Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
NTPG.Q01.B03 Đức Phật chánh đẳng giác
<p>Đức-Phật (Buddha) đó là Đức-Phật Gotama là Bậc tự chính mình đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được tất cả mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, nên gọi là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha) độc nhất vô nhị, có danh hiệu Đức-Phật Gotama.</p>
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:6015

Các tên gọi khác

Đức-Phật (Buddha) đó là Đức-Phật Gotama là Bậc tự chính mình đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được tất cả mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, nên gọi là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha) độc nhất vô nhị, có danh hiệu Đức-Phật Gotama.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
NTPG.Q01.B03 Đức Phật chánh đẳng giác

CHƯƠNG I

 

BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)

 

Phật-giáo có ba ngôi cao cả là:

  • Đức-Phật (Buddha)
  • Đức-Pháp (Dhamma)
  • Đức-Tăng (Saṃgha)

Đức-Phật dạy trong kinh Aggappasādasutta(1)

đoạn rằng:

  • “Này chư tỳ-khưu! Có bao nhiêu loài chúng-sinh: chúng-sinh không có chân, có hai chân, có bốn chân, có nhiều chân, chúng-sinh hữu sắc, vô sắc, chúng-sinh hữu tưởng, vô tưởng, phi-tưởng-phi-phi-tưởng. Trong các loài chúng-sinh ấy, Như-lai là Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, gọi là Đức-Phật cao cả nhất.
  • Này chư tỳ-khưu! Trong tất cả các pháp-hữu-vi, Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, gọi là Đức-Pháp cao cả nhất.

Trong tất cả pháp-hữu-vi và pháp-vô-vi, thì Niết-bàn

gọi là Đức-Pháp cao cả nhất.

  • Này chư tỳ-khưu! Trong tất cả các đoàn, các nhóm, chỉ có chư Thánh-Tăng, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật gọi là Đức-Tăng cao cả nhất.”

 
   
 

 

1 Aṅguttaranikāya, Catukanipāta, kinh Aggappasādasutta.

 

  • Đức-Phật (Buddha) đó là Đức-Phật Gotama là Bậc tự chính mình đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được tất cả mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, nên gọi là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha) độc nhất vô nhị, có danh hiệu Đức-Phật Gotama.

Đức-Phật có khả năng chế định ra ngôn ngữ để thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành nên tế độ, cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, cũng chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, tùy theo năng lực các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp- chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp- chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ, theo hạnh nguyện của mỗi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

 

  • Đức-Pháp (Dhamma) đó là chánh-pháp mà Đức- Phật đã thuyết giảng, giáo huấn tế độ chúng-sinh có phước-duyên được hiểu rõ, biết rõ, rồi thực-hành đúng theo chánh-pháp của Đức-Phật, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại, những kiếp vị-lai và đặc biệt có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Chánh-pháp có 10 pháp là:

  • Pháp-học chánh-pháp (Pariyattidhamma).
  • 9 Pháp siêu-tam-giới (Navalokuttaradhamma) (4 Thánh-đạo + 4 Thánh-quả + 1 Niết-bàn).

 

  • Đức-Tăng (Saṃgha) đó là chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, đã lắng nghe chánh-pháp của Đức- Phật, rồi đã thực-hành đúng theo chánh-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, gọi là Đức-Tăng.

Trong Phật-giáo, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo tâm siêu-tam-giới).

4 đôi: Thánh-đạo, Thánh-quả tương xứng

  • Nhập-lưu Thánh-đạo ® Nhập-lưu Thánh-quả.
  • Nhất-lai Thánh-đạo ® Nhất-lai Thánh-quả.
  • Bất-lai Thánh-đạo ® Bất-lai Thánh-quả.
  • A-ra-hán Thánh-đạo ® A-ra-hán Thánh-quả

8 bậc Thánh: 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả:

  • Bậc Nhập-lưu Thánh-đạo (Sotāpattimagga).
  • Bậc Nhất-lai Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga).
  • Bậc Bất-lai Thánh-đạo (Anāgāmimagga).
  • Bậc A-ra-hán Thánh-đạo (Arahattamagga).
  • Bậc Nhập-lưu Thánh-quả (Sotāpattiphala).
  • Bậc Nhất-lai Thánh-quả (Sakadāgāmiphala).
  • Bậc Bất-lai Thánh-quả (Anāgāmiphala).
  • Bậc A-ra-hán Thánh-quả (Arahattaphala).

Bậc Thánh-nhân (Ariyapuggala) có 4 bậc:

  • Bậc Thánh Nhập-lưu (Sotāpanna).
  • Bậc Thánh Nhất-lai (Sakadāgāmī).
  • Bậc Thánh Bất-lai (Anāgāmī).
  • Bậc Thánh A-ra-hán (Arahanta).

Trong Phật-giáo, mỗi bậc Thánh-nhân là kết quả của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín- pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ,

 

tuệ-pháp-chủ đã được tích lũy ở trong tâm từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại.

Trong những kiếp quá-khứ, mỗi vị đã từng gieo phước-duyên với Đức-Phật quá-khứ, hoặc với chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật quá-khứ.

Trong kiếp hiện-tại, mỗi vị đến hầu Đức-Phật, hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Ngài, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn từ thấp đến cao theo tuần tự như sau:

  • Bậc thiện-trí phàm-nhân thuộc hạng người tam- nhân thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Nhập- lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được hai loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā), trở thành bậc Thánh Nhập-lưu mới là bậc Thánh-nhân thứ nhất trong Phật-giáo.
  • Bậc Thánh Nhập-lưu tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được một loại phiền- não là sân (dosa) loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai là bậc Thánh-nhân thứ nhì trong Phật-giáo.
  • Bậc Thánh Nhất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh- quả và Niết-bàn, diệt tận được một loại phiền-não là sân (dosa) loại vi-tế không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Bất-lai là bậc Thánh-nhân thứ ba trong Phật-giáo.

 

  • Bậc Thánh Bất-Lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), buồn-chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội-lỗi (ahirika), không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A- ra-hán là bậc Thánh-nhân thứ tư cao thượng nhất trong Phật-giáo.

Để trở thành mỗi Thánh-nhân bậc nào là do năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật đã tích-lũy ở trong tâm từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá-khứ và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ, cao thấp khác nhau của mỗi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

Khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới đều giống nhau cả thảy.

Ý Nghĩa Buddha

Buddha nghĩa là gì?

Buddhā'ti catusaccasambodhena Buddhā.

Buddha nghĩa là giác-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân, gọi là Buddha.

Trong bộ Chú-giải Udāna phân loại Buddha có 3 hạng:

  1. Sammāsambuddha: Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
  2. Paccekabuddha: Đức-Phật Độc-Giác.
  3. Sāvakabuddha: Bậc Thánh Thanh-văn-giác.

 

Để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác hoặc Đức- Phật Độc-Giác hoặc Bậc Thánh Thanh-văn-giác mỗi Đức-Bồ-tát cần phải thực-hành đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật của mình cho đầy đủ trọn vẹn.

  • Để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, thì Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải thực-hành đầy đủ 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp- hạnh ba-la-mật bậc thượng.
  • Để trở thành Đức-Phật Độc-Giác, thì Đức-Bồ-tát Độc-Giác cần phải thực-hành đầy đủ 20 pháp-hạnh ba- la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung.
  • Để trở thành bậc Thánh Thanh-văn-giác, thì Đức- Bồ-tát Thanh-văn-giác cần phải thực-hành đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ.

10 pháp-hạnh ba-la-mật

  1. Bố-thí ba-la-mật (Dānapāramī).
  2. Giữ-giới ba-la-mật (Sīlapāramī)
  3. Xuất-gia ba-la-mật (Nekkhammapāramī).
  4. Trí-tuệ ba-la-mật (Paññāpāramī).
  5. Tinh-tấn ba-la-mật (Vīriyapāramī).
  6. Nhẫn-nại ba-la-mật (Khantipāramī).
  7. Chân-thật ba-la-mật (Saccapāramī).
  8. Phát-nguyện ba-la-mật (Adhiṭṭhānapāramī).
  9. Tâm-từ ba-la-mật (Mettāpāramī).
  10. Tâm-xả ba-la-mật (Upekkhāpāramī).

Mỗi pháp-hạnh ba-la-mật có ba bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng như sau:

  1. Bố-thí ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.

 

  1. Giữ-giới ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  2. Xuất-gia ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  3. Trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  4. Tinh-tấn ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  5. Nhẫn-nại ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  6. Chân-thật ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  7. Phát-nguyện ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  8. Tâm-từ ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  9. Tâm-xả ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.

Như vậy, 10 pháp-hạnh ba-la-mật trở thành 30 pháp- hạnh ba-la-mật:

  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ.
  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung.
  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng.

Cách thực-hành pháp-hạnh ba-la-mật mỗi bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng hoàn toàn khác nhau.

  1. Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác

Sammāsambuddha: Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi- giới chúng-sinh, nên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha) độc nhất vô nhị.

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có ba hạng:

  1. Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt (Sammāsambuddha paññādhika) nghĩa là Đức-Phật có trí-tuệ nhiều năng lực hơn đức-tin và tinh-tấn.
  2. Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt (Sammāsambuddha saddhādhika) nghĩa là Đức-Phật có đức-tin nhiều năng lực hơn trí-tuệ và tinh-tấn.

 

  1. Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt (Sammāsambuddha vīriyādhika) nghĩa là Đức-Phật có tinh-tấn nhiều năng lực hơn trí-tuệ và đức-tin.

* Để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt như thế nào?

Để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt (Sammāsambuddha paññādhika), thì Đức-Bồ- tát Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambodhisatta) ấy cần phải thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật:

  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ (pāramī)

Khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy thực-hành pháp- hạnh ba-la-mật bậc hạ nào, cần phải hy sinh những gì thuộc về bên ngoài thân mình như của cải, tài sản, ngôi báu, thậm chí cả vợ con nữa, để thành tựu pháp-hạnh ba- la-mật bậc hạ ấy.

  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung (upapāramī)

Khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy thực-hành pháp- hạnh ba-la-mật bậc trung nào, cần phải hy sinh những bộ phận nào trong thân thể của mình, để thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung ấy.

  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng (paramattha- pāramī)

Khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy thực-hành pháp- hạnh ba-la-mật bậc thượng nào, cần phải hy sinh sinh- mạng của mình, để thành-tựu pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng ấy.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt ấy cần phải thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật trải qua ba thời-kỳ:

 

  • Thời-kỳ đầu: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt phát-nguyện ở trong tâm, có ý-nguyện muốn trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, để mong tế độ cứu vớt chúng-sinh thoát khỏi biển khổ trầm luân, rồi thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian suốt 7 a-tăng-kỳ.
  • Thời-kỳ giữa: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt phát-nguyện ra bằng lời nói, để cho chúng- sinh biết ý-nguyện muốn trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác của Đức-Bồ-tát, rồi phải thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian suốt 9 a-tăng-kỳ.

Dù đã trải qua hai thời-kỳ trên, Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt vẫn còn là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác bất-định (aniyatabodhisatta) nghĩa là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy có thể thay đổi ý- nguyện của mình, không muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mà chỉ muốn trở thành Đức-Phật Độc-Giác hoặc bậc Thánh Thanh-văn-giác mà thôi.

Nếu như Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt ấy vẫn giữ ý-nguyện, tiếp tục thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật thì sẽ dẫn đến thời-kỳ cuối.

  • Thời-kỳ cuối: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt ấy được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đầu tiên thọ ký xác định thời gian còn lại là 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.

Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu- việt ấy trở thành Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt cố-định (niyatabodhisatta). Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy tiếp tục thực-hành 30 pháp-hạnh

 

ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn trong suốt khoảng thế gian ấy cho đến kiếp chót.

Trong suốt thời-kỳ cuối, 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất, thực-hành bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, mỗi khi có Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt ấy đến hầu Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại.

Đến kiếp chót, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt ấy chắc chắn tái-sinh làm người trong thời- kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian. Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt ấy xuất gia, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha) độc nhất vô nhị trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh.

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy có khả năng đặc biệt chế định ra ngôn ngữ, để thuyết pháp tế độ chúng-sinh có phước-duyên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, tùy theo năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ và 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi chúng-sinh đã tích-lũy ở trong tâm từ vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại.

 

* Để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có đức- tin siêu-việt như thế nào?

Để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt (Sammāsambuddha saddhhādhika), thì Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt (Sammā- sambodhisatta) ấy cần phải thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật giống như Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt, nhưng về thời gian trải qua ba thời-kỳ của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt thì mỗi thời-kỳ cần phải thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật suốt thời gian gấp đôi thời gian của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác trí-tuệ siêu-việt như sau:

  • Thời-kỳ đầu: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt phát-nguyện ở trong tâm, có ý-nguyện muốn trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, để mong tế độ cứu vớt chúng-sinh thoát khỏi biển khổ trầm luân, rồi thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian suốt 14 a-tăng-kỳ.
  • Thời-kỳ giữa: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt phát-nguyện ra bằng lời nói, để cho chúng-sinh biết ý-nguyện muốn trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác của Đức-Bồ-tát, rồi phải thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian suốt 18 a-tăng-kỳ.

Dù đã trải qua hai thời-kỳ trên, Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt vẫn còn là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác bất-định (aniyatabodhisatta) nghĩa là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy có thể thay đổi ý- nguyện của mình, không muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mà chỉ muốn trở thành Đức-Phật Độc-Giác, hoặc bậc Thánh thanh-văn-giác mà thôi.

 

Nếu như Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt ấy vẫn giữ ý-nguyện, tiếp tục thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật thì sẽ dẫn đến thời-kỳ cuối.

  • Thời-kỳ cuối: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt ấy được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đầu tiên thọ ký xác định thời gian còn lại là 8 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.

Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt ấy trở thành Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt cố-định (niyatabodhisatta). Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy tiếp tục thực-hành 30 pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn trong suốt khoảng thời gian ấy cho đến kiếp chót.

Trong suốt thời-kỳ chót, 8 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất thực-hành bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, mỗi khi có Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt ấy đến hầu Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại.

Đến kiếp chót, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức- tin siêu-việt ấy chắc chắn tái-sinh làm người trong thời- kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian. Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt ấy xuất gia, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không có thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, gọi

 

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha) độc nhất vô nhị trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh.

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy…

(Phần còn lại giống như Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt).

* Để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt như thế nào?

Để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt (Sammāsambuddha vīriyādhika), thì Đức-Bồ- tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt (Sammā- sambodhisatta) ấy cần phải thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật giống như Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt, nhưng về thời gian trải qua ba thời-kỳ của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt thì mỗi thời-kỳ cần phải thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật suốt thời gian gấp đôi thời gian của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu- việt như sau:

  • Thời-kỳ đầu: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt phát-nguyện ở trong tâm, có ý-nguyện muốn trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, để mong tế độ cứu vớt chúng-sinh thoát khỏi biển khổ trầm luân, rồi thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian suốt 28 a-tăng-kỳ.
  • Thời-kỳ giữa: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt phát-nguyện ra bằng lời nói, để cho chúng-sinh biết ý-nguyện muốn trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác của Đức-Bồ-tát, rồi phải thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian suốt 36 a-tăng-kỳ.

 

Dù đã trải qua hai thời-kỳ trên, Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt vẫn còn là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác bất-định (aniyatabodhisatta) nghĩa là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy có thể thay đổi ý- nguyện của mình, không muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mà chỉ muốn trở thành Đức-Phật Độc-Giác, hoặc bậc Thánh thanh-văn-giác mà thôi.

Nếu như Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt ấy vẫn giữ ý-nguyện, tiếp tục thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật thì sẽ dẫn đến thời-kỳ cuối.

  • Thời-kỳ cuối: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt ấy được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đầu tiên thọ ký xác định thời gian còn lại là 16 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.

Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt ấy trở thành Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt cố-định (niyatabodhisatta). Đức-Bồ- tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt ấy tiếp tục thực-hành 30 pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn trong suốt khoảng thời gian ấy cho đến kiếp chót.

Trong suốt thời-kỳ cuối, 16 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất thực-hành bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, mỗi khi có Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt ấy đến hầu Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại.

Đến kiếp chót, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh- tấn siêu-việt ấy chắc chắn tái-sinh làm người trong thời- kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện

 

trên thế gian. Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt ấy xuất gia, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không có thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra- hán đầu tiên trong toàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambuddha) độc nhất vô nhị trong muôn ngàn cõi giới chúng-sinh.

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy có khả năng đặc biệt chế định ra ngôn ngữ, để thuyết pháp tế độ chúng-sinh có phước-duyên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, tùy theo năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ và 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi chúng-sinh đã tích lũy ở trong tâm từ vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại.

Mỗi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian là một điều vô cùng hy hữu. Thật vậy, theo lịch sử Đức-Phật Gotama trong bộ Jinakālamālī và bộ Chú-giải Buddhavaṃsa dạy:

Trong quá-khứ, có khi trải qua thời gian 1 a-tăng-kỳ đại-kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không mà không có một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian gọi là Suññakappa nghĩa là vô số đại-kiếp trái đất không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian.

Thật vô cùng diễm phúc, trong kiếp trái đất mà chúng ta đang sống gọi là Bhaddakappa: đại-kiếp trái đất có đến 5 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian trong cùng đại-kiếp trái đất này.

 

  • Trong thời quá-khứ tuần tự xuất hiện trên thế gian:
  • Đức-Phật Kakusandha xuất hiện trên thế gian trong thời-kỳ con người có tuổi thọ 40.000 năm.
  • Đức-Phật Koṇāgamana xuất hiện trên thế gian trong thời-kỳ con người có tuổi thọ 30.000 năm.
  • Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian trong thời-kỳ con người có tuổi thọ 20.000 năm.
  • Trong thời hiện-tại, Đức-Phật Gotama của chúng ta đã xuất hiện trên thế gian trong thời-kỳ con người có tuổi thọ 100 năm. Đức-Phật thuyết-pháp tế độ chúng- sinh 45 năm.

Đức-Phật đã tịch diệt Niết-bàn tròn 80 tuổi, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, cách nay 2.562 năm.

Song giáo-pháp của Đức-Phật Gotama vẫn còn được lưu truyền trên thế gian này cho đến hết 5.000 năm tuổi thọ của Phật-giáo, rồi cũng sẽ bị mai một, bị tiêu hoại hoàn toàn trên cõi người, bởi vì các hàng thanh-văn đệ- tử không còn một ai biết đến Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng nữa.

  • Trong thời vị-lai, Đức-Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian trong thời-kỳ con người có tuổi thọ 80.000 năm, cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này.

Thời vị-lai, Đức-Phật Metteyya sẽ tịch diệt Niết-bàn, giáo-pháp của Đức-Phật Metteyya cũng sẽ bị mai một, bị tiêu hoại hoàn toàn trên cõi người.

Về sau, kiếp trái đất này sẽ bị tiêu hoại hoàn toàn.

ĐỨC PHẬT GOTAMA

Hiện-tại chúng ta đang sống trong thời-kỳ giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, tuy Đức-Phật đã tịch diệt Niết-

 

bàn cách đây 2.562 năm, song giáo-pháp của Đức-Phật vẫn còn lưu truyền trên thế gian cho đến 5.000 năm, rồi sẽ bị mai một hoàn toàn, bởi vì khi ấy các hàng thanh- văn đệ-tử không còn ai có trí-tuệ giữ gìn duy trì chánh- pháp của Đức-Phật Gotama được nữa.

Tiền-Kiếp Của Đức-Phật Gotama

Đức-Phật Gotama Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt, cho nên, vô số tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu- việt nghĩa là Đức-Bồ-tát có trí-tuệ nhiều năng lực hơn đức-tin và tinh-tấn.

Trong bộ Jinakālamālī và bộ Chú-giải Buddhavaṃsa giảng giải về Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama thực-hành bồi bổ đầy đủ trọn vẹn các pháp-hạnh ba-la-mật trải qua ba thời-kỳ:

  • Thời-kỳ đầu: Thời-kỳ Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã phát-nguyện trong tâm, có ý-nguyện muốn trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác để tế độ, cứu vớt chúng- sinh thoát khỏi biển khổ trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, rồi Đức-Bồ-tát thực- hành các pháp-hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian suốt 7 a-tăng-kỳ, tiếp đến thời-kỳ giữa.

Trong khoảng thời gian suốt 7 a-tăng-kỳ lâu dài ấy,

125.000 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác tuần tự mỗi Đức- Phật đã xuất hiện trên thế gian.

- Thời-kỳ giữa: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt ấy đã phát-nguyện bằng lời nói, để cho chúng-sinh nghe, biết ý-nguyện muốn trở thành một

 

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác của Đức-Bồ-tát, rồi Đức- Bồ-tát tiếp tục thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian suốt 9 a-tăng-kỳ.

Trong khoảng thời gian suốt 9 a-tăng-kỳ lâu dài ấy có 342.000(1) Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mỗi Đức-Phật tuần tự đã xuất hiện trên thế gian.

Qua hai thời-kỳ trên, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt vẫn còn là Đức-Bồ-tát bất-định (aniyatabodhisatta) nghĩa là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác có trí-tuệ siêu-việt ấy có thể thay đổi ý-nguyện không muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, mà chỉ muốn trở thành Đức-Phật Độc-Giác, hoặc bậc Thánh Thanh-văn-giác mà thôi.

Nhưng Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu- việt tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vẫn giữ nguyên ý- nguyện, rồi vẫn tiếp tục thực-hành các pháp-hạnh ba-la- mật, thì sẽ dẫn đến thời-kỳ cuối.

- Thời-kỳ cuối: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt là vị Đạo-sĩ Sumedha, tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama hội đầy đủ 8 chi-pháp, nên được Đức- Phật Dīpaṅkara là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đầu tiên thọ ký, xác định thời gian còn lại là 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, hậu-kiếp của vị Đạo-sĩ Sumedha sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu Đức-Phật Gotama.

Từ kiếp đó, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama chính thức trở thành Đức-Bồ-tát cố-định (niyatabodhisatta) chắc chắn sẽ trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.

 
   
 

 

1 Theo Jinakālamālī có 387.000 Đức-Phật.

 

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama tiếp tục thực-hành bồi bổ tích-lũy các pháp-hạnh ba-la-mật ở trong tâm từ kiếp này sang kiếp kia trong khoảng thời gian 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, cho được đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, để trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác.

Trong suốt thời gian 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu- việt là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, thực-hành bồi bổ cho được đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, mỗi khi có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đều đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy và được Đức-Phật ấy thọ ký xác định thời gian còn lại, gồm có 24 Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác theo tuần tự mỗi Đức-Phật như sau:

24 Đức-Phật thọ ký theo tuần tự

  1. Đức-Phật Dīpaṅkara xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm.

Khi ấy, vị đạo-sĩ Sumedha đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới chứng đắc ngũ thông(1)trong tam-giới, vốn là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt đã từng thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật trải qua hai thời-kỳ gồm có 16 a-tăng-kỳ với nguyện vọng muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai. Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Đạo-sĩ Sumedha đến hầu cúng dường Đức-Phật Dīpaṅkara.

 
   
 

 

1 Ngũ thông trong tam-giới: Đa-dạng-thông, nhãn-thông, nhĩ-thông, tha- tâm-thông và tiền-kiếp-thông.

 

Khi ấy, Đức-Phật Dīpaṅkara trí-tuệ vị-lai kiến- minh (anāgataṃsañāṇa) xem xét thấy Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đạo-sĩ Sumedha hội đủ 8 chi-pháp được thọ-ký, nên Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 4 a-tăng-kỳ(1) và 100 ngàn đại- kiếp trái đất(2) nữa, vị đạo-sĩ Sumedha này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Đạo-sĩ Sumedha lần đầu tiên được Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, nên Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Đạo-sĩ Sumedha vô cùng hoan hỷ.

Bắt đầu từ kiếp ấy về sau, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác chính thức trở thành Đức-Bồ-tát cố-định (niyata- bodhisatta) tiếp tục kiên trì thực-hành bồi bổ 30 pháp- hạnh ba-la-mật suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, cho đầy đủ và trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la- mật, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama trong thời vị-lai.

 

 

 
   
 

 

1 A-tăng-kỳ (asaṅkhyeyya): Là khoảng thời gian không thể tính bằng số. Cứ trải qua vô số đại-kiếp trái đất (mahākappa) kể là một a-tăng-kỳ.

2 Đại-kiếp: Thời gian trái đất trải qua 4 a-tăng-kỳ thành-trụ-hoại-không, là thời gian quá lâu, Đức-Phật có ví dụ: Một hòn núi đặc hình khối, mỗi chiều một do tuần (khoảng 20 km), cứ 100 năm một chư-thiên lấy tấm vải mịn và mỏng quét nhẹ qua một lần cho đến khi mòn hết hòn núi ấy, thế mà thời gian ấy chưa kể được một đại-kiếp.

- Chú ý: A-tăng-kỳ (asaṅkhyeyya) theo thời gian mà Đức-Bồ-tát thực-hành ba-la-mật có nghĩa không thể tính bằng số (vô số) ví dụ 4 a-tăng-kỳ với 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

 

Đức-Phật Dīpaṅkara thọ 100 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn.

Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ vô số đại-kiếp trái đất thành-trụ-hoại- không mà không có một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian.

Những kiếp trái đất ấy gọi là Suññakappa (kiếp trái đất không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện), mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Sārakappa có một Đức- Phật Koṇḍañña xuất hiện trên thế gian.

  1. Đức-Phật Koṇḍañña xuất hiện trên thế gian trong kiếp trái đất gọi là Sārakappa, vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức Chuyển-Luân Thánh-vương Vijitāvī đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Koṇḍañña và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 3 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa, Đức Chuyển-luân Thánh-vương Vijitāvī này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Chuyển-Luân Thánh- vương Vijitāvī vô cùng hoan hỷ tiếp tục bồi bổ 30 pháp- hạnh ba-la-mật.

Về sau, Đức-Bồ-tát Chuyển-luân Thánh-vương Vijitāvī từ bỏ ngôi vua, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Koṇḍañña xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Đức-Phật Koṇḍañña thọ 100 ngàn tuổi, rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn.

 

Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ vô số đại-kiếp trái đất thành-trụ-hoại- không, mà không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian.

Mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Sāramaṇḍakappa có 4 Đức-Phật: Đức-Phật Maṅgala, Đức-Phật Sumana, Đức- Phật Revata Đức-Phật Sobhita, mỗi Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất ấy.

  1. Đức-Phật Maṅgala xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama vị Bà-la-môn Suruci đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Maṅgala và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa, vị Bà-la-môn Suruci này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Bà-la-môn Suruci vô cùng hoan hỷ tiếp tục bồi bổ 30 pháp-hạnh Ba-la-mật.

Về sau, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Bà-la-môn Suruci đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Maṅgala, xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu Suruci trong giáo-pháp của Đức-Phật Maṅgala.

Đức-Phật Maṅgala thọ 90 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết- bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, ác-pháp càng ngày càng tăng trưởng, còn thiện-pháp càng ngày càng suy thoái. Vì vậy, tuổi thọ con người càng ngày càng giảm dần, giảm dần cho đến tột cùng chỉ còn 10 năm.

 

Sau đó, một thảm họa khủng khiếp đã xảy ra, con người chém giết lẫn nhau vô cùng tàn khốc, không phân biệt cha mẹ, con cái, anh em, bà con, ... một số người hoảng sợ chạy trốn trong rừng núi thoát thân.

Biết nạn chém giết không còn nữa, số người ấy gặp lại nhau, cam kết không sát hại lẫn nhau nữa. Khi ấy, con người biết ghê-sợ tội-lỗi, cố gắng tinh-tấn thực-hành mọi phước-thiện, thiện-pháp càng ngày càng tăng trưởng, nên tuổi thọ con người càng ngày càng tăng lên dần, tăng lên dần cho đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm(1).

Thời-kỳ ấy, con người sống dể duôi (thất-niệm), ác- pháp phát sinh, do đó, tuổi thọ con người lại giảm xuống dần, giảm xuống dần cho đến khi thời đại con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm.

Khi ấy, Đức-Phật Sumana xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Sāramaṇḍakappa.

  1. Đức-Phật Sumana xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức Long-vương Atula đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Sumana và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức-Phật Maṅgala rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa, Đức Long-vương Atula này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Sumana thọ 90 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết- bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn.

 
   
 

 

1 A-tăng-kỳ ở đây là đơn vị số lượng: Số 1 đứng trước 140 số không (0), viết tắt là 10140

 

Từ đó, mọi hiện tượng diễn biến xảy ra cũng giống như sau thời-kỳ Đức-Phật Maṅgala tịch diệt Niết-bàn.

Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm, rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm dần cho đến thời đại con người có tuổi thọ 60 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Phật Revata xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Sāramaṇḍa- kappa.

  1. Đức-Phật Revata xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 60 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị Bà-la-môn Atideva đến hầu đảnh lễ Đức- Phật Revata và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức-Phật Maṅgala Đức-Phật Sumana rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa, vị Bà-la-môn Atideva này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Revata thọ 60 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết- bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng diễn biến xảy ra cũng giống như sau thời-kỳ Đức-Phật Maṅgala và Đức-Phật Sumana tịch diệt Niết-bàn.

Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm, rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống dần cho đến thời đại con người có tuổi thọ 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Phật Sobhita xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Sāramaṇḍakappa.

 

  1. Đức-Phật Sobhita xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị Bà-la-môn Sujāta đến hầu đảnh lễ Đức- Phật Sobhita và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức-Phật Maṅgala, Đức-Phật Sumana Đức-Phật Revata rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa, vị Bà-la-môn Sujāta này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Sobhita thọ 90 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết- bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ vô số đại-kiếp trái đất thành- trụ-hoại-không, mà không có một Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian.

Mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Varakappa có 3 Đức- Phật: Đức-Phật Anomadassī, Đức-Phật Paduma Đức- Phật Nārada, mỗi Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian trong cùng kiếp trái đất ấy.

  1. Đức-Phật Anomadassī xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị Thống-tướng Yakkha, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Anomadassī và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa, vị Thống-tướng Yakkha này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

 

Đức-Phật Anomadassī thọ 100 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng diễn biến xảy ra theo một chu kỳ tuổi thọ giảm-tăng-giảm cũng giống như sau khi Chư Phật quá-khứ tịch diệt Niết-bàn.

Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm, rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống dần cho đến thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức- Phật Paduma xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Varakappa ấy.

  1. Đức-Phật Paduma xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Sư tử chúa, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Paduma và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức-Phật Anomadassī rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa, Sư tử chúa này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Paduma thọ 100 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng diễn biến xảy ra tương tự giống như sau thời-kỳ Đức-Phật Anomadassī tịch diệt Niết-bàn.

Tuổi thọ con người giảm xuống dần, giảm dần xuống đến tột cùng chỉ còn 10 năm; rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống dần cho đến thời đại con người có tuổi thọ 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Phật Nārada xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Varakappa ấy.

 

  1. Đức-Phật Nārada xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị đạo-sĩ chứng đắc các bậc thiền sắc-giới và các bậc thiền vô-sắc-giới, có ngũ thông, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Nārada và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức-Phật Anomadassī Đức- Phật Paduma rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa, vị đạo-sĩ này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Nārada thọ 90 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết- bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó thời gian trải qua 1 a-tăng-kỳ vô số đại-kiếp trái đất thành- trụ-hoại-không, mà không có một Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian.

Mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Sārakappa Đức- Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian.

  1. Đức-Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm.

Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, Phú hộ Jaṭila, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Padumuttara và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, Phú hộ Jaṭila này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Padumuttara thọ 100 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai

 

một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó trải qua 70.000 đại-kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không mà không có một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian.

Mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Maṇḍakappa có 2 Đức-Phật: Đức-Phật Sumedha Đức-Phật Sujāta, mỗi Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất ấy.

  1. Đức-Phật Sumedha xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama vị Bà-la-môn Uttara, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Sumedha, xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật. Về sau, vị tỳ-khưu Uttara được Đức-Phật Sumedha thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 30 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, vị tỳ-khưu Uttara này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Sumedha thọ 90 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết- bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng diễn biến xảy ra diễn tiến theo một chu kỳ tuổi thọ giảm rồi tăng, tăng rồi giảm cũng giống như sau khi Chư Phật quá-khứ tịch diệt Niết-bàn.

Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm, rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống dần cho đến thời đại con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức- Phật Sujāta xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Maṇḍakappa ấy.

 

  1. Đức-Phật Sujāta xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức Chuyển-luân Thánh-vương đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Sujāta, xin phép xuất gia trở thành tỳ- khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Về sau, Đức-Bồ-tát tỳ-khưu được Đức-Phật Sujāta thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức-Phật Sumedha rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 30 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, vị tỳ-khưu này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Sujāta thọ 90 ngàn năm tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó thời gian trải qua 28.200 đại-kiếp trái đất thành-trụ-hoại- không, mà không có một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian.

Mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Varakappa có 3 Đức- Phật: Đức-Phật Piyadassī, Đức-Phật Atthadassī Đức- Phật Dhammadassī, mỗi Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Varakappa ấy.

  1. Đức-Phật Piyadassī xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama vị Bà-la-môn Kassapa, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Piyadassī và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 1.800 đại-kiếp trái đất nữa, vị Bà-la-môn Kassapa này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

 

Đức-Phật Piyadassī thọ 90 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng diễn biến xảy ra diễn tiến theo một chu kỳ tuổi thọ giảm rồi tăng, tăng rồi giảm cũng giống như sau khi Chư Phật quá-khứ tịch diệt Niết-bàn.

Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm, rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống dần cho đến thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức- Phật Atthadassī xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Varakappa.

  1. Đức-Phật Atthadassī xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị đạo-sĩ Susīma đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Atthadassī và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức-Phật Piyadassī rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 1.800 đại-kiếp trái đất nữa, vị đạo-sĩ Susīma này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Atthadassī thọ 100 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng diễn biến tương tự xảy ra cũng giống như sau khi Đức-Phật Piyadassī tịch diệt Niết-bàn.

Tuổi thọ con người giảm xuống dần cho đến tột cùng chỉ còn 10 năm; rồi tuổi thọ con người tăng lên dần, tăng lên dần cho đến tột cùng a-tăng-kỳ năm; rồi lại giảm dần, giảm xuống dần cho đến thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Phật Dhamma-

 

dassī xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất

Varakappa ấy.

  1. Đức-Phật Dhammadassī xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức-vua Trời Sakka cõi Tam- thập-Tam-thiên, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Dhamma- dassī và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức-Phật Piyadassī Đức-Phật Atthadassī rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 1.800 đại-kiếp trái đất nữa, Đức-vua Trời Sakka này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Dhammadassī thọ 100 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó thời gian trải qua 1.706 đại-kiếp trái đất thành-trụ-hoại- không mà không có một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian.

Mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Sārakappa mới có một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha xuất hiện trên thế gian.

  1. Đức-Phật Siddhattha xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama vị Bà-la-môn phú hộ xuất gia trở thành đạo-sĩ Maṅgala, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Siddhattha và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 94 đại-kiếp trái đất nữa, vị đạo-sĩ Maṅgala này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

 

Đức-Phật Siddhattha thọ 100 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó thời gian trải qua 2 đại-kiếp trái đất không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian.

Mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Maṇḍakappa có 2 Đức-Phật: Đức-Phật Tissa Đức-Phật Phussa, mỗi Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất ấy.

  1. Đức-Phật Tissa xuất hiện trên thế gian, vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị đạo-sĩ Sujāta đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Tissa và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 92 đại-kiếp trái đất nữa, vị đạo-sĩ Sujāta này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Tissa thọ 100 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết- bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng diễn biến xảy ra diễn tiến theo một chu kỳ tuổi thọ giảm rồi tăng, tăng rồi giảm cũng giống như sau khi Chư Phật quá-khứ tịch diệt Niết-bàn.

Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm, rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống dần cho đến thời đại con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức- Phật Phussa xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Maṇḍakappa ấy.

 

  1. Đức-Phật Phussa xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 90 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức Chuyển-luân Thánh-vương Vijītāvī, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Phussa, xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật. Về sau, vị tỳ-khưu Vijītāvī được Đức-Phật Phussa thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức-Phật Tissa rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 92 đại-kiếp trái đất nữa, vị tỳ- khưu Vijītāvī này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Phussa thọ 90 ngàn năm tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó thời gian 1 đại-kiếp trái đất không có một Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian.

Mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Sārakappa một

Đức-Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian.

  1. Đức-Phật Vipassī xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 80 ngàn năm. Khi ấy Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức Long-vương Atula, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Vipassī và được Đức-Phật thọ ký, xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 91 đại-kiếp trái đất nữa, Đức Long vương Atula này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Vipassī thọ 80 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết- bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó thời gian trải qua 60 đại-kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không

 

mà không có một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian.

Mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Maṇḍakappa có 2 Đức-Phật: Đức-Phật Sikhī Đức-Phật Vessabhū, mỗi Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất ấy.

  1. Đức-Phật Sikhī xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 70 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức-vua Arindama đến hầu đảnh lễ Đức- Phật Sikhī và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 31 đại-kiếp trái đất nữa, Đức- vua Arindama này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Sikhī thọ 80 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết- bàn, và giáo-pháp của Ngài dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, mọi hiện tượng diễn biến xảy ra diễn tiến theo một chu kỳ tuổi thọ giảm rồi tăng, tăng rồi giảm cũng giống như sau khi Chư Phật quá-khứ tịch diệt Niết-bàn.

Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm, rồi tăng lên dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm, rồi lại giảm dần, giảm xuống dần cho đến thời đại con người có tuổi thọ khoảng 60 ngàn năm. Khi ấy, Đức- Phật Vessabhū xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Maṇḍakappa ấy.

  1. Đức-Phật Vessabhū xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 60 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-

 

Phật Gotama Đức-vua Sudassana, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Vessabhū, xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Về sau, tỳ-khưu Sudassana được Đức-Phật Vessabhū thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức-Phật Sikhī rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 31 đại-kiếp trái đất nữa, vị tỳ- khưu Sudassana này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Vessabhū thọ 60 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, trái đất bị tiêu hoại và sau đó thời gian trải qua 31 đại-kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không mà không có một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian.

Mãi cho đến kiếp trái đất gọi là Bhaddakappa (trái đất hiện-tại mà chúng ta đang sống) 5 Đức-Phật: Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇāgamana, Đức- Phật Kassapa, Đức-Phật Gotama Đức-Phật Metteyya, mỗi Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này.

  1. Đức-Phật Kakusandha xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 40 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức-vua Khema, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Kakusandha, xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật. Về sau, tỳ-khưu Khema được Đức-Phật Kakusandha thọ ký xác định thời gian rằng:

“Trong thời vị-lai, ngay cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này, vị tỳ-khưu Khema này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

 

Đức-Phật Kakusandha thọ 40 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật dần dần bị mai một hoàn toàn. Từ đó, ác-pháp càng ngày càng tăng trưởng còn thiện-pháp càng ngày càng suy thoái, do đó, tuổi thọ con người càng ngày càng giảm dần, giảm dần cho đến tột cùng chỉ còn 10 năm. Sau đó, một thảm họa khủng khiếp đã xảy ra, con người chém giết lẫn nhau vô cùng tàn khốc, không phân biệt cha mẹ, con cái, anh em, bà con, ... một số người hoảng sợ chạy trốn trong rừng núi thoát thân.

Khi biết nạn chém giết không còn nữa, số người ấy gặp lại nhau, cam kết không sát hại nhau nữa. Khi ấy, con người biết ghê-sợ tội-lỗi, cố gắng tinh-tấn thực-hành mọi phước-thiện, thiện-pháp càng ngày càng tăng trưởng, cho nên, tuổi thọ con người càng ngày càng tăng lên dần, tăng lên dần cho đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm.

Thời-kỳ ấy, con người sống dể duôi (thất-niệm), ác- pháp phát sinh, do đó, tuổi thọ con người lại giảm dần, giảm dần cho đến thời đại con người tuổi thọ khoảng 30 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Phật Koṇāgamana xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này.

  1. Đức-Phật Koṇāgamana xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 30 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức-vua Pabbata, đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Koṇāgamana và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức-Phật Kakusandha rằng:

“Trong thời vị-lai, ngay cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này, Đức-vua Pabbata này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

 

Đức-Phật Koṇāgamana thọ 30 ngàn tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật cũng dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, mọi hiện tượng xảy ra tương tự cũng giống như sau khi Đức-Phật Kakusandha tịch diệt Niết-bàn.

Tuổi thọ con người giảm xuống dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm, rồi tuổi thọ lại tăng dần lên đến tột đỉnh a- tăng-kỳ năm, rồi lại giảm xuống dần đến thời đại con người có tuổi thọ khoảng 20 ngàn năm. Khi ấy, Đức- Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này.

  1. Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 20 ngàn năm. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị Bà-la-môn Jotipāla, đến hầu đảnh lễ Đức- Phật Kassapa, xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật. Về sau, tỳ-khưu Jotipāla được Đức-Phật Kassapa thọ ký xác định thời gian còn lại y như Đức-Phật Kakusandha Đức-Phật Koṇāgamana rằng:

“Trong thời vị-lai, ngay cùng trong kiếp trái đất Bhadda- kappa này, vị tỳ-khưu Jotipāla này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Kassapa thọ 20 ngàn năm tuổi rồi tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật cũng dần dần bị mai một hoàn toàn. Về sau, mọi hiện tượng xảy ra tương tự giống như sau khi Đức-Phật Kakusandha Đức- Phật Koṇāgamana tịch diệt Niết-bàn.

Xác định thời gian trở thành Đức-Phật

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức-Bồ-tát Đạo-

 

Sumedha được Đức-Phật Dīpaṅkara đầu tiên thọ ký xác

định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa, vị Đạo-sĩ Sumedha này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Và cuối cùng Đức-Bồ-tát tỳ-khưu Jotipāla tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama được Đức-Phật Kassapa thứ 24 thọ ký xác định thời gian rằng:

“Trong thời vị-lai, ngay cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này, vị tỳ-khưu Jotipāla này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Khoảng thời gian suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất gồm có 24 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác theo tuần tự mỗi Đức-Phật xuất hiện trên thế gian. Mỗi khi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian, thì Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đều đến hầu đảnh lễ Đức-Phật ấy và được Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức- Phật Gotama.

Kiếp Đức-Bồ-Tát được 24 Đức-Phật thọ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama trải qua vô số tiền-kiếp không sao kể xiết, trong cuộc hành trình thực-hành 30 pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn, chỉ có 24 kiếp được 24 Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định thời gian còn lại mà thôi.

Trong 24 tiền-kiếp ấy phân loại theo kiếp như sau:

 

  • 9 kiếp tỳ-khưu,
  • 5 kiếp đạo-sĩ,
  • 5 kiếp người tại gia,
  • 2 kiếp Đức Long-vương,
  • 1 kiếp Đức-vua-trời Sakka,
  • 1 kiếp Thống tướng Yakkha,
  • 1 kiếp sư tử chúa.

9 Kiếp tỳ-khưu được thọ

  1. Thời-kỳ Đức-Phật Koṇḍañña, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức Chuyển-luân Thánh-vương Vijitāvī đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ- khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Koṇḍañña.
  2. Thời-kỳ Đức-Phật Maṅgala, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị Bà-la-môn Suruci đến hầu Đức-Phật Maṅgala, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Maṅgala.
  3. Thời-kỳ Đức-Phật Sumedha, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị Bà-la-môn Uttara đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Sumedha, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo- pháp của Đức-Phật Sumedha.
  4. Thời-kỳ Đức-Phật Sujāta, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức Chuyển-luân Thánh-vương đến hầu đảnh lễ Đức- Phật Sujāta, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ- khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Sujāta.
  5. Thời-kỳ Đức-Phật Phussa, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức-vua Vijitāvī đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Phussa, xin

 

Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo- pháp của Đức-Phật Phussa.

  1. Thời-kỳ Đức-Phật Vessabhū, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức-vua Sudassana đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Vessabhū, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Vessabhū.
  2. Thời-kỳ Đức-Phật Kakusandha, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức-vua Khema đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Kakusandha, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo- pháp của Đức-Phật Kakusandha.
  3. Thời-kỳ Đức-Phật Koṇāgamana, khi ấy, Đức-Bồ- tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức-vua Pabbata đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Koṇā- gamana, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Koṇāgamana.
  4. Thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị Bà-la-môn Jotipāla đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Kassapa, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo- pháp của Đức-Phật Kassapa.

5 Kiếp Đạo-sĩ được thọ

  1. Thời-kỳ Đức-Phật Dīpaṅkara, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đạo-sĩ Sumedha đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Dīpaṅkara và được Đức-Phật thọ ký lần đầu tiên.
  2. Thời-kỳ Đức-Phật Nārada, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đạo-sĩ đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Nārada và được Đức- Phật thọ ký.

 

  1. Thời-kỳ Đức-Phật Atthadassī, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị đạo-sĩ Susīma đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Atthadassī và được Đức-Phật thọ ký.
  2. Thời-kỳ Đức-Phật Siddhattha, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị đạo-sĩ Maṅgala đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Siddhattha và được Đức-Phật thọ ký.
  3. Thời-kỳ Đức-Phật Tissa, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị đạo-sĩ Sujāta đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Tissa và được Đức-Phật thọ ký.

5 Kiếp người tại gia được thọ

  1. Thời-kỳ Đức-Phật Revata, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị Bà-la-môn Atideva đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Revata và được Đức-Phật thọ ký.
  2. Thời-kỳ Đức-Phật Sobhita, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị Bà-la-môn Sujāta đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Sobhita và được Đức-Phật thọ ký.
  3. Thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara, khi ấy, Đức-Bồ- tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama phú-hộ Jaṭila đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Padumuttara và được Đức-Phật thọ ký.
  4. Thời-kỳ Đức-Phật Piyadassī, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama vị Bà-la-môn Kassapa đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Piyadassī và được Đức-Phật thọ ký.
  5. Thời-kỳ Đức-Phật Sikhī, khi ấy, Đức-Bồ-tát chánh-

 

Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức-vua Arindama đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Sikhī và được Đức- Phật thọ ký.

2 Kiếp Long-vương được thọ

  1. Thời-kỳ Đức-Phật Sumana, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức Long-vương Atula đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Sumana và được Đức-Phật thọ ký.
  2. Thời-kỳ Đức-Phật Vipassī, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Đức Long-vương Atula đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Vipassī và được Đức-Phật thọ ký.
  1. Kiếp Đức-vua-trời Sakka được thọ
    • Thời-kỳ Đức-Phật Dhammadassī, khi ấy, Đức- Bồ-tát là Đức-vua-trời Sakka đến hầu Đức-Phật Dhammadassī và được Ngài thọ ký.

1 Kiếp Thống tướng Yakka được thọ

    • Thời-kỳ Đức-Phật Anomadassī, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama là vị Thống-tướng Yakkha đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Anomadassī và được Đức-Phật thọ ký.

1 Kiếp Sư tử chúa được thọ

    • Thời-kỳ Đức-Phật Paduma, khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama Sư tử chúa đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Paduma và được Đức- Phật thọ ký.

Mỗi  Đức-Bồ-tát  Chánh-Đẳng-Giác  tiền-kiếp  của

Đức-Phật Gotama, được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác

 

thọ ký xác định thời gian còn lại sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Kiếp Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama ấy thuộc hạng chúng-sinh nào, là người hoặc Đức Long-vương, hoặc thiên-nam, hoặc Sư tử chúa, hoặc Voi chúa, v.v... cũng vẫn là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt cố-định, vốn có sẵn mầm móng trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác (Buddhaṅkura) hoặc có hạt nhân Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác (Buddhabījaṅkura), mỗi kiếp tử sinh luân- hồi chỉ còn có con đường tiến triển thực-hành 30 pháp- hạnh Ba-la-mật cho đầy đủ trọn vẹn đúng theo thời gian còn lại mà thôi.

Trong thời vị-lai ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy chắc chắn sẽ trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu Đức-Phật Gotama. Cho nên, toàn thể chư- thiên, chư phạm-thiên, nhân-loại đều vô cùng hoan hỷ, bởi vì họ biết rõ rằng:

“Trong thời vị-lai, vào thời-kỳ ấy một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama sẽ xuất hiện trên thế gian. Đức-Phật sẽ thuyết pháp tế độ cứu vớt chúng-sinh thoát khỏi biển khổ trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.”

Tên gọi kiếp trái đất (Kappa)

  • Suññakappa: Kiếp trái đất không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian.
  • Sārakappa: Kiếp trái đất có 1 Đức-Phật Chánh

Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian.

  • Maṇḍakappa: Kiếp trái đất có 2 Đức-Phật Chánh-

Đẳng-Giác, mỗi Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian.

 

  • Varakappa: Kiếp trái đất 3 Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, mỗi Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian.
  • Sāramaṇḍakappa: Kiếp trái đất 4 Đức-Phật Chánh-

Đẳng-Giác, mỗi Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian.

  • Bhaddakappa: Kiếp trái đất có 5 Đức-Phật Chánh-

Đẳng-Giác, mỗi Đức-Phật tuần tự xuất hiện trên thế gian.

Trong a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất mà chúng ta đang sinh sống gọi là Bhaddakappa có 5 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác:

  • Trong thời quá-khứ có 3 Đức-Phật đã xuất hiện trên thế gian là Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇā- gamana, Đức-Phật Kassapa.
  • Trong thời hiện-tại có Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, nay Đức-Phật Gotama đã tịch diệt Niết-bàn cách nay 2.562 năm, nhưng giáo-pháp của Đức-Phật Gotama vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay, và sẽ còn duy trì cho đến 5.000 năm, hết tuổi thọ Phật- giáo của Đức-Phật Gotama.
  • Trong thời vị-lai còn có Đức-Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian trong thời đại con người có tuổi thọ khoảng 80.000 năm.

Sau khi Đức-Phật Metteyya tịch diệt Niết-bàn, giáo- pháp của Đức-Phật Metteyya dần dần bị mai một hoàn toàn trong cõi người.

Thời gian lâu sau, kiếp trái đất gọi là Bhaddakappa này sẽ bị tiêu hoại không còn nữa.

* Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Sumedha - Bậc Đại trí

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Sumedha có trí-tuệ siêu-việt sinh vào dòng dõi Bà-la-môn qua 7 đời tinh

 

khiết. Đức-Bồ-tát theo học các bộ môn của dòng dõi Bà- la-môn rất uyên thâm. Khi cha mẹ của Đức-Bồ-tát qua đời, người quản gia gìn giữ các kho của cải đến trình cho Đức-Bồ-tát biết rõ của cải tài sản của dòng họ, tổ tiên, ông bà, cha mẹ để lại cho Đức-Bồ-tát, một gia tài rất lớn.

Đức-Bồ-tát suy xét rằng: “Tổ tiên, ông bà, cha mẹ suốt 7 đời của ta đã tích lũy của cải tài sản lớn lao như thế này; khi qua đời chẳng có một ai đem theo được một món nhỏ nào. Khi đến phiên ta qua đời, chắc chắn cũng không đem theo được gì. Tốt hơn! Ta nên đem của cải này làm phước-thiện bố-thí đến cho mọi người nghèo khổ thiếu thốn, ta sẽ sống tại gia thực-hành các pháp- hạnh ba-la-mật.”

Một hôm, Đức-Bồ-tát ngồi một mình trên lâu đài suy tư:

“Sự nóng của lửa tham, lửa sân, lửa si, ... hiện hữu; còn Niết-bàn tịch tịnh dập tắt được lửa tham, lửa sân, lửa si, ... cũng hiện hữu.

Sự khổ đế của sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới hiện hữu; còn sự an-lạc tuyệt đối của Niết-bàn siêu-tam- giới cũng hiện hữu.

Sự tái-sinh là khổ, sự già là khổ, sự bệnh là khổ, sự chết là khổ, ... vẫn hiện hữu; vậy ta nên mong muốn chứng ngộ Niết-bàn là pháp không sinh, không già, không bệnh, không chết, ... là pháp giải thoát khổ.”

Đức-Bồ-tát suy xét rằng: “Đời sống tại gia có nhiều nhiêu khê phiền toái, bị ràng buộc, ... Tốt hơn, ta nên từ bỏ nhà xuất gia trở thành đạo sĩ.”

Để thực hiện ý định, Đức-Bồ-tát cho người đi truyền rao khắp nơi gần xa dân chúng trong nước, ai cần của cải gì, thì hãy đến tự tiện lấy.

 

Đức-Bồ-tát Sumedha từ bỏ nhà, đi vào rừng núi Himavanta xuất gia trở thành đạo-sĩ. Đức-vua Trời Sakka, cõi Tam-thập-tam-thiên biết ý-nguyện của Đức- Bồ-tát, nên truyền lệnh cho vị thiên-nam Vissukamma hiện xuống cõi người, hóa ra một cốc lá dưới chân núi Himavanta để cúng dường Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha.

Ban đầu, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ nương nhờ sống nơi cốc lá rất hài lòng. Về sau, Đức-Bồ-tát suy xét kỹ thấy cốc lá có 8 điều bất lợi, còn nương nhờ sống dưới cội cây có 10 điều thuận lợi, nên Đức-Bồ-tát từ bỏ cốc lá để đến nương nhờ sống dưới cội cây thực-hành pháp-hành thiền-định.

Mỗi buổi sáng, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha mang bát vào xóm nhà để khất thực, sau khi thọ thực xong, Đức- Bồ-tát trở về ngồi dưới cội cây suy xét rằng: “Người ta phải làm lụng vất vả cực nhọc lắm mới có được vật thực này. Vậy, từ nay ta nên lượm nhặt những trái cây chín rụng để ăn sống qua ngày. Ta chớ nên sống dể duôi (thất niệm), tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-định, ngăn oai-nghi nằm, ta chỉ thọ-trì ba oai-nghi: đi, đứng và ngồi mà thôi.”

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha tinh-tấn thực-hành pháp- hành thiền-định trong vòng 7 ngày đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới và chứng đắc ngũ thông tam-giới (đa-dạng-thông, nhãn-thông, nhĩ-thông, tha-tâm-thông và tiền-kiếp-thông) an-hưởng sự an-lạc trong khi nhập-thiền (Jhānasamāpatti) không hề hay biết Đức-Phật Dīpaṅkara đã xuất hiện trên thế gian.

Một hôm, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha du hành bay trên hư không, nhìn thấy dân chúng xứ Rammavati đang vui mừng hoan hỷ sửa sang con đường.

 

Muốn biết do nguyên nhân nào khiến người ta làm việc một cách hoan hỷ như vậy, Đức-Bồ-tát liền đáp xuống đất bèn hỏi những người ấy rằng:

  • Này quý bà con! Quý bà con sửa sang con đường này để cho ai đi, mà thấy quý bà con vui mừng hoan hỷ đến như vậy?
  • Kính thưa Ngài đạo-sĩ, Đức-Phật Dīpaṅkara cao thượng nhất trong toàn cõi tam-giới chúng-sinh đã xuất hiện trên thế gian rồi. Chúng tôi đang sửa sang con đường này để đón rước Đức-Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán sẽ ngự qua con đường này.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha vừa lắng nghe danh từ “Buddha: Đức-Phật” tâm vô cùng hoan hỷ suy nghĩ rằng:

Đức-Phật xuất hiện trên thế gian là một điều hiếm có, thật là vô cùng hy-hữu. Ta nên cố gắng thực-hành mọi phước-thiện, gieo duyên lành cúng dường đến Đức- Phật Dīpaṅkara.”

Nghĩ xong, Ngài liền thưa với họ rằng:

  • Thưa quý bà con! Quý bà con sửa sang con đường này để đón rước Đức-Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn vị Thánh A-ra-hán ngự đến. Vậy, xin quý bà con nhường cho bần-đạo một đoạn đường để bần-đạo cùng sửa sang đoạn đường, cúng dường đón rước Đức-Phật Dīpaṅkara cùng chư Thánh A-ra-hán.

Dân chúng biết đạo-sĩ Sumedha có nhiều năng lực thần-thông, nên họ chỉ đoạn đường bùn lầy khó khăn.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha nghĩ rằng: “Nếu ta sử dụng phép thần-thông để sửa đoạn đường này thì quá dễ nhưng phước-thiện ta được sẽ không nhiều.

Vậy, ta nên sử dụng sức lực của mình để sửa sang, thì chắc chắn ta được phước-thiện nhiều hơn.”

 

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha cố gắng tinh-tấn với sức lực của chính mình, lấy đất từ nơi khác đến san bằng, công việc sửa đoạn đường còn độ một sải tay, khi ấy, nghe mọi người reo hò vui mừng đón Đức-Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán sắp đến, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha quyết-định rằng:

“Hôm nay ta xin cúng dường sinh-mạng của ta đến Đức-Phật Dīpaṅkara, bằng cách nằm sấp trên đoạn đường còn lại, nguyện lấy tấm thân này làm như một chiếc cầu, để cúng dường Đức-Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh A-ra-hán ngự đi qua. Chắc chắn ta sẽ được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.”

Nguyện ước của Đức-Bồ-tát Sumedha

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha suy tư rằng:

“Hôm nay, nếu ta từ bỏ ý-nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì chắc chắn ta sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán trong giáo-pháp của Đức- Phật Dīpaṅkara, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới chỉ một mình ta; nhưng còn bao nhiêu chúng-sinh khác vẫn đang chìm đắm trong biển khổ trầm luân, chịu cảnh khổ tử sinh luân- hồi. Ta không đành giải thoát khổ riêng một mình ta.”

Nghĩ như vậy, với tâm đại-bi lượng thương xót chúng- sinh, nên Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha phát nguyện rằng:

“Buddho bodheyyaṃ ...” Khi ta tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác rồi, khi ấy ta sẽ thuyết pháp giáo hóa chúng-sinh cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra- hán y theo ta vậy (tự giác rồi giác tha).

 

“Mutto moceyyaṃ ...” Khi ta tự mình giải thoát khỏi mọi sự ràng-buộc của tham-ái, phiền-não, chứng ngộ Niết-bàn rồi, khi ấy, ta sẽ dẫn dắt chúng-sinh cùng giải thoát khỏi mọi sự ràng-buộc của tham-ái, phiền-não, chứng ngộ Niết-bàn y theo ta vậy (tự độ rồi độ tha).

“Tinno tareyyaṃ ...” Khi ta tự mình vượt qua khỏi biển khổ tử sinh luân-hồi, đạt đến Niết-bàn an-lạc rồi, khi ấy, ta sẽ cứu vớt, dẫn dắt chúng-sinh cùng vượt qua khỏi biển khổ tử sinh luân-hồi, đạt đến Niết-bàn an-lạc y theo ta vậy (tự đáo rồi đáo tha).

Khi ấy, một nữ Bà-la-môn tên là Sumittā(1) trên tay cầm 8 đóa hoa sen để cúng dường Đức-Phật Dīpaṅkara, khi nhìn thấy vị đạo-sĩ Sumedha nằm sấp lấy thân mình làm chiếc cầu trên đoạn đường ấy, cô liền phát sinh đức- tin trong sạch, kính dâng đến vị đạo-sĩ 5 đóa hoa sen, còn 3 đóa hoa sen để lại cho mình.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha nằm sấp, hai tay cầm 5 đóa hoa sen để trên trán. Khi ấy, Đức-Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư vị Thánh A-ra-hán ngự đi ngang qua bằng phép thần-thông một cách nhẹ nhàng trên tấm thân của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha, cho nên, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha vẫn an toàn.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Sumedha được thọ

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đầu tiên chỉ thọ ký cho

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác nào hội đủ 8 chi-pháp:

  1. Loài người thật (không phải Long-vương hoặc thiên-nam hóa thành người).
  2. Người nam thật (không phải là ái nam, ái nữ).

1 Nữ Bà-la-môn Sumittā chính là tiền-kiếp của Công-chúa Yasodharā.

 

  1. Kiếp hiện-tại có đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật có thể chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
  2. Trực tiếp đến hầu Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
  3. Bậc xuất-gia đạo-sĩ có chánh-kiến về nghiệp.
  4. Chứng đắc đầy đủ 4 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc ngũ thông tam-giới.
  5. Quyết định cúng dường sinh-mạng đến Đức-Phật.
  6. Ý-nguyện vững chắc, không thoái chí nản lòng quyết tâm trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha hội đủ 8 chi-pháp trên, nên Đức-Phật Dīpaṅkara ngự đứng phía trên đầu của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha, với Phật-nhãn vị-lai-kiến- minh (anāgataṃsañāṇa) thấy rõ, biết rõ trong thời vị-lai ý-nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha sẽ thành tựu hay không.

Với Phật-nhãn thấy rõ, biết rõ ý-nguyện của Đức-Bồ- tát Chánh-Đẳng-Giác đạo-sĩ Sumedha chắc chắn sẽ thành tựu, nên Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa, vị Đạo-sĩ Sumedha này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Đức-Phật Dīpaṅkara là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đầu tiên thọ ký cho Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đạo- sĩ Sumedha tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama.

Từ đó, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đạo-sĩ Sumedha đương nhiên trở thành Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cố-định chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama trong thời vị-lai.

 

Khi lắng nghe Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại như vậy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đạo-sĩ Sumedha phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ, đồng thời tất cả nhân-loại, chư-thiên, chư phạm-thiên đồng hoan hỷ chắp tay cung kính lễ bái Đức-Bồ-tát đạo- sĩ Sumedha, tán dương ca tụng rằng:

“Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha chắc chắn sẽ trở thành

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.”

Đức-Bồ-tát Sumedha có tâm đại-bi

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama biết rõ rằng:

Hễ còn tái-sinh là còn có khổ mà thôi, chúng-sinh tái- sinh trong 3 giới 4 loài đều phải chịu khổ, không có sự an-lạc thật sự, mà chỉ có khổ là sự thật chân-lý mà thôi.

Kiếp Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha làm đoạn đường cúng dường đón rước Đức-Phật Dīpaṅkara, ngay kiếp hiện-tại ấy, nếu Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha thay đổi ý- nguyện không muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, mà chỉ muốn trở thành bậc Thánh Thanh-văn-giác thì ngay kiếp hiện-tại ấy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo,4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ tuệ-phân-tích, lục thông trong giáo-pháp của Đức-Phật Dīpaṅkara, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Nhưng Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha có tâm đại-bi (mahākaruṇā) đối với chúng-sinh còn đang đắm chìm trong biển khổ trầm luân, đang chịu mọi cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha không đành giải thoát khổ tử sinh luân-hồi cho

 

riêng mình, nên Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha vẫn giữ ý- nguyện muốn trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác để thuyết pháp tế độ, cứu vớt chúng-sinh giải thoát khỏi biển khổ trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Cho nên, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha chấp nhận chịu đựng kéo dài thêm vô số kiếp khổ tử sinh luân-hồi trong khoảng thời gian dài 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, để tiếp tục thực-hành bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, hầu mong trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, để thuyết pháp tế độ chúng-sinh giải thoát khỏi mọi cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Vậy nhóm chúng-sinh ấy là ai?

Trong nhóm chúng-sinh ấy có mỗi người chúng ta phải vậy không?

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha trong thời quá-khứ, nay kiếp hiện-tại chính là Đức-Phật Gotama trong thời đại của chúng ta.

Thời gian hoàn thành 30 pháp-hạnh ba-la-mật

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsam- bodhisatta) trí-tuệ siêu-việt (paññādhika) nghĩa Đức- Bồ-tát trí-tuệ có nhiều năng lực hơn đức-tin và tinh- tấn, cho nên, thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ 100 ngàn đại- kiếp trái đất, để hoàn thành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp- hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp- hạnh ba-la-mật bậc trung và 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng, kể từ khi Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký đầu tiên cho đến Đức-Phật Kassapa thứ 24 thọ ký cuối cùng.

 

Đức-Bồ-tát có trí-tuệ siêu-việt, tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama, tiếp tục thực-hành bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật cho đến kiếp chót là kiếp Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha đã trải qua 3 thời-kỳ: thời-kỳ đầu có 7 a-tăng-kỳ, thời-kỳ giữa có 9 a-tăng-kỳ, thời-kỳ cuối có 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất gồm có 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, đó là khoảng thời gian bằng nửa (½) thời gian của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu-việt và bằng một phần tư (¼) thời gian của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt thực-hành bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, để trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác.

Như vậy, chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt, hoặc có đức-tin siêu-việt, hoặc có tinh-tấn siêu-việt, mỗi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác thực-hành 30 pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn, tuy có thời gian mau hoặc lâu khác nhau, nhưng đều có chung mục đích trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác để thuyết pháp tế độ, cứu vớt chúng-sinh giải thoát khỏi biển khổ trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Pháp-hạnh ba-la-mật có cứu cánh Niết-bàn

Chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-giác, chư Đức-Bồ-tát Độc-giác, chư vị Bồ-tát thanh-văn-giác thực-hành đầy đủ trọn vẹn các pháp-hạnh ba-la-mật của mình đều có cứu cánh Niết-bàn.

  • Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác hoàn thành xong mọi phận sự, đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

 

  • Chư Đức-Bồ-tát Độc-Giác trở thành Đức-Phật Độc- Giác, đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  • Chư vị Bồ-tát thanh-văn-giác trở thành bậc Thánh A-ra-hán hoàn thành xong mọi phận sự, đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

* Chư Đức-Bồ-tát thực-hành các pháp-hạnh ba-la- mật có cứu cánh Niết-bàn là nương nhờ nơi các đại- thiện-nghiệp ấy làm duyên dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn được lưu trữ ở trong tâm mỗi kiếp, được tích lũy từ kiếp này sang kiếp kia trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Mỗi kiếp của chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, chư Đức-Bồ-tát Độc-giác, chư vị Bồ-tát thanh-văn-giác dù cho thân của mỗi kiếp bị thay đổi theo năng lực quả của nghiệp, còn tâm vẫn sinh rồi diệt liên tục từ kiếp này sang kiếp kia, tâm có phận sự tích lũy và lưu trữ đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật, không hề bị mất mát một mảy may nào cả, trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, trên con đường thẳng có cứu cánh Niết-bàn.

Cho nên, chư Đức-Bồ-tát ấy tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài từ vô-thuỷ đến hữu chung, kiếp chót trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Còn các hàng chúng-sinh nào đã tạo mọi thiện-nghiệp mà không có mục đích cứu cánh Niết-bàn, thì thiện- nghiệp ấy cũng được tích lũy và lưu trữ ở trong tâm của họ, tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, trên con đường vòng tròn, trải qua vô số kiếp từ vô-thuỷ đến vô chung không có kiếp chót.

 

Mỗi chúng-sinh liên quan từ kiếp này qua kiếp kia, từ vô-thuỷ trải qua vô số kiếp quá-khứ đến kiếp hiện-tại hoàn toàn không liên quan với thân (sắc-uẩn) của mỗi kiếp chúng-sinh, mà sự thật, chỉ liên quan với tâm (4 danh-uẩn) của mỗi kiếp chúng-sinh với nhau mà thôi, bởi vì mỗi tâm sinh rồi diệt liên tục có phận sự lưu trữ, tích lũy đầy đủ tất cả mọi thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp từ vô-thuỷ trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại, không hề mất mát một mảy may nào cả. Ví dụ:

Kiếp chót Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha sẽ trở thành Đức-Phật Gotama, đó là quả của 30 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn gọi là đại-thiện-nghiệp ba-la- mật mà vô số tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã tạo trong khoảng thời gian suốt 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

Kiếp chót Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha đản-sinh vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch) tại khu vườn Lumbinī, Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc-đại-nhân, 80 tướng tốt phụ, đó là quả của 30 đại-thiện-nghiệp ba-la-mật.

Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật Gotama vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch) tại khu rừng Uruvelā (nay gọi là Buddhagayā nước Ấn-độ) lúc 35 tuổi, đó là quả của 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Bồ-tát.

Thực-hành 30 pháp-hạnh ba-la-mật

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha tiếp tục thực-hành 30 pháp-hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn, trong khoảng thời gian còn lại suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

  • Pháp-hạnh Ba-la-mật nghĩa là gì?
  • Thành tựu pháp-hạnh Ba-la-mật bằng cách nào?

 

Ba-la-mật là dịch âm từ Pāḷi: Pāramī.

Pāramī có rất nhiều nghĩa, nghĩa chính yếu là pháp- duyên hỗ trợ dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn cao thượng.

Thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật bằng cách nào?

Để thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật bậc nào, Đức-Bồ- tát cần phải có đại-thiện-tâm hoàn toàn trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền-não nhất là tham-ái (taṇhā), ngã-mạn (māna), tà-kiến (diṭṭhi) và đồng thời hợp với tâm đại-bi (mahākaruṇā) và trí-tuệ hướng đến chứng ngộ Niết-bàn (upāyakosallañāṇā).

  • Nếu hội đầy đủ các điều kiện như vậy thì Đức-Bồ- tát thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật bậc ấy.
  • Nếu không hội đầy đủ các điều kiện như vậy thì không thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật bậc ấy, mà chỉ là đại-thiện-nghiệp thông thường mà thôi, không phải là pháp-duyên hỗ trợ dẫn đến sự chứng ngộ Niết-bàn cao thượng.

Pháp-hạnh ba-la-mật có 10 pháp:

  1. Bố-thí ba-la-mật (Dānapāramī).
  2. Giữ-giới ba-la-mật (Sīlapāramī).
  3. Xuất-gia ba-la-mật (Nekkhammapāramī).
  4. Trí-tuệ ba-la-mật (Paññāpāramī).
  5. Tinh-tấn ba-la-mật (Vīriyapāramī).
  6. Nhẫn-nại ba-la-mật (Khantipāramī).
  7. Chân-thật ba-la-mật (Saccapāramī).
  8. Phát-nguyện ba-la-mật (Adhiṭṭhānapāramī).
  9. Tâm-từ ba-la-mật (Mettāpāramī).
  10. Tâm-xả ba-la-mật (Upekkhāpāramī).

Mỗi pháp-hạnh ba-la-mật có ba bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng như sau:

 

  • Bố-thí ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  • Giữ-giới ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  • Xuất-gia ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  • Trí-tuệ ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  • Tinh-tấn ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  • Nhẫn-nại ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  • Chân-thật ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  • Phát-nguyện ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  • Tâm-từ ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.
  • Tâm-xả ba-la-mật bậc hạ, bậc trung, bậc thượng.

Như vậy, 10 pháp-hạnh ba-la-mật trở thành 30 pháp- hạnh ba-la-mật:

  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ (pāramī).
  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung (upapāramī).
  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng (paramattha- pāramī).

Muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải thực-hành 30 pháp- hạnh ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn, mới có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Cho nên, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama cần phải thực-hành 30 pháp-hạnh ba- la-mật như sau:

  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ (pāramī)

Khi thực-hành pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ nào, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama cần phải hy sinh những gì thuộc về bên ngoài thân mình như của cải, tài sản, ngôi báu, thậm chí cả vợ, con nữa để thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật ấy.

 

  • Ví dụ: Tích Đức-vua Bồ-tát Vessantara là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama thực-hành pháp-hạnh bố-thí ba- la-mật, hạnh đại-thí hoàng-tử Jāli và công-chúa Kaṇhā yêu quý nhất đến cho ông bà-la-môn Jūjaka.

Đức-vua Bồ-tát Vessantara cũng thực-hành pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật, hạnh đại-thí vợ yêu quý là Chánh-cung Hoàng-hậu Maddī yêu quý đến cho ông bà-la-môn.

  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung (upapāramī) Khi thực-hành pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung nào,

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama cần phải hy sinh những bộ phận nào trong thân thể để thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung ấy.

  • Ví dụ: Tích Đức-vua Bồ-tát Sivi là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama thực-hành pháp-hạnh bố-thí ba-la- mật bậc trung, bố-thí 2 con mắt bên phải và bên trái đến cho vị bà-la-môn già mù đôi mắt.
  • 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng (paramattha- pāramī)

Khi thực-hành pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng nào, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama cần phải hy sinh sinh-mạng của mình, để thành tựu pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng ấy(1).

  • Ví dụ: Tích Đức-Bồ-tát thỏ thiện-trí Sasapaṇḍita thực-hành pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật bậc thượng, nên Đức-Bồ-tát thỏ nhảy lên đống lửa thiêu chín làm món ăn để bố-thí đến vị bà-la-môn khất thực.

Những kiếp Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama thực-hành 30 pháp-hạnh ba-la-

1 Tìm hiểu trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, Quyển VI,VII, VIII Pháp-Hạnh Ba-La-Mật, cùng soạn-giả.

 

mật cho được đầy đủ trọn vẹn trong suốt thời gian 4 a- tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, để trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Có nhiều kiếp Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, đã thực-hành bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật ở cõi người. Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết ở cõi người, dục- giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam trong cõi trời dục-giới, nhưng để sớm hoàn thành 30 pháp-hạnh ba-la-mật, nên Đức-Bồ-tát thiên-nam không muốn hưởng sự an-lạc ở cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, mà Đức-Bồ-tát thiên-nam nguyện từ bỏ kiếp thiên-nam ở cõi trời ấy (chết), đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm người-nam trong cõi người, để thuận lợi cho việc thực- hành các pháp-hạnh ba-la-mật, bởi vì cõi người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu này rất đặc biệt hơn các cõi khác trong tam-giới:

  • Thuận lợi cho việc thực-hành phạm-hạnh cao thượng.
  • Thuận lợi cho việc thực-hành mọi thiện-pháp: dục- giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện- pháp và đặc biệt siêu-tam-giới thiện-pháp.
  • Thuận lợi cho việc thực-hành 30 pháp-hạnh ba-la-mật.
  • Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Chư Phật Độc-Giác, chư Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác, chư Thánh Đại- thanh-văn-giác đều thành-tựu tại cõi người này.

Những kiếp Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, bổ sung cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật trong suốt 4 a- tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp, được 24 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký, xác định thời gian còn lại, bắt đầu từ Đức-Phật Dīpaṅkara thứ nhất cho đến Đức-Phật

 

Kassapa thứ 24 cuối cùng, trải qua vô số kiếp không sao kể xiết được.

Đến kiếp gần kiếp áp chót là Đức-vua Bồ-Tát Vessantara thực-hành bồi bổ thêm cho đầy đủ pháp- hạnh bố-thí ba-la-mật: bố-thí voi báu, bố-thí hoàng-tử Jāli, công-chúa Kaṇhā, bố-thí Chánh-cung Hoàng-hậu Maddī, v.v…

Sau khi Đức-vua Bồ-tát Vessantara băng hà, dục-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam tên Setaketu trên cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên), cõi trời thứ 4 trong 6 cõi trời dục-giới, hưởng sự an-lạc trong cõi trời ấy.

Thỉnh Đức-Bồ-tát giáng thế

Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu, tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama, đang an hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên). Khi ấy, Đại-thiên-vương Dhataraṭṭha, Đại-thiên-vương Virūḷhaka, Đại-thiên- vương Virūpakkha, Đại-thiên-vương Kuvera cõi trời Tứ Đại-thiên-vương, Đức-vua-trời Sakka cõi trời Tam-thập- tam-thiên, Đức-vua-trời Suyāma cõi trời Dạ-ma-thiên, Đức-vua-trời Santussita cõi trời Đâu-suất-đà-thiên, Đức-vua-trời Sunimmita cõi trời Hóa-lạc-thiên, Đức- vua-trời Vasavatti cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên, cùng chư-thiên 6 cõi trời dục-giới, chư Đại-Phạm-thiên các cõi trời sắc-giới đồng tụ hội đến hầu Đức-Bồ-tát thiên- nam Setaketu, tất cả đồng chắp tay bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu, Đức-Bồ- tát đã thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la- mật xong rồi. Pháp-hạnh ba-la-mật ấy không phải để Đức-Bồ-tát mong ngôi vị các Đức-vua trời trong cõi dục-giới, cũng không phải để mong ngôi vị Đức-vua

 

Chuyển-luân Thánh-vương, cũng không phải để mong ngôi vị Đức-Phạm-thiên, mà sự thật các pháp-hạnh ba- la-mật ấy giúp hỗ trợ Đức-Bồ-tát trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, để thuyết pháp tế độ chúng-sinh giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

  • Kính bạch Đức-Bồ-tát thiên-nam, bây giờ đúng lúc đúng thời-kỳ, để cho Đức-Bồ-tát trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác cao thượng.
  • Kính bạch Đức-Bồ-tát thiên-nam, tất cả chúng con thành kính thỉnh Đức-Bồ-tát tái-sinh xuống làm người, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thuyết pháp tế độ chúng-sinh giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Lắng nghe lời thỉnh cầu của chư-thiên, phạm-thiên, Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu chưa nhận lời thỉnh cầu ấy, mà Đức-Bồ-tát xem xét trong thời quá-khứ rằng:

“Chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót tái- sinh xuống làm người để trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, đã xem xét như thế nào?”

Suy xét 5 điều trước khi tái-sinh

Theo lệ thường, chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót tái-sinh xuống làm người, thường phải suy xét đầy đủ 5 điều như sau:

  1. Suy xét thời-kỳ tuổi thọ con người.
  2. Suy xét châu đến tái-sinh.
  3. Suy xét xứ sở đến tái-sinh.
  4. Suy xét dòng họ nơi tái-sinh.
  5. Suy xét tuổi thọ của mẫu hậu, để đầu thai.

Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu suy xét từng điều:

 

  1. Đức-Bồ-tát suy xét thời-kỳ tuổi thọ con người

Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác không xuất hiện trên thế gian trong thời đại con người có tuổi thọ trên 100 ngàn năm và trong thời đại con người có tuổi thọ dưới 100 năm.

Nếu thời đại con người có tuổi thọ sống lâu trên 100 ngàn năm, mỗi khi Đức-Phật thuyết pháp rằng:

“Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ; hoặc ngũ-uẩn có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, ...” thì họ khó hiểu rõ chánh-pháp, phát sinh tâm hoài-nghi.

Vì vậy, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác không xuất hiện trên thế gian trong thời đại ấy.

Và nếu thời đại con người có tuổi thọ ngắn ngủi dưới 100 năm thì con người có phiền-não nặng nề, tâm bị ô nhiễm tối tăm. Mỗi khi Đức-Phật thuyết giảng chánh- pháp vi-tế cao siêu, họ khó hiểu rõ được chánh-pháp ấy.

Vì vậy, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác cũng không xuất hiện trên thế gian trong thời đại ấy.

Trong quá-khứ, Chư Phật thường xuất hiện trên thế gian trong thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 ngàn năm với 100 năm. Khi ấy, con người có trí-tuệ sáng suốt, nếu lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp thì có thể hiểu rõ được chánh-pháp, rồi thực-hành theo chánh-pháp dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền- não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu xem xét thấy khi ấy thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 năm, đó là thời-kỳ thích hợp cho Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt xuất hiện trên thế gian.

 

  1. Đức-Bồ-tát suy xét các châu đến tái-sinh

Trong quá-khứ, Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác chỉ xuất hiện trong cõi Nam-thiện-bộ-châu mà thôi, không xuất hiện ở ba châu khác.

Vì vậy, Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu quyết định tái- sinh trong cõi Nam-thiện-bộ-châu.

  1. Đức-Bồ-tát suy xét xứ sở đến tái-sinh

Cõi Nam-thiện-bộ-châu rộng lớn mênh mông, trong quá-khứ, chư Phật Chánh-Đẳng-Giác chỉ xuất hiện trong trung-xứ (majjhimapadesa) mà thôi, không xuất hiện ở nơi xứ biên địa.

Vì vậy, Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu quyết định tái- sinh nơi trung-xứ, vùng Sakka, kinh-thành Kapilavatthu.

  1. Đức-Bồ-tát suy-xét dòng họ nơi tái-sinh

Trong quá-khứ, chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác không sinh trong dòng họ hạ tiện, nghèo khổ, mà chỉ sinh một trong hai dòng dõi là dòng dõi Vua chúa hoặc dòng dõi Bà-la-môn.

Nếu thời-kỳ ấy, tất cả mọi người kính trọng dòng dõi Bà-la-môn, thì Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót sẽ tái-sinh vào trong dòng dõi Bà-la-môn, hoặc

Nếu thời-kỳ ấy, tất cả mọi người kính trọng dòng dõi Vua chúa, thì Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác sẽ tái-sinh vào trong dòng dõi Vua chúa.

Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu suy xét thấy thời-kỳ ấy, tất cả mọi người đều kính trọng dòng dõi Vua chúa hơn dòng dõi Bà-la-môn, nên Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu quyết định sinh vào dòng dõi Vua Sakya.

 

Đức-vua Suddhodana trải qua nhiều đời Vua tinh khiết (không lẫn lộn với dòng khác) làm Đức-Phụ- Vương của Đức-Bồ-tát.

  1. Đức-Bồ-tát suy xét mẫu hậu và tuổi thọ của

Mẫu-hậu của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót phải là người đã từng thực-hành 10 pháp-hạnh ba-la- mật suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất và được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong quá-khứ đã từng thọ ký rằng:

“Bà sẽ là mẫu-hậu của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.”

Mẫu-hậu của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy là người có ngũ-giới hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn, không hề bị phạm giới nào; ngoài ngũ-giới ra, bà còn thọ trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.

Đức-Bồ-tát thiên-nam suy-xét thấy bà Mahāmāyādevī, Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Suddhodana, có đầy đủ những tiêu chuẩn trên và tuổi thọ của bà Mahā- māyādevī chỉ còn đúng 10 tháng lẻ 7 ngày.

Vì vậy, Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu chọn

Mahāmāyādevī làm mẫu-hậu của Đức-Bồ-tát.

Sau khi suy xét đầy đủ 5 điều rồi, Đức-Bồ-tát thiên- nam Setaketu quyết định tái-sinh xuống làm người, để trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. Đức-Bồ-tát truyền dạy rằng:

- Này chư-thiên, chư phạm-thiên, ta đồng ý nhận lời thỉnh cầu của các ngươi. Ta sẽ tái-sinh xuống làm người trong cõi Nam-thiện-bộ-châu, tại trung-xứ, kinh-thành Kapilavatthu, trong dòng dõi Vua Sakya, Đức-vua Suddhodana là Đức-Phụ-vương và bà Mahāmāyādevī,

 

Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Suddhodana, là mẫu-hậu của ta.

Sau khi lắng nghe lời truyền dạy của Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu, tất cả chư-thiên và chư phạm-thiên vô cùng hoan hỷ cùng nhau tán dương ca tụng Đức-Bồ- tát thiên-nam Setaketu.

Sau đó, đều cùng nhau xin phép trở về cảnh giới của mình. Chư-thiên, chư phạm-thiên loan báo cho khắp toàn thế giới chúng-sinh biết:

“Đức-Phật sẽ xuất hiện trên thế gian!”

Theo truyền thống của Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác, hầu hết có những điều cơ bản hoàn toàn giống nhau, Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác trong quá-khứ như thế nào, thì Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong hiện-tại cũng như thế ấy và Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai cũng sẽ như thế ấy.

Nếu có điều khác nhau, thì khác nhau những điều chi tiết như thời gian thực-hành 30 pháp-hạnh ba-la-mật, tuổi thọ, cây Đại-Bồ-đề, v.v...

Đức-Bồ-tát tái-sinh đầu thai làm người

Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu quyết định chuyển kiếp thiên-nam (chết) ở cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà- thiên) tái-sinh đầu thai vào lòng mẫu hậu Mahāmayā- devī, Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-vua Suddhodana tại kinh-thành Kapilavatthu vào ngày thứ năm, nhằm ngày rằm tháng sáu lúc canh chót.

Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī thấy mộng lành

Vào ngày rằm tháng sáu (âm-lịch), Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī của Đức-vua Suddhodana đến hầu vị Đạo-sư Kāḷadevila xin thọ trì bát-giới

 

uposathasīla. Canh chót đêm ấy, trước khi Đức-Bồ-tát tái-sinh đầu thai, Bà Mahāmāyādevī nằm mộng thấy tứ Đại-Thiên-vương cung nghinh bà lên núi Himavanta, đặt bà nằm trên một tảng đá lớn gần hồ Anotatta. Sau đó, có 4 Chánh-cung Hoàng-hậu của tứ Đại-Thiên-vương cùng chư-thiên-nữ đến tắm sạch sẽ cho bà, xoa các thứ vật thơm của cõi trời, dâng những đóa hoa trời xinh đẹp, rồi cung nghinh bà đến một ngọn núi bằng bạc, có một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ và đặt bà nằm nghiêng bên phải nghỉ ngơi nơi đó.

Khi ấy, một con bạch tượng cao thượng hiện đến lâu đài bằng vàng nơi Bà đang nằm nghỉ ngơi, con bạch tượng ấy đi vòng quanh nơi Bà nằm 3 vòng rồi chui vào hông phía bên phải của bà.

Khi Bà Mahāmāyādevī đang nằm mộng, đó cũng là lúc Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu chuyển kiếp thiên- nam (chết) ở cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên), đồng thời với đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí-tuệ, không cần tác-động làm phận sự tái- sinh đầu thai vào lòng mẫu-hậu Mahāmāyādevī, nhằm vào ngày thứ năm canh chót đêm rằm tháng sáu (âm- lịch).

Khi ấy, Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī có tuổi thọ được 55 năm 6 tháng 20 ngày(1). Ngay lúc ấy, trái đất rùng mình rung chuyển và có 32 hiện tượng xảy ra chưa từng thấy bao giờ. Chư-thiên, phạm-thiên trong 10 ngàn thế giới chúng-sinh vô cùng hoan hỷ loan báo tin lành rằng:

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã tái-sinh rồi!”

 

1 Theo bộ Samantacakkhudīpanī.

 

Quân sư bà-la-môn đoán mộng

Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī đã trải qua giấc mộng lành và sau khi tỉnh dậy, bà đến chầu Đức- vua Suddhodana và tâu trình lên Đức-vua về giấc mộng vừa qua. Sáng sớm hôm sau, Đức-vua Suddhodana bèn truyền lệnh cho mời nhóm Bà-la-môn quân sư vào triều yết kiến. Sau khi thiết đãi và ban thưởng xong, Đức-vua bèn tường thuật lại giấc mộng canh chót đêm trước của Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī cho nhóm quân sư Bà-la-môn nghe, để họ cùng nhau tiên đoán.

Đức-vua truyền hỏi rằng:

  • Thưa quân sư, giấc mộng như vậy có ý nghĩa như thế nào? Xin quý quân sư tâu cho Trẫm được rõ.

Một vị Bà-la-môn trưởng bèn tâu rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương, xin Đại-vương an tâm, Chánh- cung Hoàng-hậu đã thụ-thai, thai-nhi không phải Công- chúa mà chắc chắn là Thái-Tử, Bậc cao thượng nhất.

Nếu Thái-tử sống trong triều thì sẽ là Đức Chuyển- luân Thánh-vương trị vì thiên-hạ có 4 biển làm ranh giới.

Nếu Thái-tử bỏ cung điện đi xuất gia, thì sẽ là Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác cao thượng nhất trong toàn cõi-giới chúng-sinh.

Oai lực kiếp chót của Đức-Bồ-tát

Từ khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót tái- sinh đầu thai vào lòng mẫu-hậu, do oai lực của Đức-Bồ- tát Chánh-Đẳng-Giác, nên ngày đêm tứ Đại-Thiên- vương theo hầu, để tỏ lòng cung kính, không phải theo hộ trì Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī, bởi vì, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có oai lực phi thường, nên không có một ai có thể làm hại Bà được.

 

Mẫu-hậu của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có giới- đức tự nhiên, nên Bà không phải đến hầu vị Đạo-sư Kāḷadevila để xin thọ giới như trước đây nữa. Thân và tâm của Bà thường an-lạc.

Tâm tham muốn trong dục lạc không hề phát sinh và khi Đức-vua Suddhodana nhìn thấy Bà liền phát sinh đại-thiện-tâm trong sáng, nên Đức-vua rất tôn trọng Bà.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác phát triển tăng trưởng ở trong bào thai mẫu-hậu, như ở trong một căn phòng sạch sẽ và sang trọng. Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ngồi kiết già như vị Pháp-sư đang ngồi trên pháp-tòa, cho đến khi tròn đủ 10 tháng.

Đức-Bồ-tát đản-sinh

Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī biết gần đến ngày đản-sinh Thái-tử, theo truyền thống, Bà đến chầu Đức-vua Suddhodana bèn tâu rằng:

  • Muôn tâu Bệ hạ, thần thiếp xin phép trở về cố quốc Devadaha để sinh hạ Thái-tử.

Đức-vua Suddhodana chuẩn tấu lời xin của Bà và truyền lệnh cho các quan sửa sang đường sá bằng phẳng, trang hoàng đẹp đẽ từ kinh-thành Kapilavatthu cho đến kinh-thành Devadaha, để tiễn đưa Chánh-cung Hoàng- hậu Mahāmāyādevī trở về cố quốc. Đức-vua còn truyền lệnh làm một chiếc kiệu mới thật sang trọng để cho Bà Chánh-cung Hoàng-hậu ngự đi.

Mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng, Chánh-cung Hoàng- hậu Mahāmāyādevī được thỉnh ngự lên chiếc kiệu, các quan khiêng chiếc kiệu đi từ kinh-thành Kapilavatthu đến kinh-thành Devadaha.

 

Trên đường, khi đoàn người vừa đến khu vườn Lumbinī, hôm ấy, thật tuyệt vời! Cả muôn hoa đều đua nở và muôn chim cùng ca hót như hân hoan đón mừng một sự kiện trọng đại. Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī muốn dừng kiệu lại, ghé vào khu vườn Lumbinī để du lãm.

Chư-thiên, chư phạm-thiên tụ hội

Khi bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī ngự vào khu vườn Lumbinī, hôm ấy chư-thiên, chư phạm- thiên tụ hội tại khu vườn và cả vạn thế giới chúng-sinh vui mừng reo hò rằng:

“Hôm nay, tại khu vườn Lumbinī này, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác sẽ đản-sinh ra đời khỏi lòng bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī.

Chư-thiên, chư phạm-thiên, tay cầm những món quà từ cõi trời như vật thơm trời, những đóa hoa trời, nhạc trời trỗi lên để cúng dường Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác, cùng với những chiếc lọng trắng che phủ khắp không gian.

Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī ngự đến một cây Sāla có thân to, cành cây đầy hoa đang nở rộ. Khi bà đứng đưa cánh tay phải lên, thì cành cây tự nhiên sà xuống, bà đưa tay nắm lấy cành cây với tư thế dáng đứng vững vàng và trong tư thế dáng đứng này sẽ đản sinh ra Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng.

Khi ấy, các quan, các cung nữ che màn xung quanh nơi Bà đang đứng. Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahā- māyādevī đứng trong tư thế dáng đứng vững vàng.

Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng đản-sinh ra đời khỏi lòng bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī bằng đôi chân ra trước, rồi xuôi hai tay,

 

toàn thân mình sạch sẽ ra sau, một cách suôn sẽ an lành cả Đức-Bồ-tát lẫn mẫu-hậu của Đức-Bồ-tát vào ban ngày thứ 6, nhằm ngày rằm tháng tư (âm-lịch). Khi ấy, hai dòng nước ấm và lạnh từ trên hư không chảy xuống làm cho sạch sẽ thân hình của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác và mẫu-hậu của Đức-Bồ-tát.

Khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng vừa ra khỏi lòng bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī, trước tiên 4 vị Đại-phạm-thiên có thiện-tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền-não, mỗi vị cầm mỗi chéo tấm lưới bằng vàng đón nhận Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác xong, rồi đưa trước mặt bà Chánh-cung Hoàng- hậu Mahāmāyādevī và tâu rằng:

  • Muôn tâu Chánh-cung Hoàng-hậu, kính xin Bà phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ! Đây là Thái-tử của Bà, cũng là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng kiếp chót, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Bồ-tát là Bậc Đại-phước có nhiều oai lực nhất trong toàn cõi tam-giới chúng-sinh muôn loài.

Sau đó, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng từ trên tay 4 vị Đại-phạm-thiên được trao sang cho 4 vị Tứ Đại-thiên-vương đón tiếp bằng tấm da mềm mại, một lần nữa, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng từ trên tay 4 vị Tứ Đại-thiên-vương được trao sang cho các quan đón tiếp bằng tấm vải trắng tinh.

Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng từ trên tay các quan, bước xuống đạp trên mặt đất bằng đôi bàn chân bằng phẳng. Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng đứng quay mặt nhìn về hướng Đông, chư- thiên và nhân-loại dâng hoa cúng dường Đức-Bồ-tát, rồi tán dương ca tụng rằng:

 

  • Kính bạch Đức Đại-nhân, tất cả chúng-sinh trong hướng này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có một ai cao thượng hơn Ngài.

Tiếp đến, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng quay mặt nhìn về hướng Nam, …, hướng Tây, …, hướng Bắc, …, hướng Đông Nam, …, hướng Tây Nam, …, hướng Tây Bắc, …, hướng Đông Bắc, trong tám hướng, mỗi hướng chư-thiên và nhân-loại đều dâng hoa cúng dường Đức-Bồ-tát, rồi tán dương ca tụng rằng:

  • Kính bạch Đức Đại-nhân, tất cả chúng-sinh trong hướng này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có một ai cao thượng hơn Ngài.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cúi mặt nhìn xuống hướng dưới, rồi ngẩng mặt nhìn lên hướng trên, chư- thiên, chư phạm-thiên đều dâng hoa tán dương và ca tụng:

  • Kính bạch Đức Đại-nhân, chư-thiên, chư phạm-thiên hướng trên này, Ngài là Bậc cao thượng nhất, không có chư-thiên, chư phạm-thiên nào cao thượng hơn Ngài.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng đứng nhìn về hướng Bắc rồi bước đi 7 bước, bước đầu tiên Đức- Bồ-tát bước bằng chân phải. Khi Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác cao thượng bước đi, Đức-vua trời Phạm- thiên cầm chiếc lọng màu trắng che cho Đức-Bồ-tát, Đức-vua Suyāma cầm quạt lông, còn ba thứ khác là đôi hia, gươm báu, vương miện, mỗi Đức-vua trời cầm mỗi thứ đi theo sau Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng.

Đó là năm báu vật của lễ phong Vương.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng dừng lại ở bước chân thứ 7. Khi ấy tất cả chư-thiên, chư phạm- thiên đều bảo với nhau rằng:

“Bây giờ, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng sẽ truyền dạy những lời tối quan trọng.

 

Đức-Bồ-tát truyền dạy lời tối quan trọng đầu tiên

Tất cả đều im lặng, chờ lắng nghe, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng dõng dạc truyền dạy rằng:

“Aggo' ham' asmi lokassa! Jeṭṭho' ham' asmi lokassa! Seṭṭho'ham' asmi lokassa! Ayamantimā jāti.

Natthi dāni punabbhavo.(1)

“Ta là Bậc cao-cả nhất, trong toàn cõi tam-giới chúng-sinh!

Ta là Bậc vĩ-đại nhất, trong toàn cõi tam-giới chúng-sinh!

Ta là Bậc tối-thượng nhất, trong toàn cõi tam-giới chúng-sinh!

Kiếp này là kiếp chót của ta.

Ta không còn tái-sinh kiếp nào khác nữa!

Chư-thiên, chư phạm-thiên và nhân-loại vô cùng hoan hỷ, đồng thanh tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác cao thượng.

7 Người và vật đồng sinh với Đức-Bồ-tát

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đản-sinh ra đời, đồng thời có người và vật gồm có 7 loại cùng sinh với Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác:

  1. Công-chúa Bhaddakaccānā gọi Yasodharā (là công-chúa của Đức-vua Suppabuddha và Chánh-cung Hoàng-hậu Amittādevī xứ Devadaha).
  2. Hoàng-tử Ānanda (Hoàng-tử của ông hoàng Amitto- dana dòng Sakya là hoàng đệ của Đức-vua Suddhodana).
  3. Channa (quan giữ ngựa).

1 Dīghanikāya, Mahāvaggapāḷi, Mahāpadānasutta.

 

  1. Kāḷudāyī (vị quan cận thần).
  2. Ngựa báu Kaṇḍaka.
  3. Cây Mahābodhirukkha (cây assattha mọc trong rừng Uruvelā sau này trở thành cây Mahābodhirukkha của Đức-Phật Gotama).
  4. Bốn hầm vàng, kho báu trong kinh-thành Kapilavatthu.

Sau khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử đản- sinh ra đời tại khu vườn Lumbinī, Chánh-cung Hoàng- hậu Mahāmāyādevī cùng Thái-tử ngự trở về lại kinh- thành Kapilavatthu.

Đầu thai sinh làm người có 4 hạng người

Sự tái-sinh đầu thai sinh làm người có 4 hạng người, và có sự hiểu biết qua ba thời-kỳ khác nhau như sau:

  1. Hạng người thường và chư Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường khi tái-sinh đầu thai sinh làm người hoàn toàn không biết cả ba thời-kỳ:
  • Không biết thời-kỳ tái-sinh đầu thai vào lòng mẹ.
  • Không biết thời-kỳ đang ở trong lòng mẹ.
  • Không biết thời-kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
  1. Chư Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác kiếp chót khi tái- sinh đầu thai sinh làm người chỉ biết một thời-kỳ và không biết hai thời-kỳ:
  • Trí-tuệ biết thời-kỳ tái-sinh đầu thai vào lòng mẹ.
  • Không biết thời-kỳ đang ở trong lòng mẹ.
  • Không biết thời-kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
  1. Chư Bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác chư Đức- Bồ-tát Độc-Giác kiếp chót khi tái-sinh đầu thai làm người biết được hai thời-kỳ và không biết một thời-kỳ:
  • Trí-tuệ biết thời-kỳ tái-sinh đầu thai vào lòng mẹ.

 

  • Trí-tuệ biết thời-kỳ đang ở trong lòng mẹ.
  • Không biết thời-kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ.
  1. Chư Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót khi tái-sinh đầu thai làm người biết rõ cả ba thời-kỳ:
  • Trí-tuệ biết rõ thời-kỳ tái-sinh đầu thai vào lòng mẹ.
  • Trí-tuệ biết rõ thời-kỳ đang ở trong lòng mẹ.
  • Trí-tuệ biết rõ thời-kỳ đản-sinh ra đời khỏi lòng mẹ.

Như trường hợp Thái-tử Siddhattha Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt kiếp chót, khi tái- sinh đầu thai sinh làm người chắc chắn sẽ trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ biết rõ cả ba thời-kỳ:

  • Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ biết rõ thời-kỳ tái-sinh đầu thai vào lòng mẫu-hậu Bà Chánh- cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī.
  • Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ biết rõ thời-kỳ đang ở trong lòng mẫu-hậu, như ở trong căn phòng sạch sẽ sang trọng, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác ngồi kiết già, như một vị Pháp-sư ngồi trên pháp tòa và mẫu-hậu của Ngài cũng biết được Ngài nữa.
  • Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ biết rõ thời-kỳ đản-sinh, khi mẫu-hậu của Ngài đang đứng trong tư thế vững vàng, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác sinh ra bằng đôi chân ra trước, xuôi hai tay toàn thân mình ra sau một cách suôn sẻ an toàn, như vị Pháp-sư bước xuống pháp tòa.

Đó là trường hợp đặc biệt của Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Còn các hạng người khác như: hạng người thường, chư

 

Bồ-tát thanh-văn-giác, chư Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác kiếp chót, chư Bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác kiếp chót, chư Đức-Bồ-tát Độc-Giác kiếp chót đều không biết thời-kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ, bởi vì, khi sắp sinh ra, thai nhi bị nhào lộn quay đầu xuống dưới, để cái đầu ra trước, thân mình ra sau, chịu đau đớn sợ hãi, tâm không còn bình tĩnh. Do đó, những hạng người ấy không biết thời-kỳ sinh ra đời khỏi lòng mẹ.

Tích vị Đạo-sĩ Kāḷadevila

Đạo-sĩ Kāḷadevila chứng đắc 8 bậc thiền(1), chứng đắc ngũ thông(2) tam-giới, là vị Tôn-sư của Đức-vua Suddho- dana. Hôm ấy, vị Đạo-sĩ Kāḷadevila độ ngọ trong cung điện của Đức-vua Suddhodana xong, liền lên cõi trời Tam-thập-tam-thiên nghỉ trưa trong một lâu đài, ngồi nhập thiền để hưởng sự an-lạc trong thiền-định.

Sau khi xả thiền, vị Đạo-sĩ ra đứng trước cửa, nhìn thấy Đức-vua Sakka cùng chư-thiên-nam, chư-thiên-nữ hoan hỷ vui mừng reo hò một cách khác thường, không giống như mọi ngày, vị Đạo-sĩ bèn hỏi rằng:

  • Này quý vị chư-thiên! Sao hôm nay quý vị vui mừng hoan hỷ, reo hò ca hát vui vẻ khác thường như vậy. Quý vị có thể nói cho bần đạo nghe được không?

Chư-thiên bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài Đạo-sĩ, hôm nay Thái-tử của Đức- vua Suddhodana đã sinh ra đời rồi. Khi Thái-tử trưởng thành sẽ từ bỏ cung điện đi xuất gia và sẽ trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác, thuyết pháp Chuyển-Pháp-luân

1 8 bậc thiền: 4 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

2 Ngũ thông: Đa-dạng-thông, nhãn-thông, nhĩ-thông, tha-tâm-thông, tiền- kiếp-thông.

 

tế độ cho chúng-sinh: nhân-loại, chư-thiên và phạm- thiên có cơ hội được lắng nghe chánh-pháp, rồi thực- hành theo chánh-pháp dẫn đến sự chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Đó là nguyên nhân làm cho chúng tôi vui mừng vô cùng hoan hỷ, reo hò ca hát khác thường như vậy!

Sau khi lắng nghe chư-thiên trả lời như vậy, vị Đạo-sĩ Kāḷadevila liền từ cõi Tam-thập-tam-thiên hiện xuống cõi người, đi vào cung điện của Đức-vua Suddhodana, Đức-vua cung kính đón tiếp, thỉnh mời ngồi chỗ cao quý, Đức-vua đảnh lễ xong, ngồi một nơi hợp lẽ.

Khi ấy, vị Đạo-sĩ Kāḷadevila bèn hỏi rằng:

  • Tâu Đại-vương, bần đạo nghe nói rằng Thái-tử của Đại-vương đã sinh ra đời rồi, bần đạo xin được chiêm ngưỡng Thái-tử.

Đức-vua Suddhodana truyền lệnh thay trang phục cho Thái-tử xong, rồi thỉnh Thái-tử ra mắt đảnh lễ vị Đạo-sĩ Kāḷadevila. Khi thỉnh Thái-tử ra trước mặt vị Đạo-sĩ Kāḷadevila, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái- tử hiện lên đứng trên đầu vị Đạo-sĩ Kāḷadevila với tư thế vững vàng. Vị Đạo-sĩ Kāḷadevila nhận biết Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử có oai lực phi thường, nên vị Đạo-sĩ đứng dậy dời xuống chỗ ngồi thấp, nhường chỗ ngồi cao quý lại cho Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cao thượng, vị Đạo-sĩ Kāḷadevila chắp hai tay đảnh lễ Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử.

Nhìn thấy oai lực phi thường của Thái-tử của mình, Đức-vua Suddhodana vô cùng ngạc nhiên chưa từng thấy, nên lần thứ nhất Đức-vua Suddhodana đảnh lễ Thái-tử Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác.

 

Đạo-sĩ Kāḷadevila mỉm cười và khóc

Vị Đạo-sĩ Kāḷadevila chứng đắc 8 bậc thiền và ngũ thông tam-giới, có khả năng đặc biệt thấy rõ, biết rõ trong thời quá-khứ 40 đại-kiếp, và trong thời vị-lai 40 đại-kiếp, như vậy gồm 80 đại-kiếp. Vị Đạo-sĩ Kāḷadevila dùng trí-tuệ nhãn-thông thấy rõ, biết rõ thời vị-lai của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử sẽ có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ. Vị Đạo- sĩ Kāḷadevila biết chắc chắn rằng:

“Không còn hoài-nghi gì nữa, Thái-tử này chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”

Biết rõ như vậy, Vị Đạo-sĩ Kāḷadevila phát sinh đại- thiện-tâm vô cùng hoan hỷ, nên mỉm miệng cười.

Sau đó, vị Đạo-sĩ Kāḷadevila xem xét về thân phận của mình và biết rõ rằng:

“Ta không có duyên lành gặp Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác và không có cơ hội lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, bởi vì, ta sẽ chết trước khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Vả lại, sau khi ta chết, do năng lực của đệ tứ thiền vô- sắc-giới “phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm sẽ cho quả tái-sinh trong cõi trời vô-sắc-giới phi-tưởng- phi-phi-tưởng-xứ-thiên, có tuổi thọ lâu 84.000 ngàn đại- kiếp. Phạm-thiên trong cõi vô-sắc-giới chỉ có 4 danh- uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn và thức-uẩn) mà thôi, không có sắc-uẩn, cho nên, phạm-thiên cõi vô-sắc- giới không có mắt để nhìn thấy Đức-Phật, không có tai để nghe chánh-pháp của Đức-Phật, khi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian.”

 

Khi vị Đạo-sĩ Kāḷadevila xem xét biết thân phận mình không có duyên lành gặp được Đức-Phật và không nghe được chánh-pháp của Đức-Phật, cảm thấy tủi phận, nên cảm động khóc.

Đức-vua Suddhodana nhìn thấy vị Đạo-sĩ Kāḷadevila khi thì mỉm miệng cười, khi thì lại cảm động khóc bèn bạch hỏi rằng:

  • Kính bạch Đạo-Sư, có điều gì không may xảy đến với Thái-tử của con hay không? Bạch Ngài.

Vị Đạo-sĩ Kāḷadevila tâu rằng:

  • Tâu Đại-vương, chắc chắn không có điều gì không may xảy đến với Thái-tử cả, Thái-tử chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Biết rõ như vậy, Bần đạo cảm thấy vui mừng, vô cùng hoan hỷ mỉm miệng cười và bần đạo cũng biết rõ mình không có duyên lành được gặp Đức-Phật và lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật. Do đó, bần đạo cảm thấy tủi phận, nên cảm động khóc.

Lễ đặt tên Đức-Bồ-tát thái-tử

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử sinh ra đời được năm ngày thì Đức-vua Suddhodana tổ chức trọng thể buổi lễ gội đầu và đặt tên cho Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Thái-tử.

Đức-vua Suddhodana truyền lệnh mời 108 vị Bà-la- môn thông hiểu rõ ba bộ sách xem tướng (theo truyền thống của Bà-la-môn) vào cung điện để thiết đãi món ăn đặc biệt “cơm nấu bằng sữa tươi nguyên chất”.

Trong số 108 vị Bà-la-môn ấy, có 8 vị Bà-la-môn đại- trí vị Bà-la-môn Rāma, vị Bà-la-môn Dhaja, vị Bà-la-môn Lakkhaṇa, vị Bà-la-môn Jotimanta, vị Bà-la-môn Yañña,

 

vị Bà-la-môn Subhoja, vị Bà-la-môn Suyāma và vị Bà- la-môn Sudatta, sau khi xem tướng, thấy Thái-tử có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ.

Trong 8 vị Bà-la-môn đại trí, có 7 vị đồng đưa lên 2 ngón tay và tiên đoán quả quyết rằng:

* Thái-tử là Bậc có đầy đủ trọn vẹn các tướng tốt của bậc đại-nhân và các tướng tốt phụ này:

  • Nếu sống tại cung điện, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương trị vì thiên-hạ có bốn biển làm ranh giới.
  • Nếu từ bỏ cung điện đi xuất gia, thì sẽ trở thành

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Duy chỉ có một vị Bà-la-môn trẻ tuổi nhất, thuộc dòng dõi Koṇḍañña tên là Bà-la-môn Sudatta, sau khi xem xét kỹ các tướng tốt của Thái-tử xong, vị Bà-la-môn này chỉ đưa một ngón tay lên và tiên đoán quả quyết rằng:

  • Thái-tử có đầy đủ trọn vẹn các tướng tốt của bậc đại-nhân và các tướng tốt phụ này, Thái-tử không thể nào sống tại cung điện, mà chắc chắn Thái-tử sẽ từ bỏ cung điện đi xuất gia, rồi chắc chắn Thái-tử sẽ trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mà thôi.

Tất cả các vị Bà-la-môn đại-trí cũng đều nhất trí với nhau rằng: “Thái-tử chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác”.

Trong lễ gội đầu và đặt tên cho Đức-Bồ-tát Thái-tử, tất cả các vị Bà-la-môn đại-trí đều nhất trí với nhau rằng:

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử chắc chắn sẽ trở thành một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho chúng-sinh trong tam-giới (danh từ Pāḷi gọi là attha) và chắc chắn sẽ được thành tựu như ý (danh từ Pāḷi gọi là Siddha).

 

Hai danh từ này được ghép với nhau thành tên của Đức-Bồ-tát Thái-tử SIDDHATTHA (SIDDHA + ATTHA) nghĩa là sự lợi ích được thành tựu, hoặc Bậc tế độ chúng-sinh được thành tựu mọi lợi ích cao thượng.

Thông thường, các Bậc đại-trí làm lễ đặt tên cho đứa trẻ nào, quý Ngài xem xét về tương lai cuộc đời của đứa trẻ ấy để đặt tên gọi cho hợp với cả cuộc đời đứa trẻ ấy.

Thật ra, tên gọi nào cũng chỉ là danh từ riêng chế định mà thôi. Nếu danh từ riêng ấy có ý nghĩa phù hợp với con người, thì tự nó có một tiềm năng động viên khuyến khích con người ấy vượt qua mọi trở ngại, để xứng đáng với tên gọi của mình. Do đó, khi có đứa con sinh ra đời, gia đình thường mời các Bậc đại-trí đến nhà xem tướng, rồi làm lễ đặt tên cho đứa con của mình.

32 Tướng tt ca Đức-Bồ-tát kiếp chót

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác (Sammāsambodhisatta) kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác (Sammāsambuddha), khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác ấy đản-sinh ra đời sẽ có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ. Đó là quả tốt của đại- thiện-nghiệp ba-la-mật mà Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác ấy đã từng thực-hành và tích lũy ở trong tâm từ vô số kiếp trong quá-khứ, hoàn toàn không liên quan đến huyết thống cha mẹ hay dòng dõi.

Tướng tốt của bậc đại-nhân như thế nào?

Bậc đại-nhân là người cao thượng (mahāpurisa) mà các tướng tốt đặc biệt ấy được biểu hiện ra bên ngoài thân hình, cho nên gọi là tướng tốt của bậc đại-nhân (mahāpurisalakkhaṇa).

Khoa xem tướng tốt của bậc đại-nhân là một trong các

 

bộ môn mà dòng dõi Bà-la-môn trí-thức thường dạy và học đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân, theo truyền thống từ đời này sang đời khác của dòng dõi Bà-la-môn, nhưng họ hoàn toàn không biết rằng mỗi tướng tốt của bậc đại-nhân là quả của đại-thiện-nghiệp nào.

Trong kinh Lakkhaṇasutta(1) Đức-Phật giảng dạy về 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và đại-thiện-nghiệp cho quả của mỗi tướng tốt của bậc đại-nhân được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú-hộ Anāthapiṇḍika, gần kinh-thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn gọi chư tỳ-khưu dạy rằng:

  • Này chư tỳ-khưu! Bậc đại-nhân (mahāpurisa) có đầy đủ 32 tướng tốt này, chỉ có hai con đường mà thôi, không có đường nào khác.
  1. Nếu bậc đại-nhân ấy sống tại gia thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương hành thiện-pháp, Đức Pháp-vương trị vì toàn cõi đất nước, có bốn biển làm ranh giới, đều được bình yên vững chắc, và có đầy đủ 7 báu là: long xa báu, voi báu, ngựa báu, ngọc ma-ni báu, Chánh-cung Hoàng-hậu báu, phú hộ báu, thừa-tướng báu. Đức Chuyển-luân Thánh-vương có hơn 1.000 hoàng-tử anh hùng dũng cảm, có khả năng làm khuất phục mọi đội quân của kẻ thù. Đức Chuyển-luân Thánh- vương luôn luôn chiến thắng kẻ thù bằng thiện-pháp, không sử dụng cực hình, khí giới; và trị vì trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, không có kẻ thù chống đối, không có mọi cảnh tượng xấu xảy ra trên toàn cõi đất nước, mọi thần dân thiên-hạ đều được sống trong cảnh thanh bình thịnh vượng.

1 Bộ Dīghanikāya, Pāthikavagga, Kinh Lakkhaṇasutta.

 

  1. Nếu bậc đại-nhân ấy từ bỏ cung điện, đi xuất gia thì sẽ trở thành Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, diệt tận mọi phiền-não, mọi tham-ái, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  • Này chư tỳ-khưu! 32 tướng tốt của bậc đại-nhân là như thế nào mà bậc đại-nhân ấy có đầy đủ thì chỉ có hai con đường mà thôi, không có con đường nào khác?

Nếu bậc đại-nhân sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, ... hoặc nếu bậc đại-nhân từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì bậc đại-nhân ấy sẽ trở thành Đức A-ra-hán, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, ...

32 Tướng tốt của bậc đại-nhân

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, khi Đức-Bồ-tát đản-sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân như sau:

  1. Hai bàn chân bằng phẳng, vững vàng đạp trên mặt

đất.

  1. Hai lòng bàn chân có dấu bánh xe, trục xe có một ngàn căm và đầy đủ các bộ phận.
  2. Hai gót chân dài (bằng một phần tư bàn chân).
  3. Ngón tay dài và tròn trịa, đều đặn, thon như hình búp măng.
  4. Hai bàn tay, hai bàn chân mềm mại.
  5. Năm ngón tay, trừ ngón tay cái ra, bốn ngón còn lại đều dài bằng nhau, khít vào nhau, và năm ngón chân dài bằng nhau, khít vào nhau, không có kẽ hở.
  6. Hai mắt cá nằm cao cách bàn chân độ 2-3 lóng tay.
  7. Đôi chân thon, phần trên lớn rồi nhỏ dần xuống dưới, tròn đẹp như đôi chân con sơn dương.
  8. Khi đứng thẳng, không cúi người xuống, hai bàn tay có thể sờ đụng hai đầu gối.

 

  1. Ngọc hành được giấu kín trong bao da.
  2. Toàn thân có da màu vàng, óng ánh xinh đẹp như màu vàng ròng.
  3. Làn da mịn màng, do làn da mịn màng, trơn nhẫy, nên bụi không thể bám vào thân hình.
  4. Mỗi sợi lông mọc ở mỗi lỗ chân lông.
  5. Lông có màu xanh và xoắn về bên phải, đầu lông hướng lên mặt.
  6. Thân hình ngay ngắn như thân hình phạm-thiên.
  7. Bảy nơi trong thân hình có thịt đầy đặn là hai mu bàn tay, hai mu bàn chân, hai bả vai và cổ (không nhìn thấy gân và xương).
  8. Thân hình trên dưới đầy đặn như thân hình phía trên của sư tử chúa.
  9. Hai hốc bả vai thịt đầy đặn (không thấy xương vai).
  10. Chiều cao của thân bằng sải tay, và sải tay bằng chiều cao của thân (cũng như chiều cao của cây nigrodha bằng chiều ngang của nhánh cây ấy).
  11. Cổ tròn trịa đầy đặn (khi nói không nổi gân cổ).
  12. Bảy ngàn dây thần kinh rất tinh tế, tụ hội từ lưỡi đến cổ, tiếp nhận hương vị vật thực để nuôi dưỡng cơ thể.
  13. Cái cằm giống cằm của sư tử chúa.
  14. Đầy đủ 40 cái răng: hàm trên 20 cái răng và hàm dưới 20 cái răng.
  15. Hàm răng trên và dưới đều đặn, có màu trắng xinh đẹp.
  16. Hai hàm răng sắp đều đặn và khít vào nhau, không có kẽ hở.
  17. Bốn cái răng nhọn sạch sẽ, trắng đẹp.
  18. Lưỡi lớn và dài, mềm mỏng, có màu đỏ hồng xinh đẹp; lưỡi lớn thể trùm được cả mặt lên đến chân tóc và lưỡi dài có thể le ra đến tận hai lỗ mũi, hai lỗ tai.

 

  1. Giọng nói như giọng của phạm-thiên, rõ ràng, trong trẻo, ngọt ngào như tiếng chim karavīka.
  2. Đôi mắt xanh sẫm và trong sáng rất đẹp.
  3. Đôi mắt tựa như đôi mắt con bê mới sinh.
  4. Sợi lông uṇṇa mọc trên trán, ở khoảng giữa hai đầu lông mày, có màu trắng dài mềm mại, xoắn bên phải, đầu lông hướng lên trên đầu rất đẹp.
  5. Cái đầu tròn và có vầng trán cao rộng đẹp, đi vòng từ vành tai bên phải sang vành tai bên trái.

Đó là 32 tướng tốt của bậc đại-nhân được biểu hiện đầy đủ trong thân hình của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác Thái-tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Đức-Phật dạy rằng:

  • Này chư tỳ-khưu! Nhóm Đạo-sĩ ngoại đạo có thể học hỏi ghi nhớ đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân này, nhưng họ không thể biết rằng: “Mỗi tướng tốt của bậc đại-nhân là quả của đại-thiện-nghiệp nào”.

Đại-thiện-nghiệp cho quả 32 tướng tốt

32 tướng tốt của bậc đại-nhân được biểu hiện trong kim thân của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử Siddhattha, đó là quả của đại-thiện-nghiệp pháp-hạnh ba-la-mật. Đại-thiện-nghiệp này không những cho quả tướng tốt của bậc đại-nhân, mà còn cho quả rộng lớn, vô cùng phong phú đối với Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy và đối với mọi chúng-sinh khác có liên quan đến Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy.

Trong bài kinh Lakkhaṇasutta, Đức-Phật giảng giải

đại-thiện-nghiệp nào cho quả các tướng tốt nào, và các

 

quả liên quan đến đại-thiện-nghiệp ấy. 32 tướng tốt của bậc đại-nhân là quả của những đại-thiện-nghiệp như sau:

  1. Tướng tốt: Bàn chân bằng phẳng, vững vàng đạp trên mặt đất.

Tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người có quyết tâm cao trong mọi thiện-pháp không hề lay chuyển, khi thân hành điều thiện, khẩu nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện. Khi làm phước-thiện bố-thí, thọ-trì ngũ-giới, bát-giới uposatha- sīla trong những ngày giới hằng tháng, ... trong việc phụng dưỡng mẹ cha, hộ độ Sa-môn, Bà-la-môn, trong sự cung kính những bậc trưởng-lão trong dòng họ và trong đời, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, thì vị thiên-nam có nhiều oai lực hơn tất cả các hàng chư- thiên khác về 10 quả báu trong cõi trời ấy là: tuổi thọ, sống lâu, sắc đẹp, sự an-lạc, danh thơm tiếng tốt, quyền lực cao nhất, sắc, thanh, hương, vị, xúc trong cõi trời ấy.

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc đại-nhân:

Bàn chân bằng phẳng, vững vàng đạp trên mặt đất,

 

toàn bàn chân (gót chân, giữa bàn chân, đầu ngón chân) bằng phẳng đầy đặn tiếp xúc cùng một lúc trên mặt đất.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước, có 4 biển làm ranh giới, ... Khi đã là Đức Chuyển- luân Thánh-vương, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Mọi kẻ thù đều hàng phục theo Đức Chuyển-luân Thánh-vương.
  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Không còn kẻ thù bên trong là phiền não: tham, sân, si, ... và không có kẻ thù bên ngoài như: Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma- vương, phạm-thiên, hay bất cứ một ai, ... trong đời này có thể gây tai hại cho Đức-Phật được.

  1. Tướng tốt: Hai lòng bàn chân có dấu bánh xe, trục xe có một ngàn căm và đầy đủ các bộ phận.

Tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người có thiện-tâm trong sạch giúp đỡ nhiều người, đem lại sự an-lạc cho nhiều người, làm giảm được sự sợ hãi kinh hồn cho nhiều người, trông nom bảo vệ mọi người một cách hợp pháp. Đặc biệt, khi làm phước-thiện bố-thí là chính, thì thường có kèm theo những phước-thiện phụ khác, v.v...

 

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ... Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện-

nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc đại-nhân:

Hai lòng bàn chân có dấu bánh xe, trục xe có một ngàn căm và đầy đủ các bộ phận.

Đức-Bồ-tát có tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương, nên các Đức-vua đều thần phục theo Đức Chuyển-luân Thánh-vương, trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước, có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Có nhiều thuộc hạ tùy tùng đông đảo đó là các Đức- vua, các quan cận thần, các tướng lĩnh, các quân lính, các Hoàng-tử anh hùng dũng cảm, các hàng Bà-la-môn, toàn thể thần dân thiên-hạ tất cả đều một lòng trung thành với Đức Chuyển-luân Thánh-vương.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Các hàng đệ-tử đông đảo, đó là chư tỳ-khưu, chư tỳ- khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, nhân-loại, chư-thiên, Long vương, chư phạm-thiên, v.v... có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật.

 

  1. Tướng tốt: Hai gót chân dài (một phần bàn chân).
  2. Tướng tốt: Ngón tay dài và tròn trịa, đầy đặn, thon như hình búp măng.
  3. Tướng tốt: Thân hình ngay ngắn như thân hình của phạm-thiên.

Ba tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người không sát-sinh, tránh xa sự sát- sinh, bỏ gậy gộc, bỏ khí giới, có tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, tâm bi thương xót chúng-sinh, mong tìm sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc đến tất cả chúng-sinh.

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được ba tướng tốt của bậc đại-nhân:

  • Hai gót chân dài (bằng một phần tư bàn chân).
  • Ngón tay dài và tròn, đầy đặn, thon như hình búp măng.
  • Thân hình ngay ngắn như thân hình phạm-thiên.

Đức-Bồ-tát có ba tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

 

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Có tuổi thọ sống lâu mà bất cứ kẻ thù nào cũng không thể sát hại Đức Chuyển-luân Thánh-vương được.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Có tuổi thọ sống lâu mà bất cứ kẻ thù nào dù là Sa- môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương hoặc bất cứ một ai trong đời, ... cũng không thể sát hại Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác được.

  1. Tướng tốt: Bảy nơi trong thân hình có thịt đầy đặn là hai mu bàn tay, hai mu bàn chân, hai bả vai và cổ (không nhìn thấy gân và xương).

Tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người làm phước-thiện bố-thí vật thực gồm các món ăn toàn là những món ăn cao lương mỹ vị, các thức uống ngon lành bổ dưỡng, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được 1 tướng tốt của bậc đại-nhân:

 

Bảy nơi trong thân hình có thịt đầy đặn là hai mu bàn tay, hai mu bàn chân, hai bả vai và cổ (không nhìn thấy gân và xương).

Đức-Bồ-tát có tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Thường được thọ thực toàn những món cao lương mỹ vị, các thức uống ngon lành bổ dưỡng.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Thường được thọ thực toàn những món cao lương mỹ vị, các thức uống ngon lành bổ dưỡng.

  1. Tướng tốt: Hai bàn tay, hai bàn chân mềm mại.
  2. Tướng tốt: Năm ngón tay, trừ ngón tay cái ra, bốn ngón còn lại đều dài bằng nhau, khít vào nhau, và năm ngón chân dài bằng nhau, khít vào nhau, không có kẽ hở.

Hai tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ, thường thực-hành bốn pháp tế độ:

  • Bố-thí đến chúng-sinh nào cần sự bố-thí.
  • Nói lời dịu ngọt dễ nghe, khuyên răn họ tránh xa mọi ác-pháp, cố gắng tạo mọi thiện-pháp.

 

  • Hành động đem lại sự lợi ích đến cho họ.
  • Hòa mình cùng sống chung với họ, vui cùng vui, khổ cùng khổ.

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ... Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện-

nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được hai tướng tốt của bậc đại-nhân:

  • Hai bàn tay, hai bàn chân mềm mại.
  • Năm ngón tay trừ ngón tay cái ra, bốn ngón còn lại đều dài bằng nhau, khít vào nhau, và năm ngón chân dài bằng nhau, khít vào nhau, không có kẽ hở.

Đức-Bồ-tát có hai tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Các thuộc hạ tùy tùng một lòng trung thành với Đức Chuyển-luân Thánh-vương; các thuộc hạ tùy tùng đó là các quan cận thần, các tướng lĩnh, các quân lính, các Hoàng-tử, các hàng Bà-la-môn, gia chủ, toàn thể thần dân thiên-hạ, ... luôn tuân theo lệnh của Đức-vua, làm cho Đức-vua rất hài lòng.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất-gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

 

Các hàng đệ-tử đều có đức-tin trong sạch nơi Đức- Phật. Các hàng đệ-tử đó là tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự- nam, cận-sự-nữ, nhân-loại, Long-vương, chư-thiên, chư phạm-thiên đều trở thành bậc thiện-trí, có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp và thực-hành theo chánh-pháp của Đức-Phật.

  1. Tướng tốt: Hai mắt cá nằm cao cách bàn chân độ

2-3 lóng tay.

  1. Tướng tốt: Lông có màu xanh và xoắn về bên phải, đầu lông hướng lên mặt, ...

Hai tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người thường hay nói lời có ý nghĩa sâu sắc, hợp với thiện-pháp, hướng dẫn dạy bảo cho mọi người làm mọi phước-thiện, là người có đại-thiện-tâm trong sáng, có tâm-từ mong đem lại sự lợi ích, sự an-lạc đến cho tất cả chúng-sinh, và đặc biệt là người thường kính trọng chánh-pháp, cúng dường chánh-pháp.

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ... Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện-

nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được hai tướng tốt của bậc đại-nhân:

  • Hai mắt cá nằm cao cách bàn chân độ 2-3 lóng tay.
  • Lông có màu xanh và xoắn bên phải, đầu lông hướng lên mặt, ...

 

Đức-Bồ-tát có hai tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Đức-vua là người vĩ đại nhất, người cao thượng nhất người đứng đầu cao cả nhất trong thần dân thiên-hạ, ...

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Đức-Phật là Bậc vĩ-đại nhất, Bậc cao-thượng nhất, Bậc cao-cả nhất trong toàn cõi tam-giới chúng-sinh.

  1. Tướng tốt: Đôi chân thon, phần trên lớn rồi nhỏ dần xuống dưới, tròn đẹp như đôi chân con sơn dương.

Tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người có thiện-tâm, thiện-chí giảng dạy các môn học, hoặc hướng dẫn nghề nghiệp, ... bằng cách suy nghĩ rằng: “Làm cách nào, với phương pháp nào giúp cho mọi người dễ hiểu, dễ biết, nhanh chóng thành đạt, ... mà không phải chịu vất vả khổ cực lâu ngày”.

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

 

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc đại-nhân.

Đôi chân thon, phần trên lớn rồi nhỏ dần xuống dưới, tròn đẹp như đôi chân con sơn dương.

Đức-Bồ-tát có tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Có Long xa sang trọng xứng đáng với địa vị Đức Chuyển-luân Thánh-vương, có đội quân hùng mạnh là thuộc hạ tùy tùng của Đức-vua và những thứ đồ dùng xứng đáng với địa vị của Đức-vua được phát sinh như ý.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Có những thứ vật dụng thích hợp với Sa-môn, có các hàng đệ-tử là những bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn, bậc Thánh Đại-thanh-văn, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác và những đồ dùng của Sa-môn được phát sinh như ý.

  1. Tướng tốt: Làn da mịn màng, do làn da mịn màng, trơn nhẫy, nên bụi không thể bám vào thân hình.

Tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

 

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người thường đến gần gũi, thân cận các bậc Sa-môn, Bà-la-môn, và bạch hỏi rằng:

  • Kính bạch Ngài!
  • Thế nào là đại-thiện-nghiệp?
  • Thế nào là bất-thiện-nghiệp?
  • Thế nào là có tội?
  • Thế nào là vô tội?
  • Nghiệp nào nên làm?
  • Nghiệp nào không nên làm?
  • Nghiệp nào đã thực-hành rồi cho quả xấu, chịu đau khổ lâu dài?
  • Nghiệp nào đã thực-hành rồi sẽ cho quả tốt, hưởng an-lạc lâu dài?...

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc đại-nhân:

Làn da mịn màng, do làn da mịn màng, trơn nhẫy, nên bụi không thể bám vào thân hình.

Đức-Bồ-tát có tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

 

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Đức Chuyển-luân Thánh-vương là người có trí-tuệ bậc nhất trong đời, mà những người tại gia không một ai có trí-tuệ sánh được với Đức-vua.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Đức-Phật có trí-tuệ siêu-việt, trí-tuệ rộng lớn, trí-tuệ nhanh nhẹn, trí-tuệ sắc bén, trí-tuệ diệt tận mọi phiền não, ... Trong tất cả mọi chúng-sinh, không một ai có trí- tuệ sánh được với Đức-Phật.

  1. Tướng tốt: Toàn thân có da màu vàng, óng ánh xinh đẹp như màu vàng ròng.

Tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người không có tính sân-hận, không nóng nảy, không có tức giận, dù khi người khác đến chọc tức, có tâm nhẫn-nại không nổi giận, không bực tức, không buồn bực, không tỏ nỗi bất bình hiện rõ ra bên ngoài; còn là người thường làm phước-thiện bố-thí đồ mặc bằng những thứ vải rất tốt đẹp, mịn màng như lụa, thứ vải dệt bằng lông thú, ... những tấm vải để lót nằm cũng rất tốt đẹp và mịn màng.

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

 

Sau Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy khi chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả Tốt Trong Kiếp Hiện-Tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc đại-nhân:

Toàn thân da có màu vàng, óng ánh xinh đẹp như màu vàng ròng.

Đức-Bồ-tát có tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Có những đồ trang phục bằng những thứ vải rất tốt, quý giá mịn màng như lụa, lông thú, ... và những đồ lót nằm cũng bằng những thứ vải quý giá, rất tốt đẹp mịn màng xinh đẹp,…

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Có những tấm y bằng những thứ vải rất tốt, quý giá mịn màng như lụa, v.v... Và những đồ lót nằm cũng bằng những thứ vải quý giá, rất tốt đẹp mịn màng.

  1. Tướng tốt: Ngọc hành được giấu kín trong bao da. Tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

 

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người thường hay đi tìm kiếm những người thất lạc lâu ngày dẫn trở về gặp lại người thân yêu như: tìm đứa con thất lạc dẫn trở về gặp lại cha mẹ, hoặc đi tìm người cha, hoặc mẹ thất lạc dẫn trở về gặp lại đứa con, dẫn em gặp lại anh, hoặc dẫn anh gặp lại em, dẫn em gặp lại chị, hoặc dẫn chị gặp lại em, v.v...

Khi những người thân yêu gặp lại với nhau, họ vô cùng vui mừng sung sướng, Đức-Bồ-tát cũng vui mừng sung sướng cùng với niềm vui của họ.

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc đại-nhân:

Ngọc hành được giấu kín trong bao da.

Đức-Bồ-tát có tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Có hơn 1.000 Hoàng-tử đều là những người anh hùng dũng cảm, có nhiều oai lực chiến thắng mọi kẻ thù.

 

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Có rất nhiều đệ-tử là bậc Thánh Thanh-văn dũng cảm, có nhiều oai lực chiến thắng mọi phiền-não ma- vương, diệt tận được mọi phiền-não, tham-ái.

  1. Tướng tốt: Chiều cao của thân bằng sải tay, sải tay bằng chiều cao của thân; cũng như chiều cao của cây nigrodha bằng chiều ngang của cành cây ấy.
  2. Tướng tốt: Khi đứng thẳng, không cúi người xuống, hai bàn tay có thể sờ đụng hai đầu gối.

Hai tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người biết rõ những nhu cầu thiết yếu của người nên tế độ, biết rõ người này xứng đáng được tế độ vật này, người kia xứng đáng được tế độ vật kia. Khi biết rõ như vậy, rồi tế độ người ấy đúng theo nhu cầu thiết yếu của từng người.

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả Tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được hai tướng tốt của bậc đại-nhân:

 

  • Chiều cao của thân bằng sải tay, sải tay bằng chiều cao của thân; cũng như chiều cao của cây nigrodha bằng chiều ngang của cành cây ấy.
  • Khi đứng thẳng, không cúi người xuống, hai bàn tay có thể sờ đụng hai đầu gối.

Đức-Bồ-tát có tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Có nhiều của cải tài sản, có nhiều châu báu, vàng bạc, mọi thứ của cải đồ dùng đều rất đáng hài lòng, các kho đầy của cải, lúa gạo.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Có nhiều tài sản quý báu đó là đức-tin, giới, hổ-thẹn tội-lỗi, ghê-sợ tội-lỗi, nghe nhiều hiểu rộng, bố-thí, trí- tuệ; đặc biệt hơn nữa là của báu siêu-tam-giới 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn. Đó cũng gọi là của báu.

  1. Tướng tốt: Cổ tròn trịa đầy đặn (khi nói không nổi gân cổ).
  2. Tướng tốt: Hai hốc bả vai có thịt đầy đặn (không nhìn thấy xương vai).
  3. Tướng tốt: Thân hình trên dưới đầy đặn như thân hình phía trên của sư tử chúa.

Ba tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

 

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người có đại-thiện-tâm trong sạch mong tìm sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc, sự giải thoát khỏi mọi ràng buộc cho phần đông chúng-sinh. Với đại- thiện-tâm suy nghĩ rằng:

“Làm thế nào giúp cho những người ấy phát triển đức- tin trong sạch, phát triển giới-hạnh trong sạch, phát triển sự hiểu biết nghe nhiều hiểu rộng, phát triển mọi thiện- pháp, phát triển phước-thiện bố-thí, phát triển trí-tuệ.

Đời sống của họ được phát triển của cải, lúa gạo ruộng vườn, gia súc; phát triển con cháu, bà con dòng họ, bạn bè v.v...”

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được ba tướng tốt của bậc đại-nhân:

  • Cổ tròn trịa đầy đặn (khi nói không nổi gân cổ).
  • Hai hốc bả vai có thịt đầy đặn (không nhìn thấy xương vai).
  • Thân hình trên dưới đầy đặn như thân hình phía trên của sư tử chúa.

Đức-Bồ-tát có ba tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức

 

Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Mọi thiện-pháp, của cải tài sản, đàn gia súc, con cháu, bà con, bạn bè, ... không bị suy thoái.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Đức-tin, giới-hạnh, sự hiểu biết, nghe nhiều hiểu rộng, phước-thiện bố-thí, trí-tuệ, v.v... không bị suy thoái.

  1. Tướng tốt: Bảy ngàn dây thần kinh rất tinh tế, tụ hội từ lưỡi đến cổ, tiếp nhận hương vị vật thực để nuôi dưỡng cơ thể.

Tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người không làm khổ tất cả chúng-sinh bằng chân, tay hoặc bằng gậy gộc, bằng khí giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc đại-nhân:

 

Bảy ngàn dây thần kinh rất tinh tế, tụ hội từ lưỡi đến cổ, tiếp nhận hương vị vật thực để nuôi dưỡng cơ thể.

Đức-Bồ-tát có tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Ít bệnh hoạn, ít vất vả; có đầy đủ chất ấm trong cơ thể giúp cho sự tiêu hóa vật thực dễ dàng; cơ thể không nóng quá, cũng không lạnh quá.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Ít bệnh hoạn, ít vất vả; có đầy đủ chất ấm trong cơ thể giúp cho sự tiêu hóa vật thực dễ dàng; cơ thể không nóng quá, cũng không lạnh quá.

  1. Tướng tốt: Đôi mắt xanh sẫm và trong sáng đẹp.
  2. Tướng tốt: Đôi mắt tựa như đôi mắt con bê mới sinh. Hai tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người không trợn mắt nhìn, là người có tâm chánh trực, có thói quen tự nhiên nhìn thẳng mọi người với tâm-từ, bằng đôi mắt dịu hiền đáng yêu mến,... Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy

cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

 

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được hai tướng tốt của bậc đại-nhân:

  • Đôi mắt xanh sẫm và trong sáng rất đẹp.
  • Đôi mắt tựa như đôi mắt con bê mới sinh.

Đức-Bồ-tát có hai tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Tất cả mọi người đều kính yêu Đức Chuyển-luân Thánh-vương. Đức-vua được các Hoàng-tử, các quan, các tướng lĩnh, quân lính, các nhóm Bà-la-môn, phú hộ, và tất cả thần dân kính yêu Đức-vua, chỉ có một lòng trung thành tuyệt đối với Đức Chuyển-luân Thánh- vương mà thôi.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Phần đông chúng-sinh đều kính trọng Đức-Phật. Đức-Phật là nơi nương nhờ duy nhất của chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni, các cận-sự-nam, cận-sự-nữ, nhân-loại, chư-thiên, Long-vương, chư phạm-thiên. Tất cả các hàng thanh-văn đệ-tử có đức-tin trong sạch nơi Đức- Phật, luôn luôn kính yêu Đức-Phật.

 

  1. Tướng tốt: Cái đầu tròn và có vầng trán cao, rộng, đẹp, đi vòng từ vành tai bên phải sang vành tai bên trái.

Tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người dẫn đầu mọi người trong mọi thiện-pháp như thân hành điều thiện, khẩu nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện; việc làm phước-thiện bố-thí, thọ-trì ngũ-giới, bát-giới uposathasīla, phụng-dưỡng mẹ cha, hộ-độ Sa-môn, Bà-la-môn, kính trọng các bậc Trưởng-lão trong dòng họ và trong đời.

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót được tướng tốt của bậc đại-nhân:

Cái đầu tròn và có vầng trán cao rộng đẹp, đi vòng từ vành tai bên phải sang vành tai bên trái.

Đức-Bồ-tát có tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

 

Mọi người tin theo Đức Chuyển-luân Thánh-vương. Ngài là người đứng đầu cao cả nhất trong các Hoàng- tử, các quan, các tướng lĩnh, các quân lính, các nhóm Sa-môn, Bà-la-môn, phú hộ, v.v... Tất cả thần dân thiên- hạ đều tin theo Đức Chuyển-luân Thánh-vương và chỉ có một lòng trung thành tuyệt đối theo Đức Chuyển-luân Thánh-vương mà thôi.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Phần đông chúng-sinh có đức-tin trong sạch nơi Đức- Phật, Đức-Phật là nơi nương nhờ duy nhất của chư tỳ- khưu, chư tỳ-khưu-ni, các cận-sự-nam, cận-sự-nữ, nhân- loại, chư-thiên, Long-vương, chư phạm-thiên, ... Tất cả các thanh-văn đệ-tử có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, chỉ có nhất tâm tin theo Đức-Phật mà thôi.

  1. Tướng tốt: Mỗi sợi lông mọc ở mỗi lỗ chân lông.
  2. Tướng tốt: Sợi lông uṇṇa mọc trên trán, ở khoảng giữa hai đầu lông mày, có màu trắng, dài mềm mại xoắn bên phải, đầu lông hướng lên phía trên đầu rất đẹp.

Hai tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người không nói dối, tránh xa sự nói dối, không nói lời lừa dối mọi người, chỉ nói lời chân thật, mỗi lời nói có chứng cứ, đem lại sự lợi ích.

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

 

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được hai tướng tốt của bậc đại-nhân:

  • Mỗi sợi lông mọc ở mỗi lỗ chân lông.
  • Sợi lông uṇṇa mọc trên trán, ở khoảng giữa hai đầu lông mày, có màu trắng, dài mềm mại xoắn bên phải, đầu lông hướng lên phía trên đầu rất đẹp.

Đức-Bồ-tát có hai tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Mọi người có đức-tin theo lời truyền dạy của Đức Chuyển-luân Thánh-vương và tuyệt đối tuân theo lệnh của đức-vua. Chánh-cung Hoàng-hậu, các Hoàng-tử, các Công-chúa, các quan, các tướng lĩnh, quân lính, nhóm Bà-la-môn, phú hộ cho đến toàn thể thần dân thiên-hạ một lòng tin nơi Đức Chuyển-luân Thánh- vương và tuyệt đối tuân theo lệnh của Đức Chuyển-luân Thánh-vương.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Các hàng thanh-văn đệ-tử lắng nghe theo lời giáo huấn của Đức-Phật, phát sinh đức-tin trong sạch

 

thực-hành theo lời dạy của Đức-Phật. Các hàng thanh- văn đệ-tử đó là chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni, cận-sự- nam, cận-sự-nữ, nhân-loại, chư-thiên, Long-vương, chư phạm-thiên đều có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật và thực-hành theo lời dạy của Đức-Phật.

  1. Tướng tốt: Đầy đủ 40 cái răng: Hàm trên 20 cái răng và hàm dưới 20 cái răng.
  2. Tướng tốt: Hai hàm răng đều đặn và khít vào nhau, không có kẽ hở.

Hai tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người không nói lời đâm thọc chia rẽ, tránh xa lời nói đâm thọc chia rẽ; chỉ nói lời làm cho mọi người hoà hợp, đoàn kết, tin tưởng nhau, thương yêu nhau; ca tụng tình đoàn kết thương yêu nhau, hoan hỷ khi mọi người đoàn kết gắn bó với nhau.

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được hai tướng tốt của bậc đại-nhân:

  • Đầy đủ 40 cái răng: Hàm trên 20 cái răng và hàm dưới 20 cái răng.
  • Hai hàm răng đều đặn và khít vào nhau, không có kẽ hở.

 

Đức-Bồ-tát có hai tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Các thuộc hạ tùy tùng của Đức Chuyển-luân Thánh- vương không bị chia rẽ mà đoàn kết gắn bó với nhau: các thuộc hạ tùy tùng đó là các Hoàng-tử, các quan, các tướng lĩnh, các quân lính, các nhóm Bà-la-môn, phú hộ, toàn thể thần dân thiên-hạ trong nước đều đoàn kết gắn bó với nhau, chỉ một lòng trung thành tuyệt đối với Đức Chuyển-luân Thánh-vương mà thôi.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất-gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật đoàn kết gắn bó với nhau. Các hàng thanh-văn đệ-tử đó là: Chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, nhân- loại, chư-thiên, Long-vương, chư phạm-thiên đều đoàn kết gắn bó với nhau, chỉ có đức-tin trong sạch nơi Đức- Phật mà thôi, một lòng lo phụng sự Tam-Bảo, duy trì chánh-pháp của Đức-Phật.

  1. Tướng tốt: Lưỡi lớn và dài, mềm mỏng, có màu đỏ hồng xinh đẹp. Lưỡi lớn có thể trùm được cả mặt, lên đến chân tóc, và lưỡi dài có thể le ra đến tận hai lỗ mũi, hai lỗ tai.
  2. Tướng tốt: Giọng nói như giọng phạm-thiên, rõ ràng, trong trẻo, ngọt ngào như tiếng chim karavīka.

 

Hai tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người không nói lời thô tục, chửi rủa mắng nhiếc, tránh xa lời thô tục, chửi rủa mắng nhiếc; chỉ nói lời không có lỗi, nghe êm tai, làm hài lòng người nghe.

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được hai tướng tốt của bậc đại-nhân:

  • Lưỡi lớn và dài, mềm mỏng, có màu đỏ hồng xinh đẹp. Lưỡi lớn có thể trùm được cả mặt, lên đến chân tóc, và lưỡi dài có thể le ra đến tận hai lỗ mũi, hai lỗ tai.
  • Giọng nói như giọng phạm-thiên, rõ ràng, trong trẻo, ngọt ngào như tiếng chim karavīka.

Đức-Bồ-tát có hai tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Lời nói của Đức Chuyển-luân Thánh-vương được phần đông mọi người tin theo. Phần đông mọi người đó

 

là các Hoàng-tử, các quan, các tướng lĩnh, các quân lính, các nhóm Bà-la-môn, phú hộ, toàn thể thần dân thiên-hạ đều tuyệt đối tin theo lời của Đức Chuyển-luân Thánh-vương.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Lời giáo huấn của Đức-Phật được tất cả các hàng thanh-văn đệ-tử tin theo. Các hàng thanh-văn đệ-tử đó là: Chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, nhân-loại, chư-thiên, Long-vương, chư phạm-thiên tin theo lời giáo huấn của Đức-Phật.

  1. Tướng tốt: Cái cằm giống như cằm sư tử chúa. Tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người không nói lời vô ích, tránh xa sự nói lời vô ích; chỉ nói lời có ích hợp thời, lời chân thật, có ý nghiã sâu sắc, hợp với pháp, hợp với luật, có chứng cớ rõ ràng, đem lại sự lợi ích thật sự.

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc đại-nhân:

 

Cái cằm giống như cằm sư tử chúa.

Đức-Bồ-tát có tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Không có một kẻ thù nào có thể gây tai hại đến Đức Chuyển-luân Thánh-vương được.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Không có kẻ thù bên trong là phiền-não, tham, sân, si, ... Không có kẻ thù bên ngoài là Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương, phạm-thiên hoặc không một ai trong đời có thể gây tai hại đến Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác được.

  1. Tướng tốt: Hàm răng trên và dưới đều đặn, có màu trắng xinh đẹp.
  2. Tướng tốt: Bốn cái răng nhọn sạch sẽ, trắng đẹp. Hai tướng tốt này là quả của đại-thiện-nghiệp nào?

Đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ:

Đức-Bồ-tát là người không sống theo tà-mạng, chỉ sống theo chánh-mạng mà thôi. Tránh xa mọi cách lừa đảo như cân gian, đồ giả, đong thiếu, lừa dối, tráo trở; tránh xa sự trộm cắp, cướp của giết người, ...

 

Sau khi Đức-Bồ-tát ấy chết, nếu đại-thiện-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm thiên-nam trong cõi trời dục-giới, ...

Sau khi Đức-Bồ-tát thiên-nam ấy chết, nếu đại-thiện- nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm người.

Quả tốt trong kiếp hiện-tại

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót có được hai tướng tốt của bậc đại-nhân:

  • Hàm răng trên dưới đều đặn màu trắng xinh đẹp.
  • Bốn cái răng nhọn sạch sẽ, trắng đẹp.

Đức-Bồ-tát có hai tướng tốt này:

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, là Đức Pháp-vương trị vì thần dân thiên-hạ trên toàn cõi đất nước có bốn biển làm ranh giới, ... Có đầy đủ thất báu là long xa báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, Chánh-cung Hoàng-hậu báu, phú hộ báu và thừa tướng báu, có hơn một ngàn Hoàng-tử đều là những người anh hùng dũng cảm có khả năng dẹp tan mọi đội quân của kẻ thù. Đức Chuyển-luân Thánh-vương có khả năng thắng mọi kẻ thù bằng thiện-pháp, không dùng đến quyền lực hình phạt, không dùng đến khí giới, trị vì trên toàn cõi đất nước. Toàn thể thần dân thiên-hạ sống trong cảnh thanh bình thịnh vượng, không có chiến tranh, không có trộm cắp, cướp của giết người, ...

Khi đã là Đức Chuyển-luân Thánh-vương, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Thuộc hạ tùy tùng của Đức Chuyển-luân Thánh-vương đều có đại-thiện-tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền-não, thân tâm được an-lạc. Thuộc hạ tùy tùng đó là Chánh-cung Hoàng-hậu, các Hoàng-tử, các Công-chúa,

 

các quan cận thần, các tướng lĩnh, các nhóm Bà-la-môn, dân chúng trong thành, ngoại thành, toàn dân trên toàn cõi đất nước đều có đại-thiện-tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền-não, thân tâm thường được an-lạc.

  • Nếu Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ấy từ bỏ nhà, đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Khi đã là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đại-thiện- nghiệp ấy cho quả đặc biệt là:

Các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác đều có đại-thiện-tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền-não, bởi vì, bậc Thánh Thanh-văn đệ-tử đã diệt tận được phiền-não, tham-ái. Các hàng thanh-văn đệ-tử đó là chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni, các hàng cận- sự-nam, cận-sự-nữ, chư-thiên, chư phạm-thiên là những bậc Thánh-nhân. Dù những hàng thanh-văn đệ-tử còn là phàm-nhân chưa phải bậc Thánh-nhân, nhưng họ cũng có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, có giới-hạnh trong sạch, có thiện-pháp phát triển và tăng trưởng, có đại- thiện-tâm trong sáng.

  • Nhận xét về nghiệp và quả của nghiệp
  • Nghiệp đó là tất cả mọi thiện-nghiệp và mọi bất- thiện-nghiệp (ác-nghiệp) là của riêng mỗi một chúng- sinh, không có liên quan với chúng-sinh nào khác cả.
  • Quả của nghiệp đó là quả của đại-thiện-nghiệp, quả của bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) là không chỉ riêng của chúng-sinh ấy mà còn có thể liên quan, ảnh hưởng gián tiếp đến chúng-sinh khác thân cận nữa.(1)

Nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh là một

1 Tìm hiểu bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IV, Nghiệp Quả Của Nghiệp cùng soạn-giả.

 

trong bốn điều bất khả tư nghì,” mọi chúng-sinh nên tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, hoặc có chánh-kiến nơi nghiệp của mình (kammassakatā sammādiṭṭhi) mà thôi.

Trong tam-giới, duy nhất chỉ có Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác mới có trí-tuệ đặc biệt thấy rõ, biết rõ được nghiệp và quả của nghiệp không chỉ đối với Đức-Phật, mà còn đối với tất cả mọi chúng-sinh muôn loài nữa.

  • Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử Siddhattha kiếp chót có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân là quả của 30 pháp-hạnh ba-la-mật đó là đại-thiện-nghiệp mà vô số tiền-kiếp của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái- tử Siddhattha đã từng thực-hành, tích lũy 30 pháp-hạnh ba-la-mật trải qua vô số kiếp, suốt 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, kể từ thời-kỳ phát nguyện ở trong tâm, khoảng thời gian suốt 7 a-tăng-kỳ; đến thời-kỳ phát nguyện ra bằng lời nói, khoảng thời gian suốt 9 a-tăng- kỳ, cho đến thời-kỳ được Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Trong suốt khoảng thời gian gồm có 20 a-tăng-kỳ

100 ngàn đại-kiếp trái đất, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama đã thực-hành, bồi bổ đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật đó là đại- thiện-nghiệp có mục đích cứu cánh cuối cùng trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

30 pháp-hạnh ba-la-mật đó là đại-thiện-nghiệp đã được lưu-trữ, tích lũy ở trong tâm liên tục từ kiếp này sang kiếp kia, cho đến kiếp chót cho quả tái-sinh làm người là kiếp Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử Siddhattha, khi Đức-Bồ-tát sinh hạ ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân (mahāpurisalakkhaṇa).

 

Đức-Phật dạy trong kinh Lakkhaṇasutta, mỗi tướng tốt đều do quả trực tiếp của mỗi đại-thiện-nghiệp pháp- hạnh ba-la-mật, được biểu hiện nơi kim thân của Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân.

Vì vậy, các vị Bà-la-môn trí-thức học rộng, hiểu biết bộ sách xem tướng của dòng dõi Bà-la-môn, mới có thể tiên đoán biết Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử Siddhattha, khi trưởng thành sẽ đi xuất gia và chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Thật vậy, đúng theo lời tiên đoán của các vị Bà-la-môn trí-thức, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử Siddhattha từ bỏ cung điện đi xuất gia năm 29 tuổi, và trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác năm 35 tuổi. Đó là quả của đại-thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh ba-la-mật.

Quả của đại-thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh ba-la-mật ấy không chỉ trực-tiếp riêng cho Đức-Phật, mà còn có ảnh hưởng tốt gián-tiếp đến các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, từ thế hệ xưa cho đến thế hệ ngày nay, và còn tiếp tục đến thế hệ mai sau, cho đến khi giáo-pháp của Đức-Phật bị mai một hoàn toàn.

80 Tướng tốt phụ của Đức-Bồ-tát kiếp chót

(Anubyañjana)

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, cho nên khi đản- sinh ra đời, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân (mahāpurisalakkhaṇa) 80 tướng tốt phụ (anubyañjana).

Như trong bài kinh Āṭānāṭiyasutta(1) có câu kệ:

1 Bộ Dīghanikāya Pāthikaragga, kinh Āṭānāṭīyasutta.

 

“Upetā Buddhadhammehi, aṭṭharasāhi nāyakā Bāttiṃsalakkhaṇūpetā-sītānubyañjanādharā.”

Chư Phật có đầy đủ mười tám đức, Ba mươi hai tướng tốt bậc đại-nhân,

Cùng trọn vẹn tám mươi tướng tốt phụ, Chư Phật cao thượng cả thân lẫn tâm.

Trong bộ Jinālaṅkāraṭīkā trình bày 80 tướng tốt phụ của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác như sau:

  1. Bốn ngón tay dài bằng nhau (trừ ngón cái) khít vào nhau, và năm ngón chân dài bằng nhau, khít vào nhau, không có kẽ hở.
  2. Ngón tay, ngón chân từ gốc đến đầu thon mềm mại.
  3. Ngón tay, ngón chân tròn trịa xinh đẹp. (3 tướng tốt phụ của ngón tay, ngón chân)
  4. Móng tay, móng chân đỏ hồng như ngọc.
  5. Móng tay, móng chân cao nhọn hơi cong.
  6. Móng tay, móng chân đẹp hoàn toàn.

(3 tướng tốt phụ của móng tay, móng chân)

  1. Hai mắt cá bàn chân không lộ .
  2. Hai bàn chân, mỗi bàn chân có năm ngón dài bằng nhau.
  3. Dáng chân bước đi đẹp, như bước chân của voi chúa.
  4. Dáng chân bước đi thu thúc, như sư tử chúa.
  5. Dáng chân bước đi khoan thai, như con hạc chúa.
  6. Dáng chân bước đi khoan thai, như con bò chúa.
  7. Chân phải bắt đầu bước đi trước. (5 tướng tốt phụ về dáng đi)
  8. Hai đầu gối tròn trịa đẹp.
  9. Đầy đủ tướng tốt của đàn ông.

 

  1. Lỗ rốn tròn trịa không có nếp nhăn.
  2. Lỗ rốn sâu.
  3. Lỗ rốn xoay tròn khu ốc bên phải. (3 tướng tốt phụ của lỗ rốn)
  4. Hai cánh tay, hai ống chân thon giống như vòi của con voi.
  5. Kim thân trên dưới cân đối xinh đẹp.
  6. Toàn kim thân từ trên xuống dưới các bộ phận rất xinh đẹp.
  7. Toàn kim thân không có tỳ vết.
  8. Kim thân không mập, không gầy, cân đối.
  9. Toàn kim thân không có nếp nhăn.
  10. Toàn kim thân không có nốt ruồi, tàn nhang v.v...
  11. Các bộ phận trong cơ thể trước sau xinh đẹp.
  12. Toàn thân có da sạch sẽ trong sáng như vàng ròng.

(9 tướng tốt phụ của thân)

  1. Đức-Phật sức mạnh bằng 10 tỷ con voi khỏe mạnh.
  2. Lỗ mũi cao và dài, đầu mũi hơi nhọn.
  3. Lợi răng đỏ đậm.
  4. Hàm răng sạch sẽ.
  5. Hàm răng đều đặn đẹp đẽ. (2 tướng tốt phụ của hàm răng)
  6. Mắt, tai, mũi, lưỡi hoàn toàn trong sáng thanh-tịnh.
  7. Bốn cái răng nhọn tròn trịa.
  8. Đôi môi hồng đỏ (như màu đỏ lúc rạng đông).
  9. Miệng rộng.
  10. Hai lòng bàn tay có chỉ tay sâu đậm rõ ràng.
  11. Chỉ tay dài.
  12. Chỉ tay ngay thẳng.
  13. Đường chỉ tay đẹp.

(4 tướng tốt phụ của bàn tay)

 

  1. Toàn thân phát ra ánh sáng độ một sải.
  2. Đôi má đầy đặn.
  3. Đôi mắt dài và rộng.
  4. Đôi mắt bên trong có năm màu (xanh, vàng, đỏ, trắng và xám).

(2 tướng tốt phụ của đôi mắt)

  1. Lưỡi hồng mềm mỏng.
  2. Đôi lỗ tai có trái tai dài.
  3. Những dây thần kinh không gút mắc.
  4. Những dây thần kinh chìm sâu.
  5. Cái đầu đẹp tròn trịa.
  6. Vầng trán rộng cao đẹp.
  7. Đôi lông mày cong tự nhiên.
  8. Đôi lông mày hình dáng đẹp.
  9. Lông mày mềm mại.
  10. Lông mày từ đầu đến đuôi cong tự nhiên.
  11. Lông mày lớn đẹp.
  12. Lông mày dài.

(6 tướng tốt phụ của lông mày)

  1. Kim thân trẻ trung tuyệt vời (không lúc nào thấy già).
  2. Kim thân mát mẻ tuyệt vời.
  3. Kim thân luôn luôn tỏa ra ánh sáng tuyệt vời.
  4. Kim thân hoàn toàn sạch sẽ, không có dơ bẩn.
  5. Kim thân mềm mại.
  6. Kim thân trơn tru xinh đẹp.
  7. Kim thân có mùi thơm.

(7 tướng tốt phụ của kim thân)

  1. Lông đều đặn.
  2. Lông mềm mại.
  3. Sợi lông uốn cong xoay bên phải.
  4. Lông có màu xanh như bích ngọc.

 

  1. Sợi lông tròn.
  2. Sợi lông bóng láng.

(6 tướng tốt phụ của sợi lông)

  1. Hơi thở ra, hơi thở vào vô cùng vi-tế.
  2. Miệng có mùi thơm tho(1).
  3. Tóc có màu xanh đen.
  4. Tóc xoắn khu ốc bên phải.
  5. Tóc hình dáng đẹp tự nhiên.
  6. Tóc mềm mại.
  7. Tóc không rối.
  8. Tóc đều đặn.
  9. Tóc bóng láng.

(7 tướng tốt phụ của sợi tóc)

  1. Trên đỉnh đầu tóc có mùi thơm tho.
  2. Trên đỉnh đầu phát ra tia hào quang.

Đó là 80 tướng tốt phụ của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác.

Phật mẫu Mahāmāyādevī quy thiên

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Thái-tử Siddhattha đản sinh ra đời đến ngày thứ bảy, Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī quy thiên, bởi vì, Bà đã hết tuổi thọ. Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī hưởng thọ được 56 năm 4 tháng 27 ngày ở cõi người.

Sau khi Bà Chánh-cung Hoàng-hậu chết, dục-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm vị thiên-nam tên Santussita trong cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên) tầng

1 Lắng nghe chánh-pháp rồi tán dương ca tụng Sādhu! Lành thay! sẽ có quả báu miệng có mùi thơm.

 

trời thứ tư trong 6 cõi trời dục-giới. Chư-thiên trong tầng trời thứ tư này có tuổi thọ 4.000 năm tuổi trời, so với thời gian cõi người bằng 576 triệu năm; bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời Tusita này bằng 400 năm ở cõi người.

Tuyển chọn nhũ-mẫu

Đức-vua Suddhodana truyền lệnh tuyển chọn nhũ mẫu để nuôi dưỡng Thái-tử Siddhattha. Những người đàn bà đủ tiêu chuẩn được tuyển chọn có 240 người nhưng chỉ có 60 bà được chọn trực tiếp lo phục vụ Thái- tử; ngoài ra, còn có 60 lính hầu và 60 vị quan trông coi việc nuôi dưỡng Thái-tử.

Khi Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī quy thiên, Đức-vua Suddhodana tấn phong Bà Mahāpajāpati gotamī (em của Bà Mahāmāyādevī) lên ngôi vị Chánh- cung Hoàng-hậu.

Bà Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāpajāpatigotamī sinh hạ Hoàng-tử Nanda, sau Thái-tử Siddhattha 2-3 ngày. Bà Mahāpajāpatigotamī vốn là bà dì ruột của Thái-tử Siddhattha, bà tự đảm đương địa vị nhũ mẫu nuôi dưỡng Thái-tử Siddhattha, còn Hoàng-tử Nanda, con đẻ của bà, được giao cho nhũ mẫu khác nuôi dưỡng.

Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha trưởng thành bằng bầu sữa ngọt lành của nhũ mẫu Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāpajāpatigotamī.

Cuộc đời Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha

Năm Thái-tử Siddhattha được mười sáu (16) tuổi thì

Đức-vua Suddhodana truyền ngôi báu cho Thái-tử.

Trong buổi lễ đăng quang lên ngôi Vua của Thái-tử

 

Siddhattha và lễ thành hôn với Công-chúa Yasodharā (1), Đức-vua Siddhattha tấn phong Công-chúa Yasodharā lên ngôi vị Chánh-cung Hoàng-hậu.

Đức-vua Bồ-tát Siddhattha trị vì đất nước được thanh bình thịnh vượng, thần dân thiên-hạ được an lạc nghiệp.

Đức Thái-Thượng-hoàng Suddhodana muốn Đức-vua Siddhattha trở thành Đức Chuyển-luân Thánh-vương, không muốn Đức-vua Bồ-tát Siddhattha từ bỏ cung điện đi xuất gia để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. Cho nên, Đức Thái-Thượng-hoàng truyền lệnh cho các quân lính không được để cho Đức-vua Siddhattha nhìn thấy người già, người bệnh, người chết và bậc xuất-gia.

Đức vua Bồ-tát Siddhattha lên ngôi Vua an hưởng sự an-lạc trên ngai vàng thời gian trải qua 12 năm, chưa từng thấy cảnh nào để phát sinh động-tâm (saṃvega).

Nguyên nhân Đức-Bồ-tát đi xuất gia

Những sự kiện xảy ra theo tuần tự thời gian, khiến

Đức-vua Bồ-tát quyết định đi xuất gia.

* Lần đầu tiên, vào ngày rằm tháng 6, Đức-vua Bồ- tát Siddhattha ngự đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, bỗng nhiên Đức-vua Bồ-tát nhìn thấy một người già, do chư-thiên hóa ra, để làm cho Đức-vua Bồ- tát phát sinh động-tâm (saṃvega).

Thật vậy, Đức-vua Bồ-tát chưa từng nhìn thấy người già như thế bao giờ, cho nên Đức-vua Bồ-tát suy tư:

“Chắn chắn ta sẽ có sự già như thế, không thể tránh khỏi sự già được.”

1 Công-chúa Yasodharā của Đức-vua Suppabuddha và Chánh-cung Hoàng- hậu Amittādevī xứ Devadaha. Công-chúa Yasodharā người đồng sinh với Đức-Bồ-tát Siddhattha trong ngày rằm tháng tư 16 năm về trước.

 

Nỗi ưu tư tràn ngập trong lòng, không còn muốn đi du lãm nữa, Đức-vua Bồ-tát truyền bảo quan đánh xe đưa Đức-vua hồi cung.

* Lần thứ nhì, cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 10, Đức-vua Bồ-tát lại ngự đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, lần này Đức-vua Bồ-tát nhìn thấy một người bệnh, cũng do chư-thiên hóa ra.

Như lần trước, Đức-vua Bồ-tát suy tư:

“Chắc chắn ta cũng có sự bệnh như thế, không thể tránh khỏi sự bệnh được.”

Tâm trạng u buồn, Đức-vua Bồ-tát truyền lệnh bảo quan đánh xe đưa Đức-vua hồi cung.

* Lần thứ ba, cũng cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 2, để vơi bớt nỗi buồn, Đức-vua Bồ-tát lại ngự đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, bất chợt Đức- vua Bồ-tát nhìn thấy một người chết, cũng do chư-thiên hóa ra.

Cũng như hai lần trước, Đức-vua Bồ-tát suy tư:

“Chắc chắn ta cũng có sự chết như thế, không thể tránh khỏi sự chết được.”

Nỗi lo sợ phát sinh trong lòng, Đức-vua Bồ-tát truyền lệnh bảo quan đánh xe đưa Đức-vua hồi cung.

Từ đó, Đức-vua Bồ-tát lúc nào cũng suy tư về sự già, sự bệnh, sự chết. Đức-vua Bồ-tát tự hỏi, có con đường nào giải thoát khỏi sự già, sự bệnh, sự chết hay không? Sở dĩ có sự già, sự bệnh, sự chết là vì có sự tái-sinh.

“Ôi! Sự tái-sinh đáng kinh sợ thật!”

* Lần thứ tư, 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 6, để khuây khỏa nỗi u buồn, lo sợ trong lòng, một lần nữa, Đức-vua Bồ-tát ngự đi du lãm vườn thượng uyển.

 

Trên đường đi, Đức-vua Bồ-tát nhìn thấy một bậc xuất-gia đang tĩnh tọa dưới cội cây, tỏ vẻ an nhiên tự tại, cũng do chư-thiên hóa ra, để làm cho Đức-vua Bồ-tát nghĩ đến việc xuất-gia.

Thật vậy, khi Đức-vua Bồ-tát nhìn thấy bậc xuất-gia, Ngài liền trút bỏ được mọi nỗi ưu tư nặng trĩu trong lòng về sự già, sự bệnh, sự chết. Đức-vua Bồ-tát quyết định xuất gia ngay đêm ấy, để tìm con đường giải thoát khỏi sự tái-sinh là giải thoát khỏi khổ già, khổ bệnh, khổ chết.

Hôm ấy, Đức-Bồ-tát cảm thấy vô cùng hoan hỷ, nên Đức-Bồ-tát vẫn tiếp tục ngự đi du lãm vườn thượng uyển. Khi Đức-vua Bồ-tát hồi cung, ngay trong đêm ấy

Đức-vua    Bồ-tát    nghe   tin    Chánh-cung   Hoàng-hậu

Yasodharā đã sinh hạ Hoàng-tử, tình thương con phát sinh trong tâm, Đức-vua Bồ-tát than rằng:

“Sự ràng buộc lớn!”

Do đó, Hoàng-tử được đặt tên là “Rāhula.”

Mặc dù vậy, chí nguyện xuất-gia của Đức-vua Bồ-tát vẫn không thay đổi.

Đêm ấy, Đức-vua Bồ-tát đến tìm gặp Channa, quan giữ ngựa thân tín rồi bảo:

- Này Channa! Đêm nay, Trẫm sẽ rời khỏi hoàng cung, đi xuất gia, khanh hãy sửa soạn cho Trẫm con ngựa Kaṇḍaka ngay bây giờ, và nhớ không để cho một ai hay biết cả.

Như vậy, Đức-vua Bồ-tát Siddhattha lên ngôi vua, trị vì đất nước được 13 năm.

Đức-Bồ-tát Siddhattha đi xuất gia

Bỗng nhiên Đức-vua Bồ-tát thoáng nghĩ:

“Trước khi xuất gia, ta nên đến nhìn mặt Hoàng-nhi.”

 

Đức-vua Bồ-tát đi nhẹ nhàng lén vào phòng Chánh- cung Hoàng-hậu Yasodharā, dưới ánh đèn mờ nhạt, Chánh-cung Hoàng-hậu đang nằm nghiêng, choàng cánh tay qua Hoàng-nhi, vì đứng đằng sau nên không thể nhìn thấy rõ mặt Hoàng-nhi, nên Đức-vua Bồ-tát thầm nghĩ:

“Nếu ta đến gần e rằng Chánh-cung Hoàng-hậu sẽ thức giấc, làm trở ngại việc xuất-gia của ta trong đêm nay. Bây giờ, ta chưa nhìn thấy mặt Hoàng-nhi, thì chờ sau khi ta trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, ta sẽ trở về gặp sau cũng không muộn.”

Vào nửa đêm ngày rằm tháng sáu âm lịch, Đức-vua Bồ-tát Siddhattha nhẹ nhàng bước ra khỏi phòng, lên ngựa Kaṇḍaka, còn Channa đi theo sau, Đức-vua Bồ-tát Siddhattha trốn khỏi hoàng cung, đi xuất gia, lúc 29 tuổi.

Mỗi vó ngựa đều có bàn tay chư-thiên nâng đỡ, không phát ra tiếng động, nên không một ai hay biết, khi đến cửa thành thì liền có chư-thiên mở cửa cho ngựa Kaṇḍaka phi nhanh qua.

Đức-vua Bồ-tát Siddhattha ngự đi qua khỏi ba xứ: xứ Sakya, xứ Koliya xứ Malla khoảng 30 do tuần chỉ trong một đêm. Đến bờ sông Anoma, Đức-vua Bồ-tát Siddhattha ra hiệu cho ngựa Kaṇḍaka bay sang bờ bên kia, rồi Ngài nhẹ nhàng xuống ngựa cởi các đồ trang phục đức-vua, rồi bảo Channa rằng:

- Này Channa! Trẫm sẽ xuất gia tại nơi đây, khanh hãy mang tất cả đồ trang phục nầy trở về hoàng cung, trình tâu cho Đức-Phụ-vương của Trẫm biết.

Đức-vua Bồ-tát Siddhattha dùng thanh gươm báu cắt tóc, chừa lại khoảng hai lóng tay, tất cả những sợi tóc còn lại tự xoắn vòng xoáy theo khu ốc sang bên phải nằm sát trên da đầu và cạo sạch râu.

 

Chỉ một lần ấy thôi, từ đó về sau suốt cả cuộc đời của

Đức-Phật, không còn phải cắt tóc, cạo râu nữa.

Sau khi cắt tóc xong, Đức-vua Bồ-tát cầm nắm tóc trên tay, phát nguyện rằng:

“Nếu ta trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì xin cho nắm tóc này ở trên hư không, còn như nếu ta không trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì nắm tóc này sẽ rơi xuống đất.”

Đức-Bồ-tát ném nắm tóc lên hư không.

Thật là phi thường thay! Nắm tóc bay bỗng lên trên hư không khoảng một do tuần rồi đứng yên một chỗ.

Lúc ấy, Đức-vua Trời Sakka nhìn thấy bèn đem cái hộp bằng ngọc hiện xuống, cung kính đặt nắm tóc của Đức-vua Bồ-tát vào hộp, đem về tôn thờ ở ngôi tháp Cuḷamanī tại cõi Tam-thập-tam-thiên.

Khi ấy, vị Đại phạm-thiên Ghaṭikāra, là bạn thân cũ từ tiền-kiếp của Đức-vua Bồ-tát trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, biết hôm nay Đức-vua Bồ-tát Siddhattha xuất gia, nên mang 8 thứ vật dụng của bậc Sa-môn là tam y, bình bát, dao cạo, kim chỉ, dây thắt lưng và đồ lọc nước đến kính dâng cúng dường Đức-vua Bồ-tát.

Đức-Bồ-tát Siddhattha mặc y vàng màu lõi mít, tượng trưng như lá cờ chiến thắng của bậc Thánh A-ra- hán, trở thành bậc xuất-gia, lúc Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha được 29 tuổi.

Đức-Bồ-tát thọ giáo pháp-hành thiền-định

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha tìm đến vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta xin thọ giáo. Vị Đạo-sư hân hoan tiếp nhận Đức-Bồ-tát, rồi truyền dạy pháp-hành thiền-định.

 

Đức-Bồ-tát thực-hành pháp-hành thiền-định qua một thời gian không lâu, Đức-Bồ-tát chứng đắc được 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, và chứng đắc đến đệ tam thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là: vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện- tâm (akiñcaññāyatanajjhānakusalacitta) ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta đã chứng đắc.

Vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta tán dương ca tụng tài

đức của Đức-Bồ-tát rằng:

  • Này hiền-giả! Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc- giới thiện-tâm nào, thì hiền-giả cũng chứng đắc được bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ấy. Hiền-giả chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm nào, thì tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ấy.
  • Này hiền-giả! Từ nay, hai chúng ta cùng làm Đạo- sư dạy dỗ nhóm đệ-tử này.

Đức-Bồ-tát suy xét rằng:

“Đệ tam thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là vô-sở-hữu- xứ-thiền thiện-tâm này sẽ cho quả tái-sinh lên cõi vô- sắc-giới phạm-thiên gọi là cõi Vô-sở-hữu-xứ-thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 60.000 đại-kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ-uẩn, không diệt tận tham-ái, không diệt tận được phiền-não, không chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, không giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử, không giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.”

Đức-Bồ-tát Siddhattha không bằng lòng với sở đắc của mình, nên Đức-Bồ-tát xin từ giã vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử.

Sau khi từ giã vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta, Đức-Bồ-

 

tát Siddhattha tìm đến vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta xin thọ giáo. Vị Đạo-sư hân hoan tiếp nhận Đức-Bồ-tát, rồi truyền dạy pháp-hành thiền-định.

Đức-Bồ-tát thực-hành pháp-hành thiền-định qua một thời gian không lâu, Đức-Bồ-tát chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới và chứng đắc đến đệ tứ thiền vô-sắc-giới tột đỉnh gọi là: Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm (nevasaññānāsaññāyatanajjhānakusalacitta) là bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta đã chứng đắc.

Vị Đạo-sư tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát rằng:

  • Này hiền giả! Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc- giới tột đỉnh nào, thì hiền-giả cũng chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh ấy. Hiền-giả chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh nào, tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh ấy.
  • Này hiền-giả! Tôi xin thỉnh hiền-giả làm Đạo-sư dạy dỗ nhóm đệ-tử này.

Đức-Bồ-tát suy xét rằng:

“Đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là phi-tưởng-phi-phi- tưởng-xứ-thiền thiện-tâm này sẽ cho quả tái-sinh lên cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên gọi là cõi Phi-tưởng-phi- phi-tưởng-xứ-thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 84.000 đại- kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ- uẩn, không diệt tận được tham-ái, không diệt tận được phiền-não, không chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, không giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử, không giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.”

Đức-Bồ-tát Siddhattha xin từ giã Đạo-sư Udaka Rāmaputta khả kính, để đi tìm pháp-môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử.

 

Đức-Bồ-tát thực-hành pháp-hành khổ-hạnh (Dukkaracariyā)

Sau khi từ giã vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta, Đức-Bồ- tát Siddhattha ngự đến khu rừng Uruvelā gần con sông Nerañjarā, nơi đây có nhóm 5 tỳ-khưu: Ngài Koṇḍañña là trưởng nhóm cùng với Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma Ngài Assaji xin theo hộ độ Đức-Bồ- tát Siddhattha.

Đức-Bồ-tát Siddhattha tinh-tấn thực-hành pháp- hành khổ-hạnh (dukkaracariyā) đó là pháp-khó-hành như là phương-pháp nín thở vào, thở ra bằng miệng và mũi, hơi thở thoát ra ở hai lỗ tai; rồi tiếp tục nín thở vào, thở ra bằng miệng, bằng mũi và ngăn không để hơi thoát ra hai lỗ tai, hơi đâm lên trên đầu đau dữ dội, hơi đâm xuống bụng đau tức tối, hơi nóng phát ra toàn thân kinh khủng đến nỗi làm cho Đức-Bồ-tát chết ngất.

  • Số chư-thiên tưởng rằng: “Sa-môn Gotama chết rồi!”
  • Số khác tưởng rằng: “Sa-môn Gotama gần chết!”
  • Số khác cho rằng: “Sa-môn Gotama không phải chết, cũng không phải gần chết, mà Sa-môn Gotama đang thực-hành pháp-hành bậc Thánh A-ra-hán!”

Đức-Bồ-tát Siddhattha tiếp tục giảm vật thực dần dần, ban đầu độ vật thực chỉ vừa lòng bàn tay, từ từ giảm xuống chỉ còn bằng hạt sen, … Do đó, kim thân của Đức-Bồ-tát gầy ốm chỉ còn da bọc xương, đến nỗi sờ da bụng, thì đụng phải đường xương sống.

Trước kia kim thân của Đức-Bồ-tát có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời. Đến nay, các tướng tốt của bậc đại- nhân và các tướng tốt phụ đã biến mất, còn làn da đã trở thành màu đen sẫm.

 

Một hôm, Đức-Bồ-tát suy xét: “Ta đã thực-hành pháp-hành khổ-hạnh là pháp khó hành này đến chỗ tột cùng rồi. Trong quá-khứ, chưa từng có Sa-môn, Bà-la- môn nào đã thực-hành pháp-hành khổ-hạnh đến mức như ta đang thực-hành. Hiện-tại và vị-lai cũng sẽ không có Sa-môn, Bà-la-môn nào có thể thực-hành pháp-hành khổ-hạnh như ta, thế mà, ta không thể trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Như vậy, chắc chắn còn có một pháp-hành nào khác.”

Đức-Bồ-tát Siddhattha hồi tưởng lại:

“Khi còn nhỏ, ta cùng đi với Đức-Phụ-vương ra đồng làm lễ hạ điền, Đức-Phụ-vương để ta ngồi trong một chiếc lều vải dưới gốc cây mận (đào). Ta đã ngồi niệm đề mục hơi thở vào, hơi thở ra, và ta đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. Vậy, chắc chắn pháp-hành thiền-định này làm nền tảng, để cho ta có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác cũng nên.”

Đức-Bồ-tát suy xét rằng: “Bây giờ, thân thể của ta gầy ốm, sức khỏe của ta yếu đuối, ta không thể thực- hành pháp-hành thiền-định với đề mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra này được.

Vậy, điều tốt hơn hết, ta nên thọ thực trở lại, để phục hồi sức khỏe, rồi ta mới có thể thực-hành pháp-hành thiền-định với đề mục niệm hơi thở.”

Đức-Bồ-tát từ bỏ pháp-hành khổ-hạnh

Đức-Bồ-tát Siddhattha đã thực-hành pháp-hành khổ- hạnh (dukkaracariyā) đó là pháp-khó-hành suốt 6 năm trường ròng rã, mà không đạt đến mục đích trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, nên từ bỏ pháp-hành khổ- hạnh. Đức-Bồ-tát mang bát vào xóm nhà Senā đi khất thực trở lại.

 

Nhìn thấy Đức-Bồ-tát đi khất-thực như vậy, nhóm 5 tỳ-khưu hiểu lầm Đức-Bồ-tát đã từ bỏ sự tinh-tấn thực- hành pháp-hành khổ-hạnh để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, mà trở lại đời sống bình thường, nên nhóm 5 tỳ-khưu không theo hộ độ Đức-Bồ-tát nữa, họ dẫn nhau đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, trú tại nơi ấy.

Đức-Bồ-tát độ vật thực lại được thời gian không lâu, thì sức khỏe của Đức-Bồ-tát được hồi phục trở lại.

Trong thời-kỳ thực-hành pháp-hành khổ-hạnh là pháp-khó-hành, 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ của Đức-Bồ-tát Siddhattha bị biến mất.

Nay, kim thân của Đức-Bồ-tát Siddhattha lại hiện rõ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, có nước da màu vàng sáng ngời như trước.

3

Ngày 14 tháng tư âm lịch, vào canh chót đêm ấy, Đức- Bồ-tát Siddhattha nằm thấy 5 đại-mộng (Mahāsupina). Qua 5 đại-mộng này, Đức-Bồ-tát Siddhattha đoán biết chắc chắn rằng:

“Ta sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”

Sáng sớm hôm rằm tháng tư âm lịch, Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự đến ngồi dưới gốc cây da, để chờ đến giờ đi vào xóm khất-thực.

Tại gốc cây da này, hằng năm, vào ngày rằm tháng tư này, nàng Sujātā thường đem lễ vật đến cúng dường, tạ ơn chư-thiên, theo lời nguyện của nàng. Nàng Sujātā là con gái của ông phú-hộ Mahāsena ở làng Senā gần khu rừng Uruvelā, khi nàng trưởng thành có đến gốc cây da này cầu nguyện rằng:

“Khi tôi trưởng thành được kết duyên với người cùng dòng dõi, cùng giai cấp và sinh được một đứa con trai

 

đầu lòng. Nếu tôi được toại nguyện thì hằng năm vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), tôi sẽ làm lễ cúng dường tạ ơn chư-thiên cội cây này.”

Lời cầu nguyện của nàng được thành tựu như ý, cho nên, hằng năm vào ngày rằm tháng tư âm lịch, nàng Sujātā thường đem cơm sữa đến cúng dường tạ ơn chư- thiên cội cây này.

Từ sáng sớm, nàng Sujātā đã thức dậy vắt sữa của 8 con bò tinh khiết, khi nàng đem nồi đựng sữa để gần vú con bò thứ nhất, thì dòng sữa tự nhiên chảy ra một mạch. Thật là một việc lạ thường chưa từng có bao giờ! Lần lượt 7 con bò còn lại, dòng sữa cũng chảy ra một mạch như vậy.

Khi nàng đổ sữa vào nồi nấu cơm, sữa sôi xoay tròn bên phải, không một giọt nào chảy tràn ra bên ngoài, còn lửa củi cháy đều không có một làn khói nào bốc lên.

Sở dĩ, có những sự việc lạ thường như vậy, là vì buổi sáng hôm ấy có Tứ Đại-Thiên-vương trông coi lò lửa, Đức-vua trời Sakka lấy củi bỏ vào lò, Đức Phạm-Thiên che lọng, tất cả chư-thiên đem những chất bổ dưỡng do năng lực của mình bỏ vào nồi cơm sữa.

Nàng Sujātā gọi tớ gái tên Puṇṇā bảo rằng:

- Này Puṇṇā! Hôm nay chư-thiên của ta thật đáng kính, trước đây ta chưa từng chứng kiến những hiện tượng lạ thường như thế này! Con hãy mau đến cội cây da quét dọn cho sạch sẽ, để chúng ta mang cơm sữa đến dâng cúng, tạ ơn vị thiên thần cội cây ấy.

Vâng lời, người tớ gái Puṇṇā đến gốc cây da để quét dọn, cô nhìn thấy Đức-Bồ-tát Siddhattha đang ngồi quay mặt về hướng Đông, từ kim thân của Đức-Bồ-tát phát ra hào quang sáng ngời toả khắp quanh vùng, cô nghĩ rằng:

 

“Sáng hôm nay, vị thiên-thần cội cây của chúng ta hiện ra ngồi đợi thọ nhận cơm sữa cúng dường.”

Nghĩ như vậy, nên cô vô cùng hoan hỷ vội vàng trở về báo tin mừng cho bà chủ biết.

Nghe lời tường trình rõ ràng của người tớ gái, nàng Sujātā phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ bảo người tớ gái Puṇṇā rằng:

- Này Puṇṇā! Kể từ hôm nay về sau, ngươi trở thành

đứa con gái của ta.

Sau khi nói xong, nàng Sujātā ban cho cô Puṇṇā những đồ trang sức quý giá, xứng đáng với địa vị đứa con gái của nàng.

Nàng Sujātā đem chiếc mâm bằng vàng để đựng cơm, khi nàng đặt mâm gần nồi cơm, thì cơm sữa trong nồi tự nhiên viên lại thành vắt bằng trái thốt nốt lăn ra tuần tự từ nồi sang mâm đúng 49 vắt vừa đầy mâm. Nàng lại chứng kiến thêm một việc lạ thường chưa từng có bao giờ. Nàng Sujātā lấy một chiếc lồng bàn đậy lại rồi phủ lên một lớp vải trắng tinh.

Hôm ấy, nàng Sujātā trang điểm bằng những đồ trang sức quý giá, rồi đội mâm cơm sữa cùng người con gái Puṇṇā đi theo sau đến gốc cây da. Nhìn thấy Đức- Bồ-tát có đầy đủ tướng tốt của bậc đại-nhân và tướng tốt phụ, hào quang tỏa ra từ kim thân của Đức-Bồ-tát sáng khắp vùng. Thấy vậy, nàng lại càng phát sinh đức- tin trong sạch và vô cùng hoan hỷ chưa từng có bao giờ, bởi vì nàng tưởng rằng:

Đức-Bồ-tát Siddhattha là vị thiên-thần cội cây hiện ra, để thọ nhận phẩm vật cúng dường tạ ơn của nàng.

Nàng Sujātā cung kính đi đến gần Đức-Bồ-tát đặt

 

chiếc mâm vàng đầy cơm sữa và bình nước, hoa quả, vật thơm, … cung kính dâng cúng dường lên Đức-Bồ-tát.

Khi ấy, cái bát của Đức-Bồ-tát bỗng nhiên biến mất,

Đức-Bồ-tát nhìn nàng Sujātā. Nàng liền bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thiên-thần, con thành kính dâng cúng dường chiếc mâm vàng đầy phẩm vật này lên Ngài. Kính xin Ngài có tâm từ tế độ thọ nhận chiếc mâm

vàng đầy phẩm vật này, để cho con được sự lợi ích, sự

tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

Con được toại nguyện như thế nào, kính xin Ngài cũng được toại nguyện như thế ấy.

Đức-Bồ-tát Siddhattha đưa hai tay ra nhận lấy chiếc mâm vàng đầy phẩm vật cúng dường ấy.

Đức-Bồ-tát thọ nhận cơm sữa của nàng Sujātā

Sau khi thọ nhận mâm vàng đầy cơm sữa của nàng Sujātā xong, Đức-Bồ-tát đứng dậy rời khỏi gốc cây da, tay cầm chiếc mâm vàng đầy cơm sữa đi đến bến sông Nerañjarā, nơi mà chư Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót quá-khứ, trước khi trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác cũng đều ngự đến đây để tắm, nên bến sông này gọi là bến Supaṭitthita. Đức-Bồ-tát Siddhattha đặt mâm vàng đầy cơm sữa tại bến Supaṭitthita, rồi xuống dòng sông Nerañjarā tắm.

Sau khi tắm xong, Đức-Bồ-tát Siddhattha mặc y cà sa tượng trưng lá cờ chiến thắng của chư Thánh A-ra-hán, đoạn Đức-Bồ-tát ngồi quay mặt về hướng Đông, độ hết 49 vắt cơm sữa, rồi uống hết bình nước (từ đó về sau suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày, Đức-Phật không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng hương vị giải thoát Niết-bàn).

Sau khi độ cơm xong, Đức-Bồ-tát Siddhattha cầm chiếc mâm vàng rồi phát nguyện rằng:

 

“Nếu hôm nay tôi sẽ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác thì xin cho chiếc mâm vàng này sẽ trôi ngược dòng nước, nếu không thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi xuôi theo dòng nước.”

Phát-nguyện xong, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ném chiếc mâm vàng xuống dòng sông Nerañjarā.

Thật phi thường thay! Chiếc mâm vàng cắt ngang dòng nước đang chảy, trôi ra giữa sông, rồi từ đó trôi ngược dòng nước một cách vô cùng mau lẹ, khoảng một đoạn khá xa, rồi chiếc mâm vàng chìm sâu xuống đáy nước, đụng phải 3 chiếc mâm vàng của 3 Đức-Phật quá-khứ: Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇā- gamana Đức-Phật Kassapa, phát ra một âm thanh vang dội, làm cho Long-vương Kālanāga tỉnh giấc, nên nghĩ rằng:

“Hôm qua một Đức-Phật đã xuất hiện, hôm nay sẽ có một Đức-Phật khác xuất hiện.”

Long-vương Kālanāga thức dậy tán dương ca tụng hằng trăm bài kệ tán dương ca tụng một sự kiện vô cùng hy hữu xuất hiện trên thế gian.

Trưa hôm ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nghỉ trong một khu rừng Sāla, bên bờ sông Nerañjarā, những cây Sāla đua nhau nở hoa khắp cả khu rừng, để đón mừng Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha.

Chiều hôm ấy, trên đường Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác Siddhattha ngự đến cội cây Assattha(1) tại khu rừng

1 Cây Assattha này là Cây Đại-Bồ-Đề đồng sinh cùng một lúc với Đức- Bồ-tát Siddhattha. Đúng 35 năm sau, Đức-Bồ-tát Siddhattha ngự đến ngồi tại cội cây Đại-Bồ-Đề này, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama. Cho nên, cây Assattha này trở thành cây Đại-Bồ-Đề của Đức-Phật Gotama.

 

Uruvelā, dọc theo hai bên đường, chư-thiên trang hoàng những đóa hoa trời rất xinh đẹp, các hàng chư-thiên ở các cõi trời đua nhau cúng dường hương thơm cùng với thiên nhạc vang rền khắp 10 ngàn thế giới chúng-sinh.

Ngôi bồ-đoàn quý-báu phát sinh

Cùng lúc ấy, một người cắt cỏ tên Sotthiya, trên đường đi ngược chiều về phía Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác Siddhattha, nhìn thấy Đức-Bồ-tát liền phát sinh đức-tin trong sạch, nên dâng cúng dường tám nắm cỏ lên Đức-Bồ-tát Siddhattha.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nhận tám nắm cỏ, rồi ngự đi thẳng đến cội cây Assattha.

  • Đức-Bồ-tát khi đứng hướng Nam của cội cây Assattha, Đức-Bồ-tát nhìn thẳng về hướng Bắc, có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi tam-giới hướng Nam bị chìm sâu xuống cõi địa-ngục Avīci, còn toàn cõi tam-giới hướng Bắc được nổi lên đến cõi trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh, nên Đức-Bồ-tát suy nghĩ rằng:

“Đây không phải là chỗ ngồi để ta có thể trở thành

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”

  • Đức-Bồ-tát ngự đi sang đứng hướng Tây của cội cây Assattha, Đức-Bồ-tát nhìn thẳng về hướng Đông, cũng như vậy, có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi tam-giới hướng Tây bị chìm sâu xuống cõi điạ-ngục Avīci, còn toàn cõi tam-giới ở hướng Đông được nổi lên đến cõi trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh, nên Đức-Bồ- tát suy nghĩ rằng:

“Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”

  • Đức-Bồ-tát ngự đi sang đứng hướng Bắc của cội cây Assattha, Đức-Bồ-tát nhìn thẳng hướng Nam, cũng

 

như vậy, có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi tam- giới hướng Bắc bị chìm sâu xuống cõi điạ-ngục Avīci, còn toàn cõi tam-giới ở hướng Nam được nổi lên đến cõi trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh, nên Đức-Bồ-tát suy nghĩ rằng:

“Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.”

  • Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngự đi sang đứng hướng Đông của cội cây Assattha, Đức-Bồ- tát nhìn thẳng về hướng Tây.

Thật phi thường thay! Đức-Bồ-tát có cảm giác toàn khắp cõi tam-giới đều ở trạng thái thăng bằng, nên Đức- Bồ-tát suy nghĩ rằng:

“Chính đây là chỗ ngồi, để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh-Đẳng-Giác.”

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha trải tám nắm cỏ tại hướng Đông của cội cây Assattha.

Thật phi thường thay! Tại ngay chỗ ngồi ấy bỗng nhiên hóa thành ngôi bồ-đoàn quý-báu có chiều cao 14 hắc tay thật nguy nga lộng lẫy, mà không có một nhà kiến trúc mỹ thuật nào có thể tạo nên một ngôi bồ-đoàn đẹp tuyệt vời như vậy.

Bởi vì, ngôi bồ-đoàn quý báu này phát-sinh do oai- lực của 30 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha sắp trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngồi kiết già vững vàng trên ngôi bồ-đoàn quý báu, quay mặt về hướng Đông rồi phát nguyện rằng:

 

“Dù cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết, dù sắc thân này chỉ còn da bọc xương đi nữa, nếu ta chưa trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, ta quyết không bao giờ rời khỏi ngôi Bồ-đoàn quý báu này.”

Ngôi bồ-đoàn nơi toàn thắng Ác-Ma-Thiên

Khi ấy, từ cõi trời Tha-hoá-tự-tại-thiên, Ác-Ma-Thiên hoá ra hàng ngàn cánh tay đều cầm khí giới, cỡi voi trời Girimekhala dẫn đầu đoàn thiên ma tướng, thiên ma binh rầm rộ hiện xuống vây quanh cội cây Assattha, kéo dài 12 do tuần. Bên trên hư không, chúng thiên ma binh dày đặc 9 do tuần, chúng la hét âm thanh vang dội kinh khủng làm chấn động khắp mọi nơi, quyết tranh giành cho được ngôi bồ-đoàn của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác Siddhattha.

Vừa mới đây, chư-thiên, phạm-thiên từ 10 ngàn thế giới đến cung kính cúng dường, tán dương ca tụng Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha.

Khi thoáng nhìn thấy Ác-Ma-Thiên cùng với thiên ma binh, thiên ma tướng trùng trùng điệp điệp từng đoàn, từng lớp hiện xuống, tất cả chư-thiên, phạm-thiên đều bay xa lánh mặt, trở về chỗ ở của mình, chỉ còn một mình Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha vẫn điềm nhiên ngồi ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu một cách an nhiên tự tại.

Ác-Ma-Thiên đã sử dụng đủ mọi loại vũ khí và phép thuật cực kỳ nguy hiểm, quyết hại Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha, để chiếm đoạt ngôi bồ-đoàn quý báu ấy, với mục đích ngăn cản không cho Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Do oai-lực 30 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha sắp trở

 

thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, nên không có một loại phép thuật hay vũ khí nguy hiểm nào có thể làm hại Đức-Bồ-tát được.

Quả thật như vậy! Do oai-lực 30 pháp-hạnh Ba-la-mật của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha, các loại vũ khí và phép thuật của Ác-Ma-Thiên đều hóa thành những vật cúng dường Đức-Bồ-tát.

Ngồi trên lưng voi trời Girimekhala, Ác-Ma-Thiên vô cùng căm uất chỉ tay về Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nói như ra lệnh rằng:

  • Này Sa-môn Gotama! Nhà ngươi hãy mau mau rời khỏi ngôi bồ-đoàn ấy, vì ngôi bồ-đoàn ấy là của ta, không phải của ngươi!

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha từ tốn đáp lại rằng:

  • Này Ác-Ma-Thiên! Ngôi bồ-đoàn quý báu này phát sinh do oai-lực của 30 pháp-hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại- thí, 3 pháp-hành mà Như-Lai đã thực-hành từ vô số kiếp trong quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại này.

Vì vậy, ngôi bồ-đoàn này thuộc về của Như-Lai, không phải của ngươi.

Khi ấy, chỉ một mình Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngồi ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu, ngoài ra, không còn có một ai bên cạnh Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha cả, nên Ác-Ma-Thiên đặt câu hỏi bắt bí Đức-Bồ-tát rằng:

  • Thưa Sa-môn Gotama! Ngài nói rằng: “Ngôi bồ- đoàn quý báu ấy thuộc về của Ngài. Vậy, ai làm chứng cho Ngài!”

Nhìn xung quanh đều không có một chư-thiên, phạm- thiên nào cả, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha

 

bèn đưa bàn tay phải ra, rồi dùng ngón trỏ chỉ xuống mặt

đất như truyền dạy bằng lời chân thật rằng:

“Tiền-kiếp của Như-Lai đã trải qua vô số kiếp quá- khứ đã từng thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, có 5 hạnh đại-thí, 3 pháp-hành. Bây giờ, tại nơi đây không có chúng-sinh nào đứng ra làm chứng cho Như-Lai, chỉ có mặt đất, mặt đất này không có tâm thức có thể làm chứng cho Như-Lai được không?”

Thật phi thường thay! Lời chân-thật của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha vừa chấm dứt, thì ngay tức khắc, mặt đất chuyển mình, rung động, phát ra những tiếng sấm sét long trời lở đất, làm cho Ác-Ma-Thiên kinh hoàng khiếp đảm, giục voi trời Girimekhala bỏ chạy trở về cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên; còn đám thiên ma binh, thiên ma tướng thì hỗn quân, hỗn quan vô cùng khiếp sợ, cũng hốt hoảng chạy tán loạn theo Ác-Ma-Thiên trở về cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên.

Khi ấy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngồi ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu dưới cội cây Assattha đã toàn thắng Ác-Ma-Thiên, vừa đúng lúc mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng ló dạng hướng Đông. Khắp mười ngàn thế giới chúng-sinh, chư-thiên các cõi trời dục-giới, phạm-thiên các cõi trời sắc-giới, Long- vương dưới long-cung, … toàn thể chư-thiên, phạm- thiên vui mừng reo hò vang dội khắp các tầng trời, tán dương ca tụng oai lực của 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha rằng:

  • Đức-Bồ-tát Siddhattha đã toàn thắng rồi!
  • Ác-Ma-Thiên đã hoàn toàn thất bại rồi!

Như vậy, ngôi bồ-đoàn quý báu này được phát sinh do oai-lực của 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Bồ-tát

 

Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha, nên gọi là “Aparājita- pallaṅka” nghĩa là ngôi bồ-đoàn quý báu nơi toàn thắng Ác-Ma-Thiên.

Chư-thiên, phạm-thiên đem những phẩm vật quý báu nhất từ cõi trời đến cúng dường, tán dương ca tụng oai- lực của 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Siddhattha.

Đức-Bồ-tát Siddhattha chứng đắc tam-minh

Sau khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã toàn thắng Ác-Ma-Thiên vào canh đầu đêm rằm tháng tư âm lịch, Đức-Bồ-tát thực-hành pháp-hành thiền-định (samathabhāvanā) với đề mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra (anāpānassati) tuần tự chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới:

  • Đệ nhất thiền sắc-giới có 5 chi thiền là hướng- tâm, quan-sát, hỷ, lạc, định, do chế ngự được 5 pháp chướng-ngại là tham-dục, sân-hận, buồn-chán - buồn- ngủ, phóng-tâm - hối-hận, hoài-nghi.
  • Đệ nhị thiền sắc-giới có 3 chi thiền là hỷ, lạc, định,

do chế ngự được 2 chi thiền là hướng-tâm, quan-sát.

  • Đệ tam thiền sắc-giới có 2 chi thiền là lạc, định, do chế ngự được 1 chi thiền là hỷ.
  • Đệ tứ thiền sắc-giới có 2 chi thiền là xả, định, do chế ngự được 1 chi thiền lạc, thay bằng chi thiền xả.

Đó là 4 bậc thiền sắc-giới làm nền-tảng để chứng đắc Tam-Minh.

Tam-Minh (Tevijja)

  1. Tiền-kiếp-minh (pubbenivāsānussatiñāṇa)

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có đệ tứ thiền sắc-giới, có định-tâm trong sáng thanh-tịnh, thiền-

 

tâm không lay động, làm nền-tảng để Đức-Bồ-tát hướng tâm đến chứng đắc tiền-kiếp-minh: trí-tuệ nhớ rõ lại tiền-kiếp, từ một kiếp đến hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp, hàng vạn kiếp, hàng triệu kiếp, hàng triệu triệu kiếp,

... cho đến vô lượng kiếp không giới hạn.(1)

Tiền-kiếp-minh là trí-tuệ nhớ rõ tiền-kiếp thuộc loại chúng-sinh nào, trong cõi giới nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, thực-hành đại-thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp, ...

Tiền-kiếp-minh minh thứ nhất Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã chứng đắc vào canh đầu đêm rằm tháng tư (âm lịch).

  1. Thiên-nhãn-minh (dibbacakkhuñāṇa)

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có đệ tứ thiền sắc-giới, có định-tâm trong sáng thanh-tịnh, thiền- tâm không lay động làm nền tảng để Đức-Bồ-tát hướng tâm đến chứng đắc thiên-nhãn-minh: trí-tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá-khứ, kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh hơn thiên-nhãn của chư-thiên, phạm-thiên.

Thiên-nhãn-minh có 2 loại:

  • Tử-sinh-minh (Cutūpapātañāṇa): Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ sự tử, sự tái-sinh của tất cả chúng-sinh muôn loài trong các cõi giới, do nghiệp nào, do quả của nghiệp nào…
  • Vị-lai kiến-minh (Anāgataṃsañāṇa): Trí-tuệ thấy rõ những kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh.

Chư Phật sử dụng vị-lai kiến-minh này để thọ ký, xác định thời gian còn lại của các Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- giác, Đức-Bồ-tát Độc-giác, các vị Bồ-tát thanh-văn-giác, v.v…, xác định thời gian còn lại của các chúng-sinh trong kiếp vị-lai xa xăm.

1 Đối với Đức-Phật Độc-Giác và Thanh-văn-Giác có giới hạn.

 

Thiên-nhãn-minh minh thứ nhì Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã chứng đắc vào lúc canh giữa đêm rằm tháng tư (âm lịch).

  1. Trầm-luân tận-minh (āsavakkhayañāṇa)

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha dùng đệ tứ thiền sắc-giới làm nền-tảng, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ suy-xét thấy rõ các pháp thập-nhị duyên-sinh (paṭiccasamuppāda) đối-tượng pháp-hành thiền-tuệ của chư Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác để trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác.

  • Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét thập-nhị duyên- sinh theo chiều thuận như sau:
    • Do vô-minh làm duyên, nên các hành sinh. (Avijjāpaccayā saṅkhārā)
    • Do các hành làm duyên, nên tái-sinh-thức sinh. (Saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ)
    • Do tái-sinh-thức làm duyên, nên danh-pháp, sắc-pháp sinh. (Viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ)
    • Do danh-pháp sắc-pháp làm duyên, nên lục-xứ sinh. (Nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ)
    • Do lục-xứ làm duyên, nên lục-xúc sinh. (Saḷāyatanapaccayā phasso)
    • Do lục-xúc làm duyên, nên lục-thọ sinh. (Phassapaccayā vedanā)
    • Do lục-thọ làm duyên, nên lục-ái sinh. (Vedanāpaccayā taṇhā)
    • Do lục-ái làm duyên, nên tứ-thủ sinh. (Taṇhāpaccayā upādānaṃ)
    • Do tứ-thủ làm duyên, nên nhị-hữu sinh. (Upādānapaccayā bhavo)
    • Do nhị-hữu làm duyên, nên tái-sinh sinh. (Bhavapaccayā jāti)

 

    • Do tái-sinh làm duyên, nên lão tử… sinh. (Jātipaccayā jarāmaraṇaṃ…)

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét thập-nhị duyên- sinh theo chiều-thuận, chiều-sinh, để trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ sự-sinhcủa mỗi pháp, trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý khổ-Thánh-đế nhân sinh khổ- Thánh-đế.

* Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét thập-nhị nhân-diệt theo chiều nghịch, chiều diệt như sau:

    • Do diệt tận vô-minh, nên diệt các hành. (Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho)
    • Do diệt các hành, nên diệt tái-sinh-thức. (Saṅkhāranirodhā viññaṇanirodho)
    • Do diệt tái-sinh-thức, nên diệt danh-pháp, sắc-pháp. (Viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho)
    • Do diệt danh-pháp sắc-pháp, nên diệt lục-xứ. (Nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodho)
    • Do diệt lục-xứ, nên diệt lục-xúc. (Saḷāyatananirodhā phassanirodho)
    • Do diệt lục-xúc, nên diệt lục-thọ. (Phassanirodhā vedanānirodho)
    • Do diệt lục-thọ, nên diệt lục-ái. (Vedanānirodhā taṇhānirodho)
    • Do diệt lục-ái, nên diệt tứ-thủ. (Taṇhānirodhā upādānanirodho)
    • Do diệt tứ-thủ, nên diệt nhị-hữu. (Upādānanirodhā bhavanirodho)
    • Do diệt nhị-hữu, nên diệt tái-sinh. (Bhavanirodhā jātinirodho)
    • Do diệt tái-sinh, nên diệt lão, tử…. (Jātinirodhā jarāmaraṇa … nirodho)

 

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét thập-nhị nhân- diệt theo chiều-nghịch, chiều-diệt, để trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ “sự-diệt” của mỗi pháp, trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý Diệt khổ-Thánh-đế Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét thập-nhị duyên-sinh, thập-nhị nhân-diệt theo chiều-thuận, chiều-nghịch, chiều-sinh, chiều-diệt, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự-sinh, sự-diệt của mỗi pháp, trí-tuệ- thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của mỗi pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được 4 pháp-trầm-luân (āsava) bằng 4 Thánh-đạo-tuệ theo tuần tự như sau:

  1. Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ diệt tận được một pháp- trầm-luân tà-kiến trầm-luân (diṭṭhāsava) đồng thời diệt được tất cả mọi tà-kiến khác.
  2. Nhất-lai Thánh-đạo-tuệ diệt tận được một pháp- trầm-luân tham-dục trầm-luân (kāmāsava) trong ngũ-dục loại thô (còn loại vi-tế chưa diệt được) đồng thời diệt được tất cả mọi tham-tâm loại thô khác.
  3. Bất-lai Thánh-đạo-tuệ diệt tận được một pháp- trầm-luân tham-dục trầm-luân (kāmāsava) trong ngũ-dục loại vi-tế không còn dư sót, đồng thời diệt được tất cả mọi tham-tâm loại vi-tế khác.
  4. A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ diệt tận được hai pháp- trầm-luân kiếp-sinh trầm-luân (bhavāsava) vô- minh trầm-luân (avijjāsava), đồng thời diệt tận hoàn toàn mọi tham-ái, mọi phiền-não, mọi ác-pháp không

 

còn dư sót, đặc biệt diệt tận được tất cả mọi tiền-khiên- tật-xấu (vāsanā) đã tích lũy từ vô số kiếp trong quá-khứ.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng đầu tiên trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh.

Trầm-luân tận-minh minh thứ 3 Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã chứng đắc vào canh chót của đêm rằm tháng tư (âm lịch), trước lúc rạng đông (aruṇa).

Cho nên, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng đầu tiên trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị có danh hiệu là Đức- Phật Gotama tại cội cây Assattha, đúng như 24 Đức- Phật quá-khứ đã từng thọ ký, nên cây Assattha này trở thành Mahābodhirukkha:(1) cây Đại-Bồ-đề của Đức- Phật Gotama tại khu rừng Uruvelā (nay gọi là Buddhagayā tại nước Ấn-Độ (India)).

* Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha trở thành

Đức-Phật Gotama lúc tròn đúng 35 tuổi.

Mười ngàn cõi-giới chúng-sinh từ mặt đất lên đến cõi sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh, chư-thiên, phạm-thiên vô cùng vui mừng hoan hỷ thốt lên lời:

Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

1 Dưới cội cây nào mà mỗi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác, cây ấy được gọi là Mahābodhirukkha: Cây Đại- Bồ-đề. Mỗi Đức-Phật có mỗi cây Đại-Bồ-đề khác nhau. Cây Assattha này là cây Đại-Bồ-đề tại khu rừng Uruvelā đồng sinh cùng một lúc với Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha, 35 năm về trước.

 

  • Buddho uppanno!

(Đức-Phật-Bảo đã xuất hiện trên thế gian rồi!)

  • Dhammo uppanno!

(Đức-Pháp-Bảo đã xuất hiện trên thế gian rồi!)

  • Saṃgho uppanno!

(Đức-Tăng-Bảo cũng sẽ xuất hiện trên thế gian này!)

Tiếng hoan hô vang dội khắp toàn mười ngàn cõi-giới chúng-sinh.

Điều phi thường chưa từng có trên thế gian này là:

  • Tất cả các loài hoa đều đua nhau nở để cúng dường

đến Đức-Phật.

  • Tất cả các loại cây ăn trái đều cho quả ngon ngọt.
  • Tất cả những người mù từ lúc đầu thai, khi sinh ra đời không thấy được gì, thì nay có đôi mắt sáng, có thể nhìn thấy rõ mọi vật trên đời.
  • Tất cả những người điếc từ lúc đầu thai, khi sinh ra đời không nghe được âm thanh gì, thì nay hai tai có thể nghe rõ mọi thứ âm thanh.
  • Tất cả những người què, bại liệt từ lúc đầu thai, khi sinh ra đời không đi lại được, thì nay họ đi lại dễ dàng.
  • Đặc biệt nhất, địa-ngục Lokantarika rộng lớn tối tăm, nơi giáp ranh với ba cõi giới, dành cho những chúng-sinh có tà-kiến cố-định (niyatamicchādiṭṭhi) hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp. Địa-ngục tối tăm ấy, dù ánh sáng của 7 mặt trời mọc lên cùng một lúc, cũng không thể chiếu sáng đến nơi ấy, song ánh sáng hào quang của Đức-Phật Gotama tỏa khắp mười ngàn cõi-giới, chiếu sáng đến tận địa-ngục Lokantarika, cho nên, những chúng-sinh ở trong cõi địa-ngục ấy có thể nhìn thấy lẫn nhau, …

Toàn thể mười ngàn cõi-giới, chư-thiên, phạm-thiên

đem những phẩm vật quý báu nhất từ các cõi trời đến

 

cúng dường Đức-Phật Gotama và tán dương ca tụng hằng ngàn bài kệ.

Phật ngôn đầu tiên của Đức-Phật Gotama

Khi ấy, Đức-Phật Gotama tự thuyết ở trong tâm bằng hai bài kệ rằng:

  1. “Anekajātisaṃsāraṃ, sandhāvissaṃ anibbisaṃ. Gahakāraṃ gavesanto, dukkhā jāti punappunaṃ.
  2. Gahakāraka! diṭṭho’si, puna gehaṃ na kāhasi. Sabbā te phāsukā bhaggā, gahakūṭaṃ visaṅkhataṃ. Visaṅkhāragataṃ cittaṃ, taṇhānaṃ khayamajjhagā.(1)
  1. Này người thợ “tham-ái” xây nhà “thân” Như-Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp,

Nên tử sinh luân-hồi vô số kiếp, Tái-sinh mãi trong tam-giới là khổ.

  1. Này “tham ái”! người thợ xây nhà “thân” Bây giờ Như-Lai đã gặp ngươi rồi.

Tất cả sườn nhà, “phiền-não”(1) của ngươi, Như-Lai đã hủy hoại sạch cả rồi,

Đỉnh nhà “vô-minh” cũng bị tiêu diệt, Nay ngươi không còn xây nhà Như-Lai, Tâm Như-Lai đã chứng ngộ Niết-bàn, Diệt tận tất cả mọi “tham-ái”(2)

Như-Lai đã chứng đắc A-ra-hán.

Hai bài kệ cảm ứng tự thuyết ở trong tâm của Đức- Phật Gotama này là Phật ngôn đầu tiên của Đức-Phật Gotama (Paṭhamabuddhavacana).

1 Dhammapadagāthā số 153 và số 154.

1 Phiền-não có tất cả 1.500 loại.

2 Tham-ái có tất cả 108 loại.

 

Đức-Phật an hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn

Sau khi đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, Ngài an hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn suốt 7 tuần lễ, gồm 49 ngày như sau:

  1. Tuần lễ thứ nhất: Đức-Thế-Tôn ngự trên ngôi bồ- đoàn quý báu, tại cội Đại-Bồ-đề, ban ngày nhập A-ra- hán Thánh-quả, ban đêm suy xét thập-nhị duyên-sinh theo chiều-thuận, chiều-sinh; suy xét thập-nhị nhân-diệt theo chiều-nghịch, chiều-diệt. Và tiếp theo 6 ngày sau, Đức-Thế-Tôn nhập A-ra-hán Thánh-quả, an hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn, suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày

16 tháng 4 đến ngày 22 tháng 4, gọi là tuần lễ

“Pallaṅkasattāha”.

  1. Tuần lễ thứ nhì: Đức-Thế-Tôn rời khỏi ngôi bồ- đoàn quý báu, ngự về phía Đông Bắc, cách cội Đại-Bồ- đề 14 sải tay. Đức-Thế-Tôn đứng nhìn về ngôi bồ-đoàn quý báu, nơi mà Ngài đã toàn thắng 5 loại māra, đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Đức-Thế-Tôn đứng nhìn ngôi bồ-đoàn quý báu không nháy mắt, suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 23 tháng 4 đến ngày 29 tháng 4, gọi là tuần lễ “Animisasattāha”.

  1. Tuần lễ thứ ba: Đức-Thế-Tôn đi kinh hành trên đoạn đường dài 60 hắc tay, được làm bằng 7 loại châu báu, do chư-thiên hóa ra để cúng dường Đức-Phật.

Đoạn đường này ở phía Bắc gần cội Đại-Bồ-đề theo chiều Đông Tây. Đức-Thế-Tôn hóa phép thần-thông yamakapaṭihāriya hóa thành 2 dòng nước và lửa song song phát ra từ nơi kim thân của Ngài, rồi Đức-Thế-Tôn ngự đi kinh hành, suy xét về chánh-pháp suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 6 tháng 5, gọi là tuần lễ “Caṅkamasattāha”.

 

  1. Tuần lễ thứ tư: Đức-Thế-Tôn ngự tại lâu đài bằng vàng, về phía Tây Bắc của cội Đại-Bồ-đề do chư-thiên hóa ra để cúng dường Đức-Phật. Tại đây, Đức-Thế-Tôn suy xét về Tạng Vi-Diệu-Pháp (Abhidhammapiṭaka) gồm có 7 bộ:
    • Bộ Dhammasaṅganī: Bộ Pháp-hội-tụ,
    • Bộ Vibhaṅga: Bộ Pháp-phân-tích,
    • Bộ Dhātukathā: Bộ Pháp-phân-loại,
    • Bộ Puggalapaññatti: Bộ chúng-sinh chế-định,
    • Bộ Kathāvatthu: Bộ Pháp-luận-đề,
    • Bộ Yamaka: Bộ Pháp-song-đối,
    • Bộ Paṭṭhāna: Bộ Pháp-duyên-hệ.

Suy xét suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 7 tháng 5 đến ngày 13 tháng 5, gọi là tuần lễ “Ratanagharasattāha”.

  1. Tuần lễ thứ năm: Đức-Thế-Tôn ngự đến cội cây da ở phía Đông, cách cội Đại-Bồ-đề 32 sải tay, khi thì Đức-Thế-Tôn suy-xét chánh-pháp, khi thì Đức-Thế-Tôn nhập A-ra-hán Thánh-quả. Khi ấy, có ba cô thiên-nữ: Taṇhā, Aratī Rāgā là con gái của Ác-Ma-Thiên, từ cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên hiện xuống, để quyến rũ Đức- Phật, với lời nói lẳng lơ và bằng điệu bộ gợi tình, nhưng Đức-Thế-Tôn không quan tâm, Ngài vẫn an nhiên tự tại nhập A-ra-hán Thánh-quả, an hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn.

Ba nàng đã dùng hết khả năng của mình mà không thể cám dỗ được Đức-Phật, bởi vì Đức-Thế-Tôn là bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, nên không một ai trong tam-giới này có thể làm cho tâm Đức-Phật xao động. Ba nàng không quyến rũ được Đức-Phật nên hồi tâm tán dương ca tụng Đức-Phật, rồi từ giã trở về cõi Tha-hóa- tự-tại-thiên.

 

Đức-Thế-Tôn ngự tại cội da này nhập A-ra-hán Thánh-quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 14 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5, gọi là tuần lễ “Ajapālasattāha”.

  1. Tuần lễ thứ sáu: Đức-Thế-Tôn ngự đến cội me gần hồ Mucalinda, cách xa cội Đại-Bồ-đề 51 sải tay, về phía Đông Nam, Đức-Thế-Tôn ngồi nhập A-ra-hán Thánh-quả. Khi ấy, trời mưa lớn, Đức-Long-Vương Mucalinda hiện ra dùng thân mình cuộn thành vòng tròn, chồng lên 7 vòng, để bao bọc xung quanh kim thân Đức- Phật, và phồng mang che trên đầu Đức-Phật, để mưa không làm ướt và lạnh. Đức-Long-vương tỏ lòng thành kính cúng dường Đức-Phật.

Đức-Thế-Tôn nhập A-ra-hán Thánh-quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 27 tháng 5, gọi là tuần lễ “Mucalindasattāha”.

  1. Tuần lễ thứ bảy: Đức-Thế-Tôn ngự đến cội cây gọi là Rājāyatana cách xa cội Đại-Bồ-đề 4 sải tay, về phía Nam. Đức-Thế-Tôn nhập A-ra-hán Thánh-quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 5 tháng 6, gọi là tuần lễ “Rājāyatanasattāha”.

Như vậy, Đức-Thế-Tôn đã an hưởng pháp vị an-lạc giải thoát Niết-bàn suốt 7 tuần lễ, gồm có 49 ngày xung quanh cội Đại-Bồ-đề.(1)

Cúng dường vật thực đầu tiên lên Đức-Phật

Sau khi Đức-Phật Gotama an hưởng pháp vị an-lạc giải thoát Niết-bàn suốt 7 tuần lễ gồm có 49 ngày đêm xong, Đức-Thế-Tôn ngự đến ngồi dưới một cội cây. Khi ấy, hai anh em lái buôn tên Tapussa và Bhallika

1 Hiện-tại Buddhagayā nước Ấn-Độ quanh cội Đại-Bồ-đề có đánh dấu kỷ niệm 7 nơi mà Đức-Phật Gotama đã an hưởng pháp vị giải thoát Niết-bàn.

 

dẫn đoàn xe bò 500 chiếc đi ngang qua, một thiên-nữ trong kiếp quá-khứ đã từng là mẹ của hai anh em lái buôn hiện ra, báo cho hai anh em lái buôn biết rằng:

    • Này hai con! Đức-Phật đã xuất hiện trên thế gian rồi, Đức-Phật an hưởng pháp vị an-lạc suốt 7 tuần lễ gồm có 49 ngày qua, chưa độ vật thực.

Vậy, hai con là người đầu tiên đem vật thực đến cúng dường lên Đức-Phật.

Nghe thiên-nữ báo tin như vậy, hai anh em vô cùng hoan hỷ đem vật thực ngon lành đến đảnh lễ, rồi cúng dường lên Đức-Phật Gotama.

Đức-Phật Gotama thọ nhận vật thực của hai anh em lái buôn đầu tiên. Sau khi Đức-Phật Gotama độ vật thực và độ nước xong, hai anh em đảnh lễ Đức-Phật, kính xin thọ phép quy-y Nhị-bảo rằng:

“Ete mayaṃ Bhante, Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, Dhammañca, upāsake no Bhagavā dhāretu. Ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gate.(1)”

    • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con thành kính xin quy y nơi Đức-Thế-Tôn và xin quy y nơi Đức-Pháp-bảo.

Kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận hai chúng con là người cận-sự-nam (upāsaka) đã quy y Nhị-bảo kể từ hôm nay cho đến trọn đời.

Hai anh em Tapussa Bhallika cũng là hai cận-sự- nam (upāsaka) đã quy y Nhị-bảo đầu tiên trong giáo- pháp của Đức-Phật Gotama.

Hai anh em Tapussa Bhallika kính xin Đức-Phật ban cho báu-vật để tôn thờ. Đức-Phật Gotama ban 8 sợi tóc gọi là 8 sợi xá-lợi tóc cho hai anh em lái buôn thỉnh

1 Vinayapiṭakapāḷi, Mahāvagga, Rājāyatanakathā.

 

về tôn thờ (nay 8 sợi xá-lợi tóc được tôn thờ trong ngôi bảo tháp lớn Shwê-đa-gôn tại thủ đô nước Myanmar).

Đức-Phật suy tư về pháp siêu-tam-giới

Đức-Thế-Tôn suy xét về 9 pháp siêu-tam-giới (Lokut- taradhamma) mà Đức-Phật đã chứng đắc:

  • 4 Thánh-đạo (Ariyamagga) là pháp diệt tận mọi phiền-não.
  • 4 Thánh-quả (Ariyaphala) là pháp làm vắng lặng mọi phiền-não.
  • 1 Niết-bàn là pháp giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.

9 pháp siêu-tam-giới này là pháp của bậc Thánh- nhân mà thôi. Còn chúng-sinh phàm-nhân đang bị dính mắc trong ngũ-dục, bị say mê trong ngũ-dục, bị đắm chìm trong ngũ-dục, làm tôi tớ của 108 loại tham-ái và làm nô lệ 1.500 loại phiền-não, thì khó mà chứng ngộ được chân-lý tứ Thánh-đế, khó mà chứng đắc được 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn là 9 pháp siêu-tam- giới này.

Đức-Thế-Tôn suy nghĩ: “Nếu Như-Lai thuyết pháp mà chúng-sinh không thấu hiểu chánh-pháp, không chứng đắc pháp siêu-tam-giới cao thượng, thì chỉ làm cho Như-Lai vất vả, mệt nhọc, hoài công vô ích mà thôi.”

Vì vậy, Đức-Thế-Tôn chưa muốn thuyết pháp tế độ

chúng-sinh.

Theo lệ thường, Chư Phật thuyết pháp cần phải có đầy đủ hai điều kiện:

  1. Chủ thể: Đức-Phật tâm đại-bi (mahākaruṇā) muốn thuyết pháp tế độ chúng-sinh giải thoát mọi cảnh khổ. Điều kiện này đã sẵn có nơi Đức-Phật.

 

  1. Khách thể: Vị Đại-Phạm-thiên thỉnh cầu Đức- Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh.

Đó là điều kiện làm cho chúng-sinh phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật. Bởi vì các đạo-sĩ, tu-sĩ, sa- môn, bà-la-môn, Vua chúa, dân chúng, kể cả chư-thiên đều tôn kính Đại-Phạm-thiên. Nay Đại-Phạm-thiên tôn kính Đức-Phật, thỉnh cầu Đức-Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh, thì ắt hẳn phần đông chúng-sinh nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên, … cũng tôn kính Đức-Phật.

Do đại-thiện-tâm tôn kính ấy, chúng-sinh mới có đức- tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo, có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo cho nên khi Đức-Phật thuyết pháp thì tất cả chúng-sinh, nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên, ... mới lắng nghe chánh-pháp, rồi thực-hành theo chánh-pháp của Đức-Phật.

Đại-phạm-thiên thỉnh Đức-Phật thuyết pháp

Biết Đức-Phật Gotama đang còn do dự chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng-sinh, nên vị Đại-Phạm-thiên Sahampati bèn thông báo cho toàn cõi phạm-thiên, chư- thiên khắp mười ngàn cõi-giới chúng-sinh hay biết rằng:

    • Nassati vata Bho loko!
    • Vinassati vata Bho loko! (1)
    • Này chư vị! Toàn cõi tam-giới chúng-sinh bị bất lợi!
    • Này chư vị! Toàn cõi tam-giới chúng-sinh bị thiệt hại!

Bởi vì, Đức-Phật Gotama đang do dự chưa muốn thuyết pháp tế độ, cứu vớt chúng-sinh thoát khỏi biển khổ trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

1 Bộ Majjhimanikāyapāḷi, Mūlapaṇṇāsapāḷi, Pāsarāsisutta.

 

Cho nên, Đại-Phạm-thiên Sahampati cùng chư-thiên, phạm-thiên khắp mười ngàn cõi-giới hiện xuống kính lễ Đức-Thế-Tôn, đồng kính thỉnh rằng:

    • Desetu Bhante Bhagavā dhammaṃ.
    • Desetu Sugato dhammaṃ.
    • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Chúng con hết lòng thành kính, cung thỉnh Đức-Thế-Tôn mở tâm đại-bi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
    • Kính bạch Đức-Thiện-Ngôn, Chúng con hết lòng thành kính, cung thỉnh Đức-Thiện-Ngôn mở tâm đại-bi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.

Có số chúng-sinh nào phiền-não nhẹ, có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Nếu số chúng-sinh ấy không có cơ hội lắng nghe chánh-pháp của Đức-Thế-Tôn, thì sự thiệt hại sẽ lớn lao biết dường nào!

Nghe lời thỉnh cầu của vị Đại-Phạm-thiên Sahampati cùng chư-thiên, chư phạm-thiên, Đức-Thế-Tôn có tâm đại-bi suy xét bằng Phật-nhãn (Buddhacakkhu) thấy rõ có số chúng-sinh có phiền-não nhẹ, có số chúng-sinh có phiền-não nặng, có số chúng-sinh có 5 pháp-chủ: tín- pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ đủ năng lực, có số chúng-sinh có 5 pháp- chủ ít năng lực, có số chúng-sinh dễ dạy, có số chúng- sinh khó dạy, …

Ví như 4 đóa hoa sen:(2)

  1. Có đóa hoa sen vượt qua khỏi mặt nước, chờ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời liền nở ngay ngày hôm ấy.
  2. Có đóa hoa sen vươn lên, nằm ngang tầm mặt nước, sẽ chờ nở vào ngày hôm sau.

2 Bộ Chú-giải Majjhimanikāya, Mūlapannāsa, kinh Pāsarāsisutta.

 

  1. Có đóa hoa sen còn ở dưới mặt nước, sẽ chờ thời gian ba hoặc bốn hôm nữa mới nở được.
  2. Có đóa hoa sen còn non vừa mới tượng hình ở dưới nước sâu. Những mầm sen non ấy sẽ làm vật thực cho loài rùa, cá, ...

Bốn loại hoa sen này được so sánh như bốn hạng người ở trong đời:

  1. Ugghāṭitaññū: Hạng người có trí-tuệ bậc thượng, bén nhạy khi được nghe tiền đề của chánh-pháp, chưa cần khai triển, hay trong một bài kệ có bốn câu, chỉ nghe hai câu đầu, hạng người có trí-tuệ bậc thượng ấy có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh- đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, ngay khi ấy.
  2. Vipañcitaññù: Hạng người có trí-tuệ bậc trung khi được nghe tiền đề của chánh-pháp và khai triển, hay được nghe một bài kệ đầy đủ bốn câu, hạng người có trí- tuệ bậc-trung ấy có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, ngay sau đó.
  3. Neyya: Hạng người có trí-tuệ bậc hạ khi được nghe tiền đề của chánh-pháp và khai triển xong, còn cần phải có thời gian thân cận gần gũi với bậc Thánh- nhân, bậc thiện-trí hướng dẫn chỉ dạy thêm, hạng người có trí-tuệ bậc hạ ấy mới có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết- bàn, trong kiếp hiện-tại này.
  4. Padaparama: Hạng người có trí-tuệ kém dù được nghe nhiều, học nhiều đi nữa hoặc có thân cận với bậc thiện-trí, người có trí-tuệ kém ấy cũng chưa có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh- đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trong kiếp hiện-tại này. Nhưng

 

đây là một cơ hội tốt, một dịp may, để bồi bổ pháp-hạnh Ba-la-mật, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trong kiếp vị-lai.

Đức-Phật xem xét tất cả chúng-sinh bằng Phật-nhãn thấy rõ có 4 hạng người như vậy, cho nên, sự thuyết pháp của Đức-Phật sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho ba hạng người trước khả năng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết- bàn, ngay trong kiếp hiện-tại, và cũng đem lại lợi ích cho hạng người thứ tư (padaparama) trong kiếp vị-lai.

Vì vậy, Đức-Phật nhận lời thỉnh cầu của vị Đại- Phạm-thiên Sahampati, Đức-Phật sẽ thuyết pháp tế độ chúng-sinh. Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

    • Này Đại-Phạm-thiên Sahampati! Trước đây chưa có đủ điều kiện, nên Như-Lai chưa thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
    • Này Đại-Phạm-thiên Sahampati! Bây giờ, Như-Lai nhận lời thỉnh cầu của các ngươi, Như-Lai sẽ thuyết pháp tế độ cho những chúng-sinh có duyên lành nên tế độ, để giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

Khi biết Đức-Thế-Tôn đã nhận lời thỉnh cầu, nên vị Đại-Phạm-thiên Sahampati cùng toàn thể chư phạm- thiên, chư-thiên vô cùng hoan hỷ đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép trở về cõi trời.

Trong đời này, chỉ có Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót và chư Bồ-tát Độc-Giác kiếp chót mới không cần lắng nghe chánh-pháp từ một vị thầy nào, mà tự mình thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được tất cả mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-

 

Giác độc nhất vô nhị trong toàn cõi-giới chúng-sinh, hoặc trở thành Đức-Phật Độc-Giác mà thôi.

Ngoài Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót và chư Bồ-tát Độc-Giác kiếp chót ra, còn tất cả chư Bồ-tát thanh-văn-giác bậc nào cũng đều cần phải lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, rồi thực- hành theo pháp-hành thiền-tuệ mới có thể dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, chứng đắc như sau:

  • Chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā), trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
  • Chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân (dosa) loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
  • Chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não sân (dosa) loại vi-tế, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
  • Chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh- quả và Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), buồn-chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội- lỗi (ahirika), không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa), trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật bậc nào là hoàn toàn tuỳ thuộc vào năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp- chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ- pháp-chủ của mỗi bậc Thánh-nhân.

 

Thật vậy, trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, Ngài Đại Trưởng-lão Sāriputta là bậc Thánh Tối-Thượng thanh-văn-giác xuất sắc bậc nhất về trí-tuệ, trong hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Vậy mà tự Ngài không có khả năng chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế, cho đến khi Ngài lắng nghe Ngài Đại- Trưởng-lão Assaji thuyết dạy một bài kệ gồm bốn câu, vừa nghe hai câu đầu, Ngài liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

vậy, gọi bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

Chuyển-Pháp-Luân đầu tên

Đức-Phật Gotama suy xét nên thuyết pháp tế độ cho ai đầu tiên, Đức-Phật liền nghĩ đến vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta là bậc thiện-trí có trí-tuệ, nếu vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta được nghe chánh-pháp thì sẽ nhanh chóng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn.

Khi ấy, chư-thiên đến hầu Đức-Phật và bạch rằng:

    • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Đạo-sư Ālāra Kālāma- gotta đã viên tịch được 7 ngày qua.

Đức-Phật xem xét thấy đúng vị Đạo-sư Ālāra Kālā- magotta đã viên tịch, đệ tam thiền vô-sắc-giới thiện- nghiệp cho quả tái-sinh lên cõi Vô-sở-hữu-xứ-thiên thuộc cõi trời vô-sắc-giới. Đức-Phật suy nghĩ rằng:

“Thật là sự bất lợi lớn lao quá!”(1)

1 Sự bất lợi ở đây có nghĩa: Chúng-sinh ở cõi trời vô-sắc-giới, không có sắc-uẩn, nên không có tai để nghe được chánh-pháp, đã mất đi cơ hội tốt hiếm có, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.

 

Tiếp đến, Đức-Phật nghĩ đến vị Đạo-sư Udaka Rāma- putta là bậc thiện-trí có trí-tuệ, nếu vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta được nghe chánh-pháp thì sẽ nhanh chóng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn.

Khi ấy, chư-thiên đến hầu Đức-Phật và bạch rằng:

    • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vị Đạo-sư Udaka Rāma- putta vừa mới viên tịch chiều hôm qua.

Đức-Phật xem xét, thấy đúng vị Đạo-sư Udaka Rāma- putta đã viên tịch, đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh lên cõi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ- thiên thuộc cõi trời vô-sắc-giới. Đức-Phật nghĩ rằng:

“Thật là sự bất lợi lớn lao quá!”

Tiếp đến, Đức-Phật nghĩ đến nhóm năm tỳ-khưu đã từng phụng sự, hộ độ cho Đức-Phật trong suốt thời gian còn là Đức-Bồ-tát thực-hành pháp-hành khổ-hạnh. Đức- Phật nghĩ rằng:

“Vậy, Như-Lai nên thuyết pháp tế độ nhóm năm tỳ- khưu này đầu tiên.”

Khi ấy, nhóm năm tỳ-khưu đang trú tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī. Đức-Phật từ khu rừng Uruvelā ngự đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana ấy, để thuyết pháp tế độ nhóm năm tỳ-khưu: Ngài Koṇḍañña trưởng nhóm, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma Ngài Assaji.

Đức-Phật thuyết Kinh Chuyển-Pháp-Luân

Đức-Thế-Tôn ngự đến khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, nhằm vào ngày rằm tháng 6, sau khi trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác tròn đúng hai tháng.

 

Nhóm 5 tỳ-khưu nhìn thấy Đức-Phật Gotama từ xa đi đến, họ nghĩ lầm rằng “Sa-môn Gotama đã từ bỏ sự tinh- tấn thực-hành pháp-hành khổ-hạnh để trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác, mà trở lại đời sống sung túc.”

Vì nghĩ như vậy, nên nhóm năm tỳ-khưu không còn đức-tin và sự kính trọng Đức-Phật như trước, họ đồng ý thỏa thuận với nhau rằng:

Chúng ta không đứng dậy đón rước, không tiếp nhận y và bát, không đảnh lễ, chỉ nên sắp đặt chỗ để cho Sa- môn Gotama ngồi mà thôi.

Nhưng khi Đức-Phật Gotama đến gần, do oai lực và tâm đại-bi của Đức-Phật, nhóm năm tỳ-khưu không còn nhớ lời giao ước, mà mỗi người đều tự động đứng dậy cung kính đón rước. Vị nhận y bát, vị lấy nước rửa chân, vị thì sắp đặt trải chỗ ngồi cao quí, thỉnh Đức- Phật ngự đến ngồi chỗ cao quý ấy. Nhưng cách xưng hô của họ đối với Đức-Phật vẫn bằng cách gọi “Āvuso” không hợp lẽ đạo, thiếu sự cung kính đối với Đức-Thế- Tôn. Nghe vậy, Đức-Phật dạy rằng:

    • Này chư tỳ-khưu! Các con không nên gọi Như-Lai bằng tiếng “Āvuso”(1). Như-Lai là Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, Như-Lai sẽ thuyết pháp giảng dạy chánh- pháp mà Như-Lai đã chứng ngộ. Các con hãy lắng nghe chánh-pháp, rồi thực-hành theo chánh-pháp, các con cũng sẽ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Như-lai, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, y theo Như-Lai đã chứng đắc.

Nhóm năm tỳ-khưu vẫn chưa tin theo lời dạy của

Đức-Phật, vì nghĩ:

1 “Āvuso” từ dùng để gọi vị nhỏ hạ. “Bhante” từ dùng để gọi vị cao hạ một cách tôn kính.

 

“Trước đây Sa-môn Gotama thực-hành pháp-hành khổ-hạnh đến như thế, mà không trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. Nay, Sa-môn Gotama trở lại đời sống sung túc như vậy, lại có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác được hay sao?”

Thấu hiểu rõ sự hoài-nghi của nhóm năm tỳ-khưu, nên Đức-Thế-Tôn đã giải thích làm cho nhóm năm tỳ- khưu hiểu rõ, không còn hoài-nghi nữa, cuối cùng, họ hết lòng tôn kính Đức-Thế-Tôn và phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn.

Khi ấy, mặt trời sắp lặn ở hướng Tây, mặt trăng ló dạng ở hướng Đông, lần đầu tiên Đức-Phật Gotama thuyết-pháp giảng giải kinh Dhammacakkappavattana- sutta: (1)Kinh Chuyển-Pháp-Luân, để tế độ nhóm 5 tỳ- khưu: Ngài Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī. (Toàn ý nghĩa bài kinh này ở trong phần Đức-Pháp sau)

Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña

Sau khi lắng nghe Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài Kinh Chuyển-Pháp-Luân xong, trong nhóm 5 tỳ-khưu ấy chỉ có Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña là bậc thanh- văn đệ-tử đầu tiên của Đức-Phật Gotama chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Nhập- lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Cho nên, Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña, có pháp danh mới gọi là Aññāsikoṇḍañña: Ngài Đại-Trưởng-lão

1 Samyuttanikāya, Mahāvagga, Dhammacakkappavattanasutta.

 

Koṇḍañña đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế. Ngài Đại- Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia sa-di và tỳ-khưu.

Đức-Phật xem xét thấy Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña có đầy đủ phước-thiện phát sinh tám thứ vật dụng cần thiết của tỳ-khưu do quả của phước- thiện phát sinh như thần thông, nên Đức-Phật cho phép xuất gia theo cách gọi “Ehi bhikkhu” truyền gọi rằng:

    • Ehi Bhikkhu! Svākkhāto dhammo, cara brahma- cariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.
    • Này Aññāsikoṇḍañña! Con hãy lại đây, con trở thành tỳ-khưu theo ý nguyện. Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, hoàn hảo phần giữa, hoàn hảo phần cuối, con hãy nên cố gắng tinh-tấn thực- hành phạm-hạnh cao thượng, để chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, chấm dứt khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Ngay sau khi Đức-Phật truyền dạy vừa dứt câu, Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña mất hình tướng cũ, liền trở thành vị tỳ-khưu có đầy đủ tám thứ vật dụng của tỳ- khưu được thành tựu do quả của phước như thần thông.

Ngài Đại-Trưởng-Lão Aññāsikoṇḍañña vị tỳ-khưu đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, có vẻ trang nghiêm như Ngài Đại-Trưởng-Lão có 60 hạ.

Ngay khi ấy, Tam Bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo trọn vẹn lần đầu tiên xuất hiện trên thế gian.

  • Ngày rằm tháng tư (âm lịch) Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, chính là lúc Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo đồng thời xuất hiện trên thế gian. Nhưng Đức-Tăng-bảo chưa xuất hiện trên thế gian.

 

  • Ngày rằm tháng 6 (2 tháng sau khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian) mới có Ngài Đại- Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña là bậc Thánh Thanh-văn đệ-tử cũng là vị tỳ-khưu đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Do đó, ngày rằm tháng 6 là ngày Tam-Bảo: Đức- Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo trọn vẹn lần đầu tiên xuất hiện trên thế gian.

Vào ngày 16 tháng 6, Đức-Phật Gotama nhập hạ đầu tiên cùng với nhóm năm tỳ-khưu tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī.

    • Ngày 16 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Vappa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.

Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu theo cách gọi “Ehi Bhikkhu”.

    • Ngày 17 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Bhaddiya chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.

Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu theo cách gọi “Ehi Bhikkhu”.

    • Ngày 18 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Mahānāma chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.

 

Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu theo cách gọi “Ehi Bhikkhu”.

    • Ngày 19 tháng 6, Ngài Trưởng-lãoAssaji chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.

Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu theo cách gọi “Ehi Bhikkhu”.

    • Ngày 20 tháng 6, Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài Kinh Anattalakkhaṇasutta: Kinh Trạng-thái-vô- ngã, tế độ nhóm năm tỳ-khưu đều trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

(Ý nghĩa bài Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã này sẽ được trình bày trong phần Đức-Pháp tiếp theo sau.)

Như vậy, trong cõi người này, khi ấy, có năm bậc Thánh A-ra-hán thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Ngày lịch sử trọng đại trong Phật-Giáo

Trong Phật-giáo, có những ngày lễ lịch sử trọng đại đáng ghi nhớ:

  • Ngày rằm tháng tư là ngày Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian tại cội Đại-Bồ-đề trong khu rừng Uruvelā, lúc tròn đúng 35 tuổi.
    • Ngày rằm tháng tư là ngày Đức-Bồ-tát Siddhattha

đản-sinh tại khu vườn Lumbinī.

    • Đức-Phật Gotama thuyết-pháp tế độ chúng-sinh suốt 45 năm, đến ngày rằm tháng tư Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn tại khu rừng Kusinārā, lúc Đức-Phật tròn đúng 80 tuổi.

 

  • Ngày rằm tháng sáu là ngày Đức-Phật Gotama thuyết bài kinh Chuyển-Pháp-Luân đầu tiên, để tế độ nhóm 5 tỳ-khưu, đồng thời cũng là ngày Tam-bảo: Đức- Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo đầy đủ trọn vẹn hoàn toàn xuất hiện trên thế gian.
    • Ngày rằm tháng sáu cũng là ngày Đức-Bồ-tát thiên- nam Setaketu chuyển kiếp từ cõi trời Tusita xuống đầu thai vào lòng mẫu hậu Mahāmāyādevī.
    • Đức-vua Bồ-tát Siddhattha trốn khỏi kinh-thành Kapilavatthu đi xuất-gia, nhằm vào ngày rằm tháng sáu, lúc Đức-vua Bồ-tát Siddhattha 29 tuổi.
  • Ngày rằm tháng giêng là ngày Đại-hội chư Thánh- Tăng gồm có 1.250 vị Thánh A-ra-hán.
    • Đức-Phật Gotama hứa với Ác-ma-thiên tại ngôi tháp Cāpālacetiya, ba tháng nữa sẽ tịch diệt Niết-bàn, nhằm vào ngày rằm tháng giêng.

 

45 Hạ (Vassa) của Đức-Phật Gotama

Theo lệ thường, Chư Phật không ở một nơi nào suốt trong thời gian lâu, chỉ khi nào đến mùa an cư nhập hạ, khi ấy, Chư Phật mới ở một nơi suốt ba tháng đầu mùa mưa (vassa)(1) (kể từ ngày 16 tháng 6 đến ngày 16 tháng 9) theo truyền thống của Chư Phật.

Từ khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian cho đến khi tịch diệt Niết-bàn, Đức-Phật chỉ có 45 hạ (vassa) mà thôi.

Theo thông lệ, Đức-Phật thường du hành khắp mọi nơi, thuyết pháp tế độ cho những chúng-sinh có duyên

1 Vassa nghĩa là mùa mưa có 4 tháng bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 cho đến ngày 16 tháng 10.

 

lành nên tế độ, trong khoảng thời gian mau hoặc lâu tùy duyên. Nhưng đến mùa an cư nhập hạ, Đức-Phật cùng chư tỳ-khưu-Tăng ở một nơi nào đó suốt ba tháng đầu trong mùa mưa.

Khi mãn hạ, Đức-Phật cùng chư tỳ-khưu-Tăng du hành đến những nơi khác để thuyết pháp tế độ chúng- sinh có duyên lành nên tế độ.

Tuần tự 45 hạ của Đức-Phật

Tóm lược những điểm đặc biệt mỗi hạ của Đức-Phật: 1- Hạ đầu tiên: Sau khi thuyết bài kinh Chuyển-

Pháp-Luân (Dhammacakkappavattanasutta) lần đầu tiên vào ngày rằm tháng 6 để tế độ nhóm 5 tỳ-khưu, chỉ có Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama. Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña là bậc Thánh Thanh- văn đệ-tử cũng là vị tỳ-khưu đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Ngay khi ấy, Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo trọn vẹn xuất hiện đầu tiên trên thế gian.

Ngày 16 tháng 6, ngày bắt đầu vào bốn tháng mùa mưa, Đức-Phật Gotama cùng với nhóm năm tỳ-khưu an cư nhập hạ thứ nhất tại vườn phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī suốt ba tháng, cho đến ngày 16 tháng 9 mới mãn hạ.

Vào những ngày đầu an cư nhập hạ từ ngày 16 tháng 6 cho đến ngày 19 tháng 6, theo tuần tự mỗi ngày:

- Ngày 16 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Vappa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-

 

đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu.

Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu theo cách gọi “Ehi Bhikkhu”.

Cũng như vậy, ngày 17 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Bhaddiya trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu.

  • Ngày 18 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Mahānāma trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu.
  • Ngày 19 tháng 6, Ngài Trưởng-lão Assaji chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, rồi kính xin Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu.

Đức-Phật đều cho phép thọ tỳ-khưu theo cách gọi “Ehi Bhikkhu”.

  • Ngày 20 tháng 6, Đức-Phật thuyết giảng bài kinh Anattalakkhaṇasutta: Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã, để tế độ nhóm năm tỳ-khưu, tất cả đều chứng đắc từ Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Như vậy, năm vị Thánh A-ra-hán thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama đầu tiên xuất hiện trên cõi người, trong những ngày đầu mùa hạ.

Sau đó, Đức-Phật thuyết pháp tế độ công-tử Yasa cùng với 54 người bạn của công-tử đều trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi xuất gia trở thành tỳ-khưu, thêm 55 vị Thánh A-ra-hán thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

 

Sau khi mãn hạ, Đức-Phật và 60 vị Thánh A-ra-hán, mỗi Vị đi một con đường, để thuyết pháp tế độ chúng- sinh có duyên lành nên tế độ.

2- Hạ thứ nhì: Đức-Phật cùng với 20.000 chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha. Sau khi mãn hạ, Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng du hành khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.

3-4 Hạ thứ ba và thứ tư: Đức-Phật ngự du hành khắp mọi nơi để thuyết pháp tế độ chúng-sinh có duyên lành nên tế độ. Đến mùa mưa Đức-Phật trở lại an cư nhập hạ thứ ba và thứ tư cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng tại ngôi chùa Veḷuvana, gần kinh-thành Rājagaha.

  1. Hạ thứ năm: Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng an cư nhập hạ tại giảng đường Kuṭāgāra, trong khu rừng lớn gần kinh-thành Vesālī.

Khi ấy, bà Mahāpajāpatigotamī cùng 500 người nữ dòng Sakya tự cạo đầu mặc y giống như bậc xuất-gia, đi chân không từ kinh-thành Kapilavatthu đến kinh-thành Vesālī, đứng khóc trước cổng giảng đường Kuṭāgāra vì tủi thân do Đức-Phật chưa cho phép người nữ xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Ngài Trưởng-lão Ānanda gặp bá-mẫu Mahāpajāpati- gotamī mới hiểu rõ ý nguyện của bà, nên vào hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin Ngài cho phép người nữ được xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni. Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

Nếu nhũ-mẫu Mahāpajāpatigotamī chấp thuận tám trọng pháp (garudhamma), thì đó là sự xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni của nhũ-mẫu.

Ngài Trưởng-lão Ānanda trở ra thưa lại cho mẫu

 

Mahāpajāpatigotamī rõ tám trọng-pháp ấy. Bà vô cùng hoan hỷ chấp thuận tám trọng-pháp ấy và nghiêm chỉnh thực-hành đầy đủ trọn vẹn cho đến suốt đời.

Đó là sự xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni của bà Mahāpajāpatigotamī, còn 500 người nữ dòng Sakya xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni lần đầu tiên do tỳ-khưu- Tăng hành-tăng-sự theo cách tụng ñatticatutthakam- mavācā (từ đó về sau, xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni theo cách Aṭṭhavācīkūpasampadā do Tăng hai phái: tỳ-khưu- ni-tăng trước và tỳ-khưu-tăng sau).

Như vậy, tỳ-khưu-ni-tăng xuất hiện trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama bắt đầu từ hạ thứ năm của Đức- Phật, tại giảng đường Kuṭāgāra, trong khu rừng lớn gần kinh-thành Vesālī.

  1. Hạ thứ sáu: Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng an cư nhập hạ tại núi Makula trong đất nước Magadha.

Một sự việc xảy ra, ông phú hộ Rājagaha có một gốc cây trầm đỏ rất quý giá, ông cho thợ tiện một cái bát rồi treo trên một cây cao và thông báo rằng:

“Trong đời này, nếu có vị nào là bậc Thánh A-ra-hán có thần thông thì xin vị ấy bay lên lấy cái bát trầm này, tôi sẽ phát sinh đức-tin nơi vị ấy.”

Sáu nhóm ngoại đạo thường tự cho mình là bậc A-ra- hán có nhiều thần thông, đều đến xin ông phú hộ dâng cái bát trầm ấy, nhưng ông phú hộ thưa rằng:

“Nếu Ngài là bậc A-ra-hán có thần thông thì xin Ngài bay lên lấy cái bát trầm xuống đây.”

Đã sáu ngày qua, không có một vị nào bay lên lấy cái bát trầm ấy được, nên dân chúng trong thành Rājagaha thầm nghĩ rằng:

 

Trong đời này không có bậc Thánh A-ra-hán chăng?

Đến ngày thứ 7, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog- gallāna và Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja đi vào khất thực trong kinh-thành Rājagaha. Khi nghe tin như vậy, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bảo Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja bay lên lấy cái bát trầm, để đem lại đức-tin cho mọi người.

Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja hóa phép thần thông bay lên lấy cái bát trầm ấy, rồi bay ba vòng quanh kinh-thành Rājagaha, rồi đáp nhẹ xuống ngôi nhà ông phú hộ. Ông phú hộ phát sinh đức-tin trong sạch, thỉnh Ngài Trưởng-lão vào lâu đài, ngồi trên chỗ cao quý, rồi đảnh lễ Ngài Trưởng-lão và đón nhận cái bát, cúng dường vật thực dâng lên Ngài Trưởng-lão.

Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja trở về chùa, có số đông dân chúng chưa được tận mắt nhìn thấy Ngài Trưởng-lão biểu diễn thần thông, nên họ kéo nhau đến tìm Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài Trưởng-lão biểu diễn thần thông cho họ xem.

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn biết sự việc xảy ra, nên hội họp chư tỳ-khưu-Tăng lại, rồi Đức-Thế-Tôn quở trách Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja rằng:

- Này Piṇḍolabhāradvāja! Chỉ có cái bát trầm này mà con biểu diễn thần-thông cho người tại gia xem. Đó không phải là phận sự của Sa-môn, không làm phát sinh đức-tin đối với người chưa có đức-tin.

Đó là nguyên nhân đầu tiên, Đức-Phật chế định cấm tỳ-khưu không được biểu diễn phép thần-thông cho người tại gia xem. Tỳ-khưu nào biểu diễn phép thần thông, tỳ-khưu ấy phạm giới dukkaṭa (hành không tốt).

 

Sau đó, Đức-Phật truyền dạy đập bể cái bát trầm ra từng mảnh nhỏ, tán mịn làm thuốc nhỏ mắt cho tỳ-khưu đau mắt.

  1. Hạ thứ bảy: Đức-Phật ngự lên cung trời cõi Tam- thập-tam-thiên, để an cư nhập hạ suốt 3 tháng(1) trong mùa mưa, thuyết giảng Abhidhammapiṭaka (Tạng Vi- Diệu-Pháp) gồm có 7 bộ lớn: Bộ Dhammasaṅgaṇī, bộ Vibhaṅga, bộ Dhatukathā, bộ Puggalapaññatti, bộ Kathāvatthu, bộ Yamaka bộ Paṭṭhāna, để tế độ Phật- Mẫu (kiếp hiện-tại là một vị thiên-nam Santussita từ cõi trời Đâu-suất-đà-thiên hiện xuống).

Vị thiên-nam Santussita chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, cùng với 800 ngàn triệu (800 tỷ) chư-thiên, phạm-thiên trở thành bậc Thánh thấp hoặc cao tùy theo ba-la-mật của mỗi vị.

Vào ngày 16 tháng 9, Đức-Phật từ cõi trời Tam-thập- Tam-thiên trở về cõi người, tại cổng thành xứ Saṅkassa, chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, chư tỳ-khưu-ni-Tăng, cận- sự-nam, cận-sự-nữ đông đảo đón rước Đức-Phật.

  1. Hạ thứ tám: Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa trong khu rừng Bhesakaḷavana vùng Bhaggajanapada, để tế độ dân chúng làng Susumāragira.
  2. Hạ thứ chín: Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Ghositārāma gần kinh-thành Kosambi.
  3. Hạ thứ mười: Hai nhóm tỳ-khưu xứ Kosambi cãi

1 3 tháng ở cõi người, thời gian ở cõi trời cõi Tam-thập-tam-thiên khoảng 3 phút 36 giây; bởi vì, 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 100 năm ở cõi người.

 

cọ nhau, Đức-Phật khuyên giải nhưng họ không chịu nghe lời, nên Đức-Phật ngự vào khu rừng Pālileyyaka an cư nhập hạ một mình, suốt 3 tháng mùa mưa.

Khu rừng Pālileyyaka ở khoảng giữa kinh-thành Kosambi và kinh-thành Sāvatthi.

  1. Hạ thứ mười một: Đức-Phật ngự đến tỉnh lỵ Dakkhiṇagiri cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, rồi an cư nhập hạ tại ngôi chùa Dakkhiṇagiri, gần xóm nhà Bà- la-môn Ekanāḷa, để tế độ ông Bà-la-môn Kasibhāradvāja xuất gia trở thành tỳ-khưu, rồi tỳ-khưu Kasibhāradvāja thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán.
  2. Hạ thứ mười hai: Đức-Phật cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại xứ Verañjā theo lời thỉnh mời của ông Bà-la-môn Verañjā.

Trong thời ấy, xứ Verañjā gặp phải hạn hán mất mùa, nạn đói phát sinh, dân chúng bị chết đói rất đông, bởi vì, thiếu thốn vật thực, cho nên, chư tỳ-khưu đi khất thực không được vật thực.

Đoàn người lái buôn từ xứ Uttarāpatha cùng với 500 cỗ xe ngựa vừa đến xứ Verañjā gặp mùa mưa, nên đành phải trú lại. Họ nhìn thấy chư tỳ-khưu đi khất thực, nhưng không được gì, nên họ làm phước-thiện bố-thí cúng dường lúa là phần vật thực để nuôi ngựa, giã thành gạo đỏ đem nấu cơm, mỗi ngày dâng cúng dường đến Đức-Phật cùng chư tỳ-khưu.

Đặc biệt dâng cúng dường Ngài Trưởng-lão Ānanda những món bơ, mật ong, đường, ... để Ngài Trưởng-lão Ānanda làm vật thực dâng cúng lên Đức-Phật.

Trong 3 tháng an cư nhập hạ ấy, Đức-Phật cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng phải chịu cảnh độ cơm nấu bằng

 

gạo đỏ (Đó là một trong những quả ác-nghiệp cũ của Đức-Phật còn dư sót chút đỉnh, và cũng có ảnh hưởng đến chư tỳ-khưu gần gũi với Đức-Phật).

  1. Hạ thứ mười ba: Đức-Phật an cư nhập hạ tại một ngôi chùa trên núi Cāliya gần xóm nhà Jantu, trong xứ Cāliya.

Từ hạ đầu tiên cho đến hạ thứ mười ba này, Đức-Phật chưa có một vị tỳ-khưu nào là thị giả thường trực chăm sóc phục vụ Đức-Phật, khi thì vị tỳ-khưu này, khi thì vị tỳ-khưu khác thay đổi nhau phục vụ Đức-Phật.

Trong mùa hạ này, vị tỳ-khưu Meghiya là thị giả của Đức-Phật. Một hôm, vị tỳ-khưu đi khất thực trong xóm Jantu, nhìn thấy ngoài vườn xoài bên bờ sông, một cảnh đẹp thiên nhiên, yên tĩnh, đáng hài lòng, nên tỳ-khưu Meghiya muốn đến nơi đó để thực-hành pháp-hành-thiền.

Khi trở về, tỳ-khưu Meghiya vào hầu đảnh lễ Đức- Thế-Tôn, xin Đức-Thế-Tôn cho phép đi đến nơi đó để thực-hành pháp-hành-thiền theo ý muốn của mình.

Đức-Phật xem xét thấy chưa hợp thời, nên dạy rằng:

- Này Meghiya! Con nên chờ có một vị tỳ-khưu khác

đến thay thế, rồi con hãy đi.

Đức-Phật truyền bảo như vậy, tỳ-khưu Meghiya vẫn năn nỉ xin đi, Đức-Phật khuyên dạy ba lần mà tỳ-khưu Meghiya không chịu nghe lời, biết ngăn không được, nên Đức-Phật đành phải cho phép.

Tỳ-khưu Meghiya đảnh lễ Đức-Phật rồi ra đi, để Đức- Phật ở lại một mình trên núi Cāliya.

Khi tỳ-khưu Meghiya đến vườn xoài ngồi thực-hành pháp-hành-thiền, thì tâm tà-tư-duy phát sinh làm cho tâm nóng nảy, bực bội nên không thể thực-hành pháp-hành thiền-định, cũng không thể thực-hành pháp-hành thiền-

 

tuệ, nên tỳ-khưu Meghiya trở về hầu đảnh lễ Đức-Thế- Tôn bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, người xuất-gia với đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, khi tà-tư-duy, bất-thiện-pháp phát sinh làm trở ngại sự thực-hành pháp-hành thiền- định, pháp-hành thiền-tuệ.
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có những pháp nào để diệt tà-tư-duy, để hỗ trợ cho pháp-hành thiền-định, pháp- hành thiền-tuệ? Bạch Ngài.

Đức-Phật dạy rằng:

  • Này Meghiya! Hành-giả chưa diệt được phiền-não trầm-luân thì cần phải có đủ năm pháp:
  1. Có bạn lành, bạn tốt.
  2. Là người có giới-hạnh trong sạch, giữ gìn cẩn trọng trong giới-luật, giữ gìn thân và khẩu trong sạch thanh- tịnh, đi lại nơi an toàn cho phạm-hạnh, thường thấy tai họa lớn trong lỗi nhỏ.
  3. người biết tri túc trong 4 thứ vật dụng hằng ngày.
  4. Có tâm tinh-tấn không ngừng diệt ác-pháp, làm cho thiện-pháp phát sinh và tăng trưởng.
  5. Có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự-sinh, sự-diệt của danh-pháp, sắc-pháp dẫn đến sự diệt phiền-não trầm luân, giải thoát khổ.

Đó là năm pháp diệt tà-tư-duy, để hỗ trợ cho pháp- hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân-hồi.

Tỳ-khưu Meghiya vâng lời dạy của Đức-Phật. Về sau không lâu, tỳ-khưu Meghiya thực-hành pháp-hành thiền- tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

 

  1. Hạ thứ mười bốn: Đức-Phật an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika, gần kinh-thành Sāvatthi. Trong mùa hạ này, Sa-di Rāhula tròn đủ 20 tuổi được nâng lên bậc tỳ-khưu, do Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta Thầy tế-độ (upajjhāya) Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna Thầy tụng tuyên- ngôn và thành-sự-ngôn (ācariya).

Đức-Phật biết rõ tỳ-khưu Rāhula đã có đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật, nên Đức-Phật dự định thuyết pháp tế độ tỳ-khưu Rāhula diệt tận được mọi phiền-não trầm luân.

Hôm ấy, sau khi ngự đi khất thực trong kinh-thành Sāvatthi trở về, Đức-Phật truyền dạy tỳ-khưu Rāhula đem tọa cụ (tấm vải lót ngồi) đi vào rừng ở phía Nam kinh-thành Sāvatthi để nghỉ trưa.

Vô số chư-thiên, phạm-thiên cùng đi theo tỳ-khưu Rāhula, do biết rằng Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ tỳ- khưu Rāhula diệt tận mọi phiền-não trầm-luân.

Đức-Phật thuyết dạy bài kinh Cūḷarāhulovādasutta: Kinh dạy tỳ-khưu Rāhula trẻ. Sau khi lắng nghe xong bài kinh, tỳ-khưu Rāhula chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn cho đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não trầm- luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng cùng với tứ tuệ-phân-tích, lục thông.

Đồng thời trong khi ấy, vô số chư-thiên, phạm-thiên cũng trở thành Thánh bậc cao hoặc bậc thấp tuỳ theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi vị chư-thiên, phạm-thiên.

 

  1. Hạ thứ mười lăm: Đức-Phật cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Nigrodhārāma gần kinh-thành Kapilavatthu. Đức-vua Mahānāma thuộc dòng họ Sakya đã xây cất chỗ ở để dâng cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì.

Đức-Phật thuyết pháp giảng dạy về quả báu cao quý của phước-thiện bố-thí cúng dường chỗ ở đến chư tỳ- khưu-Tăng.

  1. Hạ thứ mười sáu: Đức-Phật tế độ được dạ-xoa Āḷavaka rất hung dữ hơn cả Ác-ma-thiên. Dạ-xoa Āḷavaka chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Sau khi tế độ dạ-xoa Āḷavaka xong, Đức-Phật an cư nhập hạ tại ngôi tháp Aggāḷava trong xứ Āḷavī, để tế độ Đức-vua Āḷavaka cùng dân chúng trong xứ.

  1. Hạ thứ mười bảy: Đức-Phật cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha.

18-19- Hạ thứ mười tám và mười chín: Đức-Phật ngự đi thuyết pháp tế độ chúng-sinh có duyên lành nên tế độ khắp mọi nơi. Khi gần đến mùa mưa, Đức-Phật ngự đến ngôi chùa trên núi Cāliya gần xóm nhà Jantu trong xứ Cāliya an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa.

20- Hạ thứ hai mươi: Đức-Phật cùng với chư Đại- đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veḷuvana, gần kinh-thành Rājagaha.

Từ hạ đầu tiên đến đầu hạ thứ hai mươi, Đức-Phật

chưa có một vị tỳ-khưu nào làm thị giả thường trực để lo

 

chăm sóc phục vụ Đức-Phật; khi thì vị tỳ-khưu này, khi thì vị tỳ-khưu khác: các vị tỳ-khưu như tỳ-khưu Nāgasamāla, tỳ-khưu Nāgita, tỳ-khưu Upavāṇa, tỳ-khưu Sunakkhatta, tỳ-khưu Cunda, tỳ-khưu Sāgata, tỳ-khưu Meghiya, ... thay đổi nhau làm phận sự phục vụ Đức- Phật, chưa có một vị tỳ-khưu nào gọi là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc Đức-Phật.

Đôi khi, Đức-Phật ngự đi khất thực một đường, vị tỳ- khưu ôm bát theo Đức-Phật lại muốn đi con đường khác, nên để bát của Đức-Phật xuống đất rồi đi theo ý của mình, hoặc đôi khi có vị tỳ-khưu đang phục vụ Đức- Phật, thì xin đi thực-hành pháp-hành-thiền một nơi khác, chỉ còn lại một mình Đức-Phật, mà không có vị tỳ-khưu nào lo chăm sóc phục vụ cho Đức-Phật.

Trong mùa hạ này, một hôm, Đức-Phật đang ngự tại cốc Gandhakuṭi, chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, rồi ngồi tụ hội xung quanh. Đức-Phật truyền dạy rằng:

  • Này chư tỳ-khưu! Nay Như-Lai đã lớn tuổi rồi, các tỳ-khưu đến chăm sóc, phục vụ Như-Lai, đôi khi Như-Lai đi khất thực một đường, vị tỳ-khưu ấy mang bát theo Như-Lai lại muốn đi con đường khác, nên để bát của Như-Lai xuống đất rồi đi theo ý của mình, ...
  • Này chư tỳ-khưu! Các con nên chọn một vị tỳ-khưu làm thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc, phục vụ Như-Lai.

Khi lắng nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, Ngài Trưởng-lão Sāriputta đảnh lễ Đức-Phật chắp hai tay bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin được làm thị giả thường trực hằng ngày, hằng đêm lo chăm sóc phục vụ Đức-Thế-Tôn.

 

Đức-Thế-Tôn không chấp thuận theo lời xin của Ngài Trưởng-lão Sāriputta. Tiếp đến Ngài Trưởng-lão Mahā- moggallāna bạch xin, Đức-Thế-Tôn cũng không chấp thuận. Theo tuần tự các chư Đại-Thanh-văn đều xin, Đức-Thế-Tôn cũng không chấp thuận một vị nào cả.

Ngài Trưởng-lão Ānanda làm thị giả thường trực

Duy chỉ còn Ngài Trưởng-lão Ānanda đang ngồi im lặng, chư Đại-đức tỳ-khưu động viên khuyến khích Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch xin làm thị giả thường trực hằng ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức-Thế-Tôn.

Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda đảnh lễ Đức-Thế- Tôn, chắp hai tay bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin Đức-Thế-Tôn tám đặc ân, nếu Đức-Thế-Tôn ban cho con đủ tám đặc ân ấy thì con sẽ xin làm thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức-Thế-Tôn.

4 Đặc ân khước từ

  1. Kính xin Đức-Thế-Tôn không ban cho con tấm y tốt mà Ngài có.
  2. Kính xin Đức-Thế-Tôn không ban cho con vật thực ngon lành mà Ngài có.
  3. Kính xin Đức-Thế-Tôn không ban cho con được

chung với Ngài trong cốc Gandhakuṭi.

  1. Kính xin Đức-Thế-Tôn không cho con đi theo Ngài

đến nhà thí chủ mà họ thỉnh mời Ngài.

Đức-Phật truyền hỏi rằng:

  • Này Ānanda! Con xét thấy bất lợi như thế nào, mà con xin bốn đặc ân khước từ như vậy?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con muốn tránh những lời dèm pha của người khác cho rằng:

 

“Con xin làm thị giả thường trực của Đức-Thế-Tôn để mong được y tốt, vật thực ngon lành, ở chung với Đức-Thế-Tôn, được đi theo Đức-Thế-Tôn đến nhà thí chủ thỉnh mời Ngài.”

Đức-Thế-Tôn chấp thuận theo bốn đặc ân khước từ ấy của Ngài Trưởng-lão Ānanda.

4 đặc-ân khẩn khoản

  1. Kính xin Đức-Thế-Tôn ngự đến nơi mà con đã nhận lời thỉnh mời.
  2. Kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con dẫn các người từ các phương xa đến hầu Ngài.
  3. Kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép con được vào hầu Ngài, để hỏi những pháp mà con chưa hiểu biết.
  4. Đức-Thế-Tôn thuyết pháp nơi nào, khi con vắng mặt, kính xin Ngài thuyết lại pháp ấy cho con nghe.

Đức-Phật truyền hỏi rằng:

  • Này Ānanda! Con xét thấy những điều lợi ích như thế nào, mà con xin bốn đặc-ân khẩn khoản như vậy?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn,
  • Đặc-ân thứ nhất: Những người có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo đến hầu thỉnh Đức-Thế-Tôn, mà không gặp được Ngài, thì cho phép con nhận lời thỉnh mời của họ. Nếu Đức-Thế-Tôn không ngự đi đến nơi đó thì họ sẽ nghĩ rằng:

“Con là người thị giả thường trực của Đức-Thế-Tôn, vậy mà họ chỉ nhờ việc thỉnh mời Đức-Thế-Tôn cũng không giúp cho họ được.”

  • Đặc-ân thứ nhì: Những người từ các phương xa đến hầu Đức-Thế-Tôn, nếu họ không có cơ hội hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn để nghe pháp thì họ sẽ nghĩ rằng:

 

“Chúng ta từ phương xa đến, có ý nguyện hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, nghe Ngài thuyết pháp, nhưng vị tỳ-khưu thị giả của Đức-Thế-Tôn cũng không giúp cho chúng ta được có cơ hội ấy.”

Như vậy, họ sẽ giảm đức-tin nơi Tam-Bảo.

  • Đặc-ân thứ ba: Khi con nghe pháp của Đức-Thế- Tôn, có pháp nào chưa hiểu rõ, con xin phép hỏi lại pháp ấy, Đức-Thế-Tôn giảng giải cho con được hiểu rõ, để con được thuận lợi cho việc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ của con.
  • Đặc-ân thứ tư: Có người hỏi con rằng:

“Bài kinh này, pháp này, tích tiền-kiếp này, ... Đức- Thế-Tôn giảng nơi nào, có ý nghĩa như thế nào?”

Nếu con trả lời với họ rằng: “Tôi không biết” thì họ sẽ nghĩ rằng:

“Ngài Trưởng-lão Ānanda là thị giả của Đức-Thế- Tôn, vậy mà bài kinh ấy, pháp ấy, tích tiền-kiếp ấy, ... cũng không biết.”

Cho nên, kính xin Đức-Thế-Tôn thuyết lại những pháp ấy cho con, để con trả lời cho họ hiểu rõ.

Sau khi nghe Ngài Trưởng-lão Ānanda giải thích sự lợi ích của mỗi đặc-ân, nên Đức-Phật chấp thuận đủ tám đặc-ân của Ngài Trưởng-lão Ānanda.

Bắt đầu từ thời gian ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda chính thức là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức-Thế-Tôn, cho đến lúc Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn.

Sở dĩ, Ngài Trưởng-lão Ānanda được địa vị thị giả thường trực của Đức-Phật Gotama, là vì tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão đã từng phát nguyện muốn trở thành một thị giả thường trực của Đức-Phật. Lời phát nguyện

 

trong tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão đã được Đức-Phật Padumuttara thời quá-khứ thọ ký và Ngài Trưởng-lão cũng đã thực-hành 10 pháp-hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất, để thành-tựu ý nguyện ấy.

21- 44- Hạ thứ hai mươi mốt đến hạ thứ bốn mươi bốn

45 hạ của Đức-Phật chia ra hai thời-kỳ:

  • Thời-kỳ đầu: Kể từ hạ đầu tiên đến hạ thứ 20, mỗi hạ Đức-Phật an cư nhập hạ nơi nào, tế độ cho chúng- sinh nào được ghi chép lại rõ ràng.
  • Thời-kỳ cuối: Kể từ hạ thứ 21 đến hạ thứ 44, Đức- Phật an cư nhập hạ một trong hai ngôi chùa. Khi thì Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana, khi thì tại ngôi chùa Pubbārāma gần kinh-thành Sāvatthi.

Sau khi mãn hạ, Đức-Phật thường ngự đi thuyết pháp tế độ những chúng-sinh có duyên lành nên tế độ dù gần, dù xa trong cõi người hoặc cõi trời dục-giới hoặc cõi trời sắc-giới.

Khi đến gần mùa mưa, Đức-Phật trở lại kinh-thành Sāvatthi, an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana hoặc tại ngôi chùa Pubbārāma, bởi vì, Đức-vua Pasenadi Kosala ở kinh-thành Sāvatthi, là người có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, có tâm tôn kính Đức-Phật, Đức-Pháp, chư tỳ- khưu-Tăng. Đặc biệt, có hai đại-thí-chủ là ông phú-hộ Anāthapiṇḍika bà đại-thí-chủ Visākhā, trong nhà của hai đại-thí-chủ này, hằng ngày luôn có sắp đặt sẵn 500 chỗ ngồi để đón rước chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến khất thực.

Và phần đông dân chúng trong kinh-thành Sāvatthi là những người có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, hoan

 

hỷ trong việc bố thí cúng dường bốn thứ vật dụng đến chư tỳ-khưu-Tăng.

3

Do đó, khi Đức-Phật an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana hoặc tại ngôi chùa Pubbārāma, có số đông chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng cũng an cư nhập hạ tại một trong hai ngôi chùa này và các nơi gần kinh-thành Sāvatthi, để chư tỳ-khưu có được nhiều điều thuận lợi, nhất là bốn thứ vật dụng, trong suốt mùa an cư nhập hạ, để cho chư tỳ-khưu được thuận lợi thực-hành pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển tốt.

45- Hạ thứ bốn mươi lăm: Hạ cuối cùng, Đức-Phật an cư nhập hạ tại ngôi làng nhỏ Veḷuvagāma, gần kinh- thành Vesālī, Đức-Phật cho phép chư Đại-đức tỳ-khưu nhập hạ quanh làng gần Đức-Phật, để cho tiện việc đến tụ hội nghe lời giáo huấn của Ngài. Bởi vì, Ngài biết rõ rằng chỉ còn khoảng 10 tháng nữa, Ngài sẽ tịch diệt Niết-bàn.

Trong mùa an cư nhập hạ này, Đức-Phật lâm bệnh trầm trọng, tưởng chừng như sắp tịch diệt Niết-bàn, nhưng Đức-Phật suy nghĩ rằng:

Như-Lai chưa truyền dạy cho thị giả Ānanda, cùng chư tỳ-khưu Tăng biết, mà tịch diệt Niết-bàn đó là điều không nên”.

Do đó, Đức-Phật cố nhẫn nại chịu đựng thọ khổ, rồi nhập A-ra-hán-quả. Nhờ vậy, bệnh tình của Đức-Phật được thuyên giảm.

Sau khi khỏi bệnh được không lâu, Đức-Thế-Tôn ngự ra khỏi cốc đến ngồi chỗ đã trải sẵn, Ngài Trưởng-lão Ānanda đảnh lễ Đức-Thế-Tôn và bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, nhìn thấy Đức-Thế-Tôn khỏi bệnh, con vui mừng hoan hỷ quá!

 

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, khi con thấy Đức-Thế-Tôn lâm bệnh trầm trọng, con có cảm giác toàn thân nặng nề, tâm con tăm tối, mờ mịt không còn biết rõ phương hướng, pháp-hành tứ niệm-xứ cũng không còn hiện rõ trong tâm con, bởi bệnh tình trầm trọng của Đức-Thế- Tôn, nhưng có một điều mà con tự an ủi rằng:

“Đức-Thế-Tôn chưa truyền dạy lời di chúc cuối cùng đến chư tỳ-khưu-Tăng, thì có lẽ Đức-Thế-Tôn chưa tịch diệt Niết-bàn.”

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

  • Này Ānanda! Chư tỳ-khưu còn hy vọng gì nơi Như- Lai nữa? Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng không hề phân biệt người thân bên trong, kẻ sơ bên ngoài, Như-Lai không giống như các vị thầy khác, giấu các yếu pháp để chờ đến lúc trước khi lâm chung mới truyền lại cho người học trò tín cẩn.
  • Này Ānanda! Vị thầy nào nghĩ rằng:

“Ta là người lãnh đạo nhóm chư tỳ-khưu-Tăng, và nhóm chư tỳ-khưu-Tăng nương nhờ nơi ta.”

Vị thầy ấy mới có lời di chúc cuối cùng đến nhóm chư tỳ-khưu-Tăng ấy.

  • Này Ānanda! Như-Lai không nghĩ rằng:

Như-Lai người lãnh đạo nhóm chư tỳ-khưu-Tăng, và nhóm chư tỳ-khưu-Tăng nương nhờ nơi Như-Lai.”

Như vậy, sao Như-Lai lại có lời di chúc cuối cùng đến chư tỳ-khưu-Tăng.

  • Này Ānanda! Bây giờ Như-Lai đã đến thời lão niên, tuổi đã cao, đã 80 tuổi(1) rồi! Ví như chiếc xe cũ, sử dụng

1 80 tuổi kể từ khi đầu thai vào lòng Phật mẫu vào ngày rằm tháng sáu (âm lịch).

 

được là phải nhờ sửa chữa như thế nào, thì sắc thân của Như-Lai cũng như thế ấy, luôn luôn cần được sửa chữa bằng cách nhập A-ra-hán Thánh-quả.

  • Này Ānanda! Khi nào Như-Lai nhập A-ra-hán Thánh- quả có đối tượng Vô-hiện-tượng Niết-bàn, diệt được các pháp trong tam-giới, hưởng pháp vị an-lạc Niết-bàn siêu-tam-giới, khi ấy Như-Lai mới thật sự được an-lạc.
  • Cho nên, các con nên sống có ta(1) làm hòn đảo (trong biển khổ), có ta làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác. Nghĩa là có chánh-pháp làm hòn đảo, có chánh-pháp làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác.
  • Này Ānanda! Vì vậy, hiện-tại Như-Lai còn tại thế, cũng như trong thời vị-lai, sau khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn, chư tỳ-khưu cũng là người sống có ta làm hòn đảo, có ta làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác. Nghĩa là tỳ-khưu sống có chánh- pháp làm hòn đảo, có chánh-pháp làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác.

Tỳ-khưu ấy thực-hành pháp-hành tứ niệm-xứ, sẽ là người cao thượng.

Đức-Thế-Tôn an cư nhập hạ tại nơi đây suốt ba tháng,

đây là hạ cuối cùng của Đức-Phật.

Những ngày tháng cuối cùng của Đức-Phật

Sau khi mãn hạ, Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng trở lại kinh-thành Sāvatthi, ngự tại ngôi chùa Jetavana.

1     Tasmātihānanda     attadīpā     viharatha     attasaraṇā     anaññasaraṇā, dhammadīpā dhammasaraṇā anaññasaraṇā ...

Attā đây có nghĩa sabhāvadhammā, đó là tam-giới thiện-pháp và siêu- tam-giới thiện-pháp.

 

  • Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tịch diệt Niết-bàn

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta suy xét rằng:

“Chư Phật với bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn, vị nào sẽ tịch diệt Niết-bàn trước?”

Ngài Đại-Trưởng-lão biết rằng:

“Bậc Thánh Tối-thượng Thanh-văn đệ-tử tịch diệt Niết-bàn trước Đức-Phật.”

Ngài Đại-Trưởng-lão suy xét về tuổi thọ của Ngài, biết rõ tuổi thọ của Ngài Đại-Trưởng-lão chỉ còn 7 ngày nữa, nên Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta liền đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn lần cuối cùng, xin phép trở về nhà để tịch diệt Niết-bàn.

Đức-Phật truyền hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta rằng:

  • Này Sāriputta! Con sẽ tịch diệt Niết-bàn tại nơi nào vậy?

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta kính bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con sẽ tịch diệt Niết-bàn tại ngôi nhà trong làng Nālākagāma, xứ Magadha nơi con đã sinh trưởng, đồng thời để tế độ cho thân mẫu của con. Tuy bà có bảy người con đã trở thành bậc Thánh A- ra-hán, nhưng bà vẫn chưa có đức-tin nơi Tam-Bảo.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta cùng với 500 đệ-tử đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin phép từ giã Đức-Thế-Tôn.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta trở về lại ngôi nhà xưa

ở tại căn phòng của mình.

Trong đêm cuối cùng của cuộc đời, Ngài Đại-Trưởng- lão Sāriputta phát bệnh kiết lị đi ngoài, phân lẫn nhiều máu, bệnh tình rất trầm trọng.

Khi ấy, đứng nhìn qua căn phòng của Ngài Đại- Trưởng-lão, bà thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão thấy

 

Tứ Đại-Thiên-vương từ cõi tứ Đại-thiên-vương có hào quang sáng ngời đến chiêm bái, đảnh lễ Ngài Đại- Trưởng-lão lần cuối cùng, rồi lui ra. Tiếp đến, Đức-vua trời Sakka từ cõi Tam-thập-tam-thiên đến chiêm bái, đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão lần cuối cùng, rồi lui ra.

Tuần tự các Đức-vua Trời cõi Dạ-ma-thiên, Đức-vua trời cõi Đâu-suất-đà-thiên, Đức-vua trời cõi Hóa-lạc- thiên, Đức-vua trời cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên trong các cõi trời dục-giới và tiếp đến chư Đại-Phạm-thiên cõi trời sắc-giới phạm-thiên cũng đều đến chiêm bái, đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão lần cuối cùng.

Bà thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão nhìn thấy chư- thiên, chư Đại-Phạm-thiên có hào quang sáng ngời, vị sau hơn vị trước, bà muốn biết những vị chư-thiên ấy là vị nào, mà có lòng tôn kính con của bà đến như thế!

Bà thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đến phòng của Ngài Đại-Trưởng-lão, hỏi Ngài Trưởng-lão Cunda (con trai của bà) rằng:

  • Này Cunda! Các vị chư-thiên nào mà có lòng tôn kính đến chiêm bái, đảnh lễ Sư Huynh của con như vậy?

Ngài Trưởng-lão Cunda thưa rằng:

  • Thưa thân mẫu, đầu tiên, Tứ Đại-Thiên-vương từ cõi trời tứ Đại-Thiên-vương đến chiêm bái, đảnh lễ Sư Huynh của con.

Nghe Ngài Trưởng-lão Cunda thưa như vậy, bà nghĩ thầm: Tứ Đại-Thiên-vương mà có lòng tôn kính đến chiêm bái, đảnh lễ con ta.

Vậy, con ta phải là bậc cao thượng. Nếu vậy, thì Đức- Phật là Bậc Tôn-Sư của con ta, chắc chắn Đức-Phật còn cao thượng hơn thế nữa. Và bà hỏi tiếp:

  • Này Cunda, còn các vị chư-thiên khác là vị nào vậy?

 

Ngài Trưởng-lão Cunda thưa tiếp:

  • Thưa thân mẫu, chư vị kế đến tuần tự là Đức-vua trời Sakka từ cõi trời Tam-thập-tam-thiên, Đức-vua trời Sujāma từ cõi trời Dạ-ma-thiên, Đức-vua trời Santussita từ cõi trời Đâu-suất-đà-thiên, Đức-vua trời Sunimmita từ cõi trời Hóa-lạc-thiên, Đức-vua trời Paranimmita từ cõi trời Tha-hóa tự-tại-thiên, và tiếp đến chư Đại-Phạm- thiên từ các tầng trời sắc giới, ...

Nghe Ngài Trưởng-lão Cunda thưa như vậy, bà thầm nghĩ rằng:

“Đại-Phạm-thiên” mà ta tôn kính, chư Đại-Phạm- thiên ấy mà có lòng tôn kính đến chiêm bái, đảnh lễ con của ta. Vậy, con ta cao thượng đến như vậy sao! Nếu vậy, Đức-Phật là Bậc Tôn-Sư của con ta, chắc chắn Ngài còn cao thượng biết dường nào!

Do nghĩ như vậy, nên bà phát sinh đại-thiện-tâm hỷ lạc chưa từng có, bà ân cần thăm hỏi bệnh tình của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta và bày tỏ ý nghĩ của mình.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta biết đúng lúc hợp thời, nên Ngài Đại-Trưởng-lão thuyết giảng về ân-Đức- Phật để tế độ thân mẫu của Ngài.

Sau khi lắng nghe Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta thuyết pháp xong, bà liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được hai loại phiền-não là tà- kiến hoài-nghi, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Tam-Bảo.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tự nghĩ rằng:

“Nay ta đã đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của thân mẫu của ta xong rồi.”

 

Khi ấy, trời sắp rạng đông, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta bảo Ngài Trưởng-lão Cunda gọi chư tỳ-khưu đến tụ hội đông đủ, rồi đỡ ngồi dậy, Ngài Đại-Trưởng- lão dạy rằng:

  • Này chư hiền giả! Quý vị đã theo tôi suốt 44 năm, nếu tôi có làm điều gì, có nói lời gì làm không vừa lòng quý vị, vậy, nay xin quý vị hiền giả hãy bỏ lỗi cho tôi.

Chư tỳ-khưu bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, Ngài Đại-Trưởng- lão là Bậc Thầy khả kính, khả ái của chúng con. Chúng con không nghe thấy một điều gì cả. Và chúng con đã theo Thầy như bóng theo hình suốt 44 năm qua, nếu chúng con có làm điều gì, có nói lời nào làm không vừa lòng Thầy thì nay kính xin Thầy có tâm từ tha thứ cho chúng con. Bạch Ngài.

Sau buổi lễ chân thành sám hối lẫn nhau, vào ngày rằm tháng 10 (âm lịch) Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Ngay khi ấy, trái đất cũng tự nhiên rùng mình chuyển động. Sau khi lễ hỏa táng thi thể Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta xong, Ngài Trưởng-lão Cunda thỉnh Xá-lợi của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đến kính dâng lên Đức-Thế-Tôn tại ngôi chùa Jetavana.

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy xây ngôi tháp tôn thờ xá-lợi của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tại kinh- thành Sāvatthi.

  • Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn

Sau khi Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tịch diệt Niết- bàn, Đức-Phật cùng với chư tỳ-khưu-Tăng từ kinh-thành

 

Sāvatthi ngự đến kinh-thành Rājagaha, ngự tại ngôi chùa Veḷuvana. Khi ấy, Ngài Đại Trưởng-lão Mahāmog- gallāna đang trú tại làng Kaḷasilā trong xứ Magadha, nhóm ngoại đạo thuê mướn bọn cướp vây đánh Ngài Đại-Trưởng-lão.

Đã nhiều lần Ngài Đại-Trưởng-lão đều lẫn tránh được. Đến lần cuối cùng, Ngài Đại-Trưởng-lão suy xét thấy ác-nghiệp cũ đến thời-kỳ cho quả cuối cùng trước khi tịch diệt Niết-bàn, nên Ngài Đại-Trưởng-lão nhẫn- nại chịu đựng để nhóm cướp đánh đập Ngài Đại- Trưởng-lão tan xương nát thịt. Chúng tưởng Ngài Đại- Trưởng-lão đã chết, nên ném xác Ngài Đại-Trưởng-lão vào bụi cây, rồi bỏ đi.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna sử dụng phép thần-thông liên kết xương thịt lại, bay đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xin phép tịch diệt Niết-bàn.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn vào ngày 30 tháng 10 (âm lịch), tại làng Kaḷasilā trong xứ Magadha.

Lễ hỏa táng xong, Đức-Phật truyền dạy xây ngôi tháp tôn thờ Xá-lợi của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmog- gallāna tại kinh-thành Rājagaha.

Như vậy, trong tháng 10 (âm lịch) năm ấy, vào ngày rằm tháng 10, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tịch diệt Niết-bàn, đến ngày 30 tháng 10, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna tịch diệt Niết-bàn.

Hai vị Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật Gotama đã tịch diệt Niết-bàn.

3

Đức-Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng từ kinh-thành Rājagaha du hành đến kinh-thành Vesālī.

Một hôm, Đức-Thế-Tôn ngự vào kinh-thành Vesālī để

 

khất thực, sau khi thọ thực xong, Đức-Phật truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda cùng ngự đến ngôi tháp Cāpālacetiya.

Sau khi Đức-Thế-Tôn ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn, Ngài Trưởng-lão Ānanda đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

  • Này Ānanda! Bậc nào đã thường thực-hành bốn pháp thành-tựu (idhipāda), đã thực-hành trở thành thuần thục, đã thực-hành trở thành vững chắc, có căn bản, đã luyện tập thành thói quen hằng ngày, thường tinh-tấn không ngừng thực-hành bốn pháp thành-tựu này.
  • Này Ānanda! Bậc ấy có khả năng duy trì trọn kiếp tuổi thọ hoặc hơn kiếp tuổi thọ được như ý.
  • Này Ānanda, Như-Lai đã thường thực-hành bốn pháp thành-tựu (idhipāda), đã thực-hành trở thành thuần thục, đã thực-hành trở thành vững chắc, có căn bản, đã luyện tập thành thói quen hằng ngày, thường tinh-tấn không ngừng thực-hành bốn pháp thành-tựu này.
  • Này Ānanda, Như-Lai cũng có khả năng duy trì trọn kiếp tuổi thọ (100 năm) hoặc hơn kiếp tuổi thọ (hơn 100 năm) được theo như ý.

Đức-Thế-Tôn đã truyền dạy gián tiếp như vậy, nhưng Ngài Trưởng-lão Ānanda không hiểu, nên không thỉnh mời Đức-Thế-Tôn rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Đức-Thế-Tôn duy trì trọn kiếp tuổi thọ (100 năm).
  • Kính xin Đức-Thế-Tôn duy trì trọn kiếp tuổi thọ, để tế độ cho phần đông chúng-sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc cho phần đông chúng-sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho chư-thiên và nhân-loại.

 

Bởi vì, khi ấy Ngài Trưởng-lão Ānanda bị Ác-ma- thiên quấy nhiễu, nên không hiểu ý của Đức-Thế-Tôn. Dù Đức-Thế-Tôn dạy như vậy lần thứ hai, lần thứ ba, Ngài Trưởng-lão Ānanda vẫn không hiểu được.

Ngài Trưởng-lão Ānanda đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép đi ra ngoài ngồi dưới gốc cây không xa nơi Đức-Thế-Tôn.

Ác-Ma-Thiên thỉnh Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn

Khi Ngài Trưởng-lão Ānanda vừa mới ra ngoài, Ác- Ma-thiên liền đến hầu Đức-Thế-Tôn, rồi đứng một nơi hợp lẽ bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính thỉnh Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn, kính thỉnh Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn ngay bây giờ. Bây giờ là lúc tịch diệt Niết-bàn của Đức-Thế-Tôn.

Thật ra, Ác-Ma-thiên đã nhiều lần đến thỉnh Đức-Thế- Tôn tịch diệt Niết-bàn, những lần trước, Đức-Thế-Tôn đều khước từ. Nhưng lần này, Đức-Thế-Tôn hứa với Ác- Ma-thiên rằng:

  • Này Ác-Ma-thiên! Ngươi hãy yên tâm, không lâu nữa, Như-Lai sẽ tịch diệt Niết-bàn. Kể từ nay chỉ còn ba tháng nữa, Như-Lai sẽ tịch diệt Niết-bàn.

Như vậy, Đức-Thế-Tôn có trí-tuệ sáng suốt, xác định thời gian ba tháng nữa sẽ xả tuổi thọ, xả sinh-mạng của Đức-Thế-Tôn tại ngôi tháp Cāpālacetiya, đúng vào ngày rằm tháng giêng (âm lịch).

Ngay khi ấy, trái đất rùng mình chuyển động chưa từng có như vậy. Thấy điều lạ thường, trái đất rung chuyển, nên Ngài Trưởng-lão Ānanda vào hầu Đức-Thế- Tôn, bạch rằng:

 

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do nguyên nhân nào làm trái đất rung chuyển. Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

  • Này Ānanda! Ngay hôm nay, vừa mới rồi, Như-Lai có trí-tuệ sáng suốt hứa với Ác-Ma-thiên rằng:

“Chỉ còn ba tháng nữa mà thôi, Như-Lai sẽ tịch diệt Niết-bàn.”

Nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, Ngài Trưởng- lão Ānanda kính thỉnh rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin kính thỉnh Đức- Thế-Tôn duy trì trọn kiếp tuổi thọ (100 năm).

Con xin kính thỉnh Đức-Thế-Tôn duy trì trọn kiếp tuổi thọ, để tế độ cho phần đông chúng-sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho phần đông chúng-sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho chư- thiên và nhân-loại.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

  • Này Ānanda! Con chớ nên thỉnh Như-Lai nữa. Bây giờ không phải lúc thỉnh cầu Như-Lai nữa. Như-Lai đã gián tiếp dạy con nhiều lần mà con vẫn không hiểu, con không có lời thỉnh cầu Như-Lai.

Nay, Như-Lai đã hứa với Ác-Ma-thiên rồi, không thể nào khác được.

Thấy Ngài Trưởng-lão Ānanda khổ tâm vô hạn, vì hối hận về điều sơ suất của mình, nên Đức-Thế-Tôn an ủi Ngài Đại-đức Ānanda rằng:

  • Này Ānanda! Như-Lai đã từng dạy rằng:

“Sống xa lìa nhau, chết biệt ly với những người thân yêu, các bậc kính mến ấy. Đó là sự thật hiển nhiên.

 

Vì vậy, những người thân yêu, các bậc kính mến ấy làm sao lại có thể chiều theo ý muốn của mình được.

Những pháp nào đã sinh rồi, hiện hữu rồi, do nhân duyên cấu tạo rồi, chắc chắn có sự diệt, sự hủy hoại là thường, dù có mong muốn rằng:

“Xin pháp ấy đừng diệt, đừng hủy hoại cũng không thể nào được.”

  • Này Ānanda! Như-Lai cùng con đi đến giảng đường Kuṭāgāra trong khu rừng lớn ấy.

Ngài Trưởng-lão Ānanda theo sau Đức-Thế-Tôn đến giảng đường Kuṭāgāra. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

  • Này Ānanda! Con nên đi mời tất cả chư tỳ-khưu trong kinh-thành Vesālī đến tụ hội tại giảng đường Upaṭṭhāna.

Vâng theo lời dạy Đức-Thế-Tôn, Ngài Trưởng-lão

Ānanda đi mời chư tỳ-khưu đến tụ hội tại giảng đường.

Chánh-pháp 37 pháp chứng đắc thánh-đạo

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn ngự đến giảng đường Upaṭṭhāna ngồi trên pháp tòa cao quý, truyền dạy chư tỳ-khưu- Tăng rằng:

  • Này chư Tỳ-khưu! Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, các con nên học hỏi, hiểu biết rõ, rồi nên thực-hành, thường thực- hành chánh-pháp ấy, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, để duy trì phạm-hạnh cao thượng, để chánh-pháp được trường tồn lâu dài, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho phần đông chúng-sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho chư-thiên và nhân-loại.

 

  • Này chư Tỳ-khưu! Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, đó là:

* 4 pháp niệm-xứ (satipaṭṭhāna):

1) Thân niệm-xứ. 2) Thọ niệm-xứ.

  1. Tâm niệm-xứ. 4) Pháp niệm-xứ.
    • 4 pháp tinh-tấn (samappadhāna):
  • Tinh-tấn ngăn các ác-pháp chưa phát sinh, không cho phát sinh.
  • Tinh-tấn diệt ác-pháp đã phát sinh.
  • Tinh-tấn làm cho thiện-pháp phát sinh.
  • Tinh-tấn làm tăng trưởng thiện-pháp đã phát sinh.
    • 4 pháp thành-tựu (iddhipāda):
  • Thành-tựu do hài-lòng.
  • Thành-tựu do tinh-tấn.
  • Thành-tựu do quyết-tâm.
  • Thành-tựu do trí-tuệ.
    • 5 pháp-chủ (indriya):

1) Tín-pháp-chủ.    2) Tấn-pháp-chủ.

  1. Niệm-pháp-chủ. 4) Định-pháp-chủ.

5) Tuệ-pháp-chủ.

* 5 pháp-lực (bala):

1) Tín-pháp-lực.     2) Tấn-pháp-lực.

  1. Niệm-pháp-lực. 4) Định-pháp-lự.

5) Tuệ-pháp-lực.

* 7 pháp giác-chi (bojjhaṅga):

1) Niệm giác-chi.      2) Phân-tích giác-chi.

  1. Tinh-tấn giác-chi. 4) Hỷ giác-chi.

5) Tịnh giác-chi. 6) Định giác-chi. 7) Xả giác-chi.

 

* 8 pháp chánh-đạo (magga):

1) Chánh-kiến.     2) Chánh-tư-duy.

  1. Chánh-ngữ.     4) Chánh-nghiệp.

5) Chánh-mạng. 6) Chánh-tinh-tấn.

7) Chánh-niệm.  8) Chánh-định.

  • Này chư Tỳ-khưu! Các chánh-pháp ấy Như-Lai đã thuyết giảng đến các con, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
  • Này chư Tỳ-khưu! Bây giờ Như-Lai nhắc nhở các con rằng:

“Tất cả các pháp-hữu-vi (sắc-pháp, danh-pháp) có sự diệt là thường, các con nên cố gắng tinh-tấn hoàn thành mọi phận sự tứ Thánh-đế bằng pháp không dể duôi, thực-hành pháp-hành tứ niệm-xứ.”

Thời gian không còn lâu, Như-Lai sẽ tịch diệt Niết- bàn. Kể từ hôm nay chỉ còn lại ba tháng nữa mà thôi, Như-Lai sẽ tịch diệt Niết-bàn.

Tiếp theo Đức-Thế-Tôn dạy bài kệ:

Paripakko vayo mayhaṃ, parittaṃ mama jīvitaṃ. Pahāya vo gamissāmi, kataṃ me saraṇamattano. Appamattā satīmanto, susīlā hotha bhikkhavo.

Susamāhitasaṅkappā, sacittamanurakkhatha.

Yo imasmiṃ dhammavinaye, appamatto vihassati. Pahāya jātisaṃsāraṃ, dukkhassaṅtaṃ karissati.(1)

  • Này chư Tỳ-khưu!

Tuổi của Như-Lai đã già rồi. Mạng sống của Như-Lai còn ít, Như-Lai sẽ vĩnh biệt các con.

Như-Lai sẽ tịch diệt Niết-bàn,

1 Dīghanikāya, bộ Mahāvagga, kinh Mahāparinibhānasutta.

 

Là nơi nương nhờ của chính mình.

  • Này chư Tỳ-khưu thật đáng thương! Các con là người không dể duôi,

Có giới hạnh trong sạch đầy đủ, Luôn có chánh-niệm và tỉnh-giác, Có định-tâm, tư-duy đúng đắn, Cẩn trọng giữ gìn tâm của mình.

Người nào sống trong pháp luật này, Không dể duôi, luôn có chánh-niệm, Chứng ngộ Niết-bàn, pháp diệt khổ, Người ấy diệt tử sinh luân-hồi.

Từ kinh-thành Vesālī đến khu rừng Kusinārā

Một buổi sáng, Đức-Thế-Tôn ngự vào kinh-thành Vesālī để khất thực, sau khi thọ thực xong trở về, Đức- Thế-Tôn đứng nhìn kinh-thành Vesālī lần cuối cùng, rồi dạy bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

  • Này Ānanda! Như-Lai cùng các con đến làng Bhaṇḍagāma.

Đức-Thế-Tôn ngự đi cùng với số đông chư tỳ-khưu Tăng đến làng Bhaṇḍagāma. Tại nơi đây Đức-Thế-Tôn thuyết pháp khuyên dạy chư tỳ-khưu một thời gian ngắn, rồi tiếp tục ngự đến làng Ambagāma, làng Jambagāma, thành Bhoganagara, tại mỗi nơi Đức-Thế-Tôn thuyết pháp khuyên dạy chư tỳ-khưu, rồi tiếp tục ngự đến thành Pāvānagara. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn ngự tại vườn xoài (ambavana) của ông Cunda Kammāraputta.

Nghe tin Đức-Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng đã ngự đến thành Pāvānagara, hiện đang trú tại vườn xoài của ông.

Ông Cunda đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ

 

ông Cunda. Nghe Đức-Thế-Tôn thuyết giảng, ông Cunda phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, có đại-thiện- tâm vô cùng hoan hỷ lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn.

Khi ấy, kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, ông bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ngày mai kính thỉnh Đức- Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng nhận thọ thực tại tư gia của chúng con. Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn thọ nhận bằng cách im lặng. Biết Đức- Thế-Tôn đã nhận lời thỉnh mời, nên ông Cunda cung kính đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin phép trở về.

Đức-Thế-Tôn thọ thực món Sūkuramaddava

Ông Cunda Kammāraputta sai bảo gia nhân làm những món ăn ngon, trong đó có món ăn đặc biệt gọi là sūkuramaddava:(1) ekajeṭṭhakasūkurassa pavattamaṃsa nghĩa là món thịt heo chín mềm ngon bổ dưỡng đặc biệt.

Đêm đã qua, buổi sáng hôm ấy, Đức-Thế-Tôn ngự cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đến tư gia của ông Cunda. Ông Cunda cung kính thỉnh mời Đức-Thế-Tôn ngồi chỗ cao quý nhất, còn tất cả chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng ngồi chỗ đã trải sẵn. Ông cung kính đảnh lễ Đức- Thế-Tôn, và kính dâng món ăn đặc biệt sūkuramaddava ấy. Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

  • Này Cunda! Con dâng món sūkuramaddava này chỉ đến một mình Như-Lai mà thôi, con nên dâng những món ăn khác đến chư tỳ-khưu-Tăng.

1 Sūkuramaddava: Món thịt heo chín mềm, ngon bổ dưỡng đặc biệt nhất. Một số bậc tiền bối có ý kiến cho rằng:

  • Sūkuramaddava: là món cơm nấu bằng sữa bò tươi, sữa chua, bơ đặc, bơ lỏng... món ăn rất bổ dưỡng (còn có nghĩa nấm heo).
  • Sūkuramaddava: Là món ăn được nấu theo cách rasāyatanavidhi từ bộ sách xưa Rasāyatanasattha. Ông Cunda hy vọng rằng: Nhờ món ăn bổ dưỡng này, Đức-Thế-Tôn duy trì được sinh-mạng, không tịch diệt Niết- bàn. Món Sūkuramaddava đặc biệt này có chư-thiên bỏ thêm thiên vị, cho nên chỉ có Đức-Thế-Tôn mới có thể tiêu hóa được mà thôi.

 

Món sūkuramaddava còn lại, con nên đem đi chôn dưới đất, bởi vì, ngoại trừ Như-Lai ra, Như-Lai không thấy có một người nào trong đời này, gồm cả Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, Ma-vương cõi trời dục-giới dùng món sūkuramaddava này, rồi có thể tiêu hóa được.

Vâng theo lời của Đức-Thế-Tôn, ông Cunda đem món

ăn sūkuramaddava còn lại chôn sâu dưới đất.

Khi Đức-Thế-Tôn thọ thực xong, ông Cunda đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức- Thế-Tôn thuyết pháp tế độ ông Cunda, làm cho ông vô cùng hoan hỷ lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn.

Từ giã ông Cunda, Đức-Thế-Tôn ngự đi cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng tiếp tục lên đường đi đến khu rừng Kusinārā.

Trên đường, Đức-Thế-Tôn phát bệnh kiết lị đi ngoài ra máu, bệnh tình rất trầm trọng, Đức-Thế-Tôn dừng chân nghỉ, có chánh-niệm trí-tuệ tỉnh-giác nhập A-ra- hán-quả, làm cho thọ khổ do bệnh kiết lị được giảm bớt, nên Đức-Phật truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

  • Này Ānanda! Bây giờ Như-Lai cùng với các con đến xứ Kusinārā.

Đức-Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng tiếp tục lên đường đi xứ Kusinārā. Trên đường đi Đức- Thế-Tôn mệt nhoài, đến gốc cây Đức-Thế-Tôn dừng lại và truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

  • Này Ānanda! Con trải tấm y Saṅghāṭi bốn lớp cho Như-Lai ngồi nghỉ.

Vâng lời Đức-Thế-Tôn, Ngài Trưởng-lão Ānanda trải tấm y xong, Đức-Thế-Tôn ngồi nghỉ, rồi truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

  • Này Ānanda! Con hãy đi lấy nước cho Như-Lai dùng, Như-Lai khát nước lắm rồi!

 

Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, vừa rồi có 500 chiếc xe bò băng qua dòng sông, vì nước sông còn ít, nên đã làm cho nước đục ngầu, gần đây có con sông Kakudhānādī nước trong sạch, bờ sông thoai thoải, Đức-Thế-Tôn có thể độ nước trong sạch và tắm mát trên con sông ấy.

Đức-Thế-Tôn khát nước quá không sao chịu nổi, nên Đức-Thế-Tôn truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda đến lần thứ hai, lần thứ ba như trên.

Ngài Trưởng-lão Ānanda đành phải vâng lời Đức- Thế-Tôn, Ngài Trưởng-lão vừa mang bát đến dòng sông nước còn ít ấy, nước sông đang đục ngầu liền biến thành nước trong sạch. Ngài Trưởng-lão vô cùng ngạc nhiên, lấy bát múc nước đem về bạch Đức-Thế-Tôn:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Thật phi thường thay! Chưa từng có bao giờ! Đức-Thế-Tôn có nhiều oai lực quá! Dòng nước sông còn ít nước và bị 500 chiếc xe bò vừa băng qua làm cho nước sông đục ngầu. Khi con đến gần bỗng nhiên biến thành dòng nước trong sạch.

Con kính thỉnh Đức-Thế-Tôn độ nước.

Đức-Thế-Tôn độ nước xong liền cảm thấy đỡ khát. Sau khi ngồi nghỉ cho đỡ mệt, Đức-Thế-Tôn cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng tiếp tục lên đường đến con sông Kakudhānādī.

Khi đến nơi, Đức-Thế-Tôn ngự xuống dòng sông ấy tắm mát, độ nước xong, Đức-Thế-Tôn ngự đi lên, rồi dạy bảo Ngài Trưởng-lão Cundaka rằng:

  • Này Cundaka! Con hãy trải tấm y Saṅghāṭi bốn lớp

để cho Như-Lai nằm nghỉ ngơi.

Vâng lời Đức-Thế-Tôn, Ngài Trưởng-lão Cundaka

 

trải tấm y Saṅghāṭi bốn lớp xong, Đức-Thế-Tôn nằm nghiêng bên phải hai chân duỗi thẳng đặt so le, chân phải đầu gối hơi co một chút, có chánh-niệm trí-tuệ tỉnh- giác nhập A-ra-hán-quả. Ngài Trưởng-lão Cundaka ngồi gần hầu Đức-Thế-Tôn.

Khi xả A-ra-hán Thánh-quả, Đức-Thế-Tôn gọi Ngài Trưởng-lão Ānanda dạy rằng:

  • Này Ānanda! Nếu có ai trách ông Cunda Kammāra- putta rằng:

“Thật không có lợi cho ông, ông đã làm điều không tốt! Độ vật thực của ông, Đức-Thế-Tôn phải tịch diệt Niết-bàn.”

Khi ấy, con nên giảng giải cho ông Cunda hiểu rõ, để

ông phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ rằng:

“Này ông Cunda! Thật là điều lợi ích lớn cho ông! Ông đã làm phước-thiện bố-thí đặc biệt. Đức-Thế-Tôn độ vật thực của ông lần cuối cùng, rồi tịch diệt Niết-bàn. Điều này chính bần Tăng được nghe từ kim ngôn của Đức-Thế-Tôn rằng:

‘Hai lần cúng dường vật thực đến Như-Lai có quả báu lớn bằng nhau. Quả báu hai lần này lớn hơn các lần cúng dường vật thực khác đến Như-Lai là:

  1. “Vật thực của bà Sujātā được cúng dường đến Đức-Bồ-tát Siddhattha. Sau khi độ vật thực xong đêm hôm ấy, Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.
  2. Vật thực của ông Cunda Kammāraputta được cúng dường đến Như-Lai. Sau khi độ vật thực xong đêm hôm ấy, Như-Lai tịch diệt Niết-bàn.”

Vật thực được cúng dường đến Như-Lai trong hai

 

trường hợp này có quả báu lớn bằng nhau. Quả báu này lớn hơn các lần cúng dường vật thực đến Như-Lai, trong các trường hợp khác.’

  • Này Ānanda! Con nên giảng giải cho ông Cunda Kammāraputta hiểu rõ như vậy, để ông phát sinh đại- thiện-tâm trong sạch hoan hỷ, mà không buồn.

Thật vậy, trong Chú-giải bài kinh này giải rằng:

  • Món ăn nấu bằng sữa bò của bà Sujātā mà Đức-Bồ- tát Siddhattha đã độ xong, cuối đêm ấy Đức-Bồ-tát trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama cao thượng nhất trong toàn cõi-giới chúng-sinh. Nhờ món ăn đầy bổ dưỡng ấy, mà kim thân của Đức-Thế-Tôn có sức khoẻ chịu đựng, duy trì suốt 49 ngày đêm, để hưởng sự an-lạc tịch tịnh Niết-bàn.
  • Món ăn sūkuramaddava của ông Cunda Kammāra- putta mà Đức-Thế-Tôn đã độ xong. Nhờ món ăn đầy bổ dưỡng ấy, mà kim thân của Đức-Thế-Tôn có sức khoẻ chịu đựng được nổi căn bệnh kiết lị rất trầm trọng, Đức- Thế-Tôn mới có thể ngự đến khu rừng Sāla xứ Kusinārā để tịch diệt Niết-bàn như đã dự định trước.

Tuy hai lần cúng dường hai món vật thực đặc biệt này có khoảng cách thời gian xa nhau 45 năm, nhưng đều có quả báu lớn bằng nhau, như Đức-Thế-Tôn đã dạy.

Sau khi nằm nghỉ ngơi một lát, Đức-Phật truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

  • Này Ānanda, Như-Lai cùng với các con nên đi sang bên kia bờ sông Hirañvatī.

Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng sang bên kia bờ sông Hirañvatī ấy, rồi tiếp tục đến khu rừng Sāla xứ Kusinārā.

 

Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn tại Kusinārā

Vào buổi chiều ngày rằm tháng tư, Đức-Thế-Tôn ngự đến khu rừng Sāla tại Kusinārā, nơi nghỉ ngơi của hoàng tộc Malla, Đức-Thế-Tôn truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

  • Này Ānanda! Con nên đặt chiếc giường quay đầu về hướng Bắc, giữa hai cây Sāla (song long thọ).

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn nằm nghiêng bên phải, đầu quay về hướng Bắc, hai chân duỗi thẳng so le, chân phải duỗi thẳng, chân trái đầu gối hơi co, hai bàn chân đặt không đều nhau, có chánh-niệm trí-tuệ tỉnh-giác, không định trước giờ xả.

Cúng dường Đức-Thế-Tôn

Hai cây Sāla trổ hoa trái mùa, những đóa hoa rơi xuống kim thân để cúng dường Đức-Thế-Tôn. Các cây hoa trong rừng đều nở rộ, những đóa hoa trời, hương trời, ... từ cõi trời rơi xuống như mưa để cúng dường Đức-Thế-Tôn. Những tiếng nhạc trời trỗi lên để cúng dường Đức-Thế-Tôn. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

  • Này Ānanda! Hai cây Sāla trổ hoa trái mùa, những đóa hoa rơi xuống kim thân của Như-Lai, để cúng dường Như-Lai. Các cây hoa trong rừng đều nở rộ, những đóa hoa trời, hương trời từ các cõi trời rơi xuống, những tiếng nhạc trời từ các cõi trời cũng trỗi lên để cúng dường Như-Lai.
  • Này Ānanda! Sự cúng dường đến Như-Lai bằng phẩm vật như vậy không gọi là cách cúng dường cao thượng. Người nào là tỳ-khưu hoặc tỳ-khưu-ni, hoặc cận-sự- nam, hoặc cận-sự-nữ, là người thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng

 

đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thực-hành đúng theo pháp-hành bát-chánh-đạo, hành theo chánh-pháp, người ấy được gọi là người có lòng tôn kính, lễ bái, cúng dường Như-Lai bằng cách cúng dường cao thượng.

  • Này Ānanda! Các con luôn luôn tâm niệm rằng: “Chúng ta là hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-

tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc

Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, thực-hành đúng theo pháp-hành bát-chánh-đạo, thực-hành theo chánh-pháp.”

Sở dĩ, Đức-Phật đề cao sự cúng dường bằng cách thực-hành chánh-pháp là cao thượng hơn sự cúng dường bằng phẩm vật, là vì, chỉ có sự cúng dường bằng thực-hành chánh-pháp mới có thể giữ gìn, duy trì giáo- pháp của Đức-Phật trường tồn trên thế gian.

Ngài Trưởng-lão Ānanda khóc

Vào lúc canh chót đêm ấy, Đức-Phật sắp tịch diệt Niết-bàn, Ngài Trưởng-lão Ānanda đang còn là bậc Thánh Nhập-lưu, nên Ngài Trưởng-lão tủi thân, lánh ra một nơi vắng vẻ đứng khóc, than vãn:

“Ta còn là bậc Thánh Nhập-lưu cần phải thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, để dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra- hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A- ra-hán, nhưng Đức-Thế-Tôn là bậc Thầy tế độ của ta sắp tịch diệt Niết-bàn.”

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn không thấy Ngài Trưởng-lão

Ānanda, nên truyền hỏi chư tỳ-khưu rằng:

  • Này chư tỳ-khưu! Ānanda đang ở đâu?

Chư tỳ-khưu bạch rằng:

 

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài Trưởng-lão Ānanda lánh ra một nơi vắng vẻ, đứng khóc, than vãn, vì tủi thân. Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn truyền bảo một vị tỳ-khưu gọi Ngài Trưởng-lão Ānanda đến hầu Đức-Thế-Tôn.

Vâng lời Đức-Thế-Tôn, vị tỳ-khưu đi mời Ngài Trưởng-lão Ānanda đến hầu Đức-Thế-Tôn.

Ngài Trưởng-lão Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức-Thế- Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Đức-Thế-Tôn dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

  • Này Ānanda! Như-Lai đã từng dạy rằng:

“Sống xa lìa nhau, chết biệt ly với những người thân yêu, các bậc kính mến ấy. Đó là sự thật hiển nhiên.

Vì vậy, những người thân yêu, các bậc kính mến ấy làm sao lại có thể chiều theo ý muốn của mình được.

Những pháp nào đã sinh rồi, hiện hữu rồi, do nhân duyên cấu tạo rồi, chắc chắn có sự diệt, sự hủy hoại là thường, dù có mong muốn rằng:

“Xin pháp ấy đừng diệt, đừng hủy hoại cũng không thể nào được.”

  • Này Ānanda! Con là một thị giả tận tụy chăm sóc Như-Lai với tâm-từ được biểu hiện bằng thân, khẩu, ý. Đó là sự lợi ích, sự tiến hóa trong mọi thiện-pháp, bồi bổ đầy đủ các pháp-hạnh ba-la-mật rồi.
  • Này Ānanda! Con nên cố gắng tinh-tấn, chắc chắn con sẽ diệt tận được mọi phiền-não trầm-luân, trở thành bậc Thánh A-ra-hán một cách nhanh chóng.

Đức-Thế-Tôn khen ngợi Ngài Trưởng-lão Ānanda đã tận tụy chăm sóc Đức-Thế-Tôn một cách rất chu đáo. Ngài Trưởng-lão Ānanda là bậc thiện-trí biết cách cư xử

 

đối với mọi người, biết cách sắp xếp thời gian hợp lý, hướng dẫn mọi người đến hầu Đức-Thế-Tôn.

Ngài Trưởng-lão Ānanda biết đúng lúc, hợp thời hướng dẫn tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự-nữ, Đức-vua, các quan, nhóm ngoại đạo, v.v... vào hầu Đức- Thế-Tôn.

do Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn tại Kusinārā

Tuy có nhiều xứ lớn, kinh-thành lớn, nhưng Đức-Thế- Tôn không chọn làm nơi tịch diệt Niết-bàn của Đức- Thế-Tôn, mà chọn Kusinārā bởi có 3 lý do:

  1. Trong quá-khứ, Kusinārā là một kinh-thành rộng lớn có tên là kinh-thành Kusavatī, có Đức Chuyển-luân Thánh-vương Mahādassana trị vì tứ châu thiên-hạ. Nếu Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn nơi khác, thì không có lý do thuyết bài kinh Mahādassanasutta.

Vì vậy, Đức-Thế-Tôn chọn xứ Kusinārā làm nơi tịch diệt Niết-bàn, để Đức-Thế-Tôn có cơ hội thuyết bài kinh Mahādassanasutta. Chúng-sinh lắng nghe bài kinh này sẽ phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, cố gắng tinh-tấn thực-hành mọi thiện-pháp.

  1. Đạo-sĩ Subhadda là người đệ-tử cuối cùng của Đức-Thế-Tôn, hiện đang ở tại xứ Kusinārā. Ngoài Đức- Thế-Tôn ra, không có vị Thánh Thanh-văn đệ-tử nào có khả năng tế độ Đạo-sĩ Subhadda được.

Vì vậy, Đức-Thế-Tôn phải ngự đến xứ Kusinārā để tế độ Đạo-sĩ Subhadda, bậc thanh-văn đệ-tử cuối cùng của Đức-Phật Gotama.

Vị tỳ-khưu Subhadda sẽ trở thành bậc Thánh A-ra- hán, trước khi Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn.

  1. Đức-Thế-Tôn biết rõ rằng:

 

Sau khi nghe tin Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn, làm lễ hỏa táng xong, các nước lớn sẽ kéo đến tranh giành Xá-Lợi của Đức-Phật.

Đức-Thế-Tôn thấy rõ, biết rõ chỉ có vị Bà-la-môn Doṇa là người có khả năng đứng ra làm trung gian hòa giải các sứ giả từ các nước lớn và biết cách phân chia các Xá-Lợi cho mỗi xứ thỉnh đem về xây Bảo-tháp tôn thờ Xá-Lợi.

Vị Bà-la-môn Doṇa hiện đang ở tại xứ Kusinārā, nên Đức-Thế-Tôn quyết định chọn xứ Kusinārā làm nơi tịch diệt Niết-bàn.

Đêm cuối cùng của Đức-Thế-Tôn

Đêm cuối cùng của Đức-Thế-Tôn là đêm rằm tháng tư (âm lịch).

  • Canh đầu: Nghe tin canh chót đêm ấy, Đức-Thế-Tôn sẽ tịch diệt Niết-bàn tại khu rừng Sāla. Đức-vua, Hoàng- hậu, Hoàng-tử, Công-chúa cùng các bậc bô lão trong hoàng tộc Malla, cùng hoàng thân quốc thích tuần tự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn lần cuối cùng, tiếp theo các quan trong triều, toàn thể dân chúng xứ Kusinārā tuần tự đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn lần cuối cùng, kéo dài trọn canh đầu.
  • Canh giữa: Đạo-sĩ Subhadda nghe tin Đức-Thế-Tôn sắp tịch diệt Niết-bàn vào canh chót đêm ấy, nên suy nghĩ rằng:

“Ta có nhiều điều thắc mắc, đã từ lâu chưa có một vị Sa-môn nào có thể giải đáp, giúp làm cho ta đoạn-tuyệt được thắc mắc ấy. Nay nghe tin Sa-môn Gotama, Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác đã ngự đến khu rừng Sāla xứ Kusinārā này, Đức-Thế-Tôn sắp tịch diệt Niết-bàn vào

 

canh chót đêm nay. Ta nên đến hầu Sa-môn Gotama, để hỏi những điều thắc mắc của ta, kính nhờ Đức-Thế-Tôn giải đáp.”

Đạo-sĩ Subhadda đến khu rừng Sāla tìm gặp Ngài Trưởng-lão Ānanda xin phép vào hầu Đức-Thế-Tôn. Ngài Trưởng-lão Ānanda bảo rằng:

  • Này đạo-sĩ Subhadda! Xin ông không nên quấy rầy, làm phiền Đức-Thế-Tôn trong lúc này, Đức-Thế-Tôn đang mệt quá rồi!

Đạo-sĩ Subhadda tha thiết khẩn khoản xin Ngài Trưởng-lão Ānanda cho phép vào hầu Đức-Thế-Tôn. Nghe Ngài Trưởng-lão Ānanda và đạo-sĩ Subhadda đang nói chuyện qua lại với nhau, Đức-Thế-Tôn truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

  • Này Ānanda! Con không nên ngăn Subhadda, để

cho Subhadda đến gặp Như-Lai.

Đạo-sĩ Subhadda có cơ hội đến hầu vấn an Đức-Thế- Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, ông bạch rằng:

  • Kính bạch Sa-môn Gotama, các sa-môn, bà-la-môn là đạo-sư, trưởng phái có tiếng tăm, có nhiều thế lực, đứng đầu một môn phái, mà phần đông dân chúng tán dương ca tụng, tôn sùng là bậc Thánh-thiện như các vị đạo-sư Puraṇakassapa, đạo-sư Makkhaligosāla, đạo-sư Ajitakesakambala, đạo-sư Pakudhakaccayana, đạo-sư Sañjayabelaṭṭhaputta, đạo-sư Nigaṇṭhanāṭaputta, có phải tất cả sa-môn, bà-la-môn ấy đã chứng đắc như họ đã tuyên bố, hoặc tất cả không chứng đắc, hoặc có một số chứng đắc, một số không chứng đắc? Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

  • Này Subhadda! Con không nên đề cập đến vấn đề ấy, con nên lắng nghe Như-Lai thuyết pháp.

 

  • Này Subhadda! Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh không có trong pháp luật nào, thì chắc chắn không có tuần tự sa- môn thứ nhất là bậc Thánh Nhập-lưu, sa-môn thứ nhì là bậc Thánh Nhất-lai, sa-môn thứ ba là bậc Thánh Bất- lai, sa-môn thứ tư là bậc Thánh A-ra-hán trong pháp luật ấy.
  • Này Subhadda! Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh có trong pháp luật nào, thì chắc chắn có tuần tự sa-môn thứ nhất là bậc Thánh Nhập-lưu, sa-môn thứ nhì là bậc Thánh Nhất-lai, sa-môn thứ ba là bậc Thánh Bất-lai, sa-môn thứ tư là bậc Thánh A-ra-hán trong pháp luật ấy.
  • Này Subhadda! Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh chỉ có trong pháp luật của Như-Lai mà thôi. Cho nên, chắc chắn có tuần tự sa-môn thứ nhất là bậc Thánh Nhập-lưu, sa-môn thứ nhì là bậc Thánh Nhất-lai, sa-môn thứ ba là bậc Thánh Bất-lai, sa-môn thứ tư là bậc Thánh A-ra-hán trong pháp luật của Như-Lai.

Ngoài pháp luật này của Như-Lai ra, những tà giáo khác không có sa-môn nào cả.

  • Này Subhadda! Chư tỳ-khưu trong pháp luật này sống thực-hành đúng theo pháp-hành bát-chánh-đạo, và truyền dạy, hướng dẫn người khác cũng thực-hành đúng theo pháp-hành bát-chánh-đạo, thì trong đời này không bao giờ vắng bóng bậc Thánh A-ra-hán.

Sau khi lắng nghe lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn, đạo-sĩ Subhadda vô cùng hoan hỷ tán dương ca tụng Đức-Thế-Tôn, rồi kính xin quy y nương nhờ nơi Đức- Phật-bảo, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo, kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành sadi, tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

 

Đức-Thế-Tôn cho phép đạo-sĩ Subhadda xuất gia trở thành tỳ-khưu.

Sau khi trở thành tỳ-khưu, Ngài Đại-đức Subhadda một mình ở nơi thanh vắng, không dể duôi, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, trước khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn.

Ngài Trưởng-lão Subhadda là bậc Thánh A-ra-hán, thanh-văn đệ-tử cuối cùng của Đức-Phật Gotama.

  • Canh chót: Đức-Thế-Tôn gọi Ngài Trưởng-lão

Ānanda khuyên dạy rằng:

  • Này Ānanda! Trong số các con, nếu có người nào nghĩ rằng:

“Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn rồi, chúng ta không còn Đức-Bổn-Sư nữa (natthi no satthā)” thì các con chớ có nên nghĩ như vậy.

Pháp và Luật là Vị Tôn

Đức-Phật dạy rằng:

“Yo vo Ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññatto, so vo mamaccayena satthā...”(1)

  • Này Ānanda! Chánh-pháp nào mà Như-Lai đã thuyết, Luật nào mà Như-Lai đã chế định, sau khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn rồi, Chánh-pháp ấy, Luật ấy là vị Tôn-sư của các con.

Trong Chú-giải bài kinh Mahāparinibhānasutta giải thích rằng:

1 Dīghanikāya, Mahāvaggapāḷi, Kinh Mahāparinibhānasutta.

 

Dhammo: Chánh-pháp gồm có toàn bộ Tạng Kinh Pāḷi và toàn bộ Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi.

Vinayo: Luật đó là toàn bộ Tạng Luật Pāḷi.

Giáo-pháp mà Đức-Phật Gotama đã thuyết giảng suốt 45 năm, kể từ khi trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama cho đến khi Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn gom lại thành Tam-Tạng Pāḷi: Tạng Luật Pāḷi, Tạng Kinh Pāḷi, Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi gồm có 84.000 pháp môn được phân chia như sau:

  1. Vinayapiṭakapāḷi: Tạng Luật Pāḷi gồm có 21.000 pháp môn.
  2. Suttantapiṭakapāḷi: Tạng Kinh Pāḷi gồm có 21.000 pháp môn.
  3. Abhidhammapāḷi: Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi gồm

42.000 pháp môn.

* Trong Chú-giải bài kinh Mahāparinibbānasutta,

Đức-Phật giảng giải rằng:

Iti imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbayāmi. Ahañca kho dāni ekakova ovadāmi anusāsāmi, mayi parinibbute imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti anusāsissanti... (1)

“Như vậy, 84.000 pháp môn này tồn tại, chỉ có một mình Như-Lai tịch diệt Niết-bàn. Thật ra, bây giờ chỉ có một mình Như-Lai giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con, sau khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn rồi, thì có 84.000 pháp môn ấy là “Vị Tôn-Sư” sẽ giáo huấn các con, sẽ theo dạy dỗ các con…”

Qua đoạn Chú-giải trên, chính Đức-Phật giải thích cho các hàng thanh-văn đệ-tử hiểu rằng:

1 Dī. Mahāvaggaṭṭhakathā, Mahāparinibbānasuttavaṇṇanā.

 

“Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn rồi, không phải các hàng thanh-văn đệ-tử không còn có vị Tôn-Sư, mà thật ra, vẫn còn có 84.000 pháp-môn là Vị Tôn-Sư.”

Như vậy, mỗi pháp môn cũng là một Vị Tôn-Sư có khả năng dẫn dắt, dạy bảo các hàng thanh-văn đệ-tử thực-hành dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Lời giáo huấn cuối cùng của Đức-Phật

Vào canh chót, Đức-Thế-Tôn một lần nữa nhắc nhở khuyên dạy các hàng thanh-văn đệ-tử lần cuối cùng rằng:

“Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo, Vayadhammā saṅkhārā, appamādena sampādetha.(1)

  • Này chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự- nữ! Bây giờ Như-Lai nhắc nhở, khuyên dạy các con lần cuối cùng rằng:

“Các pháp-hữu-vi (ngũ-uẩn) có sự diệt là thường. Các con hãy nên cố gắng tinh-tấn hoàn thành mọi phận sự tứ Thánh-đế, bằng pháp không dể duôi, thực-hành pháp-hành tứ niệm-xứ.”

Đức-Thế-Tôn vừa chấm dứt câu: “Appamādena sampādetha” từ đó không còn dạy thêm một câu nào khác nữa.

Vì vậy, câu: “Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo, vayadhammā saṅkhārā, appamādena sampādetha.” Pacchimabuddhavacana: Lời Phật-ngôn cuối cùng của Đức-Phật Gotama.

1 Dī. Mahavaggapāḷi, Kinh Mahāparinibbānasutta.

 

Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn

Sau khi chấm dứt lời dạy cuối cùng bằng câu:

“Appamādena sampādetha”.

Đức-Phật nhập đệ nhất thiền sắc-giới, rồi xả đệ nhất thiền sắc-giới.

  • Nhập đệ nhị thiền sắc-giới, rồi xả đệ nhị thiền sắc-giới.
  • Nhập đệ tam thiền sắc-giới, rồi xả đệ tam thiền sắc-giới.
  • Nhập đệ tứ thiền sắc-giới, rồi xả đệ tứ thiền sắc-giới.
  • Nhập không-vô-biên-xứ-thiền, rồi xả không-vô-biên xứ-thiền.
  • Nhập thức-vô-biên-xứ-thiền, rồi xả thức-vô-biên- xứ-thiền.
  • Nhập vô-sở-hữu-xứ-thiền, rồi xả vô-sở-hữu-xứ-thiền.
  • Nhập phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền, rồi xả phi- tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền.
  • Nhập diệt-thọ-tưởng.

Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda hỏi Ngài Trưởng- lão Anuruddha rằng:

  • Kính thưa pháp-huynh Anuruddha, Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn rồi phải không?
  • Này pháp-đệ Ānanda! Đức-Thế-Tôn chưa tịch diệt Niết-bàn, Đức-Thế-Tôn đang nhập diệt-thọ-tưởng.
  • Đức-Thế-Tôn xả diệt-thọ-tưởng.
  • Nhập phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền, rồi xả phi- tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền.
  • Nhập vô-sở-hữu-xứ-thiền, rồi xả vô-sở-hữu-xứ-thiền.
  • Nhập thức-vô-biên-xứ-thiền, rồi xả thức-vô-biên- xứ-thiền.
  • Nhập không-vô-biên-xứ-thiền, rồi xả không-vô-biên- xứ-thiền.
  • Nhập đệ tứ thiền sắc-giới, rồi xả đệ tứ thiền sắc-giới.

 

  • Nhập đệ tam thiền sắc-giới, rồi xả đệ tam thiền sắc-giới.
  • Nhập đệ nhị thiền sắc-giới, rồi xả đệ nhị thiền sắc-giới.
  • Nhập đệ nhất thiền sắc-giới, rồi xả đệ nhất thiền sắc-giới.
  • Nhập đệ nhị thiền sắc-giới, rồi xả đệ nhị thiền sắc-giới.
  • Nhập đệ tam thiền sắc-giới, rồi xả đệ tam thiền sắc-giới.
  • Nhập đệ tứ thiền sắc-giới, rồi xả đệ tứ thiền sắc-giới

Tiếp theo Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn gọi là Khandhaparinibbāna: ngũ-uẩn Niết-bàn tại khu rừng Sāla, xứ Kusinārā, nghĩa là sau khi diệt ngũ-uẩn rồi, không còn nhân duyên nào để tái-sinh ngũ-uẩn khác nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Cho nên, tất cả mọi thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không có cơ hội cho quả của nghiệp được nữa.

Ngay khi ấy, trái đất rùng mình chuyển động. Đó là 1 trong 8 hiện tượng thường xảy ra đối với Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Đức-Phật Gotama Bậc Cao-Cả nhất, Bậc Vĩ-Đại nhất, Bậc Tối-Thượng nhất trong toàn cõi-giới chúng sinh, đã tịch diệt Niết-bàn tại khu rừng Sāla, xứ Kusinārā.

Tất cả mọi chúng-sinh, hễ có sinh thì ắt phải có tử, không ngoại trừ một ai cả. Đức-Phật và chư Thánh A-ra- hán không gọi là tử (chết) mà gọi là tịch diệt Niết-bàn, bởi vì không còn tái-sinh kiếp sau nào nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Đức-Phật chư Thánh A-ra-hán sau khi tịch diệt Niết-bàn rồi, không còn tái-sinh kiếp sau nữa, không phải không còn nghiệp cho quả, mà thật ra, nghiệp cũ của Đức-Phật chư bậc Thánh A-ra-hán vẫn còn, nhưng tất cả mọi tham-ái đã bị diệt tận không còn dư sót

 

nữa, nên không có tham-ái dẫn dắt tái-sinh kiếp sau (taṇhā ponobbhavikā). Cho nên, Đức-Phật, chư Thánh A-ra-hán sau khi đã tịch diệt Niết-bàn rồi, không còn tái-sinh kiếp sau nữa.

Như vậy, ngoại trừ Đức-Phật và chư Thánh A-ra-hán ra, còn lại các loài chúng-sinh dù nhỏ dù lớn như chư- thiên trên 6 cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trên 16 tầng trời sắc-giới, 4 tầng trời vô-sắc-giới khác, từ hạng phàm-nhân cho đến bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai vẫn còn tham-ái nhân sinh khổ dẫn dắt tái-sinh kiếp sau.

Đức-Phật Gotama đã tịch diệt Niết-bàn rồi, song giáo-pháp của Đức-Phật vẫn còn tồn tại trên thế gian, như Đức-Phật đã giảng giải trước khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn rằng:

“Iti imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbayāmi. Ahañca kho dāni ekakova ovadāni, anusāsāmi, mayi parinibbute imāni caturāsīti dhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti anusāsissanti ...”

“Như vậy, 84.000 pháp-môn này vẫn tồn tại, chỉ có một mình Như-Lai tịch diệt Niết-bàn. Thật ra, bây giờ chỉ có một mình Như-Lai giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con, sau khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn rồi, thì

84.000 pháp-môn ấy là “Vị Tôn-Sư”sẽ giáo huấn các con, sẽ theo dạy dỗ các con…”

Tuy Đức-Phật Gotama đã tịch diệt Niết-bàn cách đây

2.562 năm rồi, song giáo-pháp của Đức-Phật Gotama vẫn còn được giữ gìn duy trì đầy đủ trọn vẹn 84.000 pháp-môn cho đến ngày nay.

 

Muốn được gần gũi thân cận với Đức-Phật, mỗi hàng thanh-văn đệ-tử cố gắng tinh-tấn học pháp-học Phật- giáo và thực-hành pháp-hành Phật-giáo, tùy theo khả năng của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

Các hàng thanh-văn đệ-tử nào có Phật-giáo trong tâm, thì các hàng thanh-văn đệ-tử ấy được nương nhờ nơi Đức-Phật, nương nhờ nơi Đức-Pháp, nương nhờ nơi Đức-Tăng, được nương nhờ nơi Tam-Bảo cao thượng, để các hàng thanh-văn đệ-tử ấy có thể trở nên con người cao thượng, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Đặc biệt còn làm duyên lành cho các hàng thanh-văn đệ-tử ấy để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài; đồng thời các hàng thanh- văn đệ-tử ấy giữ gìn, duy trì Phật-giáo được trường tồn trên thế gian, cho đến hết tuổi thọ Phật-giáo 5.000 năm, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài đến cho tất cả chúng-sinh nhất là chư-thiên và nhân-loại.

Đức-Bồ-tát kiếp đầu tiên kiếp chót của Đức-Phật Gotama

Đức-Phật Gotama Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt, là quả của đại-thiện-nghiệp 30 pháp- hạnh Ba-la-mật được lưu trữ, tích lũy đầy đủ trọn vẹn ở trong tâm sinh rồi diệt liên tục từ Đức-Bồ-tát kiếp đầu tiên cho đến Đức-Bồ-tát kiếp chót trải qua vô số kiếp trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, suốt 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

Đức-Bồ-tát kiếp đầu tiên của Đức-Phật Gotama

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự trên tảng đá quý cùng với số đông chư tỳ-khưu tại ven rừng có nhiều cây hoa

 

thơm gần hồ Anotatta. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn truyền dạy chư tỳ-khưu về Đức-Bồ-tát tiền-kiếp đầu tiên của Đức- Thế-Tôn, làm phước-thiện bố-thí tạo đại-thiện-nghiệp bố-thí gọi là pháp-hạnh bố-thí ba-la-mật có cứu cánh trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác như sau:

- Này chư tỳ-khưu! Các con nên lắng nghe tiền-kiếp đầu tiên của Như-lai đã thực-hành pháp-hạnh bố-thí ba- la-mật.

Như-Lai thấy một vị tỳ-khưu thực-hành pháp-hạnh đầu-đà sống trong rừng, nên phát sinh đức-tin trong sạch làm phước-thiện bố-thí cúng dường “một tấm vải cũ” đến vị tỳ-khưu ấy. Ngay khi ấy, tiền-kiếp của Như- Lai phát sinh tâm đại-bi phát nguyện trong tâm muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác để tế độ chúng- sinh thoát khỏi khổ tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

Đó là Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp đầu tiên của Như-Lai, có ý nguyện trong tâm muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác. Chính nhờ pháp-hạnh bố- thí ba-la-mật cúng dường “tấm vải cũ” là đại-thiện- nghiệp bố-thí trong tiền-kiếp đầu tiên ấy, dẫn đến kiếp chót hiện-tại, Như-lai đã trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác có danh hiệu Đức-Phật Gotama này.(1)

Đức-Bồ-tát kiếp chót của Đức-Phật Gotama

Từ Đức-Bồ-tát tiền-kiếp đầu tiên của Đức-Phật Gotama tiếp tục thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật trải qua vô số kiếp cho được đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật cho đến Đức-Bồ-tát kiếp chót là Đức-Bồ-tát Siddhattha sẽ trở thành Đức-Phật Gotama đã trải qua ba thời-kỳ như sau:

1 Bộ Apadāna, Buddhāpadāna pubbakammapiloti.

 

  • Thời-kỳ đầu: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt có ý nguyện trong tâm muốn trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác, rồi thực-hành các pháp-hạnh ba-la-mật suốt 7 a-tăng-kỳ.
  • Thời-kỳ giữa: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng- sinh biết ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, rồi tiếp tục thực-hành các pháp-hạnh ba-la- mật suốt 9 a-tăng-kỳ.
  • Thời-kỳ cuối: Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Sumedha tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama được Đức-Phật Dīpaṅkara đầu tiên thọ ký xác định thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Như vậy, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt là tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama từ kiếp Đức- Bồ-tát đầu tiên cho đến kiếp chót của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu-việt là Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha sẽ trở thành Đức-Phật Gotama, đã trải qua vô số kiếp không sao kể được, trong khoảng thời gian lâu dài suốt 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, thực-hành cho được đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật, để trở thành Đức-Phật Gotama.

Cuộc đời của Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha

Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha kiếp chót đản-sinh tại khu vườn Lumbinī, vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch).

Đức-Bồ-tát Siddhattha Thái-tử của Đức-vua Suddho- dana và Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī.

 

  • Năm 16 tuổi, Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha lên ngôi Vua và kết hôn với Công-chúa Yasodharā, ngự tại kinh-thành Kapilavatthu, làm vua được 13 năm.
  • Năm 29 tuổi, vào ngày rằm tháng 6 (âm-lịch) Đức- vua bồ-tát Siddhattha trốn ra khỏi kinh-thành Kapila- vatthu, đi xuất gia.
  • Năm tròn 35 tuổi, Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama tại cội Đại-Bồ-đề trong khu rừng Uruvelā (nay là Buddhagayā Ấn-Độ), vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch).

Đức-Phật Gotama thuyết-pháp tế độ chúng-sinh suốt 45 năm.

  • Năm 80 tuổi, Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn tại khu rừng Kusinārā, vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch).

Nghiệp và quả nghiệp của Đức-Phật Gotama

  • Tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, từ vô thuỷ đã trải qua vô số kiếp không thể biết, đã từng tạo mọi đại-thiện- nghiệp và đã tạo mọi ác-nghiệp đều được lưu trữ ở trong tâm sinh rồi diệt liên tục từ kiếp này sang kiếp kia, dù cho thân thay đổi theo mỗi kiếp tuỳ theo nghiệp và quả của nghiệp, trong vòng tử sinh luân-hồi trong 3 giới 4 loài, trong vô số tiền-kiếp ấy, khi chưa phải là Đức-Bồ- tát khi đã Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama.
  • Tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama kiếp thí-chủ cúng dường tấm vải cũ đến vị tỳ-khưu sống trong rừng, rồi phát nguyện trong tâm muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, là kiếp Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác đầu tiên của Đức-Phật Gotama.

Vô số tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama không chỉ tiếp tục cố gắng tinh-tấn thực-hành bồi bổ cho đầy đủ 30

 

pháp-hạnh ba-la-mật gọi là đại-thiện-nghiệp ba-la-mật, mà có khi còn tạo mọi ác-nghiệp nữa cũng đều được lưu trữ tích lũy đầy đủ ở trong tâm sinh rồi diệt liên tục từ kiếp này sang kiếp kia trong vòng tử sinh luân-hồi, mặc dù thân mỗi kiếp thay đổi tùy theo nghiệp và quả của nghiệp, nhưng tất cả mọi đại-thiện-nghiệp và mọi ác- nghiệp vẫn được lưu trữ không hề mất mát một mảy may nào, cho đến kiếp chót là Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trên toàn cõi-giới chúng-sinh.

Đại-thiện-nghiệp ba-la-mật hỗ trợ cho quả

  • Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha sinh làm người có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc-đại-nhân và 80 tướng tốt phụ đó là quả của đại-thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh ba-la-mật của tiền-kiếp Đức-Bồ-tát đã tạo trong vô số kiếp quá-khứ.

Năm tròn đúng 35 tuổi, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng- Giác Siddhattha ngự đến ngồi trên bồ đoàn quý báu tại cội Đại-Bồ-đề trong khu rừng Uruvelā, thực-hành pháp- hành thiền-tuệ, chính đại-thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh ba- la-mật hỗ trợ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 4 pháp trầm-luân (āsava), mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A- ra-hán đầu tiên trong toàn muôn ngàn cõi-giới chúng- sinh, nên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Khi Đức-Bồ-tát Siddhattha đã trở thành bậc Thánh A- ra-hán đầu tiên gọi là Đức-Phật Gotama thì không còn tạo thêm nghiệp mới nào nữa, bởi vì Đức-Phật và chư bậc Thánh A-ra-hán tác-ý tâm-sở đồng sinh với duy-

 

tác-tâm, nên tác-ý ấy không gọi là nghiệp, mà chỉ thuộc về pháp không-thiện không-ác (abyākatadhamma) mà thôi.

Tuy Đức-Phật và chư bậc Thánh A-ra-hán hoàn toàn không tạo thêm nghiệp mới, nhưng vẫn còn tất cả mọi đại-thiện-nghiệp cũ và mọi ác-nghiệp cũ đã tạo từ trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tất cả mọi đại-thiện- nghiệp và mọi ác-nghiệp ấy vẫn còn được lưu trữ ở trong tâm của Đức-Phật, của chư bậc Thánh A-ra-hán.

Nếu nghiệp cũ nào có cơ hội thì nghiệp cũ ấy cho quả trong kiếp hiện-tại cho đến trước khi Đức-Phật, hoặc chư bậc Thánh A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn.

  • Đức-Phật và chư bậc Thánh A-ra-hán sau khi tịch diệt Niết-bàn rồi, thì tất cả mọi đại-thiện-nghiệp cũ và mọi ác-nghiệp cũ ấy đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không còn cơ hội cho quả được nữa.

Ác-nghiệp cũ của Đức-Phật Gotama

Đức-Phật thuyết giảng trong bộ Chú-giải Apadāna phần Buddhāpadāna(1) về những ác-nghiệp cũ của Đức- Phật cho quả trong kiếp hiện-tại trước khi tịch diệt Niết- bàn, được tóm lược như sau:

  • Đức-Bồ-tát hành khổ-hạnh suốt 6 năm trường

Trong quá-khứ, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền- kiếp Đức-Phật Gotama, sinh trong dòng họ Bà-la-môn cao quý, tên là Jotipāla, trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa đang còn hiện hữu trên thế gian. Đức-Bồ-tát Jotipāla có tính ngã mạn về dòng dõi, chưa có đức-tin nơi Đức-Phật Kassapa, cho nên, khi nghe đến danh hiệu Đức-Phật Kassapa, Đức-Bồ-tát Jotipāla nói rằng:

1 Bộ Khuddakamikāya. Bộ Apadāna aṭṭhakathā.

 

Sa-môn ấy không dễ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác là điều khó khăn lắm.”

Đức-Bồ-tát Jotipāla có một người bạn thân thiết là Ghaṭikāra vốn là một cận-sự-nam có đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật Kassapa. Hằng ngày, bạn Ghaṭikāra thường tác động, khuyến khích Đức-Bồ-tát Jotipāla đến hầu Đức-Phật Kassapa nghe pháp, nhưng lần nào Đức- Bồ-tát Jotipāla cũng không chịu đi.

Một hôm, bạn Ghaṭikāra bày kế mời Đức-Bồ-tát Joti- pāla đi đến tắm tại một bến nước gần chỗ ở của Đức- Phật Kassapa và chư tỳ-khưu-Tăng.

Khi tắm xong, bạn Ghaṭikāra liền mời Đức-Bồ-tát Jotipāla đi đến hầu Đức-Phật Kassapa nghe pháp, nhưng Đức-Bồ-tát Jotipāla không chịu đi.

Bạn Ghaṭikāra cương quyết nói rằng không đi không thể được, rồi nắm lấy đầu tóc của Đức-Bồ-tát Jotipāla dắt lôi đi, nên Đức-Bồ-tát Jotipāla không còn cách nào khác, đành phải đi theo đến hầu Đức-Phật Kassapa.

Khi ngồi lắng nghe Đức-Phật Kassapa thuyết pháp, Đức-Bồ-tát Jotipāla phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức- Phật Kassapa, kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa.

Về sau, tỳ-khưu Jotipāla được Đức-Phật Kassapa thọ ký xác định thời gian rằng:

“Trong thời vị-lai, ngay cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappa này, vị tỳ-khưu Jotipāla này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.”

Như vậy, Đức-Phật Kassapa là Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác thứ 24 cuối cùng thọ ký tỳ-khưu Bồ-tát Jotipāla, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama.

 

Tỳ-khưu Bồ-tát Jotipāla tiếp tục thực-hành cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật cho đến kiếp chót là kiếp Đức-Bồ-tát Thái-tử Siddhattha.

  • Năm 29 tuổi, Đức-vua Bồ-tát Siddhattha từ bỏ cung điện, đi xuất gia.

Do khẩu ác-nghiệp cũ xúc phạm đến Đức-Phật Kassapa trong thời quá-khứ ấy, cho nên Đức-Bồ-tát Siddhattha phải chịu thực-hành pháp-hành khổ-hạnh (dukkaracariyā) pháp-khó-hành suốt 6 năm trường ròng rã tại khu rừng Uruvelā.

Về sau, từ bỏ pháp-hành khổ-hạnh khó hành ấy, Đức- Bồ-tát Siddhattha thực-hành theo pháp-hành trung-đạo dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 4 pháp trầm-luân (āsava), đồng thời diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị có danh hiệu Đức-Phật Gotama.

Đức-Phật dạy về ác-nghiệp cũ của Ngài rằng:

- Trong thời quá-khứ ấy, Như-Lai là Bà-la-môn Jotipāla đã xúc phạm đến Đức-Phật Kassapa rằng:

Sa-môn ấy không dễ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác là điều khó lắm.”

Do năng lực của khẩu ác-nghiệp cũ ấy cho quả, khiến Như-Lai phải thực-hành pháp-hành khổ-hạnh (dukkara- cariyā) là pháp-khó-hành suốt 6 năm trường ròng rã tại khu rừng gần làng Uruvelā (Đó là khoảng thời gian

 

thực-hành pháp-hành khổ-hạnh (dukkaracariyā) lâu hơn chư Phật quá-khứ).

Sau khi từ bỏ pháp-hành khổ-hạnh ấy, Như-Lai thực- hành theo pháp-hành trung-đạo dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Nay, Như-Lai không còn tạo các thiện-nghiệp và ác- nghiệp mới nào nữa, Như-Lai đã diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, mọi ác-pháp, không còn khổ tâm nữa. Như-Lai sẽ tịch diệt Niết-bàn.

  • Đức-Phật bị nàng Ciñcāmāṇavikā vu khống

Trong quá-khứ, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama, đã vu khống Ngài Trưởng- lão Nanda, bậc Thánh Thanh-văn đệ-tử của một Đức- Phật quá-khứ.

Sau khi Đức-Bồ-tát chết, khẩu ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát khỏi cõi địa-ngục.

Mỗi khi được tái-sinh làm người, Đức-Bồ-tát thường bị vu khống những điều xấu, do năng lực của khẩu ác- nghiệp đã tạo trong tiền-kiếp quá-khứ ấy.

Kiếp hiện-tại, Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức- Phật Gotama.

Đức-Phật ngự đi thuyết pháp tế độ chúng-sinh có duyên lành nên tế độ, họ là các Đức-vua, các quan, các phú hộ, số đông dân chúng, chư-thiên, chư phạm-thiên v.v…chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, số người trở thành

 

bậc Thánh Nhập-lưu, số người trở thành bậc Thánh Nhất-lai, số người trở thành bậc Thánh Bất-lai, số người trở thành bậc Thánh A-ra-hán, trở thành Thánh-nhân bậc nào do năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm- pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử.

Nếu những người nào chưa chứng đắc thành bậc Thánh-nhân thì họ có đức-tin trong sạch, xin quy y nơi Tam-Bảo, trở thành người cận-sự-nam hoặc người cận- sự-nữ, hoặc xin xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo- pháp của Đức-Phật Gotama. Cho nên, các hàng thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật càng ngày càng thêm đông.

Thật ra, phần nhiều các hàng thanh-văn đệ-tử ấy trước kia họ là đệ-tử của các phái ngoại đạo, v.v…

Nay, Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, họ trở thành các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Đó là điều làm cho các nhóm tu-sĩ ngoại đạo cảm thấy tổn thương rất nhiều, những tín đồ cũ không giữ lại được, tín đồ mới không thêm, cho nên, sự cúng dường, lợi lộc càng ngày càng giảm dần, đời sống của các tu-sĩ ngoại đạo càng ngày càng thiếu thốn, khổ cực hơn xưa. Các nhóm tu-sĩ ngoại đạo họp bàn với nhau, bày mưu tính kế thâm độc, để làm hạ uy tín của Đức-Phật.

Thời ấy, trong thành Sāvatthi có người kỹ nữ duyên dáng xinh đẹp như thiên nữ, tên là Ciñcāmāṇavikā, nàng vốn là đệ-tử ngoan đạo của các tu-sĩ ngoại đạo. Họ nghĩ ra mưu kế thâm độc rằng:

“Chúng ta nên dùng nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā giả mang thai với Sa-môn Gotama, để gây ra sự hiểu lầm, làm mất uy tín của Sa-môn Gotama.”

 

Một hôm, như lệ thường nàng Ciñcāmāṇavikā đến tu viện ngoại đạo, làm lễ các tu-sĩ xong, nàng ngồi một bên. Nàng Ciñcāmāṇavikā rất ngạc nhiên không hiểu sao các tu-sĩ ngồi im lặng không nói với nàng một lời nào. Nàng suy nghĩ “chắc mình có lỗi gì đây!” Nàng bạch với vị đạo-trưởng rằng:

  • Kính bạch Ngài, con đã lễ bái quý Ngài ba lần rồi, nhưng không biết con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con một lời nào?

Vị đạo-trưởng tỏ vẻ nghiêm nghị nói với nàng rằng:

  • Này Ciñcāmāṇavikā con! Con là một đệ-tử ngoan đạo, con không có lỗi gì. Hiện nay đời sống của quý thầy khổ cực, thiếu thốn lắm con à.

Vì vậy, quý thầy buồn bực, khổ tâm, không ai buồn nói với ai điều gì.

Nàng Ciñcāmāṇavikā ngạc nhiên nóng lòng hỏi:

  • Kính bạch quý Ngài, trước đây đời sống của quý Ngài được đầy đủ, sung túc lắm. Sao hiện nay, quý Ngài lại lâm vào hoàn cảnh khổ cực như vậy?
  • Này Ciñcāmāṇavikā con! Con không biết gì hay sao? Chính Sa-môn Gotama đã làm khổ quý thầy, chính Sa-môn Gotama đã chiếm đoạt những người đệ-tử giàu có, nên quý thầy mất những lợi lộc cúng dường, …

Do đó, quý thầy phải sống trong cảnh thiếu thốn khổ cực như vậy.

Nàng Ciñcāmāṇavikā cảm thấy rất khổ tâm thưa rằng:

  • Kính bạch quý Ngài, vậy mà con có hay biết gì đâu. Không biết con có thể làm gì, để giúp đỡ cho quý Ngài?

Các tu-sĩ ngoại đạo giả vờ im lặng một lúc rồi có vị nói rằng:

 

  • Này Ciñcāmāṇavikā con! Chỉ sợ con ngại khó, mà không giúp quý thầy đó thôi!

Nàng Ciñcāmāṇavikā mau mắn đáp:

  • Không, kính bạch quý Ngài, khó khăn gì con cũng có thể làm được, miễn là làm sao cho quý Ngài được sống an-lạc. Thế là con mãn nguyện lắm rồi.

Vị tu-sĩ ngoại đạo nghiêm chỉnh nói rằng:

  • Này Ciñcāmāṇavikā con! Đây là việc rất hệ trọng, đòi hỏi con phải khôn khéo. Nếu con thật tình muốn giúp đỡ quý thầy thì chỉ có một phương kế duy nhất, con hãy dùng sắc đẹp duyên dáng đầy quyến rũ của con, giả làm người mang thai với Sa-môn Gotama.

Nếu con làm được như vậy thì sẽ làm mất uy tín Sa- môn Gotama. Chắc chắn phần đông nhóm đệ-tử cũ của chúng ta trước đây sẽ bỏ Sa-môn Gotama, trở về lại với chúng ta.

Nàng Ciñcāmāṇavikā hớn hở nói:

  • Đúng vậy, kính bạch quý Ngài, kế này rất hay! Xin quý Ngài hãy tin tưởng nơi con, con sẽ cố gắng làm tròn bổn phận, để đền đáp công ơn của quý Ngài đối với con.

Từ hôm ấy, vào mỗi buổi chiều, nàng Ciñcāmāṇavikā ăn mặc đẹp đẽ rất quyến rũ, cầm một bó hoa trên tay, trên đường đang đi hướng đến chùa Jetavana, cố ý gặp dân chúng trong thành Sāvatthi, sau khi nghe Đức-Phật thuyết pháp tại chùa Jetavana xong, đảnh lễ Đức-Phật trở về nhà, có người tò mò dừng lại hỏi cô rằng:

  • Chiều tối rồi, cô đi đâu mà ăn mặc đẹp vậy?

Nàng Ciñcāmāṇavikā trả lời cố ý gây ra cho mọi người sự nghi ngờ:

  • Tôi đi đâu là việc của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì!

 

Nói xong, nàng liền bước đi về hướng đến chùa Jetavana, nhưng lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó.

Rồi sáng hôm sau, khi có một số cận-sự-nam, cận-sự- nữ đem những phẩm vật đến chùa Jetavana để cúng dường Đức-Phật và chư tỳ-khưu-Tăng, thì họ gặp nàng Ciñcāmāṇavikā từ hướng chùa Jetavana trở lại kinh-thành Sāvatthi. Người ta lại hỏi nàng rằng:

  • Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

Nàng Ciñcāmāṇavikā ỡm ờ đáp:

  • Tôi nghỉ ở đâu có nơi có chỗ của tôi, quý vị biết phỏng có lợi ích gì!

Và từ đó, cứ vào mỗi buổi chiều và mỗi buổi sáng, từ tháng này sang tháng khác, nàng Ciñcāmāṇavikā đều làm như vậy. Cho đến một hôm, có số người cận-sự- nam, cận-sự-nữ khác hỏi rằng:

  • Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu, mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

Nàng Ciñcāmāṇavikā thấy đã đến lúc cần phải nói, để

bắt đầu gây ra sự ngờ vực nên trả lời rằng:

  • Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Sớm muộn gì quý vị cũng sẽ biết. Nếu quý vị muốn biết bây giờ tôi xin khai thật rằng:

“Đêm qua tôi nghỉ ở Gandhakuṭi chung với Sa-môn Gotama, để phục vụ Ngài, đó là một niềm vinh dự lớn lao của đời tôi.”

Nói xong, nàng tỏ vẻ đắc ý bỏ vào thành. Khi nghe nàng Ciñcāmāṇavikā nói vậy, số cận-sự-nam, cận-sự-nữ còn là phàm-nhân thiểu-trí, nên sinh tâm bán tín bán nghi cho đến khi trải qua 3 - 4 tháng sau, thì nàng Ciñcā-

 

māṇavikā lấy vải độn bụng, mặc áo lụng thụng che bên ngoài, làm như người đang mang thai.

Một số phàm-nhân không có trí-tuệ, không hiểu biết về giáo-pháp của Đức-Phật, nên tưởng lầm là nàng Ciñcāmāṇavikā đang mang thai thật.

Thời gian đã đến 9 tháng, màn kịch hạ uy tín Đức-Thế- Tôn đến hồi kết thúc.

Nhóm tu-sĩ ngoại đạo gọi nàng Ciñcāmāṇavikā đến, họ dùng một miếng gỗ đẽo hình dạng giống như cái thai sắp đến ngày sinh nở, có bốn đầu dây sẵn, bảo nàng Ciñcāmāṇavikā mang vào buộc chặt sau lưng, mặc áo phủ kín, nhìn giống như người đàn bà mang thai sắp đến thời-kỳ sinh nở.

* Đức-Phật thắng nàng Ciñcāmāṇavikā

Vào một buổi chiều, khi Đức-Phật đang ngự trên pháp tòa tại giảng đường chùa Jetavana, tứ chúng thanh- văn đệ-tử đang ngồi im lặng lắng nghe pháp như thường lệ, thì nàng Ciñcāmāṇavikā từ ngoài xồng xộc đi vào, rồi đến trước Đức-Phật, chỉ tay buông lời mắng nhiếc:

  • Này ông Đại Sa-môn Gotama! Ông thuyết pháp thật là hay, thật là giỏi, ông tế độ biết bao nhiêu người, còn tôi sao ông không tế độ?

Tôi bụng mang dạ chửa là vì ông, ông nói ngon nói ngọt với tôi, bảo là sẽ giúp tôi thế này, thế nọ, ...

Hôm nay, sắp đến ngày sinh nở, ông lo thuyết pháp tế độ người khác, chẳng đoái hoài gì đến tôi. Nếu ông bận không lo cho tôi được thì ông bảo những người hộ độ ông như Đức-vua Pasenadi, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà Visākhā,… lo cho tôi cũng được. Nhưng ông chỉ biết thỏa mãn dục vọng cá nhân, ông không hề biết đến nỗi khổ của tôi, phải chịu bụng mang dạ chửa như thế này!

 

Nghe nàng Ciñcāmāṇavikā mắng nhiếc, Đức-Phật ngưng thuyết pháp, vẫn ngồi an nhiên tự tại, an tịnh trên pháp toà rồi từ tốn nói:

  • Bhagini, tayā kathitassa tathabhāvaṃ vā vitatha- bhāvaṃ vā ahameva ca tvañca jānāma.(1)
  • Này cô! Cô nói lời chân thật hay giả dối, chỉ có Như-Lai và cô biết rõ mà thôi?

Nàng Ciñcāmāṇavikā liền đáp:

  • Đúng vậy, này ông Đại Sa-môn! Chỉ có tôi và ông biết rõ mà thôi!

Ngay giây phút ấy, tại cung trời Tam-thập-tam-thiên bảo tọa của Đức-vua-trời Sakka nóng lên, bằng thiên- nhãn quan sát nguyên nhân, Đức-vua-trời Sakka thấy rõ ràng nàng Ciñcāmāṇavikā đang mắng nhiếc Đức-Phật giữa tứ chúng thanh-văn đệ-tử, bởi những chuyện không có thật.

Đây là âm mưu thâm độc của nhóm tu-sĩ ngoại đạo, dùng cô kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā vô liêm sĩ, cố ý làm hạ uy tín của Đức-Phật giữa tứ chúng thanh-văn đệ-tử.

Đức-vua-trời Sakka quyết định phải làm sáng tỏ chuyện này. Đức-vua-trời Sakka cùng bốn thiên-nam xuất hiện xuống giảng đường chùa Jetavana ngay tức khắc.

Bốn vị thiên-nam theo lệnh của Đức-vua-trời hóa thành bốn con chuột, cùng một lúc bò lên cắn đứt bốn sợi dây cột tấm gỗ, hình dạng giống bào thai buộc chặt sau lưng nàng Ciñcāmāṇavikā, đồng thời Đức-vua-trời Sakka hóa một luồng gió thổi cho tấm gỗ kia rơi xuống đất đụng nhằm hai bàn chân của nàng Ciñcāmāṇavikā, làm cho đôi chân của nàng bầm máu.

1 Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Ciñcāmāṇavikāvatthu.

 

Sự việc xảy ra trong thời gian ngắn ngủi, mọi sự thật hiển nhiên được phơi bày trước mắt tứ chúng thanh-văn đệ-tử. Nàng Ciñcāmāṇavikā bị mắng nhiếc không tiếc lời, có người nhổ nước bọt, rồi xua đuổi nàng ra khỏi khuôn viên ngôi chùa Jetavana.

Nàng Ciñcāmāṇavikā thất vọng, thất tha thất thểu bước đi ra vừa khuất tầm mắt của mọi người, mặt đất liền nứt ra làm hai, phát lên một tia lửa thiêu cháy nàng rồi rút xác nàng xuống sâu dưới lòng đất.

Sau khi nàng Ciñcāmāṇavikā chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh vào đại địa-ngục Avīci, chịu quả khổ do ác- nghiệp ấy.

Chuyện nàng Ciñcāmāṇavikā vu khống Đức-Phật đã lan truyền khắp mọi nơi, từ xứ này sang xứ khác. Và ai ai cũng đều biết đó là âm mưu thâm độc đê tiện của nhóm tu-sĩ ngoại đạo.

Một số người trước kia còn hộ độ nhóm tu-sĩ ngoại đạo, nay họ nghe thấy như vậy, mất hết đức-tin, nên không còn phát sinh tâm cúng dường các thứ vật dụng cho nhóm tu-sĩ ngoại đạo nữa. Đời sống của nhóm tu-sĩ ngoại đạo thiếu thốn khổ cực, nay lại càng tệ hại hơn nữa. Dân chúng khắp mọi nơi phát sinh đại-thiện-tâm trong sạch cúng dường Đức-Phật và chư tỳ-khưu-Tăng các thứ vật dụng sung túc.

Số người nào chưa có đức-tin thì nay lại có đức-tin nơi Tam-Bảo, số người nào đã có đức-tin nơi Tam-Bảo rồi, đức-tin lại càng thêm tăng trưởng.

Đức-Phật đã thắng lời vu khống của nàng Ciñcāmā-

ṇavikā nhờ pháp an định(1).

1 Chuyện nàng Ciñcāmāṇavikā đầy đủ trong quyển “Sự tích 8 Phật Lực”.

 

Như Đức-Phật dạy về ác-nghiệp cũ của Ngài rằng:

  • Trong tiền-kiếp quá-khứ, Như-Lai đã từng vu khống Ngài Trưởng-lão Nanda, bậc Thánh Thanh-văn đệ-tử của một Đức-Phật quá-khứ.

Sau khi chết, do khẩu ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Mỗi khi được tái-sinh làm người, Như-Lai thường bị vu khống những điều xấu không có thật, do năng lực của khẩu ác-nghiệp mà Như-Lai đã tạo trong thời quá-khứ ấy.

Do năng lực của ác-nghiệp cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, nên kiếp chót này bị nàng Ciñcāmāṇavikā vu khống Như-Lai những điều không có thật, giữa tứ chúng thanh-văn đệ-tử.

 

* Đức-Phật bị vu khống do tu-sĩ ngoại đạo Sundarī

Trong quá-khứ, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama, sinh trong gia đình thuộc giai cấp thấp, tên là Munāḷi, Đức-Bồ-tát Munāḷi thường thân cận gần gũi với kẻ ác, nên sinh thói hư tật xấu.

Một hôm, nhìn thấy Đức-Phật Độc-Giác Surabhi,

Đức-Bồ-tát Munāḷi liền buông lời vu khống rằng:

  • Sa-môn trọc đầu này phá giới! Hành pháp thấp hèn!

Sau khi Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Munāḷi chết, khẩu ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi địa-ngục.

Mỗi khi được tái-sinh làm người, thường bị vu khống những điều xấu, không có thật.

 

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Danh thơm tiếng tốt của Đức-Phật Gotama được lan truyền khắp mọi nơi, mỗi ngày các hàng đệ-tử càng tăng thêm đông, trái lại, đệ-tử của các nhóm ngoại đạo mỗi ngày càng giảm dần, cho nên đời sống của các tu-sĩ ngoại đạo lâm vào cảnh thiếu thốn khổ cực hơn xưa.

Vì vậy, họ bày mưu tính kế làm mất uy tín của Đức- Phật Gotama.

Thời ấy, nữ tu-sĩ ngoại đạo Sundarī rất xinh đẹp, đến viếng thăm các tu-sĩ ngoại đạo, đảnh lễ xong rồi, thấy nhóm tu-sĩ ngoại đạo ngồi im lặng không nói với cô một lời nào. Cô bèn bạch hỏi:

  • Kính thưa quý Ngài, con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con lời nào?

Một tu-sĩ ngoại đạo than vãn rằng:

  • Tất cả chúng tôi bị Sa-môn Gotama làm khổ, mà con không quan tâm hay biết gì. Đó là lỗi của con đó!

Vậy, con thể vu khống Sa-môn Gotama được không?

  • Kính thưa quý Ngài, con có thể làm được.

Từ hôm ấy, vào mỗi buổi chiều, nữ tu-sĩ Sundarī cầm một bó hoa trong tay, trên đường đang đi hướng về ngôi chùa Jetavana, cố ý gặp dân chúng trong kinh-thành Sāvatthi, sau khi nghe Đức-Phật thuyết pháp tại ngôi chùa Jetavana xong, đảnh lễ Đức-Phật rồi xin phép trở về nhà, có người tò mò dừng lại hỏi cô rằng:

  • Chiều tối rồi, cô đi đâu vậy?

Nữ tu-sĩ Sundarī trả lời để gây ra một sự nghi ngờ:

  • Đi đâu việc của tôi, quý vị biết phỏng ích lợi gì!

 

Nói xong, cô liền bước đi về hướng ngôi chùa Jetavana, nhưng lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo.

Sáng hôm sau, khi có số cận-sự-nam, cận-sự-nữ đem phẩm vật đến ngôi chùa Jetavana để cúng dường Đức- Phật và chư tỳ-khưu-Tăng, họ lại gặp nữ tu-sĩ Sundarī từ hướng chùa Jetavana trở lại kinh-thành Sāvatthi. Người ta hỏi cô rằng:

  • Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào kinh-thành sớm vậy?

Nữ tu-sĩ Sundarī muốn gieo rắc hoang mang, nên ỡm ờ đáp rằng:

Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao?

Nếu quý vị muốn biết, thì tôi sẽ nói thật:

“Đời tôi rất vinh hạnh, ban đêm được đến phục vụ Sa-môn Gotama tại cốc Gandhakuṭi của Ngài.”

Nhóm tu-sĩ ngoại đạo chờ tin này, nay có cơ hội, họ liền truyền tin vu khống rằng:

  • Thưa tất cả quý vị, quý vị đã nghe rõ hành vi xấu xa của Sa-môn Gotama như vậy!

Chính nữ tu-sĩ Sundarī cũng rêu rao vu khống hành vi xấu của Đức-Phật đối với cô nữa, gieo rắc hoang mang, gây ra sự ngờ vực đến mọi người.

Đối với các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật thì chắc chắn không bao giờ tin lời vu khống của các tu-sĩ nhóm ngoại đạo và của nữ tu-sĩ ngoại đạo Sundarī; còn đối với một số phàm-nhân thiểu-trí phát sinh tâm ngờ vực.

Đó là âm mưu của các tu-sĩ ngoại đạo làm giảm uy tín của Đức-Phật, để mong phục hồi uy tín của mình.

Đức-Phật dạy về ác-nghiệp cũ của Ngài rằng:

 

  • Trong tiền-kiếp, Như-Lai là người si mê tên Munāḷi

đã xúc phạm đến Đức-Phật Độc-Giác Surabhi.

Sau khi Munāḷi chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, phải chịu khổ suốt thời gian lâu dài nhiều ngàn năm, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.

Do năng lực ác-nghiệp cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, trong kiếp hiện-tại này Như-Lai bị vu khống do nữ tu- sĩ ngoại đạo Sundarī.

* Đức-Phật và chư tỳ-khưu bị vu khống giết tu-sĩ Sundarī để giấu tội-lỗi (Abbhakkhāna)

Trong quá-khứ, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama, sinh ra trong gia đình thuộc dòng dõi Bà-la-môn, Đức-Bồ-tát là bậc đa văn túc trí, học nhiều hiểu rộng, tinh thông các bộ sách Bà-la-môn. Đức-Bồ-tát làm thầy dạy nhóm đệ-tử 500 vị bà-la-môn tại khu rừng dưới chân núi Himavanta.

Một hôm, vị đạo-sĩ chứng đắc bát-thiền,(1) ngũ- thông(2) có nhiều oai lực, đến tu viện của Đức-Bồ-tát. Đức-Bồ-tát gặp vị đạo-sĩ này liền phát sinh tâm ganh tị, nên vu khống vị đạo-sĩ này rằng:

  • Vị đạo-sĩ này là người lừa dối, thích hưởng dục lạc trong ngũ dục, ...

Đức-Bồ-tát còn nói với nhóm đệ-tử của mình rằng:

  • Vị Đạo-sĩ ấy là người lừa dối, thích hưởng dục lạc trong ngũ dục, ...

Nhóm đệ-tử tin theo lời của thầy, đi vào xóm làng khất thực, cũng nói xấu vị đạo-sĩ ấy như vậy.

1 Bát thiền: Đó là 4 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

2 Ngũ thông: Đa-dạng-thông, nhãn-thông, nhĩ-thông, tiền-kiếp-thông và tha-tâm-thông.

 

Sau khi Đức-Bồ-tát chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh làm chúng-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng nhiều ngàn năm, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật càng ngày càng tăng thêm đông, danh thơm tiếng tốt của Đức-Phật được lan truyền khắp mọi nơi, từ Vua chúa, các nhà phú hộ, phần đông dân chúng phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo. Họ cúng dường bốn thứ vật dụng đầy đủ sung túc.

Trái lại, các nhóm ngoại đạo, phần đông tín đồ ngoại đạo từ bỏ các tu-sĩ ngoại đạo, đến kính xin quy y nương nhờ nơi Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng. Họ không còn hộ độ cúng dường đến các tu-sĩ ngoại đạo, cho nên, đời sống các tu-sĩ ngoại đạo càng ngày càng thiếu thốn khổ cực hơn trước.

các tu-sĩ ngoại đạo và nữ tu-sĩ Sundarī vu khống Đức-Phật những điều xấu không có thật, vẫn không làm giảm uy tín Đức-Phật được, nên nhóm tu-sĩ ngoại đạo dùng đến thủ đoạn thâm độc là thuê mướn nhóm côn đồ nghiện rượu giết nữ tu-sĩ ngoại đạo Sundarī, rồi giấu xác chết của cô trong đống rác trước cổng ra vào ngôi chùa Jetavana.

Nhóm côn đồ nghiện rượu đã hành động y theo kế của tu-sĩ ngoại đạo.

Sau đó, nhóm tu-sĩ ngoại đạo xin vào trình Đức-vua Pasenadi Kosala tâu rằng:

  • Tâu Đức-vua, tu-nữ Sundarī, đệ-tử của chúng tôi đã mất tích.

 

Đức-vua truyền lệnh cho phép đi tìm kiếm nữ tu-sĩ Sundarī. Nhóm tu-sĩ ngoại đạo kéo nhau giả bộ đi tìm, đến gặp xác chết nữ tu-sĩ Sundarī trong đống rác trước cổng ra vào ngôi chùa Jetavana, họ đặt xác chết nữ tu-sĩ Sundarī trên cáng đem vào trình Đức-vua, rồi khiêng đi quanh thành Sāvatthi rêu rao vu khống rằng:

  • Thưa tất cả quý vị, xin quý vị hãy xem hành vi xấu xa của Sa-môn Gotama và nhóm đệ-tử của ông, họ đã giết chết nữ tu-sĩ Sundarī, đệ-tử ngoan đạo của chúng tôi, để che giấu tội-lỗi của Sa-môn Gotama.

Đức-vua Pasenadi Kosala anh minh và sáng suốt, truyền lệnh quân lính đi điều tra tìm rõ kẻ đã giết nữ tu- sĩ Sundarī.

Khi ấy, nhóm côn đồ nghiện rượu đang uống rượu say sưa rồi cãi cọ với nhau và đổ lỗi cho nhau rằng:

“Mày giết nữ tu-sĩ Sundarī. Không phải tao, mà chính mày.”

Lính triều đình nghe được câu chuyện, liền bắt nhóm côn đồ nghiện rượu đem trình lên Đức-vua xét hỏi.

Đức Vua truyền hỏi:

  • Các ngươi đã giết chết nữ tu-sĩ Sundarī phải không?
  • Muôn tâu Đức-vua, dạ phải, chính bọn tiện dân này giết nữ tu-sĩ Sundarī.

Đức-vua truyền hỏi tiếp:

  • Ai thuê mướn các ngươi giết chết nữ tu-sĩ Sundarī.

Nhóm côn đồ nghiện rượu liền khai thật rằng:

  • Muôn tâu Đức-vua, chính nhóm tu-sĩ ngoại đạo thuê mướn chúng tiện dân giết chết nữ tu-sĩ Sundarī, rồi bảo chúng tiện dân đem giấu xác chết của cô trong đống rác trước cổng ra vào của ngôi chùa Jetavana.

 

Đức-vua liền truyền lệnh cho bắt nhóm tu-sĩ ngoại đạo, bắt chúng phải nhận tội, rồi phải đi quanh thành Sāvatthi đính chính lại lời vu khống Đức-Phật Gotama và chư tỳ-khưu trước kia rằng:

  • Kính thưa tất cả quý vị, chính chúng tôi là người đã thuê mướn nhóm côn đồ nghiện rượu giết chết nữ tu-sĩ Sundarī, để đổ tội cho Sa-môn Gotama và nhóm tỳ-khưu thanh-văn đệ-tử của Sa-môn Gotama.

Sự thật, Đức-Phật Gotama và nhóm tỳ-khưu thanh- văn đệ-tử của Sa-môn Gotama là hoàn toàn vô tội.

Khi nhóm tu-sĩ ngoại đạo làm như vậy, dân chúng trong kinh-thành Sāvatthi không còn ngờ vực gì nữa. Đức-vua bắt nhóm côn đồ nghiện rượu và nhóm tu-sĩ ngoại đạo chủ mưu giết hại nữ tu-sĩ Sundarī, đem trị tội.

Sau đó, Đức-Phật và chư tỳ-khưu-Tăng được phần

đông dân chúng gần xa phát sinh đức-tin nơi Tam-Bảo.

Sở dĩ Đức-Phật và nhóm tỳ-khưu-Tăng bị vu khống điều xấu, không có thật, là vì ác-nghiệp cũ của Đức-Bồ- tát, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, đã từng vu khống vị đạo-sĩ trong thời quá-khứ, còn dư sót chút đỉnh, nên kiếp chót này có cơ hội cho quả của ác-nghiệp cũ ấy.

Đức-Phật dạy về ác-nghiệp cũ của Ngài rằng:

“Đức-Bồ-tát, tiền-kiếp của Như-Lai, là vị Bà-la-môn học xong các bộ sách Bà-la-môn, làm thầy dạy nhóm 500 đệ-tử trong khu rừng lớn gần núi Himavanta.

Một hôm, vị đạo-sĩ chứng đắc bát thiền và ngũ thông có nhiều oai lực đến thăm trường học, Như-Lai nhìn thấy vị đạo-sĩ ấy, phát sinh tâm ganh tị, nên đã nói xấu vị đạo-sĩ ấy.

Tiền-kiếp của Như-Lai còn nói với nhóm đệ-tử rằng: “Đạo-sĩ này là người lừa dối, thích hưởng dục lạc

trong ngũ dục.”

 

Khi tiền-kiếp của Như-Lai nói như vậy, nhóm đệ-tử tin theo lời của Như-Lai, chúng đi khất thực đến mọi gia đình nói với mọi người rằng:

“Đạo-sĩ ấy là người lừa dối, thích hưởng dục lạc trong ngũ dục.”

Sau khi vị thầy ấy chết, khẩu ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy.

Do năng lực ác-nghiệp cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, nên kiếp hiện-tại Như-Lai và nhóm tỳ-khưu đều bị vu khống rằng:

“Đã giết chết nữ tu-sĩ Sundarī.”

* Đức-Phật bị lửa phỏng da bàn chân

Trong quá-khứ, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama, là đứa trẻ nghịch ngợm đang chơi ở ngoài đường, nhìn thấy Đức-Phật Độc-Giác đang đi khất thực, Đức-Bồ-tát đốt lửa vây quanh Đức-Phật Độc-Giác.

Sau khi Đức-Bồ-tát chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái- sinh trong 4 cõi ác-giới, chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới được thoát khỏi cõi địa-ngục.

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu Đức-Phật Gotama, do năng lực của ác-nghiệp ấy còn dư sót chút đỉnh, nên Đức-Phật bị lửa phỏng da bàn chân.

* Tuyển chọn nhóm xạ thủ bắn Đức-Phật

Trong quá-khứ, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền- kiếp của Đức-Phật Gotama là một tướng lĩnh giết hại nhiều quân thù.

 

Sau khi Đức-Bồ-tát chết, ác-nghiệp sát sinh cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, do năng lực của ác-nghiệp cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, khiến cho tỳ-khưu Devadatta tuyển chọn nhóm xạ thủ bắn cung nỏ tài giỏi, ra lệnh cho họ đi bắn giết chết Đức-Phật, để lãnh thưởng.

Theo lệnh của tỳ-khưu Devadatta, nhóm xạ thủ đi đến gặp Đức-Phật, đứng giương cung nhắm bắn Đức-Phật, nhưng họ đứng trơ như pho tượng, không có một mũi tên nào rời khỏi cây cung được.

Khi họ biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, thì cây cung mới rơi khỏi tay của họ được, rồi họ đều đến hầu đảnh lễ sám hối Đức-Phật.

Khi ấy, Đức-Phật thuyết pháp tế độ, họ đều trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, cung kính đảnh lễ Đức-Phật rồi xin phép trở về.

Đức-Phật truyền dạy không nên đi con đường mà tỳ- khưu Devadatta chỉ định, mà nên đi con đường khác để tránh khỏi bị nhóm xạ thủ khác giết chết, theo mưu kế của tỳ-khưu Devadatta.

* Đức-Phật bị mảnh đá đụng nơi ngón chân cái

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama, sinh trong gia đình giàu sang, có một người em trai cùng cha khác mẹ.

Khi cha mẹ đều qua đời, để lại một gia tài lớn. Hai anh em mỗi người có một đám gia nhân tùy tùng riêng. Vì nghe lời xúi giục của đám gia nhân ấy, nên hai anh

 

em gây gổ, sát hại lẫn nhau, để chiếm đoạt toàn bộ tài sản của cải về mình.

Đức-Bồ-tát là anh có sức mạnh hơn người em, nên xô đẩy người em té xuống hốc đá, rồi dùng đá đè chết người em trai.

Sau khi Đức-Bồ-tát chết, ác-nghiệp sát sinh cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài nhiều ngàn năm, cho đến khi mãn quả của ác- nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Kiếp hiện-tại, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót là Thái-tử Siddhattha của Đức-vua Suddhodana và Chánh-cung Hoàng-hậu Mahāmāyādevī.

Devadatta là hoàng-tử của Đức-vua Suppabuddha (hoàng huynh của Bà Mahāmāyādevī) Chánh-cung Hoàng-hậu Amittādevī (hoàng muội của Đức-vua Suddhodana). Hoàng-tử Devadatta hoàng huynh của công-chúa Yasodharā.

Như vậy, địa vị Thái-tử Siddhattha với địa vị hoàng- tử Devadatta có liên quan trong dòng họ như sau:

* Thái-tử Siddhattha với hoàng-tử Devadatta là con ông Vua Cậu và con của Bà Cô Chánh-cung Hoàng-hậu lẫn nhau.

Thái-tử Siddhattha kết hôn với công-chúa Yasodharā.

Đức-Bồ-tát Siddhattha đã trở thành Đức-Phật Chánh-

Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Khi Đức-Phật Gotama ngự trở về kinh-thành Kapila- vatthu cùng với chư Đại-đức-Tăng, Đức-Phật thuyết-pháp tế độ Đức-Phụ-vương cùng với dòng tộc Sakya.

Hoàng-tử Devadatta là một trong năm hoàng-tử dòng Sakya xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

 

Tỳ-khưu Devadatta thực-hành pháp-hành thiền-định chứng đắc các bậc thiền sắc-giới và chứng đắc các phép thần-thông tam-giới.

Do nguyên nhân nào tỳ-khưu Devadatta gây oan trái với

Đức-Phật Gotama?

Tiền-kiếp của tỳ-khưu Devadatta và tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama là hai người buôn bán nữ trang trong tích Serivavāṇijajātaka(1) được tóm lược như sau:

Trong thời quá-khứ, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, là người buôn bán nữ trang lương thiện, còn tiền-kiếp của tỳ-khưu Devadatta cũng là người buôn bán nữ trang nhưng tham lam và gian xảo.

Một gia đình trước đây là nhà phú hộ, nhưng bây giờ tất cả tài sản đều bị khánh kiệt, chỉ còn chiếc mâm bằng vàng ròng bám đầy bụi. Thừa kế gia đình ấy chỉ còn một bà ngoại già và đứa cháu gái, họ không hề biết gì về giá trị của chiếc mâm vàng ấy.

Một hôm, người buôn bán nữ trang tham-lam và gian- xảo (tiền-kiếp của tỳ-khưu Devadatta) từ xa đến, đi qua ngang nhà. Thấy người buôn bán nữ trang, cô cháu gái năn nỉ xin bà ngoại mua cho mình một món nữ trang.

Bà ngoại già âu yếm bảo với cháu gái rằng:

- Này cháu yêu quý! Ngoại không tiếc gì cho cháu cưng đâu. Hiềm một nỗi gia đình mình hiện nay nghèo quá, cơm áo không đủ dùng, thì lấy đâu tiền bạc mà mua nữ trang cho cháu. Chỉ còn chiếc mâm cũ kỹ kia, để ngoại hỏi người lái buôn xem thử có đổi được món nữ trang nhỏ nào cho cháu không.

1 Bộ Jātakaṭṭhakathā, Ekakanipāta, Tích Serivavāṇijajātaka.

 

Bà liền gọi người lái buôn vào, đưa chiếc mâm cũ kỹ cho y xem. Sau khi săm soi kỹ, với con mắt nhà nghề, người lái buôn biết rõ là chiếc mâm bằng vàng ròng quý giá, mà hai bà cháu không hề biết được giá trị của nó.

Tính vốn tham-lam và xảo-trá, y tự nghĩ:

“Ta phải chiếm đoạt chiếc mâm vàng này, mà chỉ cần

đổi một món nữ trang nho nhỏ không đáng giá.”

Nghĩ xong, y giả vờ bực dọc ném chiếc mâm xuống

đất rồi nói:

- Này bà già! Chiếc mâm cũ kỹ này chẳng có giá trị gì cả, nó không đáng giá 12 xu rưỡi, lấy đâu để đổi lấy một món nữ trang.

Nói xong, người lái buôn tham-lam và gian-xảo kia liền bỏ đi nơi khác.

Ngày hôm sau, người lái buôn bán nữ trang lương- thiện (Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama) đi ngang qua nhà. Thấy người lái buôn bán nữ trang, cô cháu gái lại khóc lóc năn nỉ đòi nữ trang cho bằng được.

Vì rất thương yêu và muốn vừa lòng cháu, bà gọi người lái buôn vào nhà, lại đem chiếc mâm cũ kỹ kia đưa cho người lái buôn này xem.

Lần này, thì bà kể lể về hoàn cảnh khốn khổ của mình cho người lái buôn nghe, với hy vọng đổi được món nữ trang nhỏ nào đó cho cháu.

Đức-Bồ-tát lái buôn lương-thiện cầm chiếc mâm, lau chùi lớp bụi, phát hiện ra chiếc mâm này không chỉ là một chiếc mâm bằng vàng ròng tinh chất quý giá, mà còn chạm trổ những hoa văn tinh tế, công phu, thật là một nghệ thuật tuyệt vời. Đức-Bồ-tát hai tay nâng niu chiếc mâm và từ tốn thưa rằng:

 

  • Thưa mẹ, chiếc mâm này không những bằng vàng ròng tinh chất, mà còn là một cổ vật quý giá, ít nhất khoảng trên 100 ngàn kahāpana (đồng tiền vàng ấn Độ thời xưa). Tất cả giá trị nữ trang và tiền bạc của con mang theo bên người chưa bằng được một phần trăm, thì con đâu dám đụng đến cổ vật vô giá ấy.

Bà già vô cùng cảm kích trước tấm lòng chân thật của người lái buôn lương-thiện, chân thành nói rằng:

  • Này con! Chính tấm lòng chân thật của con quý hơn cả cổ vật này. Hôm trước, người lái buôn nữ trang như con đã chê chiếc mâm này, y nói chiếc mâm này chưa đáng giá 12 xu rưỡi. Khi đi ra, y còn ném chiếc mâm xuống đất và thốt lên những lời hằn học nữa.

Quả thật, nếu nó bằng vàng quý giá như con nói thì

đó chính là quả phước của con.

Vậy, con hãy nên lấy đi, rồi cho cháu một món nữ trang nào cũng được, xin con đừng ái ngại.

Sau nhiều lần từ chối không được, Đức-Bồ-tát đành trao lại tất cả số nữ trang và trọn số tiền (500 đồng tiền vàng) của mình, tổng cộng giá trị khoảng một ngàn đồng tiền vàng cho hai bà cháu, chỉ xin lại tám đồng để chi phí dọc đường. Đức-Bồ-tát lái buôn đem chiếc mâm vàng ra đi xa.

Sau đó, thì người lái buôn tham-lam và gian-xảo trở lại tìm bà cụ, y bảo rằng:

  • Này bà già! Hãy đem chiếc mâm cũ kỹ kia ra đây, tôi sẽ cho cháu bà một món nữ trang nho nhỏ.

Bà cụ nhìn thấy y, con người tham-lam và gian-xảo

đáng khinh bỉ, bà bảo rằng:

  • Này ông kia! Chiếc mâm vàng của tôi đáng giá trên 100 ngàn kahāpana, sao trước đây ông chê, cho rằng nó

 

chưa đáng giá 12 xu rưỡi. Tôi đã bán cho một người lái buôn nữ trang lương-thiện, ông ấy đã trao cho tôi trọn số tiền 500 đồng tiền vàng của mình và tất cả số nữ trang còn lại. Ông ấy đã mang chiếc mâm vàng ấy đi rồi.

Nghe nói vậy, người lái buôn tham lam và xảo trá cảm thấy vô cùng tiếc rẻ gào lên:

  • Ôi! Ta đã bị thiệt hại quá lớn rồi! Tên lái buôn kia đã cướp chiếc mâm bằng vàng đáng giá trên 100 ngàn đồng tiền vàng của ta rồi!

Gào thét đến khô hơi tắt tiếng, tâm uất hận đến cực độ, tên lái buôn nằm lăn xuống đất ngất xỉu. Khi tỉnh dậy, như người điên, y xé bỏ quần áo, đồ nữ trang vung vãi, với đầu bù tóc rối, y chạy đuổi theo Đức-Bồ-tát lái buôn.

Lúc ấy, Đức-Bồ-tát lái buôn đã xuống thuyền qua quá nửa dòng sông, vẫn nghe văng vẳng tiếng gào thét của y:

  • Hãy trở lại! Hãy trở lại!

Đức-Bồ-tát lái buôn bảo người lái đò chèo thẳng qua bên kia sông. Bên bờ sông này, quá thất vọng và tiếc của, quá uất hận, cơn nóng giận cực độ làm cho người lái buôn máu trào ra miệng, lăn ra chết ngay tại chỗ.

Trước khi chết với tâm sân hận, y thoát ra lời thề độc địa kết oan trái với Đức-Bồ-tát rằng:

  • Ta sẽ kết oan trái với ngươi!

Đó là lần kết oan trái đầu tiên của tiền-kiếp tỳ-khưu Devadatta với Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama.

Từ đó về sau, trong suốt khoảng thời gian tử sinh luân- hồi, hễ mỗi khi hai bên gặp lại nhau, dù trong hoàn cảnh nào, địa vị nào, hậu-kiếp của người lái buôn tham lam và gian xảo kia cũng tìm cách giết hại hoặc làm khổ Đức-Bồ-tát, thậm chí hậu-kiếp của người lái buôn tham

 

lam và gian xảo ở địa vị làm cha, Đức-Bồ-tát là con, thì người cha ấy cũng có lý do, để giết hại Đức-Bồ-tát.

Như tích Cūḷadhammapālajātaka: Đức-Bồ-tát Chánh- Đẳng-Giác Dhammapāla, tiền-kiếp Đức-Phật Gotama, là hoàng-tử của Đức-vua Bārāṇasī Chánh-cung Hoàng-hậu Candādevī, mới lên 7 tháng tuổi. Đức-vua Bārāṇasī (hậu- kiếp của người lái buôn tham lam và gian xảo) truyền lệnh cho tên đao phủ chặt 2 tay, 2 chân và chặt cái đầu của hoàng-tử Dhammapāla mới lên 7 tháng tuổi, v.v…

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Do năng lực của ác-nghiệp sát sinh cũ ấy của Đức- Phật còn dư sót chút đỉnh, nên khiến tỳ-khưu Devadatta leo lên núi Gijjhakūṭa xô tảng đá lăn xuống trên đường Đức-Phật đi kinh hành, tuy tảng đá đã bị ngăn chặn lại, nhưng vẫn có một mảnh đá nhỏ vỡ ra văng xuống đụng phải đầu ngón chân cái bên bàn chân phải của Đức- Phật, làm ngón chân cái của Đức-Phật Gotama bị bầm máu mà thôi.

Như vậy, Tỳ-khưu Devadatta đã phạm phải 1 trong 5

ác-nghiệp vô-gián trọng-tội .

Đức-Phật dạy về ác-nghiệp cũ của Ngài rằng:

  • Trong tiền-kiếp Như-Lai đã giết người em trai cùng cha khác mẹ, để chiếm đoạt trọn gia tài của cha mẹ để lại, tiền-kiếp Như-Lai đã xô em trai xuống hốc đá, rồi lăn đá đè chết.

Do ác nghiệp cũ ấy cho quả trong kiếp chót này, Như- Lai bị tỳ-khưu Devadatta xô tảng đá lăn xuống, nhưng tảng đá bị ngăn lại, chỉ một mảnh đá nhỏ vỡ văng ra đụng vào ngón chân cái của Như-Lai bị bầm máu.

 

* Đức-Phật bị voi Nāḷāgiri rượt đuổi

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama, là người nài voi, đang cỡi voi đi, nhìn thấy Đức-Phật Độc-Giác đang đi trên đường, Đức-Bồ- tát nài voi liền nghĩ rằng:

“Sa-môn này từ đâu đến đây?”

Y phát sinh tâm sân làm cho con voi nổi giận rượt

đuổi theo Đức-Phật Độc-Giác.

Sau khi Đức-Bồ-tát chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái- sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Do năng lực của ác-nghiệp cũ trong quá-khứ còn dư sót chút đỉnh, khiến tỳ-khưu Devadatta đến gặp đức-vua Ajātasattu trình tâu âm mưu dùng voi Nāḷāgiri hung dữ, để sát hại Đức-Phật và được Đức-vua chấp thuận. Tỳ- khưu Devadatta ra lệnh người quản tượng rằng:

  • Này người quản tượng! Ngày mai, ngươi phải cho hung tượng Nāḷāgiri uống 16 hũ rượu, say điên cuồng rồi thả ra theo con đường mà Sa-môn Gotama thường hay đi vào thành khất thực, để nó chạy thẳng đến chà chết Sa-môn Gotama.

Sáng hôm ấy, Đức-Phật đang ngự vào kinh-thành Rājagaha cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, voi Nāḷāgiri nhìn thấy Đức-Phật từ xa ngự đến, liền cuộn vòi, quạt hai lỗ tai, cong đuôi chạy thẳng đến nơi Đức- Phật, ví như một quả núi đang bổ nhào về phía Đức-Phật.

 

Đức-Phật liền niệm rải tâm từ đến voi Nāḷāgiri, rồi gọi bằng một giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến rằng:

  • Này Nāḷāgiri đáng thương! Người ta cho con uống 16 hũ rượu mạnh, làm cho con say điên cuồng để con giết hại Như-Lai.
  • Này Nāḷāgiri đáng thương! Con hãy đến đây với Như-Lai.

Voi Nāḷāgiri hung ác nghe giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến của Đức-Phật, liền mở mắt, ngẩng đầu nhìn thẳng thấy kim thân Đức-Phật tỏa ra hào quang mát dịu, thì lập tức cơn say điên cuồng tan biến mất, tâm thức tỉnh.

Do nhờ oai lực tâm từ của Đức-Phật, voi Nāḷāgiri hạ vòi xuống, ngoan ngoãn đi lần đến, quỳ một cách cung kính dưới đôi bàn chân của Đức-Phật. Đức-Phật thuyết pháp tế độ voi Nāḷāgiri, toàn thân tâm của voi Nāḷāgiri phát sinh hỷ lạc chưa từng có.

Nếu không phải là loài súc-sinh thì sau khi nghe pháp xong chắc chắn voi Nāḷāgiri đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào đó, nhưng vì voi Nāḷāgiri là loài súc-sinh nên không thể chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào được.

Từ đó về sau, voi Nāḷāgiri(1) trở thành voi hiền lành dễ mến cho đến trọn đời của nó.

Đức-Phật dạy về ác-nghiệp cũ của Ngài rằng:

  • Trong tiền-kiếp Như-Lai là người quản tượng đang cỡi voi đi trên đường, Đức-Bồ-tát quản tượng làm cho con voi nổi giận rượt đuổi Đức-Phật Độc-Giác đang đi khất thực. Sau khi Đức-Bồ-tát quản tượng chết, ác- nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi ác-giới chịu quả

1 Chuyện voi Nāḷāgiri đầy đủ trong quyển “Sự tích 8 Phật Lực”.

 

khổ cho đến khi mãn quả của ác nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi ác giới.

Do năng lực của ác-nghiệp cũ còn dư sót chút đỉnh, khiến tỳ-khưu Devadatta sai người quản tượng thả voi Nāḷāgiri chạy nhào đến trước mặt Như-Lai đang đi vào kinh-thành Rājagaha để khất thực.

* Đức-Phật bị mảnh đá đụng ngón chân cái làm bầm máu (Sakalikāvedha)

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, sinh trong một gia đình dân thường. Khi còn nhỏ Đức-Bồ-tát rất tinh nghịch, cậu bé đang chơi giữa đường, nhìn thấy Đức-Phật Độc-Giác đang đi khất thực, cậu bé nghĩ rằng: “Sa-môn này đi đâu?”

Cậu bé tinh nghịch cầm một mảnh đá ném vào sau lưng Đức-Phật Độc-Giác, đụng phải gót chân của Ngài bị bầm máu.

Sau khi Đức-Bồ-tát chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái- sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Khi Đức-Phật đang đi kinh hành tại núi Gijjhakūṭa, do năng lực của ác-nghiệp cũ trong quá-khứ còn dư sót chút đỉnh, khiến tỳ-khưu Devadatta xô tảng đá lăn xuống, tuy tảng đá bị ngăn cản lại, nhưng một mảnh đá nhỏ vỡ văng ra đụng vào ngón chân cái bàn chân phải của Đức-Phật, bị bầm máu.

Đó là do quả của ác-nghiệp cũ quá-khứ của Đức-Phật.

 

  • Đức-Phật bị mổ vết bầm bằng dao (Satthaccheda)

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, là Đức-vua một nước nhỏ ngoài trung xứ, Đức- vua Bồ-tát gần gũi thân cận với các vị quan cận thần ác nên trở thành Đức-vua ác.

Một ngày nọ, Đức-vua nổi khùng cầm gươm, đi chân trần (không mang dày dép) ra khỏi cung điện chạy vào thành giết chết nhiều người vô tội.

Sau khi Đức-vua Bồ-tát băng hà, ác-nghiệp sát sinh ấy cho quả tái-sinh trong cõi ác-giới chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Do năng lực của ác-nghiệp cũ trong quá-khứ còn dư sót chút đỉnh, khiến tỳ-khưu Devadatta xô tảng đá lăn xuống, một mảnh đá nhỏ văng đụng ngón chân cái của Đức-Phật bị bầm máu.

Về sau, thái-y Jīvaka chữa trị chỗ máu bầm bằng cách dùng con dao bén mổ lấy máu bầm ra với tâm từ của vị thái-y. Đó là đại-thiện-nghiệp chữa trị vết bầm ở đầu ngón chân cái của Đức-Phật.

Tỳ-khưu Devadatta làm bầm máu ngón chân cái của Đức-Phật bằng mảnh đá với tâm sân nên phạm phải ác- nghiệp rất nặng gọi là ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (anantariyakamma) chắc chắn sẽ cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục Avīci mà không có nghiệp nào làm gián đoạn được.

Đức-Phật dạy về ác-nghiệp cũ của Ngài rằng:

 

- Trong tiền-kiếp Như-Lai là Đức-vua nổi khùng, đi chân trần, cầm gươm vào thành giết người vô tội. Sau khi Đức-vua băng hà, ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi địa-ngục, chịu quả khổ bị hành-hạ thiêu đốt trong địa-ngục suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa-ngục.

Do quả của ác-nghiệp cũ còn dư sót chút đỉnh, kiếp chót hiện-tại này, Như-Lai bị mổ lấy máu bầm ở vết thương đầu ngón chân cái của Như-Lai, bởi vì năng lực của ác-nghiệp cũ còn cho quả.

  • Đức-Phật bị bệnh đau đầu (Sīsadukkha)

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, sinh trong gia đình ngư dân, Đức-Bồ-tát cùng đám ngư dân đến chỗ bắt cá, nhìn thấy đám ngư dân bắt được cá rất nhiều gom thành đống lớn, liền phát sinh tâm hoan hỷ về sự sát sinh ấy.

Sau khi Đức-Bồ-tát chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái- sinh trong cõi ác-giới, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác- nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Do quả của ác-nghiệp cũ hoan hỷ ác-nghiệp sát sinh trong quá-khứ ấy còn dư sót chút đỉnh, nên đôi khi Đức- Phật bị bệnh đau đầu.

Còn tiền-kiếp của đám ngư dân trong quá-khứ, nay kiếp hiện-tại sinh trong hoàng tộc dòng Sakya đều bị tiêu diệt bởi Đức-vua Viṭaṭūbha(1).

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Tích Viṭaṭūbhavatthu.

 

Đức-Phật dạy về ác-nghiệp cũ của Ngài rằng:

- Tiền-kiếp Như-Lai sinh trong xóm ngư dân. Nhìn thấy đám ngư dân bắt được cá rất nhiều, tiền-kiếp của Như-lai phát sinh tâm hoan hỷ.

Do năng lực của ác-nghiệp cũ còn dư sót chút đỉnh, đôi khi cho quả khổ bệnh đau đầu trong kiếp chót của Như-Lai. Còn đám ngư dân trong quá-khứ, nay là dòng họ Sakya bị Đức-vua Viṭaṭūbha tàn sát tất cả.

  • Đức-Phật độ cơm gạo đỏ (Yavakhādana)

Đức-Bồ-tát, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, sinh trong gia đình thuộc giai cấp thấp, kém học thức, là kẻ si mê (andhabāla). Đức-Bồ-tát nhìn thấy chư tỳ-khưu thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật độ vật thực ngon lành, cơm gạo sāli, nên Đức-Bồ-tát đã xúc phạm rằng:

“Các Sa-môn đầu trọc này hãy dùng cơm gạo đỏ, không nên dùng cơm gạo sāli, ...

Đức-Bồ-tát sau khi chết, khẩu ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh trong cõi ác-giới, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi ác-giới.

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama. Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng du hành khắp mọi nơi, thuyết pháp tế độ cho chúng-sinh có duyên lành nên tế độ.

Một thuở nọ, Đức-Phật ngự đến xứ Verañjā cùng với nhóm 500 tỳ-khưu-Tăng. Hay tin Đức-Phật đã ngự đến, ông Bà-la-môn Verañja đến hầu Đức-Phật, để đấu khẩu tranh tài với Đức-Phật, nhưng ông Bà-la-môn không thể thắng được Đức-Phật, liền hồi tâm tỉnh trí phát sinh đức-

 

tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo, xin quy y Tam-Bảo trở thành cận- sự-nam trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Ông Bà-la-môn Verañja thành kính đảnh lễ Đức-Phật, thỉnh cầu Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng an cư nhập hạ ba tháng mùa mưa tại xứ Verañjā này.

Đức-Phật im lặng nhận lời thỉnh cầu của ông Bà-la- môn Verañja. Trong xứ Verañjā gặp phải hạn hán mất mùa, thiếu thốn vật thực, nên dân chúng chịu cảnh chết đói, lại còn bị Ác-Ma-thiên làm dân chúng xứ Verañjā mê muội, cho nên Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng đi khất thực ít người để bát cúng dường vật thực đến Đức-Phật cùng với nhóm 500 chư Đại-đức tỳ- khưu-Tăng.

Khi ấy, đoàn người lái buôn từ xứ Uttarāpatha cùng với 500 cỗ xe ngựa vừa đến xứ Verañjā gặp mùa mưa, nên đành phải trú lại. Họ nhìn thấy chư tỳ-khưu đi khất thực nhưng không được vật thực, nên họ phát sinh đại- thiện-tâm trong sạch làm phước-thiện bố-thí cúng dường phần lúa đem theo làm vật thực cho ngựa, giã ra thành gạo đỏ, nấu cơm, chư-thiên bỏ thêm vào hương vị trời, rồi cúng dường để bát đến Đức-Phật cùng với nhóm 500 chư tỳ-khưu-Tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

Đặc biệt họ làm phước-thiện cúng dường đến Ngài Trưởng-lão Ānanda món bơ mật ong, đường, … để Ngài Trưởng-lão làm thêm vật thực dâng cúng dường lên Đức-Phật.

Như vậy, Đức-Phật cùng với nhóm 500 Đại-đức tỳ- khưu Tăng độ cơm gạo đỏ suốt 3 tháng trong mùa an cư nhập hạ năm ấy, cho đến ngày rằm làm đại lễ Pavāraṇā (lễ yêu cầu thỉnh mời) trước ngày mãn hạ, đồng thời Ác-

 

Ma-thiên không còn làm cho dân chúng xứ Verañjā mê muội nữa.

Thật vậy, ông Bà-la-môn Verañja nhớ lại trước đây ba tháng, có thỉnh mời Đức-Phật cùng với 500 Đại-đức tỳ- khưu-Tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại xứ Verañjā này, mà ông đã quên hẳn, nên suốt thời gian nhập hạ ông không cúng dường những thứ vật dụng đến Đức-Phật cùng với 500 Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

Ông Bà-la-môn Verañja đến hầu đảnh lễ sám hối Đức-Phật, rồi kính thỉnh Đức-Phật cùng với 500 Đại-đức tỳ-khưu-Tăng ngày hôm sau đến tư gia của ông, để ông làm phước-thiện đại-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu- Tăng có Đức-Phật chủ trì.

Đức-Phật làm thinh, ông Bà-la-môn Verañja biết Đức-Phật nhận lời thỉnh mời của ông. Ông Bà-la-môn Verañja đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép trở về nhà.

Sáng ngày hôm sau, Đức-Thế-Tôn ngự đến tư gia của ông Bà-la-môn Verañja, cùng với 500 Đại-đức tỳ-khưu- Tăng. Ông Bà-la-môn Verañja đón tiếp Đức-Phật cùng với 500 Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, xin làm lễ phước-thiện đại-thí cúng dường vật thực đến chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng có Đức-Phật chủ trì.

Sau khi Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng thọ thực xong, ông Bà-la-môn Verañja đảnh lễ Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, xin sám hối tội-lỗi mê muội quên hẳn bổn phận của ông.

Ông Bà-la-môn Verañja kính xin Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng tha thứ tội-lỗi mê muội quên hẳn bổn phận của ông.

 

Thật ra, đó là ác-nghiệp cũ của Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama còn dư sót chút đỉnh, nay còn có cơ hội cho quả đến Đức-Phật Gotama.

Ác-nghiệp thuộc về của riêng Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, còn quả của ác-nghiệp không chỉ riêng của Đức-Phật mà còn ảnh hưởng đến 500 Đại-đức tỳ-khưu-Tăng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật nữa.

  • Đức-Phật bị bệnh đau lưng (Piṭṭhidukkha)

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, sinh trong gia đình giàu sang, Đức-Bồ-tát có dáng vóc lùn, nhưng có sức mạnh phi thường.

Thời ấy, một võ sĩ đô vật có thân hình vạm vỡ, qua những trận đọ sức với các đối thủ từ khắp tỉnh thành cho đến kinh-thành, y đều toàn thắng, rồi y tự cho mình là người vô địch.

Một hôm, võ sĩ này đến quê hương của Đức-Bồ-tát, cũng như các nơi khác, không có một đối thủ nào có thể đọ sức nổi với y. Cho nên, y huyênh hoang tự đắc cho mình là người vô địch, rồi hãnh diện lên đường đi đến nơi khác.

Khi ấy, Đức-Bồ-tát nghĩ rằng: “Người võ sĩ này đã thắng tất cả các võ sĩ đô vật trong quê hương của ta, rồi y ra đi với vẻ tự cao ngã-mạn như vậy.”

Đức-Bồ-tát liền đến gặp y vỗ tay bảo rằng:

- Này ngươi hãy đến đây, đọ sức với ta rồi đi!

Nghe Đức-Bồ-tát nói vậy, võ sĩ đô vật cười khanh khách và nghĩ rằng:

“Các địch thủ to lớn, ta còn thắng một cách dễ dàng, huống gì dáng người thấp lùn này, ta chỉ cần dùng một tay là đủ.”

 

Nghĩ xong, y vỗ tay đi đến gặp Đức-Bồ-tát. Hai người bắt tay lẫn nhau trước khi đọ sức. Đức-Bồ-tát vồ đến ôm gọn thân hình vạm vỡ của y, nhấc bổng chân lên, đưa lên hư không, quay vòng tròn, rồi dộng vai mạnh xuống mặt đất làm đau sụn cột xương sống, rồi để y nằm dài trên mặt đất, không còn cựa quậy được nữa.

Dân chúng trong xứ thấy vậy vỗ tay tán dương khen thưởng Đức-Bồ-tát đã thắng được một võ sĩ đô vật lừng danh, rồi họ tặng cho Đức-Bồ-tát những phần thưởng vô cùng quý giá.

Đức-Bồ-tát chữa trị lại phần xương vai, xương cột sống cho võ sĩ, rồi đỡ y đứng dậy và dạy bảo y rằng:

- Này bạn! Từ nay về sau bạn không nên đọ sức so tài với ai nữa.

Do ác-nghiệp ấy còn dư sót, cho nên mỗi khi Đức-Bồ- tát được tái-sinh làm người, ác-nghiệp làm khổ võ sĩ đô vật ấy, nếu có cơ hội cho quả, thì Đức-Bồ-tát thường bị đau lưng, đau mình nhức mỏi.

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama hoàn toàn không còn khổ-tâm do phiền-não nữa, nhưng Đức-Phật vẫn còn khổ-thân tứ đại, thường mắc bệnh đau lưng, ...

Cho nên, đôi khi Đức-Phật đang thuyết pháp, bệnh đau lưng phát sinh, Đức-Phật truyền dạy Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta hoặc Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā- moggallāna thay thế Đức-Phật tiếp tục thuyết pháp.

Còn Đức-Phật truyền bảo tỳ-khưu trải y, để cho Đức- Phật nằm nghỉ, để giảm bớt cơn đau lưng.

Đó là quả của ác-nghiệp cũ. Đức-Phật dạy về ác- nghiệp cũ của Ngài rằng:

 

- Tiền-kiếp Như-Lai đã từng làm cho võ sĩ đô vật lừng danh trong thời quá-khứ, đau sụn lưng. Do nghiệp cũ ấy cho quả, nên kiếp hiện-tại, Như-Lai thường bị bệnh đau lưng phát sinh.

  • Đức-Phật bị bệnh đại tiện ra máu (Atisāra)

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, sinh trong gia đình thầy thuốc. Đức-Bồ-tát trưởng thành cũng sinh sống bằng nghề làm thầy bốc thuốc chữa bệnh cho mọi người.

Khi Đức-Bồ-tát chữa lành bệnh cho con trai một phú hộ, mà người con trai phú hộ trả tiền công bốc thuốc không xứng đáng. Do không hài lòng, nên Đức-Bồ-tát đã bốc thuốc xổ cho con trai phú hộ uống.

Khi Đức-Bồ-tát, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama được tái-sinh làm người, do ác-nghiệp cho uống thuốc xổ ấy, nếu có cơ hội cho quả thì Đức-Bồ-tát bị bệnh kiết lị, đi đại tiện ra máu.

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama năm 35 tuổi.

Từ đó về sau, suốt 45 năm thuyết pháp tế độ cho chúng- sinh giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Khi Đức-Phật Gotama tròn 80 tuổi, đúng vào ngày rằm tháng tư âm lịch, ngày cuối cùng của Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn.

Sau khi Đức-Phật độ món ăn đặc biệt bổ dưỡng sūkuramaddava của ông Cunda kammāraputta, và có thêm phần hương vị của chư-thiên ở các cõi trời bỏ vào món ăn ấy, để bồi bổ tăng thêm sức mạnh trong cơ thể của Đức-Phật.

 

Trên đường Đức-Phật ngự đến khu rừng Kusinārā cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, Đức-Phật bị lâm bệnh kiết lị đi đại tiện ra máu, làm cho cơ thể của Đức- Phật mệt nhoài, lại thêm khát nước, Đức-Phật phải dừng lại nằm nghỉ ngơi một lúc, rồi mới tiếp tục ngự đến khu rừng Kusinārā, để Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch) ấy.

Đức-Phật là bậc cao thượng nhất trong tam-giới chúng-sinh, thế mà vẫn không sao tránh khỏi ác-nghiệp cũ cho quả.

Đức-Phật dạy về ác-nghiệp cũ của Ngài rằng:

- Tiền-kiếp Như-Lai làm nghề thầy thuốc, vị thầy ấy chữa bệnh cho con trai phú hộ. Do không hài lòng con trai phú hộ, nên vị thầy đã bốc thuốc xổ cho con trai phú hộ uống.

Do ác-nghiệp cũ ấy cho quả, nên kiếp hiện-tại này phát sinh bệnh đại tiện ra máu đến Như-Lai.

  • Đức-Phật khát nước

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, là người chăn bò, dẫn đàn bò ra đồng ăn cỏ, Đức-Bồ-tát nhìn thấy con bò mẹ đang uống nước đục, nên ngăn cấm không cho nó uống nước đục theo ý muốn của nó.

Kiếp hiện-tại là Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama. Trên đường từ thành phố Pāvā đến khu rừng Kusinārā, trước khi tịch diệt Niết-bàn, Đức- Phật bị lâm bệnh kiết lị đi đại tiện ra máu, mệt nhoài và khát nước. Đức-Phật truyền dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda đi lấy nước.

 

Do ác-nghiệp cũ không cho con bò mẹ uống nước đục ấy cho quả, nên con sông còn ít nước, vừa có 500 chiếc xe bò băng qua sông làm nước sông đục ngầu.

Khi đi đến con sông ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda nhìn thấy nước sông đục ngầu, nên Ngài Trưởng-lão không muốn lấy nước ấy.

Đức-Phật vì khát nước quá không chịu đựng nổi, nên Đức-Phật lại truyền bảo Ngài Trưởng-lão Ānanda đi lấy nước đem về cho Ngài độ cho qua cơn khát.

Một lần nữa, Ngài Trưởng-lão Ānanda cũng đến con sông ấy, vừa bước xuống, thật phi thường thay! Nước sông đang đục ngầu, bỗng nhiên trở nên trong sạch lạ thường. Ngài Trưởng-lão Ānanda lấy nước ấy đem về dâng đến Đức-Phật.

Đó là quả của ác-nghiệp cũ ngăn cấm con bò mẹ đang uống nước đục trong tiền-kiếp của Đức-Phật.

Đức-Phật đã thuyết giảng đến chư tỳ-khưu Tăng tại ven rừng gần hồ Anotatta, những ác-nghiệp cũ và quả của ác-nghiệp cũ mà Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật đã tạo trong thời quá-khứ, nay kiếp hiện-tại những ác- nghiệp cũ ấy vẫn còn có cơ hội cho quả của ác-nghiệp, trước khi Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.(1)

Nghiệp và quả của nghiệp là rất công bằng, không hề thiên vị ai, kể cả Đức-Phật và chư bậc Thánh A-ra-hán.

Thật vậy, * đại-thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Bồ-tát Siddhattha kiếp chót cho quả trở thành Đức-Phật Gotama.

1 Tìm hiểu rõ quyển IV, Nghiệp Và Quả Của Nghiệp của bộ Nền-Tảng- Phật-Giáo, cùng soạn-giả.

 

Và những ác-nghiệp cũ của Đức-Phật Gotama, có cơ hội cho quả, nên Đức-Phật Gotama phải chịu quả xấu trong kiếp hiện-tại cho đến trước khi tịch diệt Niết-bàn.

  • Đại-thiện-nghiệp 10 pháp-hạnh ba-la-mật của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna cho quả trở thành bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

Và ác-nghiệp cũ của Ngài có cơ hội cho quả, nên Ngài bị đánh đập phải tịch diệt Niết-bàn.

Còn mỗi người trong chúng ta cũng phải thừa hưởng quả của đại-thiện-nghiệp và ác-nghiệp của mình như vậy.

* Đức-Phật với cây Đại-Bồ-đề

Tích tiền-kiếp Kāliṅgabodhijātaka

Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú-hộ Anāthapiṇḍika gần kinh-thành Sāvatthi, Đức- Phật thuyết giảng tích Kaliṅgabodhijātaka(1) trong đoạn đầu được tóm lược như sau:

Khi Đức-Phật ngự tại ngôi chùa Jetavana cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đông đảo, đến khi Đức-Phật du hành đến nơi khác, thì chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng cùng đi theo Đức-Phật.

Lúc ấy, ngôi chùa Jetavana trở nên trống vắng, không còn một vị nào ở trong chùa cả. Những người cận-sự- nam, cận-sự-nữ mang những phẩm vật đến chùa, không thấy Đức-Phật và cũng không thấy một Đại-đức tỳ-khưu nào cả. Họ không biết dâng lễ cúng dường đến nơi nào, nên họ phải đành đem đến đặt trước cốc Gandhakuṭi của Đức-Phật, rồi họ lủi thủi trở về nhà mà không phát sinh tâm hoan hỷ.

1 Bộ Jātakaṭṭhakathā, Tích Kaliṅgabodhijātaka.

 

Được biết như vậy, ông phú-hộ Anāthapiṇḍika chờ đợi khi Đức-Phật ngự trở lại ngôi chùa Jetavana cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Ông phú hộ liền đến gặp đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Ānanda và bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài Trưởng-lão, mỗi khi Đức-Phật ngự đi du hành đến nơi khác cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng, tại ngôi chùa Jetavana này trở nên trống vắng.

Các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đem những phẩm vật đến dâng lễ cúng dường mà không thấy vị nào cả. Họ đành phải đem những phẩm vật đặt trước cửa cốc Gandhakuṭi của Đức-Phật, rồi thui thủi trở về nhà mà không phát sinh tâm hoan hỷ.

  • Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con kính xin Ngài bạch lại với Đức-Phật rằng:

“Đối với các hàng thanh-văn đệ-tử còn có nơi nào khác dâng lễ cúng dường, để phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ nữa không?”

Nhận lời thỉnh cầu của ông phú-hộ, Ngài Trưởng-lão

Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức-Phật xong, bèn bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Cetiya là nơi dâng lễ cúng dường có bao nhiêu nơi? Bạch Ngài.
  • Này Ānanda! Cetiya nơi dâng lễ cúng dường 3 nơi.
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, ba nơi ấy là những nơi nào? Bạch Ngài.
  • Này Ānanda! Ba nơi ấy là:
  1. Sārīrika-cetiya: Cetiya nơi tôn thờ Xá-Lợi của

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

  1. Paribhoga-cetiya: Cetiya nơi mà Đức-Phật đã sử dụng như cội Đại-Bồ-đề, những thứ vật dụng của Đức- Phật đã dùng.

 

  1. Uddissaka-cetiya: Cetiya nơi mà các hàng thanh- văn đệ-tử tạo nên ngôi Bảo-tháp, tượng Đức-Phật, v.v… để tôn thờ.

Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, khi Đức-Thế-Tôn còn tại thế gian, ba nơi cetiya ấy, các hàng thanh-văn đệ-tử có thể dâng lễ cúng dường được hay không? Bạch Ngài.
  • Này Ānanda! Sāriraka-cetiya: Cetiya nơi tôn thờ Xá-lợi của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, khi nào Như- Lai tịch diệt Niết-bàn rồi, còn lại phần Xá-Lợi thì khi ấy, các hàng thanh-văn đệ-tử mới có thể dâng lễ cúng dường cetiya, nơi tôn thờ Xá-lợi Đức-Phật.
  • Này Ānanda! Còn paribhoga-cetiya và uddissaka- cetiya, thì ngay khi Như-Lai còn tại thế gian, các hàng thanh-văn đệ-tử cũng có thể dâng lễ cúng dường đến hai nơi cetiya ấy được.
  • Này Ānanda! Cây Đại-Bồ-đề được gọi là paribhoga- cetiya, bởi vì chư Phật đã sử dụng ngồi dưới cội Đại-Bồ- đề, đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Lắng nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, Ngài Trưởng-lão Ānanda bèn bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, khi Đức-Thế-Tôn ngự đi du hành đến nơi khác cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu- Tăng, tại ngôi chùa Jetavana này trở nên trống vắng.

Các người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đem những phẩm vật đến dâng lễ cúng dường mà không thấy vị nào cả. Họ đành phải đem những phẩm vật đặt trước cửa cốc Gandhakuṭi của Đức-Phật, rồi thui thủi trở về nhà mà không phát sinh tâm hoan hỷ.

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, như vậy, con có thể thỉnh hạt giống Đại-Bồ-đề từ cội Đại-Bồ-đề ở khu rừng

 

Uruvelā, đem về gieo trồng tại ngôi chùa Jetavana này, để cho các hàng thanh-văn đệ-tử làm cetiya nơi dâng lễ cúng dường, có nên hay không? Bạch Ngài.

Đức-Phật hoan hỷ truyền dạy rằng:

  • Sādhu, Ānanda! ropehi.
  • Này Ānanda! Tốt lắm! Con hãy nên gieo trồng cây

Đại-Bồ-đề tại ngôi chùa Jetavana này.

Evaṃ sante Jetavane mama nibaddhavāso viya bhavissati(1).

Như vậy, khi có cây Đại-Bồ-đề trong ngôi chùa Jetavana, cũng như là sự thường trú của Như-Lai.

Sau khi lắng nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, Ngài Trưởng-lão Ānanda thông báo cho ông phú hộ Anātha- piṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, Đức-vua Pasenadi Kosala, cùng toàn thể các cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong kinh-thành Sāvatthi rằng:

  • Thưa quý vị, một cây Đại-Bồ-đề sẽ được trồng tại ngôi chùa Jetavana này. Vậy, xin quý vị cho người đào lỗ để trồng cây Đại-Bồ-đề.

Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda đến gặp Ngài Đại- Trưởng-lão Mahāmoggallāna và bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con muốn trồng một cây Đại-Bồ-đề tại ngôi chùa Jetavana, kính thỉnh Ngài Đại-Trưởng-lão đến cội Đại-Bồ-đề tại khu rừng Uruvelā, thỉnh một hạt giống Đại-Bồ-đề đem về cho con.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna nhận lời, liền dùng phép thần-thông bay đến khu rừng Uruvelā, bay xung quanh cội Đại-Bồ-đề để tìm hạt Đại-Bồ-đề nào già

1 Bộ Jātakaṭṭhakathā, Tích Kaliṅgabodhijātaka.

 

chín sắp lìa khỏi cành. Ngài Đại-Trưởng-lão dùng tấm y hứng lấy hạt giống Đại-Bồ-đề không để rơi xuống mặt đất, thỉnh đem về trao cho Ngài Trưởng-lão Ānanda.

Ngài Trưởng-lão Ānanda cung kính đón nhận hạt giống Đại-Bồ-đề bằng cái đĩa bằng vàng.

Tiếp đến, Ngài Trưởng-lão Ānanda loan báo cho Đức- vua Pasenadi Kosala, ông phú-hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận-sự-nam, cận-sự- nữ trong kinh-thành Sāvatthi tụ hội để làm lễ trồng cây Đại-Bồ-đề.

Mọi người đã tụ hội đông đủ tại ngôi chùa Jetavana,

để làm lễ trồng cây Đại-Bồ-đề rất trọng thể.

Đầu tiên Ngài Trưởng-lão Ānanda thỉnh cái đĩa bằng vàng có đựng hạt giống Đại-Bồ-đề trao cho Đức-vua Pasenadi Kosala, để gieo trồng cây Đại-Bồ-đề.

Đức-vua cung kính đón nhận từ tay của Ngài Trưởng- lão Ānanda, rồi suy nghĩ rằng:

“Ta tuy là Vua, nhưng người xứng đáng để gieo trồng cây Đại-Bồ-đề này phải là ông phú-hộ Anāthapiṇḍika.”

Nghĩ như vậy, Đức-vua Pasenadi Kosala liền trao cái đĩa đựng hạt giống Đại-Bồ-đề lại cho ông phú hộ Anāthapiṇḍika. Ông phú hộ cung kính đón nhận cái đĩa đựng hạt giống Đại-Bồ-đề từ tay của Đức-vua.

Ông phú hộ rải phân bón xuống lỗ, rồi hai tay cung kính bưng cái đĩa vàng đựng hạt giống Đại-Bồ-đề gieo xuống lỗ và phủ lên mặt một lớp đất.

Khi ấy, mọi người đông đảo đều nhìn thấy, một điều thật là phi thường chưa từng có bao giờ!

Ngay khi vừa gieo xong, liền mọc lên một cây Đại-Bồ- đề cao 50 hắc tay (cùi tay), có 5 nhánh, mỗi nhánh tỏa

 

dài 50 hắc tay, trở thành một cây Đại-Bồ-đề to lớn mà tất cả bốn phương, tám hướng đều nhìn thấy rõ.

Đức-vua Pasenadi Kosala liền dâng cúng dường 18 đóa hoa sen, tưới nước trong sạch vào gốc cây Đại-Bồ- đề. Tiếp theo, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận-sự-nam, cận-sự-nữ đều vô cùng hoan hỷ, lần lượt dâng lễ cúng dường đến cội Đại-Bồ-đề một cách cung kính.

Xung quanh cội Đại-Bồ-đề được xây bốn bức thành hàng rào và cổng ra vào bằng các loại đá rất quý, phần nền gần gốc cây Đại-Bồ-đề được lót bằng một loại đá quý, để làm nơi dâng lễ cúng dường của các hàng thanh- văn đệ-tử.

Ngài Trưởng-lão Ānanda vào hầu đảnh lễ Đức-Thế- Tôn bèn bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, chúng con đã trồng cây Đại-Bồ-đề xong. Kính thỉnh Đức-Thế-Tôn ngự đến sử dụng cội Đại-Bồ-đề.

Khi Đức-Thế-Tôn sử dụng cội Đại-Bồ-đề, để cho chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

Theo sự thỉnh cầu của Ngài Trưởng-lão Ānanda, Đức- Thế-Tôn ngự đến sử dụng cội Đại-Bồ-đề, nhập A-ra-hán quả suốt đêm.

Ngài Trưởng-lão Ānanda thông báo cho Đức-vua Pasenadi Kosala, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận-sự-nam, cận-sự-nữ trong kinh-thành Sāvatthi tụ hội tại cội Đại-Bồ-đề để làm đại lễ cúng dường đến cội Đại-Bồ-đề.

Vì vậy, cây Đại-Bồ-đề có tên gọi là: “Ānandabodhi: Cây Đại-Bồ-đề của Ngài Trưởng-lão Ānanda.

Cây Đại-Bồ-đề của Ngài Trưởng-lão Ānanda vẫn còn

 

tồn tại cho đến ngày nay tại nền ngôi chùa cổ Jetavana, tỉnh Sāvatthi, xứ Ấn Độ.

Đối với các hàng thanh-văn đệ-tử là bậc xuất-gia, cũng như hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đem hết lòng tôn kính cây Đại-Bồ-đề, bởi vì, khi chúng ta tôn kính cây Đại-Bồ-đề cũng như tôn kính Đức-Phật vậy.

Cho nên, tại mỗi cây Đại-Bồ-đề là một nơi tôn nghiêm, nên hằng ngày mỗi hàng thanh-văn đệ-tử phải có bổn phận chăm sóc bảo tồn, thường xuyên quét dọn lau chùi sạch sẽ và thường đến lễ bái, dâng lễ cúng dường đến cội Đại-Bồ-đề như lễ bái, dâng lễ cúng dường đến Đức- Phật, với đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo.

Thời-kỳ Đức-vua Asoka (Phật-lịch 218), Đức-vua là Đấng Minh Quân có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, hộ độ trong kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba tại chùa Asokārāma xứ Pāṭaliputta.

Vào năm Phật-lịch 236, Đức-vua hộ độ phái đoàn gồm 5 Ngài Đại-đức, do Ngài Trưởng-lão Mahinda(1) làm trưởng đoàn, đi sang Đảo-quốc Srilankā để truyền bá Phật-giáo.

Vào thời-kỳ ấy, Đức-vua Devanampiyatissa trị vì Đảo-quốc Srilankā, là bạn thân thiết của Đức-vua Asoka. Đức-vua Devanampiyatissa cùng các quan trong triều, dân chúng hân hoan đón rước phái đoàn chư Đại-đức- Tăng rất trọng thể.

Phái đoàn chư Đại-đức-Tăng thuyết pháp truyền bá giáo-pháp của Đức-Phật, Đức-vua cùng các quan trong triều và dân chúng phần đông phát sinh đức-tin trong

1 Ngài Đại-đức Mahinda là bậc Thánh A-ra-hán, vốn là Thái-tử của Đức- vua Asoka.

 

sạch nơi Tam-Bảo, một số xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu, một số xin thọ phép quy-y Tam-Bảo trở thành người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã quy-y Tam-Bảo trọn đời.

Ngoài ra, còn một số cận-sự-nữ muốn xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni. Vì vậy, Ngài Trưởng-lão Mahinda dạy gởi sứ giả đến tâu lên Đức-vua Asoka, kính xin Đức-vua gửi phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-ni sang đảo-quốc Srilankā.

Cung nghinh cây Đại-Bồ-đề sang đảo quốc Srilankā

Chấp thuận lời tâu xin của sứ giả, Đức-vua Asoka gửi phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-ni, do Ngài Đại-đức tỳ- khưu-ni Saṃghamittā(1) làm trưởng đoàn, phái đoàn có cung nghinh một cây Đại-Bồ-đề sang trồng trên đảo quốc Srilankā.

Đức-vua Asoka làm lễ tiễn đưa cây Đại-Bồ-đề rất long trọng, Đức-vua truyền lệnh sứ giả sang trước, để tâu lên Đức-vua Devanampiyatissa cũng làm lễ đón rước cây Đại-Bồ-đề cho trọng thể.

Thật vậy, Đức-vua Devanampiyatissa cùng các quan trong triều và rất đông đảo dân chúng đứng chờ sẵn ở bến. Khi thuyền của phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-ni tăng cùng với cây Đại-Bồ-đề vừa cập bến, Đức-vua Devanampiyatissa lội xuống nước đến cung nghinh cây Đại-Bồ-đề từ trên tay của Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni và cùng đón rước phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-ni lên đảo quốc Srilankā.

Cây  Đại-Bồ-đề  được  thỉnh  đến  trồng  tại  tỉnh

Anurādhapura đảo-quốc Srilankā. Cây Đại-Bồ-đề này

1 Đại-đức Tỳ-khưu-ni Saṃghamittā là bậc Thánh A-ra-hán, vốn là Công- chúa của Đức-vua Asoka.

 

được duy trì tồn tại cho đến nay vẫn còn tươi tốt. Nhà- nước Srilankā cùng với các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật là bậc xuất-gia tỳ-khưu, sa-di, cận-sự-nam, cận-sự-nữ bảo vệ nghiêm ngặt, xung quanh có vòng thành bao bọc, chăm sóc cây Đại-Bồ-đề rất chu đáo.

Hằng ngày, các đoàn người từ các tỉnh trong nước và ngoài nước đến chiêm bái cúng dường cây Đại-Bồ-đề.

Vào buổi chiều, các cận-sự-nam, cận-sự-nữ mặc đồ màu trắng lũ lượt dẫn nhau đến chiêm bái cúng dường, tụng kinh, hành-thiền, … cho đến giờ đóng cửa họ mới trở về nhà.

Như vậy, thời ấy chỉ có cây Đại-Bồ-đề được cung thỉnh sang trồng trên đảo-quốc Srilankā, mà không đề cập đến tượng Đức-Phật.

Tượng Đức-Phật (Buddharūpa)

Tượng Đức-Phật có từ thời-kỳ nào? Xuất hiện lần đầu tiên ở đâu?

Sở dĩ có câu hỏi này, là vì Tam-Tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi qua các thời-kỳ kết tập từ lần thứ nhất cho đến lần thứ tư dạy các hàng thanh-văn đệ-tử là bậc xuất-gia tỳ- khưu, tỳ-khưu-ni và các hàng tại gia là cận-sự-nam, cận- sự-nữ phải nên tôn kính cây Đại-Bồ-đề như tôn kính Đức-Phật, không nên chặt cành có tính cách phá hoại cây Đại-Bồ-đề.

Thật khó mà xác định chính xác, song do căn cứ của một vài sử liệu cho rằng:

“Tượng Đức-Phật có từ thời-kỳ Phật-lịch thế kỷ thứ VI, do các nhà nghệ thuật điêu khắc người Karika có đức-tin theo Phật-giáo, trong xứ Gandharaṭṭha, thuộc miền Bắc Ấn Độ thời xưa.”

 

Những nhà nghệ thuật này do tư duy rằng: “Phái Bà- la-môn có các tượng thần linh để họ dâng lễ cúng dường, thì Phật-giáo cũng nên có tượng Đức-Phật để làm nơi lễ bái, dâng lễ cúng dường.

Do đó, các nhà nghệ thuật điêu khắc này học hỏi, nghiên cứu về 32 tướng tốt của Đức-Phật và 80 tướng tốt phụ của Đức-Phật làm cơ bản, làm nền tảng để họ sáng tạo nên tượng Đức-Phật đầu tiên.”

Một sử liệu khác cho rằng:

“Tượng Đức-Phật đầu tiên có vào khoảng Phật-lịch 700 sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, do các nhà nghệ thuật điêu khắc, tạo hình trong xứ Gandharaṭṭha, thuộc miền Bắc Ấn Độ thời xưa.”

Tượng Đức-Phật có phù hợp với Phật-giáo hay không?

Tượng Đức-Phật thuộc trong điều Uddissakacetiya: Cetiya nơi mà người tạo nên ngôi Bảo-tháp, tượng Đức- Phật, v.v… để tôn thờ, lễ bái cúng dường, ...

Cho nên, tượng Đức-Phật phù hợp với Phật-giáo.

Biểu tượng của Phật-giáo

Cây Đại-Bồ-đề là một biểu tượng đặc biệt nhất của Phật-giáo, bởi vì Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu Đức-Phật Gotama tại dưới cội cây Assattha. Vì vậy, cây Assattha này được gọi là Mahābodhirukkha: Cây Đại-Bồ-đề của Đức-Phật Gotama.

* Cây Đại-Bồ-đề của Đức-Phật Gotama

Cây Đại-Bồ-đề này mọc tại khu rừng Uruvelā, nay gọi là Buddhagayā (Ấn Độ), là nơi tôn kính của các hàng

 

thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, chư tỳ-khưu, chư sa-di, chư tỳ-khưu-ni, chư sa-di-ni, toàn thể cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên hết lòng thành kính lễ bái cội Đại-Bồ-đề, cũng như thành kính lễ bái, cúng dường đến Đức-Phật Gotama.

Cho nên, Cây Đại-Bồ-đề của Đức-Phật Gotama là một biểu tượng của Phật-giáo (như trong tích “Cây Đại- Bồ-đề của Ngài Trưởng-lão Ānanda”).

 

* Cây Đại-Bồ-đề tại rừng núi Viên Không

Một cây Đại-Bồ-đề nhỏ được cung thỉnh từ Buddha- gayā tại khu rừng Uruvelā xưa, nơi mà Đức-Bồ-tát Siddhattha đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, đem về trồng tại rừng núi Viên Không, xã Tóc-tiên, huyện Tân-thành, tỉnh Bà- Rịa-Vũng-Tàu, để cho tất cả các hàng thanh-văn đệ-tử gần xa có cơ hội đến chiêm bái, đảnh lễ, lễ bái, cúng dường cội cây Đại-Bồ-đề, để gieo duyên lành trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Cây Đại-Bồ-đề này được trồng trên mảnh đất tại rừng núi Viên-Không, rồi xây dựng trở thành nơi tôn nghiêm lễ bái cúng dường đặt tên là Bồ-Đề Phật-Cảnh gồm có:

  • Động Bodhisattaguhāsīmā là động có hình Đức- Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đang thực-hành pháp-hành khổ-hạnh (dukkaracariyā) cũng là chỗ Sīmā nơi chư tỳ-khưu-Tăng hành tăng-sự (saṃghakamma).
  • Cây Đại-Bồ-đề (Mahābodhirukkha) được bao quanh bởi 10 tấm phù-điêu bằng đá cẩm thạch, được khắc 10 tích tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama thực-hành 10 pháp- hạnh ba-la-mật bậc thượng.

 

Quang cảnh xung quanh cây Đại-Bồ-đề được trang trí bởi 2 vị Rồng Xanh: một vị rồng từ trên núi bay xuống và một vị rồng từ dưới bay lên gặp nhau tại Bánh Xe Chuyển-Pháp-Luân có 2 chú nai bông quỳ 2 bên.

  • Bảy tuần lễ Đức-Phật Gotama hưởng pháp vị giải thoát (vimuttirasa) được tạo ra 7 cảnh tượng trưng, ý nghĩa như sau:
  • Tuần lễ thứ nhất gọi là Pallaṅkasattāha: Đức-Phật ngự trên bồ-đoàn quý báu trong lâu đài bằng inox tại dưới cội Đại-Bồ-đề hưởng pháp vị giải thoát (từ ngày 16 tháng tư đến ngày 22 tháng tư).
  • Tuần lễ thứ nhì gọi Animisasattāha: Đức-Phật đứng trên hòn đá trên cao không nháy mắt nhìn xuống cây đại- Bồ-Đề (từ ngày 23 tháng tư đến ngày 29 tháng tư).
  • Tuần lễ thứ ba gọi là Caṅkamasattāha: Đức-Phật ngự đi kinh hành trên con đường làm bằng đá hoa cương, mỗi bước có đóa hoa sen nâng đỡ (từ ngày 30 tháng tư đến ngày 6 tháng 5).
  • Tuần lễ thứ tư gọi là Ratanagharasattāha: Đức-Phật ngự trên lâu đài bằng inox, phía dưới móng làm bằng đá hoa cương, đặt trên hòn đá lớn (từ ngày 7 tháng 5 đến ngày 13 tháng 5).
  • Tuần lễ thứ năm gọi là Ajapālasattāha: Đức-Phật ngồi dưới cây da trong tấm phù điêu làm bằng đá cẩm thạch, cảnh 3 thiên-nữ Taṇhā, Aratī, Rāgā là công-chúa của Ác-Ma-thiên từ cõi Tha-hoá-tự-tại-thiên hiện xuống quyến rũ Đức-Phật. Ba thiên-nữ bất lực, nên hồi tâm sám hối, tán dương ca tụng Đức-Phật, rồi trở về (từ ngày 14 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5).

 

  • Tuần lễ thứ sáu gọi là Mucalindasattāha: Đức-Phật ngự trong hồ nước Mucalinda, trời mưa lạnh, Long- vương Mucalinda hiện ra vòng quanh 7 vòng bao quanh làm ấm Đức-Phật, phồng mang che mưa trên đầu Đức- Phật, tỏ lòng tôn kính Đức-Phật (từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 27 tháng 5).
  • Tuần lễ thứ bảy gọi là Rājāyatanasattāha: Đức-Phật ngồi dưới cây Rājāyatana trong tấm phù điêu làm bằng đá cẩm thạch, cảnh Đức-Phật ban Xá-lợi tóc cho 2 anh em lái buôn Tapussa và Bhallika (từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 5 tháng 6).
  • Hai bàn chân của Đức-Phật làm bằng đá cẩm thạch, trong lòng 2 bàn chân có chạm 108 biểu tượng mà mỗi biểu tượng là một hình ảnh có ý nghĩa trong pháp, được gắn trên vách đá.
  • Tấm phù-điêu phong cảnh Buddhagayā được khắc trên vách đá trong khuôn viên nền cội cây Đại-Bồ-đề.

Xung quanh nền cội cây Đại-Bồ-đề có 28 khung lan can bằng inox bao quanh.

Bồ Đề Phật Cảnh là một cảnh trí rất thanh-tịnh thiên nhiên và cũng rất tôn nghiêm tại rừng núi Viên Không.

Bánh xe Chuyển-Pháp-Luân gồm có 12 căm là sự luân chuyển theo tam-tuệ-luân: Trí-tuệ-học, trí-tuệ- hành, trí-tuệ-thành trong tứ Thánh-đế (3 x 4 = 12) là phần cốt lõi của Phật-giáo. Cho nên, bánh xe Chuyển- Pháp-Luân cũng là một biểu tượng của Phật-giáo.

Hai biểu tượng này, nếu người nào có sự hiểu biết giáo-pháp của Đức-Phật sâu sắc thì mới có thể nhận thức, biết được tính chất cao thượng của nó.

 

* Tượng Đức-Phật là một biểu tượng của Phật-Giáo

Tượng Đức-Phật cũng là một biểu tượng của Phật- giáo. Tượng Đức-Phật là một hình ảnh rất sống động, gần gũi với con người nhất, dễ cảm nhận và rất dễ gây ấn tượng sâu sắc nhất. Cho nên, tượng Đức-Phật là một biểu tượng, một hình ảnh để liên tưởng đến Đức-Phật, ngôi cao cả nhất mà các hàng thanh-văn đệ-tử hết lòng thành kính lễ bái cúng dường.

Tượng Đức-Phật theo mỹ thuật của mỗi dân tộc

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót, chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, thì Đức-Bồ-tát ấy có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ. Đó là lời dạy của Đức-Phật, mà mỗi tướng tốt như thế nào thì không có một ai từng thấy từng biết cả. Cho nên, các nhà nghệ thuật điêu khắc tạo hình theo óc tưởng tượng của mỗi người, dựa theo nền mỹ thuật của dân tộc mình để sáng tạo ra tượng Đức-Phật.

Mỗi nhà nghệ thuật, có một quan niệm riêng về cái đẹp và khả năng thẩm mỹ khác nhau. Mặc dù họ đã học hỏi nghiên cứu về 32 tướng tốt của Đức-Phật và 80 tướng tốt phụ của Đức-Phật, nhưng óc tưởng tượng của mỗi nhà nghệ thuật mang cá tính và tinh thần của dân tộc của mình.

Vì vậy, Tượng Đức-Phật Gotama được tạo ra qua mỗi thời-kỳ, mỗi dân tộc do mỗi nhà nghệ thuật có hình dáng không giống nhau. Tuy nhiên, cũng có đường nét tương tự, cho nên, khi hàng thanh-văn đệ-tử nào nhìn thấy tượng thờ, thì cũng có thể nhận biết được đó là Tượng Đức-Phật Gotama.

Vì vậy, các hàng thanh-văn đệ-tử liền liên tưởng đến

 

Đức-Phật có 9 ân Đức-Phật cao thượng, nên phát sinh đức-tin trong sạch, tỏ lòng tôn kính, lễ bái, dâng lễ cúng dường lên Đức-Phật một cách cung kính.

Lễ bái cúng dường tượng Đức-Phật như thế nào?

Tượng Đức-Phật dù làm bằng chất liệu gì, như làm bằng xi măng cốt sắt, hoặc bằng đồng, bằng bạc, bằng vàng, bằng ngọc, bằng đá quý, bằng gỗ quý, thậm chí tượng Đức-Phật bằng giấy, dù nhỏ, dù lớn v.v… thì các hàng thanh-văn đệ-tử cũng không phải đảnh lễ, cúng dường nơi tượng Đức-Phật đồng, tượng Đức-Phật vàng, tượng Đức-Phật ngọc, … mà thật ra, các hàng thanh- văn đệ-tử khi nhìn thấy, chiêm ngưỡng tượng Đức-Phật ấy, cần phải niệm tưởng đến 9 ân Đức-Phật.

Cho nên, khi đảnh lễ chỉ đảnh lễ 9 ân Đức-Phật, khi lễ bái chỉ lễ bái đến 9 ân Đức-Phật, khi cúng dường chỉ cúng dường đến 9 ân Đức-Phật, khi niệm Phật chỉ niệm đến 9 ân Đức-Phật mà thôi.

Như vậy, Tượng Đức-Phật là đối tượng bên ngoài, để niệm tưởng đến 9 ân Đức-Phật bên trong với đại-thiện- tâm trong sáng của mình.

Vì vậy, Tượng Đức-Phật tạo ra bằng chất liệu gì, hình dáng, tư thế, ... khác nhau như thế nào, cũng chỉ là đối tượng hình thức bên ngoài mà thôi. Khi các hàng thanh- văn đệ-tử chiêm bái, cung kính đảnh lễ, dâng lễ cúng dường, ... nơi tượng Đức-Phật, thì phải luôn luôn niệm tưởng đến 9 ân Đức-Phật bên trong với đại-thiện-tâm trong sáng của mình.

Tuy nhiên, hình dáng, tư thế tượng Đức-Phật cũng có tác động đến tư tưởng, tình cảm của các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

 

Thời xưa ở xứ Ấn Độ, các nhà nghệ thuật điêu khắc tạo hình tượng Đức-Phật trong tư thế ngồi đang Chuyển-Pháp-Luân, phía dưới bồ-đoàn, ở giữa có bánh xe Chuyển-Pháp-Luân, hai bên có 2 con nai nhóm 5 tỳ-khưu. Đó là một hình ảnh rất sống động, gợi lại cho các hàng thanh-văn đệ-tử liên tưởng về quá-khứ, lần đầu tiên Đức-Phật thuyết bài kinh Chuyển-Pháp-Luân tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, để tế độ nhóm

5 tỳ-khưu: Ngài Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji.

Khi các hàng thanh-văn đệ-tử nào chiêm ngưỡng tượng Đức-Phật trong tư thế Chuyển-Pháp-Luân, diễn tả lại bối cảnh lịch sử đầu tiên trong Phật-giáo, tượng trưng Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo lần đầu tiên xuất hiện trên thế gian, cho nên, các hàng thanh-văn đệ-tử ấy dễ dàng phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo. Như vậy, tượng Đức-Phật là đối tượng giúp cho các hàng thanh-văn đệ-tử phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo, chính nhờ đức-tin này sẽ làm nền-tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh và tăng trưởng.

Tích Ngài Trưởng-lão Phusadeva ở tại đảo Srilankā, hằng ngày Ngài làm phận sự làm sạch sẽ ngôi Bảo tháp xong, rồi Ngài thực-hành niệm 9 ân-Đức-Phật.

Một hôm Ác-ma-thiên hiện xuống quấy phá, Ngài Trưởng-lão Phusadeva phát hiện ra Ác-ma-thiên, nên Ngài tha thiết khẩn khoản Ác-ma-thiên biến hóa lại kim thân của Đức-Phật Gotama cho Ngài chiêm ngưỡng.

Ác-ma-thiên biến hóa lại kim thân của Đức-Phật Gotama, Ngài chú tâm chiêm ngưỡng, có đức-tin trong sạch niệm 9 ân-Đức-Phật, phát sinh hỷ lạc đồng sinh với đại-thiện-tâm chưa từng có, rồi Ngài thực-hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế,

 

chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tại ngôi Bảo tháp ấy.

(Tích trong Chú-giải Tạng-luật Parivara aṭṭhakathā)

 

 

 

 

  1. ĐỨC-PHẬT ĐỘC-GIÁC (Paccekabuddha)

Đức-Phật Độc-Giác là Bậc đã tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán gọi là Đức-Phật Độc-Giác.

Đức-Phật Độc-Giác không chế định ra ngôn ngữ thuyết-pháp tế độ chúng-sinh khác để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, cho nên, gọi là Đức-Phật Độc-Giác (Paccekabuddha).

Đức-Phật Độc-Giác có thể có nhiều Vị cùng thời xuất hiện trên thế gian trong thời-kỳ không có Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác. Song mỗi Đức-Phật Độc-Giác đều tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy.

Để trở thành Đức-Phật Độc-Giác thì Đức-Bồ-tát Độc-Giác (Paccekabodhisatta) cần phải thực-hành 20 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ và 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung.

Đức-Bồ-tát Độc-Giác có 3 hạng:(1)

  1. Đức-Bồ-tát Độc-Giác có trí-tuệ siêu-việt,
  2. Đức-Bồ-tát Độc-Giác có đức-tin siêu-việt,
  3. Đức-Bồ-tát Độc-Giác có tinh-tấn siêu-việt,

 
   
 

 

1 Tìm hiểu quyển VI, VII, VIII: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật, cùng soạn-giả.

 

  • Sau khi được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định xong rồi, Đức-Bồ-tát Độc-Giác có trí-tuệ siêu- việt cần phải thực-hành cho đầy đủ trọn vẹn 20 pháp- hạnh ba-la-mật suốt 2 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, để trở thành Đức-Phật Độc-Giác.
  • Sau khi được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định xong rồi, Đức-Bồ-tát Độc-Giác có đức-tin siêu- việt cần phải thực-hành cho đầy đủ trọn vẹn 20 pháp- hạnh ba-la-mật suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, để trở thành Đức-Phật Độc-Giác.
  • Sau khi được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định xong rồi, Đức-Bồ-tát Độc-Giác có tinh-tấn siêu-việt cần phải thực-hành cho đầy đủ trọn vẹn 20 pháp-hạnh ba-la-mật suốt 8 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại- kiếp trái đất, để trở thành Đức-Phật Độc-Giác.

Đức-Bồ-tát Độc-Giác ấy sinh làm người nam trong thời-kỳ không có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian và cũng không còn giáo-pháp của Đức-Phật.

Đức-Bồ-tát Độc Giác ấy xuất gia, tự mình thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền- não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, gọi là Đức-Phật Độc-Giác, bởi vì Đức-Phật Độc-Giác không chế định ra ngôn ngữ để thuyết pháp tế độ chúng- sinh khác cùng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, nên không có chúng-sinh nào chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, y theo Đức-Phật.

Đức-Phật Độc Giác có thể có hằng trăm Vị trong cùng một thời-kỳ, mà mỗi Đức-Phật Độc-Giác đều không có thầy chỉ dạy.

 

Vấn: Đức-Phật Độc-Giác không thầy chỉ dạy, tự mình đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn như Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác.

Vậy, do nhân nào mà Đức-Phật Độc-Giác không thuyết pháp tế độ chúng-sinh cùng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài được?

Đáp: Sở dĩ Đức-Phật Độc-Giác không thuyết pháp tế độ chúng-sinh cùng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài được, là vì Đức-Phật không chế định ra ngôn ngữ để thuyết pháp tế độ chúng-sinh được.

Ví dụ một cách nôm na như người câm nằm ngủ thấy một giấc mộng lành, cảm thấy sung sướng, vô cùng hoan hỷ, nhưng không thể nói cho người khác biết được.

(Còn bậc Thánh Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đã từng lắng nghe, học hỏi chánh- pháp của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, cho nên chư bậc Thánh thanh-văn đệ-tử ấy có khả năng thuyết pháp giảng dạy, tế độ chúng-sinh cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn y theo Đức-Phật, trở thành 4 bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.)

 

 

  1. BẬC THÁNH THANH-VĂN-GIÁC (Sāvakabuddha)

 

Bậc Thánh Thanh-văn-giác bậc Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, đã lắng nghe chánh-pháp trực tiếp từ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, hoặc các hàng Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, rồi thực-hành đúng theo pháp-hành

 

thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành 4 bậc Thánh Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Thánh Thanh-văn-giác có 3 hạng:

  1. Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác.
  2. Bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác.
  3. Bậc Thánh Thanh-văn-giác hạng thường.

3.1- Bậc Thánh Tối-thượng Thanh-văn-giác (Aggasāvaka)

Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác (Aggasāvaka) là bậc Thánh đệ nhất trong hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, do Ngài đã từng phát nguyện và đã được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác quá-khứ thọ ký.

Mỗi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác chỉ có 2 bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác mà thôi.

  • Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ bậc nhất trong các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
  • Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác bên trái có phép thần-thông bậc nhất trong các hàng Thánh thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Để trở thành bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác, thì vị bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác (Aggasāvaka- bodhisatta)(1) cần phải phát nguyện muốn trở thành bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác bên phải có trí-tuệ

 
   
 

 

1 Tìm hiểu quyển VI, VII, VIII: Pháp-Hạnh Ba-La-Mật, cùng soạn-giả.

 

bậc nhất hoặc bên trái có phép thần-thông bậc nhất, rồi được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định thời gian sẽ là vị Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào trong thời vị-lai.

Sau khi được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xong, vị bồ-tát ấy trở thành vị bồ-tát Tối-thượng thanh- văn-giác và cần phải thực-hành đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ trong suốt thời gian 1 a- tăng-kỳ(1) và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

Đến thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy xuất hiện trên thế gian, vị bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác ấy chắc chắn trực tiếp đến hầu Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác ấy, lắng nghe chánh-pháp từ kim ngôn của Đức- Phật ấy, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật ấy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, gọi là bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác đúng theo ý nguyện mà tiền-kiếp của vị bồ-tát ấy đã phát nguyện và đúng như Đức-Phật quá- khứ đã thọ ký.

Đức-Phật Gotama có 2 vị Thánh Tối-thượng thanh- văn-giác là:

  • Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta bên phải có trí-tuệ bậc nhất trong các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
  • Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna bên trái có phép thần-thông bậc nhất trong các hàng Thánh thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

 
   
 

 

(1) A-tăng-kỳ thời gian không thể đếm bằng số,

Đại-kiếp trái đất trải qua 4 a-tăng-kỳ thành - trụ - hoại - không.

 

3.2- Bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác (Mahāsāvaka)

Bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác bậc Thánh có đức- hạnh đặc biệt xuất sắc nhất trong các hàng Thánh Thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Để trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác, thì mỗi vị Bồ-tát thanh-văn-giác cần phải phát nguyện muốn trở thành bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác có đức-hạnh nào đặc biệt xuất sắc nhất trong hàng Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.

Khi vị Bồ-tát thanh-văn-giác được Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác thọ ký xác định thời gian và sẽ là vị Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào trong thời vị-lai.

Sau khi được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xong, vị Bồ-tát ấy trở thành vị Bồ-tát Đại-thanh-văn- giác (mahāsāvakabodhisatta), rồi cần phải thực-hành đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ trong suốt thời gian 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

Đến thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy xuất hiện trên thế gian, vị bồ-tát Đại-thanh-văn-giác ấy chắc chắn trực tiếp đến hầu Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật ấy, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật ấy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra- hán gọi là bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác đúng theo ý nguyện mà tiền-kiếp của vị Bồ-tát ấy đã phát nguyện và đúng như Đức-Phật quá-khứ đã thọ ký.

 

Đức-Phật Gotama 80 vị Thánh Đại-thanh-văn- giác, trong số ấy có 41 vị Thánh Đại-thanh-văn-giác mà mỗi Vị có mỗi đức-hạnh đặc biệt xuất sắc nhất trong các hàng Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

 

3.3- Bậc Thánh Thanh-văn-giác hạng thường (Pakatisāvaka)

Bậc Thánh thanh-văn-giác hạng thường là bậc Thánh Thanh-văn-giác không có đức-hạnh nào đặc biệt xuất sắc trong các hàng Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Để trở thành bậc Thánh thanh-văn-giác hạng thường này, thì vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường (pakati- sāvakabodhisatta) ấy cần phải thực-hành đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ trong suốt thời gian dưới 100 ngàn đại-kiếp trái đất (con số thời gian này không nhất định).

Trong thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác còn hiện hữu trên thế gian, hoặc Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác đã tịch diệt Niết-bàn rồi, nhưng giáo-pháp của Đức-Phật vẫn còn lưu truyền trên thế gian, vị Bồ-tát thanh-văn- giác hạng thường đến hầu chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả:

  • Có số chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến hoài-nghi, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

 

  • Có số chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
  • Có số chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại vi-tế, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
  • Có số chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra- hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền- não còn lại là tham, si, ngã-mạn, phóng-tâm, buồn-chán, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Vị Bồ-tát thanh-văn-giác trở thành bậc Thánh-nhân nào hoàn toàn tùy thuộc vào năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ- pháp-chủ của mỗi vị Bồ-tát thanh-văn-giác.

Như vậy, Buddha có nghĩa là giác ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, có 3 bậc giác ngộ là:

  • Sammāsambuddha: Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.
  • Paccekabuddha: Đức-Phật Độc-Giác.
  • Sāvakabuddha: Bậc Thánh thanh-văn-Giác là đệ-tử

của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

 

(Xong phần Đức-Phật)

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications