Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Thôn trưởng ASIBANDHAKAPUTTA
A gāmani (headman). He came to the Buddha in the Pārileyyaka Mango Grove in Nālandā and asked him various questions, recorded in the Samyutta Nikāya (iv.312ff). One of these related to the custom among the Pacchābhumaka (Westlander) brahmins (where, perhaps, he himself belonged) of lifting a man up when dead and carrying him out, calling him by name to speed him heavenward. Surely the Buddha who is an arahant, etc., could make the whole world go to heaven thus if he chose. To this the Buddha answers no, and explains, by various similes, that only a man's kamma can determine where he will be reborn. On another occasion, the Buddha tells him, in answer to a question, that the Buddha teaches the Dhamma in full only to certain disciples and not to others; just as a farmer sowing seed selects, first the best field, then the moderate, and lastly, the field with the worst soil.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:748

Các tên gọi khác

A gāmani (headman). He came to the Buddha in the Pārileyyaka Mango Grove in Nālandā and asked him various questions, recorded in the Samyutta Nikāya (iv.312ff). One of these related to the custom among the Pacchābhumaka (Westlander) brahmins (where, perhaps, he himself belonged) of lifting a man up when dead and carrying him out, calling him by name to speed him heavenward. Surely the Buddha who is an arahant, etc., could make the whole world go to heaven thus if he chose. To this the Buddha answers no, and explains, by various similes, that only a man's kamma can determine where he will be reborn. On another occasion, the Buddha tells him, in answer to a question, that the Buddha teaches the Dhamma in full only to certain disciples and not to others; just as a farmer sowing seed selects, first the best field, then the moderate, and lastly, the field with the worst soil.

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2025-09-24 07:55:47
Chỉnh sửa gần nhất : 10/10/2025 16:13:08

  • Asibandhakaputta

A gāmani (headman). He came to the Buddha in the Pārileyyaka Mango Grove in Nālandā and asked him various questions, recorded in the Samyutta Nikāya (iv.312ff). One of these related to the custom among the Pacchābhumaka (Westlander) brahmins (where, perhaps, he himself belonged) of lifting a man up when dead and carrying him out, calling him by name to speed him heavenward. Surely the Buddha who is an arahant, etc., could make the whole world go to heaven thus if he chose. To this the Buddha answers no, and explains, by various similes, that only a man's kamma can determine where he will be reborn. On another occasion, the Buddha tells him, in answer to a question, that the Buddha teaches the Dhamma in full only to certain disciples and not to others; just as a farmer sowing seed selects, first the best field, then the moderate, and lastly, the field with the worst soil.

Asibandhakaputta tells the Buddha that, according to Nigantha Nātaputta (he is described as a Nigantha-Sāvaka, S.iv.317), as a man habitually lives so goes he forth to his destiny. The Buddha points out the absurdity of this view and tells him that all Tathāgatas lay down definite rules for the guidance of their followers, so that they may attain development.

It is recorded (S.iv.322ff) that once, when Nālandā was stricken with famine, Asibandhaka visited Nigantha Nātaputta, who asks him to go and defeat the Buddha in debate. Asibandhaka is at first reluctant, but his teacher propounds to him a dilemma to put to the Buddha, and he agrees to go.

Is it true that the Buddha extols compassion to clansmen? Why, then, does the Buddha ask for alms in a place stricken with famine? The Buddha's answer is that there are eight ways of injuring clansmen, and that begging for alms is not one of them. And Asibandhakaputta, pleased with the answer, declares himself to be a follower of the Buddha.

Asibandhakaputta's conversation with the Buddha, in which the Buddha tells him that only a man's kamma can determine the state of his rebirth, is quoted in the Nettippaka-rana (pp.45-47).

Một gāmani (trưởng làng). Ông đến gặp Đức Phật tại Vườn Xoài Pārileyyaka ở Nālandā và hỏi Ngài nhiều câu hỏi khác nhau, được ghi lại trong Samyutta Nikāya (iv.312ff). Một trong những câu hỏi này liên quan đến phong tục của các Bà-la-môn Pacchābhumaka (có lẽ là nơi ông thuộc về) là nâng một người chết lên và mang người đó ra ngoài, gọi tên người đó để đưa người đó lên thiên đường nhanh chóng. Chắc chắn Đức Phật, một vị A-la-hán, v.v., có thể khiến cả thế giới lên thiên đường như vậy nếu Ngài muốn. Đức Phật trả lời là không, và giải thích, bằng nhiều ví dụ khác nhau, rằng chỉ có nghiệp của một người mới có thể quyết định nơi người đó sẽ tái sinh. Trong một dịp khác, Đức Phật nói với ông, để trả lời một câu hỏi, rằng Đức Phật chỉ giảng dạy Giáo pháp đầy đủ cho một số đệ tử nhất định chứ không phải cho những người khác; giống như một người nông dân gieo hạt giống, trước tiên chọn thửa ruộng tốt nhất, sau đó là thửa ruộng trung bình, và cuối cùng là thửa ruộng có đất xấu nhất.

Asibandhakaputta thưa với Đức Phật rằng, theo Nigantha Nātaputta (ông được mô tả là một Nigantha-Sāvaka, S.iv.317), một người sống theo thói quen như thế nào thì sẽ đi đến định mệnh của mình như vậy. Đức Phật chỉ ra sự phi lý của quan điểm này và nói với ông rằng tất cả các Như Lai đều đặt ra những quy tắc cụ thể để hướng dẫn tín đồ của mình, để họ có thể đạt được sự phát triển.

Kinh sách ghi lại (S.iv.322ff) rằng một lần nọ, khi Nālandā bị nạn đói hoành hành, Asibandhaka đến gặp Nigantha Nātaputta, và được Nigantha Nātaputta mời đi tranh luận với Đức Phật. Ban đầu Asibandhaka tỏ ra ngần ngại, nhưng vị thầy của ông đã đưa ra một tình huống khó xử để trình bày với Đức Phật, và ông đã đồng ý.

Có đúng là Đức Phật ca ngợi lòng từ bi đối với người trong tộc không? Vậy tại sao Đức Phật lại đi khất thực ở một nơi đang có nạn đói? Đức Phật trả lời rằng có tám cách làm hại người trong tộc, và khất thực không phải là một trong số đó. Và Asibandhakaputta, hài lòng với câu trả lời, tuyên bố mình là đệ tử của Đức Phật.

Cuộc trò chuyện giữa Asibandhakaputta và Đức Phật, trong đó Đức Phật nói với ông rằng chỉ có nghiệp của một người mới có thể quyết định trạng thái tái sinh của người đó, được trích dẫn trong Nettippaka-rana (trang 45-47).

 

Xuất hiện ở Kinh Nghiệp quả  và trung a hàm Wiki Tâm Học -Danh sách : Trung A Hàm 017. Kinh Già-di-ni

 

Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ đức Thế Tôn rồi tìm nơi hợp lẽ kế bên để ngồi, rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch đức Thế Tôn, các vị Bà-la-môn trú đất phương Tây, mang theo bình nước, đeo vòng hoa huệ (sevāla), nhờ nước được thanh tịnh. Những người thờ lửa, khi một người đã chết, đã mệnh chung, họ nhấc bổng và mang vị ấy ra ngoài (uyyāpenti), kêu tên vị ấy lên, và dẫn vị ấy vào Thiên giới. Còn Ngài, bạch đức Thế Tôn, là bậc Arahán, Chánh Đẳng Giác, Ngài có thể làm như thế nào cho toàn thể chúng sinh, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh lên cõi thiện, cõi trời và cõi người này?

- Này vị trưởng thôn, ông hãy bình tĩnh và kiên nhẫn trả lời Như Lai nhé.

Ông nghĩ thế nào về việc một kẻ sát sinh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Rồi một hội chúng đông đảo, tụ tập lại, chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, tán dương rằng: “Mong cho vị này khi nào chết sẽ được sinh lên cõi thiện, cõi trời và cõi người!”. Ông nghĩ thế nào? Này vị trưởng thôn, người ấy do việc cầu khẩn của đại chúng ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy liệu có được sinh lên cõi thiện, cõi trời và cõi người này không?

- Thưa không được, bạch đức Thế Tôn.

- Lại nữa, vị trưởng thôn, có người lấy một tảng đá lớn ném xuống hồ nước sâu. Rồi một đám người đông đảo, tụ tập lại, chắp tay đi khắp nơi và nói rằng: “Hãy đứng lên, tảng đá lớn! Hãy nổi lên, tảng đá lớn! Hãy trôi vào bờ, này tảng đá lớn!”. Ông nghĩ thế nào, vị trưởng thôn, tảng đá lớn ấy do việc cầu khẩn của đại chúng ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn thì có thể trồi lên, hay nổi lên, hay trôi dạt vào bờ không?

- Thưa không được, bạch đức Thế Tôn.

- Cũng vậy, này trưởng thôn, người nào sát sinh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Rồi một hội chúng đông đảo, tụ tập lại, chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, tán dương rằng: “Mong cho vị này khi nào chết sẽ được sinh lên cõi thiện, cõi trời và cõi người!”. Nhưng người ấy, sau khi thân hoại mạng chung thì sẽ bị đọa vào cõi dữ, súc sinh, đọa xứ, địa ngục.

Ông nghĩ thế nào, này trưởng thôn? Nếu như một người từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không tham lam, không sân hận, có chánh tri kiến. Rồi một hội chúng đông đảo, tụ tập lại, chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, trù ẻo rằng: “Mong cho vị này khi nào chết sẽ đọa vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục!”. Ông nghĩ thế nào, này trưởng thôn, người ấy do nhân cầu khẩn của quần chúng đông đảo ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, sau khi thân hoại mạng chung, có thể bị sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục hay không?

- Thưa không thể, bạch đức Thế Tôn.

- Lại nữa, vị trưởng thôn, có người nhận chìm một chậu sữa đông (sappi) hay một chậu dầu vào trong một hồ nước sâu rồi đập vỡ chậu ấy thành từng mảnh vụn và chìm xuống nước. Còn sữa đông hay dầu thì vẫn nổi bên trên. Rồi một hội chúng đông đảo, tụ tập lại, chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, và nói: “Hãy chìm xuống, này sữa đông và dầu! Hãy chìm sâu xuống, này sữa đông và dầu. Hãy chìm xuống tận đáy, này sữa đông và dầu!”. Ông nghĩ thế nào, này trưởng thôn, sữa đông ấy, dầu ấy, có do nhân cầu khẩn của đám người đông đảo ấy, do nhân tán dương, do nhân chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn của đám đông ấy nên bị chìm xuống, hay chìm sâu xuống, hay đi xuống tận đáy không?

- Thưa không thể, bạch đức Thế Tôn.

- Cũng vậy, này trưởng thôn, có người từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không tham lam, không sân hận, theo chánh tri kiến. Rồi một hội chúng đông đảo, tụ tập lại, chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, nguyền rủa rằng: “Mong rằng người này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ đọa vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục!”. Nhưng người ấy sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sinh lên cõi thiện, cõi trời và cõi người.

Khi nghe nói vậy, thôn trưởng Asibandhakaputta bạch đức Thế Tôn:

- Thật là vi diệu, bạch đức Thế Tôn! Thật là vi diệu, bạch đức Thế Tôn!

Bạch Ngài, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được đức Thế Tôn dùng nhiều cách dẫn dụ, giải thích.

Kính bạch đức Thế Tôn, con nay xin quy y Phật, Pháp và chúng Tăng. Kính mong đức Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!

Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa!

 

.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm

Trung A Hàm 017. Kinh Già-di-ni Vai trò : Người nghe



1193 Thời Phật tại thế Xóa


© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications