Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tôn giả Nāgita top 80 trưởng lão đệ tử Phật ( 40 bên trái)
Tôn giả Nāgita từng là thị giả cho Phật , thuộc top 80 trưởng lão đệ tử Phật ( 40 vị bên trái)
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:32

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2023-02-25 05:59:43
Chỉnh sửa gần nhất : 06/06/2024 18:53:16
Tôn giả Nāgita top 80 trưởng lão đệ tử Phật ( 40 bên trái)

I. Giới thiệu chung

Tôn giả Nāgita từng là thị giả cho Phật , thuộc top 80 trưởng lão đệ tử Phật ( 40 vị bên trái)

II.AN 6.42 – Kinh Tôn-giả Nāgita (Trú xứ độc cư)

AN 6.42 – Kinh Tôn-giả Nāgita: Nāgitasuttaṃ

1. Như vậy tôi nghe. Một thời Thế Tôn đang bộ hành giữa các người Kosala, cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến một làng Bà-la-môn tên là Icchānaṅgala. Tại đấy, Thế Tôn trú ở Icchānaṅgala, trong khóm rừng Icchānaṅgala.

2. Các Bà-la-môn gia chủ ở Icchānaṅgala được nghe: “Tôn-giả Gotama là Thích-tử, xuất gia từ gia đình họ Thích, đã đến Icchānaṅgala, trú ở Icchānaṅgala trong khóm rừng Icchānaṅgala. Về Tôn-giả Gotama ấy, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi: “Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và Người. Sau khi đã chứng ngộ, Ngài tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ, Ngài thuyết pháp điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch”. Tốt đẹp thay, sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!”

3. Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Icchānaṅgala, sau khi đêm ấy đã mãn, cầm theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm, đi đến khóm rừng Icchānaṅgala, sau khi đến, đứng ở ngoài cổng vào, cao tiếng và lớn tiếng.

4. Lúc bấy giờ, Tôn-giả Nāgita là thị giả của Thế Tôn. Rồi Thế Tôn bảo Tôn-giả Nāgita:

– Này Nāgita, những ai đã cao tiếng và lớn tiếng như những người đánh cá đang giết hại cá?

– Các người ấy, bạch Thế Tôn, là các Bà-la-môn gia chủ trú ở Icchānaṅgala đang đứng ở khu viên cổng ngoài, đem theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm cho Thế Tôn và chúng Tăng.

– Này Nāgita, Ta không có liên hệ gì với danh vọng và danh vọng không có liên hệ gì với Ta, Này Nāgita, những ai tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc, mà Ta đã tìm được không khó khăn, tìm được không mệt nhọc, tìm được không phí sức, hãy để họ thọ hưởng lạc như phân ấy, thụy miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn lạc.

– Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy chấp nhận! Thiện Thệ hãy chấp nhận! Nay Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào, tại chỗ ấy các Bà-la-môn gia chủ ở thị trấn và ở quốc độ cũng sẽ đi đến với tâm hướng về cúng dường. Ví như trời mưa nặng hột, và nước được chảy tùy theo chiều dốc; cũng vậy, bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào, tại chỗ ấy các Bà-la-môn gia chủ ở thị trấn và ở quốc độ cũng sẽ đi đến, với tâm hướng về cúng dường. Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn do vì giới hạnh và trí tuệ của Thế Tôn!

– Này Nāgita, Ta không có liên hệ gì với danh vọng và danh vọng không có liên hệ gì với Ta. Này Nāgita, những ai tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc mà Ta đã tìm được không khó khăn, tìm được không mệt nhọc, tìm được không phí sức, hãy để họ thọ hưởng lạc như phân ấy, thụy miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn lạc.

5. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy một Tỷ-kheo ngồi Thiền định tại trú xứ ở cuối làng. Này Nāgita, về vị ấy, Ta suy nghĩ như sau: “Nay có người coi khu vườn hay người Sa-di phá phách vị Tỷ-kheo này, làm cho vị này xuất khỏi thiền định”. Do vậy, này Nāgita, Ta không có hoan hỷ với trú xứ của vị ấy.

6. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy một Tỷ-kheo đang ngồi ngủ gục ở trong rừng. Này Nāgita, Ta suy nghĩ về vị ấy như sau: “Nay vị Tỷ-kheo này, sau khi đoạn trừ ngủ nghỉ và mệt nhọc, sẽ tác ý tưởng về rừng, đạt được nhất tâm”. Do vậy, nầy Nāgita, ta hoan hỷ với trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.

7. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng, ngồi không Thiền định trong rừng. Này Nāgita, đối với vị ấy, Ta suy nghĩ: “Nay Tỷ-kheo này sẽ Thiền định được tâm không Thiền định, hay sẽ bảo vệ tâm đã được Thiền định“. Do vậy, này Nāgita, Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.

8. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng ngồi với tâm Thiền định ở rừng. Này Nāgita, đối với vị ấy, Ta suy nghĩ: “Nay Tỷ-kheo này sẽ giải thoát, tâm chưa được giải thoát hay sẽ bảo vệ tâm sẽ được giải thoát“. Do vậy, này Nāgita, Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.

9. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở cuối làngnhận được vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, thích thú với các lợi dưỡng, cung kính, danh văn ấybỏ phế thiền tịnh, bỏ phế các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắngđi xuống làng, thị trấn, kinh đô để lo nuôi sống. Do vậy, này Nāgita, Ta không có hoan hỷ về trú xứ cuối làng của Tỷ-kheo ấy.

10. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng nhận được các vật dụng cần thiết như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, nhưng chận đứng các lợi dưỡng, cung kính, danh văn ấy, không bỏ phế Thiền tịnh, không bỏ phế các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng. Do vậy, này Nāgita, Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.

11. Nhưng khi Ta đang bước đi trên con đường, trước mặt, Ta không thấy ai, sau lưng, Ta không thấy aitrong khi ấy, Ta cảm thấy an ổn, này Nāgita, cho đến vấn đề đi đại, tiểu tiện.

 

III. Kệ ngôn ( Tiểu Bộ Kinh )

(LXXXVI) Nàgita (Thera. 13)

Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ỏ Kapilavatthu, trong gia đình hoàng tộc Thích-ca, tên là Nàgita. Khi bậc Ðạo Sư đến tại chỗ của ngài, Thế Tôn thuyết kinh Mật Hoàn, ngài khởi lòng tin, xuất gia không bao lâu chứng quả A-la-hán. Rồi hân hoan với sự thật trong lời dạy của đức Phật, và sự chỉ đạo có hiệu quả của Chánh pháp, ngài nói lên bài kệ này:

86. Ngoài đây có ngoại đạo,

Họ dạy những con đường,

Không như con đường này,

Ðưa đến quả Niết-bàn,

Thật khác, đức Thế Tôn,

Giáo giới hàng Tăng chúng,

Ðạo Sư chỉ Niết-bàn,

Như thấy trên bàn tay.

IV. Bản tiếng Anh từ https://tipitaka.fandom.com/wiki/Thera_1.86:_Nagita

I. Nguồn https://tipitaka.fandom.com/wiki/Thera_1.86:_Nagita

 

Chapter I.
 Single Verses

86. Nāgita

He was reborn in this Buddha-age at Kapilavatthu, in the family of a Sākiyan (king)rāja, and named Nāgita. When the Exalted One(Buddha) was staying in that place, he preached the Lump of Sweetness discourse.[1] By that Nāgita was induced to enter the Monk’s order, upon which he attained arahantship(enlightenment). Then, thrilled with rapture over the truth of the Lord(Buddha)’s teaching and the effective guidance of the Path(Dhamma), ho burst out in this saying(gatha):


[86] Ito bahiddhā puthu aññavādinaɱ||
Maggo na nibbānagamo yathā ayaɱ,||
Itissu saŋghaɱ bhagavānusāsati||
Satthā sayaɱ pāṇitaleva dassayan’ ti.|| ||


[86] Outside our Monk’s order many others be, who teach
A path never, like this one, to Nibbāna leading.
But us the Exalted One(Buddha), the blessed Lord(Buddha)’s self
Instructs as it was by just the palm of the hand outspreading.[2]


[1] Majjhima Nikāya, 18th Sutta, outlined (at Kapilavatthu) by the Lord(Buddha), and explained by Mahā-Kaccana (see Ps. CCXXIX.), on the self-mastery of the arahant(enlightened). This is apparently not the bhikkhu(monk) of the Kassapa clan (Dialogues, i. 193 ff.; Ang. iii. 81, 341; iv. 341). Perhaps the latter was known as N. Kassapa, to distinguish.

Morrà = Mora. OED: A popular game in Italy in which one player guesses the number of fingers held up simultaneously by another player. Also applied by Europeans to a similar game in China.

 [2] The Commentary has: ‘Our Lord(Buddha) sayaɱ’ – that is, sayaŋbhū ñāṇena ñātaɱ, ‘self-taught’ knower by knowledge, or, ‘himself’ – urged by great compassion, teaches his own doctrine, like one who, to make sport (? vilāsapattiyā), shows āmalaka-seed in the palm of his hand. Is an ancient game like morrà referred to?


1.9-6[86] Commentary on the stanza of Nāgiratthera

The stanza, starting with Ito bahiddhā puthu aññavā-dīnaṃ constitutes that of the venerable Thera Nāgita. What is the origin? It is said that this one was a brahmin named Nārada at the time of the Blessed One Padumuttara. Seated in his circular enclosure (māḷaka), one day, he happened to see the Blessed One going at the fore-front of the clergy of monks, became pious-minded and made his praise by means of three stanzas. On account of that act of merit, he was reborn in the divine world and having done meritorious deeds now and then, he wandered about his round of repeated rebirths among divine and human beigns, and was reborn in the royal sākiyan family, in the city of Kapilavatthu, when this Buddha arose. His name was Nāgita. When the Glorious One was residing at Kapilavatthu, he happened to have heard the Madhupinḍika Sutta, aptly gained pious faith, became a monk, increasingly developed spiritual insight (vipassanā) and attained Arahantship. Hence, has it been said in the Apadāna:–

“Seated in my extensive (visāla)

circular enclosure, I saw the leader

of the world, free from cankers (āsava),

full of vigour (balapatta) leading

the clergy of monks.

A hundred thousand Arahants of high

magical powers, possessed of three-

fold super-science (vijjā) and six

sort of higher-knowledge surrounded

the self-awakened Buddha. Having seen

Him, who could not but be piously pleased?

There does not exist in this world,

including the divine world, any com-

parison (upanidhā) with His knowledge.

Having seen the self-awakened Buddha

of endless knowledge (ñāna) who is he

not to be piously pleased (pasīdati)?

They are not able to describe (vikappe-

tuṃ) the body of truth (dhamma) also,

that had been brought to light (dīpentaṃ),

wholly done in gems (ratanākaraṃ). Having

seen the same, who is he not to be piously

pleased?

The affectionate personage (vacchala)

called Nārada made his praise of

Padumuttara, the invincible self-awakened

Buddha by means of these three stanzas.

On account of that pious-mindedness as

well as because of his praise of Buddha,

I was not reborn in an evil existence,

for a hundred thousand aeons (kappa).

Thirty hundred aeons (kappa) ago, from

now, there was a very strong world-king

of warrior clan (khattiya) named Sumitta,

endowed with seven gems.

My depravity had been burnt. …

Buddha’s instruction had been carried

out.”

Having, however, attained Arahantship, the thera became full of zest and delight depending upon the condition of the truth (avitatha) in the teaching of the Master, as well as upon the salutary state (niyyānikataṃ) of the dhamma, and recited a stanza, in making his joyous utterance (udānaṃ udānento) for the purpose of getting into (pavissa) the speed of zest (pītivega).

86. ”From here, outside, among the many

other holders of views, there is no

right path (magga) to go to nibbāna

like unto this. Thus, the Glorious

One, the Master Himself instructed

the Order of monks, showing (things)

as on His open palm of the hand (pāni-

tala).

There, Ito bahiddhā means: in the doctrine (samaya) outside this dispensation (sāsana) of Buddha. On that account he said: “puthu aññavādīnaṃ” which means: of different varieties of heretics (titthiya); thus, is the meaning. Maggo na nibbānagamo yathā ayaṃ means; Just as this noble eight-fold path goes definitely (ekaṃsena) to nibbāna; thus, nibbānā gamo (the goer to nibbāna), in the same way, there does not exist in the doctrine of the heretics (titthiya) the right path (magga) that leads (gamo) to nibbāna; because of not being made known (pavedita) by the self-awakened Budha to one who holds the view of others who are heretics (titthiya). Therefore, the Blessed One said thus:–

“O monks! A monk who is but here, a

monk who is here the second, the

third monk, who is here, the fourth

monk who is here, are empty of the

views of others and void of other

monks.”

Iti means: in this way. Assu means: just an indeclinable particle (nipāramatta). Saṅghahaṃ means the Order of bhikkhus; this is exhaustive exposition (or, term per excellence) just as for example “Satthā devamanussānaṃ (the teacher of divine and human-beings).” In other words, Saṅghaṃ means collection (samūha); such multitude of men (jana) as are amenable to discipline (veneyya) and being led (to nibbāna); thus, is the significance (adhippāya). Bhagavā means: the Blessed One with such circumstances as the condition of possessing of glory (bhagya), etc.; here, this is the abbreviation (saṅkhepa). In extenso, however, it should be understood in the manner mentioned in the commentary on Itivuttaka in Paramatthadīpanī. Satthā means: He instructs, according as being worthy (yathārahaṃ), with absolute advantages (paramattha) pertaining to the visible present (diṭṭhadhammika) and to the hereafter (samparāyika); thus, satthā (the Master). Sayaṃ means: himself even, but personally. Indeed, this is the meaning here.– Just as there exists in my dispensation, the noble path (ariya magga) that leads (gāmī) to nibbāna, which is eightfold (aṭṭhaṅgiko) by way of such eight members (aṅga) as right view and so on, which constitute a collection of such three aggregates (khandha) as moral percepts (sīla) atc., there is not, in a similar manner, the path (magga) namely, in the doctrine of outsiders (bāhīraka):” thus, roaring the roar of a lion, our Master, the Blessed One comprehended but Himself by means of self-made (sayambhū) knowledge (nāna); in other words, He instructs and advise the lead-able (veneyya) multitude (janataṃ) comprising the clergy of monks, showing similar to an myrobalan fruit (āmalaka) on the palm of His hand (hatthatale) for the prosperity (sampatti) of the beauty of His own instruction (desanāvilāsa) having been well urged by His great mercy (mahākarunā).

The Commentary on the stanza of the Thera Nāgita is complete.

 

III. Bản dịch tự động Google https://tipitaka.fandom.com/wiki/Thera_1.86:_Nagita

 

Chương I.
 Các câu đơn

86. Nāgita

Ngài tái sinh vào thời đại Phật này tại Kapilavatthu, trong gia đình của một rāja (vua) Sākiyan, và tên là Nāgita. Khi Đức Thế Tôn (Đức Phật) ở tại nơi đó, Ngài đã thuyết giảng bài kinh Viên Ngọt. [1]  Nhờ đó, Nāgita được dẫn dụ để gia nhập Tăng đoàn, nhờ đó ông đã đạt được quả vị A-la-hán (giác ngộ). Sau đó, xúc động với sự sung sướng trước sự thật của lời dạy của Chúa (Đức Phật) và sự hướng dẫn hiệu quả của Con đường (Dhamma), ho đã bật ra trong câu nói này (gatha):


[86] Ito bahiddhā puthu aññavādinaɱ ||
Maggo na nibbānagamo yathā ayaɱ, ||
Itissu saŋghaɱ bhagavānusāsati ||
Satthā sayaɱ pāṇitaleva dassayan ‘ti. || ||


[86] Ngoài nhà sư của chúng tôi, nhiều người khác, những người dạy
Một con đường không bao giờ, giống như con đường này, dẫn đến Niết-bàn.
Nhưng chúng ta là Đấng Thế Tôn (Đức Phật), Đấng ban phước của Đức Phật (Đức Phật)
Giáo huấn bản thân như thể chỉ bằng lòng bàn tay rộng ra. [2]


[1]  Majjhima Nikāya,  Kinh thứ 18, được Đức Phật (Đức Phật) phác thảo (tại Kapilavatthu), và được Mahā-Kaccana giải thích (xem Ps. CCXXIX.), Về sự tự làm chủ của bậc A-la-hán (đã giác ngộ). Đây rõ ràng không phải là tỳ khưu (nhà sư) của gia tộc Kassapa ( Dialogues,  i. 193  ff;  Ang.  Iii. 81, 341; iv. 341). Có lẽ sau này được gọi là N. Kassapa, để phân biệt.

Morrà = Mora. OED: Một trò chơi phổ biến ở Ý, trong đó một người chơi đoán số ngón tay được người chơi khác giơ đồng thời. Cũng được người châu Âu áp dụng vào một trò chơi tương tự ở Trung Quốc.

 [2]  Luận có: ‘Đức Phật (Đức Phật) của chúng ta  nóiaɱ’ – nghĩa là  sayaŋbhū ñāṇena ñātaɱ,  người biết ‘tự học’ bằng kiến ​​thức, hoặc ‘chính mình’ – được thúc giục bởi lòng đại bi, dạy giáo lý của chính mình, giống như một ai, để làm thể thao (?  vilāsapattiyā ), cho thấy  āmalaka -seed trong lòng bàn tay của mình. Một trò chơi cổ xưa như  morrà có  được nhắc đến không?


1.9-6 [86] Bình luận về khổ thơ của Nāgiratthera

Khổ thơ, bắt đầu bằng Ito bahiddhā puthu aññavā-dīnaṃ tạo thành khổ thơ của Thera Nāgita đáng kính. Nguồn gốc là gì? Người ta nói rằng người này là một bà la môn tên là Nārada vào thời Đức Thế Tôn Padumuttara. Đang ngồi trong ngôi bao quanh (māḷaka) của mình, một hôm, ông tình cờ thấy Đức Thế Tôn đi trước hàng tăng sĩ, trở nên ngoan đạo và tán thán bằng ba khổ thơ. Vì hành động công đức đó, anh ta đã được tái sinh trong thế giới thần thánh và thi thoảng đã làm được những việc làm công đức, anh ta đi lang thang về vòng tái sinh lặp đi lặp lại của mình giữa các vị thần và con người, và được tái sinh trong gia đình sākiyan hoàng gia, trong thành phố. của Kapilavatthu, khi Đức Phật này xuất hiện. Tên của ông là Nāgita. Khi Đấng Vinh Quang đang cư trú tại Kapilavatthu, tình cờ Ngài đã nghe Kinh Madhupinḍika, có được đức tin ngoan đạo một cách khéo léo, trở thành một tu sĩ, ngày càng phát triển sự thấu hiểu tâm linh (vipassanā) và chứng đắc quả vị A-la-hán. Do đó, nó đã được nói trong Apadāna: –

“Ngồi trong (visāla) rộng lớn của tôi

bao vây tròn, tôi đã nhìn thấy người lãnh đạo

của thế giới, không có kẻ gian (āsava),

đầy sức sống (balapatta) dẫn đầu

hàng giáo phẩm của các nhà sư.

Một trăm ngàn vị A-la-hán cao

sức mạnh ma thuật, sở hữu ba-

gấp siêu khoa học (vijjā) và sáu

loại kiến ​​thức cao hơn bao quanh

vị Phật tự thức tỉnh. Đã nhìn thấy

Ngài, ai có thể không hài lòng một cách ngoan đạo?

Không tồn tại trên thế giới này,

bao gồm cả thế giới thần thánh, bất kỳ com-

parison (upanidhā) với sự hiểu biết của Ngài.

Đã nhìn thấy Đức Phật tự thức tỉnh

của tri thức vô tận (ñāna) anh ta là ai

không hài lòng một cách ngoan đạo (pasīdati)?

Họ không thể mô tả (vikappe-

tuṃ) thân của chân lý (dhamma) cũng vậy,

đã được đưa ra ánh sáng (dīpentaṃ),

hoàn toàn làm bằng đá quý (ratanākaraṃ). Đang có

cũng thấy như vậy, anh ta là ai mà không ngoan đạo

vừa lòng?

Tính cách trìu mến (vacchala)

được gọi là Nārada đã khen ngợi

Padumuttara, người bất khả chiến bại đã tự thức tỉnh

Đức Phật bằng ba khổ thơ này.

Vì sự ngoan đạo đó như

cũng như vì lời khen ngợi của ông ấy đối với Đức Phật,

Tôi không tái sinh trong một sự tồn tại xấu xa,

cho một trăm nghìn aeons (kappa).

Ba mươi trăm aeons (kappa) trước đây, từ

bây giờ, có một vị vua thế giới rất mạnh

của gia tộc chiến binh (khattiya) tên là Sumitta,

phú cho bảy viên đá quý.

Sự sa đọa của tôi đã bị thiêu rụi. …

Lời chỉ dạy của Đức Phật đã được thực hiện

ngoài.”

Tuy nhiên, sau khi đạt được quả vị A-la-hán, họ trở nên tràn đầy niềm say mê và thích thú tùy thuộc vào điều kiện của chân lý (avitatha) trong lời dạy của Đạo sư, cũng như trạng thái chào (niyyānikataṃ) của giáo pháp, và đọc một khổ thơ , khi phát ra lời nói vui vẻ (udānaṃ udānento) của mình nhằm mục đích đi vào (pavissa) tốc độ của niềm say mê (pītivega).

86. ”Từ đây, bên ngoài, trong số rất nhiều

những người nắm giữ quan điểm khác, không có

con đường đúng đắn (magga) để đi đến nibbāna

như thế này. Vì vậy, Glorious

Một, chính Sư phụ đã hướng dẫn

Dòng tu, hiển thị (điều)

như trên lòng bàn tay mở của Ngài (pāni-

tala).

Ở đó, Ito bahiddhā có nghĩa là: trong giáo lý (samaya) bên ngoài gian (sāsana) này của Đức Phật. Về câu chuyện đó, ông nói: “puthu aññavādīnaṃ” có nghĩa là: gồm các loại dị giáo khác nhau (titthiya); do đó, là ý nghĩa. Maggo na nibbānagamo yathā ayaṃ nghĩa là; Cũng như con đường cao quý này chắc chắn đi (ekaṃsena) đến nibbāna; do đó, nibbānā gamo (người đi đến nibbāna), theo cùng một cách, không tồn tại trong học thuyết của lạc giáo (titthiya) con đường đúng đắn (magga) dẫn (gamo) đến nibbāna; bởi vì Budha đã tự thức tỉnh không được biết đến (pavedita) với một người có quan điểm về những người khác là dị giáo (titthiya). Vì vậy, Đức Thế Tôn đã nói như vậy: –

“Hỡi các nhà sư! Một nhà sư nhưng ở đây, một

nhà sư ở đây thứ hai,

nhà sư thứ ba, người đang ở đây, người thứ tư

nhà sư ở đây, trống rỗng

quan điểm của người khác và khoảng trống của người khác

Các nhà sư.”

Iti có nghĩa là: theo cách này. Assu có nghĩa là: chỉ một hạt không thể xác định được (nipāramatta). Saṅghahaṃ có nghĩa là hàng Tỳ khưu; đây là sự trình bày đầy đủ (hoặc, thuật ngữ trên mỗi sự xuất sắc) cũng giống như ví dụ “Satthā devamanussānaṃ (người thầy của thần thánh và con người).” Nói cách khác, Saṅghaṃ có nghĩa là tập hợp (samūha); vô số người (jana) như vậy có thể tuân theo kỷ luật (veneyya) và được dẫn dắt (đến nibbāna); do đó, là ý nghĩa (adhippāya). Bhagavā có nghĩa là: Đức Thế Tôn với những hoàn cảnh như điều kiện sở hữu vinh quang (bhagya), v.v …; ở đây, đây là chữ viết tắt (saṅkhepa). Tuy nhiên, trong Extenso, nó nên được hiểu theo cách được đề cập trong phần chú giải về Itivuttaka trong Paramatthadīpanī. Satthā có nghĩa là: Anh ấy chỉ dẫn, theo như là xứng đáng (yathārahaṃ), với những ưu điểm tuyệt đối (paramattha) liên quan đến hiện tại hữu hình (diṭṭhadhammika) và sau này (samparāyika); do đó, satthā (Đạo sư). Sayaṃ có nghĩa là: ngay cả bản thân anh ta, nhưng cá nhân. Thật vậy, đây là ý nghĩa ở đây. – Cũng giống như tồn tại trong thời kỳ của tôi, con đường cao quý (ariya magga) dẫn (gāmī) đến nibbāna, tức là bát phân (aṭṭhaṅgiko) bằng cách tám thành viên (aṅga) như vậy là đúng. xem và như vậy, tạo thành một tập hợp của ba uẩn (khandha) như là các giới (sīla) atc., theo cách tương tự, không có con đường (magga), cụ thể là, trong giáo lý của người ngoại đạo (bāhīraka): ”Như vậy, tiếng gầm thét của sư tử, Đạo sư của chúng ta, Đức Thế Tôn đã thấu hiểu nhưng chính Ngài bằng tri thức (nāna) tự tạo (sayambhū); nói cách khác,

Phần Chú giải về khổ thơ của Thera Nāgita đã hoàn thành.

.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state