Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Tích Trưởng Lão Meghiya ( Mê Kỳ Dạ ) – vị tỳ kheo thị giả nông nổi , ham chứng đắc
Tích Trưởng Lão Meghiya ( Mê Kỳ Dạ ) – vị tỳ kheo thị giả nông nổi , ham chứng đắc
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:535

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2023-03-22 20:36:18
Chỉnh sửa gần nhất : 10/29/2025 18:01:53
Tích Trưởng Lão Meghiya ( Mê Kỳ Dạ ) – vị tỳ kheo thị giả nông nổi , ham chứng đắc

Tích Trưởng Lão Meghiya ( Mê Kỳ Dạ ) – vị tỳ kheo thị giả nông nổi , ham chứng đắc

Meghiya Thera. Ngài thuộc dòng họ Sākyan ở Kapilavatthu, và sau khi gia nhập Tăng đoàn, ngài đã từng là thị giả của Đức Phật trong một thời gian. Một lần, khi Đức Phật đang ở cùng ngài tại Cālikā (vào năm thứ mười ba sau khi Giác ngộ, BuA.3), Meghiya đã đến Jantugāma để khất thực, và khi trở về, ngài rất thích một vườn xoài bên bờ sông Kimikālā. Ngài đã xin phép Đức Phật để được ở lại đó thiền định. Hai lần Đức Phật từ chối, nhưng đến lần thứ ba, Đức Phật đã cho phép ngài đi. Tuy nhiên, ở đó, Meghiya bị những ý nghĩ xấu xa giày vò và đã trở về với Đức Phật. Đức Phật đã thuyết giảng cho ngài về năm điều làm cho tâm chín muồi cho sự giải thoát: bạn tốt, đời sống đức hạnh, lời nói hữu ích, sự tinh tấn, trí tuệ và khuyên răn ngài. Sau đó, Meghiya đã đạt được quả vị A-la-hán. A.iv.354ff.; Ud.iv.1; Tuy nhiên, Thag.66; AA.ii.794; DhA.i.289 nói rằng vào cuối bài thuyết pháp của Đức Phật, Meghiya đã trở thành một vị thánh nhập lưu.

Chín mươi mốt đại kiếp trước, khi Đức Phật Vipassī viên tịch, đã xảy ra một trận động đất lớn. Dân chúng vô cùng kinh hãi, nhưng Vessavana đã giải thích lý do và xua tan nỗi sợ hãi của họ. Meghiya lúc đó là một gia chủ, và sau khi nghe về những phẩm chất của Đức Phật, ngài tràn ngập niềm vui. Mười bốn đại kiếp trước, ngài là một vị vua tên là Samita (UdA.217ff.; ThagA.i.149f). Rõ ràng ngài được đồng nhất với Buddhasaññaka của Apadāna. Ap.i.151f.

 

Meghiya Thera. He belonged to a Sākyan family of Kapilavatthu, and having joined the Order, was for some time the personal attendant of the Buddha. Once, when the Buddha was staying with him at Cālikā (this was in the thirteenth year after the Enlightenment, BuA.3), Meghiya went to Jantugāma for alms, and, on his return, was much attracted by a mango grove on the banks of the river Kimikālā. He asked the Buddha's permission to dwell there in meditation. Twice the Buddha refused, but, on his third request, let him go. There, however, Meghiya was consumed by evil thoughts and returned to the Buddha. The Buddha preached to him on the five things which make the heart ripe for emancipation   good friends, virtuous life, profitable talks, zealous exertion, insight   and admonished him. Meghiya thereupon attained arahantship. A.iv.354ff.; Ud.iv.1; Thag.66; AA.ii.794; DhA.i.289 says, however, that at the end of the Buddha's sermon Meghiya became a sotāpanna.

Ninety one kappas ago, on the death of Vipassī Buddha, there was a great earthquake. The people were very frightened, but Vessavana explained to them the reason for it and dispelled their fears. Meghiya was then a householder, and having thus heard of the Buddha's qualities, was filled with joy. Fourteen kappas ago he was a king named Samita (UdA.217ff.; ThagA.i.149f). He is evidently to be identified with Buddhasaññaka of the Apadāna. Ap.i.151f.

Tích Trưởng Lão Meghiya ( Mê Kỳ Dạ ) – vị tỳ kheo thị giả nông nổi , ham chứng đắc

Chú Giải Kinh Pháp Cú Quyển I

Phẩm Tâm: Tích Trưởng Lão Mê Kỳ Dạ

“Phandanaṃ capalaṃ cittaṃ,
Durakkhaṃ dunnivārayaṃ;
Ujuṃ karoti medhāvī,
Usukāro’va tejanaṃ”.
“Vārijo’va thale khitto,
Okamokata ubbhato;
Pariphandati’daṃ cittaṃ,
Māradheyyaṃ pahātaveti”.

“Tâm xao động không yêu,
Khó giữ, khó kiểm định.
Người trí điều tâm chỉnh,
Như thợ khéo uốn tên”.

“Như thủy tộc bị vớt,
Bỏ lên bờ xa nước.
Tâm nầy run lạ thường,
Hãy thoát cảnh Ma vương”.

Hai bài kệ Pháp Cú nầy (33 – 34) Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài ngự tại núi Cālika (Trà Lý Ca), đề cập đến Đại đức Meghiya (Mê Kỳ Dạ).
(Sự tích Đại đức Meghiya có giải rộng trong kinh Meghiya. Nơi đây chỉ tóm tắt sơ lược.)

Trong thời kỳ Đại đức Ānanda chưa xuất gia, đại đức Meghiya là vị Sa môn tùy tùng của Đức Bổn Sư, một hôm trông thấy một vườn xoài, cảnh trí u nhã. Đại đức phát tâm mãnh liệt, muốn vào đó để tu tập, mong sớm đắc đạo quả. Đại đức bèn ngỏ lời xin phép Đức Thế Tôn, nhưng Ngài đã ngăn cản Đại đức ba lần mà Đại đức vẫn quyết tâm bỏ Ngài ra đi. Vào đến vườn xoài, Đại đức cố gắng hành Sa môn pháp, nhưng vì tâm còn dục vọng chưa tự chủ được, nên phiền não dấy lên. Đại đức thối chuyển bèn quay về tạ tội với Đức Bổn Sư.

Khi ấy Đức Bổn Sư qưở trách rằng:

– Nầy Meghiya! Tội của ông làm thật nặng nề lắm, Ta đã can ngăn, bảo ông rằng: “Nầy Meghiya, hãy khoan. Hiện giờ Ta chỉ có một mình, chừng nào ta kiếm thấy vị Tỳ khưu khác thay thế cho ông, rồi ông hãy đi”. Ông đã chẳng kể gì đến lời yêu cầu của Ta, bỏ Như Lai một mình ra ra đi. Mang danh Tỳ khưu mà có tâm nông nổi, không vâng lời Như Lai, thì thật là không nên vậy. Trái lại, ông nên sửa đổi tâm mình sao cho nhẹ nhàng uyển chuyển, mềm mại dễ uốn nắn.

Nói rồi Đức Bổn Sư ngâm kệ rằng:

“Phandanaṃ capalaṃ cittaṃ,
Durakkhaṃ dunnivārayaṃ;
Ujuṃ karoti medhāvī,
Usukāro’va tejanaṃ”.

“Tâm phàm xao xuyến rộn ràng,
Rất khó kiểm soát, khó hàng phục thay!
Người trí uốn nắn tâm ngay,
Dễ dàng như thợ có tài uốn tên”.

“Vārijo’va thale khitto,
Okamokata ubbhato;
Pariphandati’daṃ cittaṃ,
Māradheyyaṃ pahātaveti”.

“Như thủy tộc nằm vứt trên,
Xa bờ cách nước, vẫy lên hãi hùng.
Tâm nầy run rẩy hãi hùng,
Hãy mau chóng thoát khỏi vùng ác ma”.

CHÚ GIẢI:
Trong bài kệ Phạn ngữ, tiếng Phandanaṃ nghĩa là xao xuyến, rung động khi tiếp xúc với cảnh (đối tượng) là Ngũ trần (Sắc, Thinh, Khí, Vị, Xúc).

Capalaṃ: Rộn ràng, không trú vững trong một đối tượng, giống như trẻ con ở miền quê, không giữ được một oai nghi.

Cittaṃ: Tâm là thức (viññāṇa) đây nói về tứ đại tâm, là tâm nương theo đối tượng ở bốn cõi: Dục, Sắc, Vô sắc và Siêu thế.

Durakkhaṃ: Khó gìn giữ tâm không cho nó đeo níu theo Ngũ trần là đối tượng mà nó ưa thích mỗi khi có sự tiếp xúc. Cũng như khó giữ gìn một con bò không cho nó ăn lúa, khi thả nó tự do đi trong đồng lúa chín.

Dunnivārayaṃ: Khó kiểm soát, khó giữ gìn, khó ngăn chận không cho tâm chạy theo đối tượng khác với đề mục đã chọn.

Usukāro’va tejanaṃ: Cũng như người thợ chuốt tên khi vô rừng chọn một khúc cây rễ chắc đem về, đẽo vót thành mũi tên, cho nó trở nên mềm dịu, dễ uốn nắn, đoạn buộc ép nó vào một cây cột thật chặt ngay thẳng, hoàn thành một mũi tên không lệch lạc, mà người ấy dùng bắn một sợi tóc ở đàng xa, với mũi tên ấy, người thợ vào triều biểu diễn tài nghệ bắn cung cho đức vua và bá quán xem, ắt được ban thưởng trọng hậu như thế nào, thì cũng như thế ấy, một nam tử hiền minh có đủ trí tuệ trước hết trọ trì hạnh Đầu đà ngụ nơi rừng vắng để cho phàm tâm của mình bớt xao xuyến rộn ràng. Như người thợ chuốt tên đẽo vót các phiền não thô sơ bên ngoài cái phàm tâm, tẩm nó bằng thứ dầu yêu mến đức tin nơi Chánh Pháp. Hơ nó lên ngọn lửa nóng là sự nhiệt thành tinh tấn cả thân tâm, đem nó lên buộc ép trên cây cột Chỉ, Quán (Samathavipassanā) làm cho nó trở nên ngay thẳng, phẳng phiêu, rồi ắt sẽ thấu triệt các pháp hữu vi, phá vỡ cái khối vô minh vĩ đại, chứng đắc Tam minh, Lục thông, Cửu Chánh Pháp. Khi làm chủ được các pháp siêu nhân ấy rồi, người trở nên là bậc Ứng Cúng tối thượng rất đáng thọ dụng các vật dâng cúng của tín thí vậy.

Vārijo’va: Như là loài thủy tộc, giống vật sống dưới nước như cá.

Thale khitto (bị vứt lên bờ): Là bị người ta dùng tay chân, lưới, chài, hoặc phương tiện nào khác bắt được bỏ nằm trên bờ.

Okamokata ubbhato: Trong thành ngữ nầy, chữ Oka có đủ cả hai nghĩa: một là nước, như nói okapuṇṇehicīvarehi (với những li đầy nước); hai là chỗ ở như đã nói:

Okaṃ pahāya aniketasārī (bỏ nhà làm kẻ lang thang không nhà). Loài thủy tộc sanh trưởng dưới nước, thì nước là chỗ trú của nó vậy. Ubbhato là bị vớt lên, bị kéo lên khỏi chỗ ở.

Pariphandatidaṃ cittaṃ: Cũng như con cá bị vớt lên khỏi nước là chỗ ở thường xuyên của nó, bị bỏ nằm trên khô, nó hằng vùng vẫy như thế nào, thì cái phàm tâm này cũng thế; khi nó bị kéo lôi ra khỏi gian nhà ngũ dục mà nó hằng vui say thỏa thích, bị đặt lên đề mục niệm Minh Sát, lúc mà hành giả thân tâm tinh tấn, cần tu nhiệt tâm tinh cần để mau thoát khỏi cái vòng luân hồi, gọi là cảnh giới của ác ma thì nó
cũng run rẩy, vẫy vùng không chịu yên lặng. Tuy nhiên là kẻ nam tử, là bậc trí tuệ cũng không vì thấy khó mà bỏ qua hay là xao lãng phận sự rèn luyện tâm mình, uốn nắn nó trở nên chân chánh và dễ sử dụng. Hoặc là: Cái phàm tâm nầy, vì còn bị trói buộc trong vòng luân hồi khổ não, còn ở dưới quyền thao túng của Ma vương cho nên nó run rẩy hãi hùng như loài thủy tộc bị vớt lên khỏi nước vậy. Hãy mau thoát khỏi
cảnh giới của ác ma, thoát ra cái gọi là vòng luân hồi khổ não hằng làm cho tâm phàm run rẩy hãi hùng.

Bài kệ vừa dứt, Đại đức Meghiya chứng đắc Tu Đà Hườn quả, trong số các Tỳ khưu khác cũng chứng đạt Thánh quả như Tù Đà Hườn.

Dịch Giả Cẩn Đề
Ngài Mê Kỳ Dạ quyết tu thiền,
Ngặt nỗi tâm phàm khó định yên!
Thầy dạy: Hãy khoan chờ thị giả!
Trò xin: Cho gấp đến lâm tuyền!
Rừng sâu tưởng chứa nhiều pháp tịnh,
Cảnh vắng càng sanh lắm sự phiền!
Rốt cuộc lui về nương bóng Phật,
Buổi nầy, chưa hiệp đủ nhân duyên.
DỨT TÍCH ĐẠI ĐỨC MEGHIYA

.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm

Trung A Hàm 056. Kinh Di-hê Vai trò : Người nghe



837 Top 80 vị trưởng lão tăng đoàn Đức Phật Xóa


© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications