cho cậu bé (cháu trai). Do đó, này hiền giả Ānanda, Ajjaka xét về luật thì không bị sai phạm.”

    Tin về sự phân xử dũng cảm này thấu đến Đức Phật, Ngài nói rằng: “ Này các tỳ khưu, Upāli đã đưa ra sự phân xử đúng đắn,” và đã khen ngợi vị ấy.

    ( Có nhiều sự kiện đang ghi nhớ hơn nói lên tánh chất vĩ đại của trưởng lão Upāli mà có thể tìm thấy trong bộ Therāpadāna, bài kinh và những bản dịch được chứa trong bộ Chiddapidhānaṃ bởi Cố Sayadaw Mahāviddhārāma).

    Đức Phật xác nhận ba trường hợp phân xử của trưởng lão Upāli, mỗi lần đều khen ngợi vị ấy. và dựa trên ba sự xét xử ấy, vào một dịp, Đức Phật khi đang ngồi giữa chúng tỳ khưu, đã công bố:

    Etadaggam bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ vinayadharānaṃ yadidaṃ Upāli.

    Này các tỳ khưu, trong số những Thinh văn đệ tử của Như Lai mà sống chuyên trì giới luật thì tỳ khưu Upāli là Đệ nhất.

.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm

Trung A Hàm 197. Kinh Ưu-ba-ly Vai trò : Người nghe

Xuất hiện ở nikaya khác ( tiểu bộ kinh )



9 Thời Phật tại thế Xóa
349 Thập đại đệ tử Phật Xóa
414 Gia đình thân hữu thái tử Tất Đạt Đa Xóa
549 Top 80 vị trưởng lão tăng đoàn Đức Phật Xóa


1041 Sakya Xóa

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
6133
Bài viết
786
Nhân vật
45
Hình ảnh

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications