Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Thôn trưởng ASIBANDHAKAPUTTA
A gāmani (headman). He came to the Buddha in the Pārileyyaka Mango Grove in Nālandā and asked him various questions, recorded in the Samyutta Nikāya (iv.312ff). One of these related to the custom among the Pacchābhumaka (Westlander) brahmins (where, perhaps, he himself belonged) of lifting a man up when dead and carrying him out, calling him by name to speed him heavenward. Surely the Buddha who is an arahant, etc., could make the whole world go to heaven thus if he chose. To this the Buddha answers no, and explains, by various similes, that only a man's kamma can determine where he will be reborn. On another occasion, the Buddha tells him, in answer to a question, that the Buddha teaches the Dhamma in full only to certain disciples and not to others; just as a farmer sowing seed selects, first the best field, then the moderate, and lastly, the field with the worst soil.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:748

Các tên gọi khác

A gāmani (headman). He came to the Buddha in the Pārileyyaka Mango Grove in Nālandā and asked him various questions, recorded in the Samyutta Nikāya (iv.312ff). One of these related to the custom among the Pacchābhumaka (Westlander) brahmins (where, perhaps, he himself belonged) of lifting a man up when dead and carrying him out, calling him by name to speed him heavenward. Surely the Buddha who is an arahant, etc., could make the whole world go to heaven thus if he chose. To this the Buddha answers no, and explains, by various similes, that only a man's kamma can determine where he will be reborn. On another occasion, the Buddha tells him, in answer to a question, that the Buddha teaches the Dhamma in full only to certain disciples and not to others; just as a farmer sowing seed selects, first the best field, then the moderate, and lastly, the field with the worst soil.

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2025-09-24 07:55:47
Chỉnh sửa gần nhất : 11/17/2025 19:52:06

  • Asibandhakaputta

A gāmani (headman). He came to the Buddha in the Pārileyyaka Mango Grove in Nālandā and asked him various questions, recorded in the Samyutta Nikāya (iv.312ff). One of these related to the custom among the Pacchābhumaka (Westlander) brahmins (where, perhaps, he himself belonged) of lifting a man up when dead and carrying him out, calling him by name to speed him heavenward. Surely the Buddha who is an arahant, etc., could make the whole world go to heaven thus if he chose. To this the Buddha answers no, and explains, by various similes, that only a man's kamma can determine where he will be reborn. On another occasion, the Buddha tells him, in answer to a question, that the Buddha teaches the Dhamma in full only to certain disciples and not to others; just as a farmer sowing seed selects, first the best field, then the moderate, and lastly, the field with the worst soil.

Asibandhakaputta tells the Buddha that, according to Nigantha Nātaputta (he is described as a Nigantha-Sāvaka, S.iv.317), as a man habitually lives so goes he forth to his destiny. The Buddha points out the absurdity of this view and tells him that all Tathāgatas lay down definite rules for the guidance of their followers, so that they may attain development.

It is recorded (S.iv.322ff) that once, when Nālandā was stricken with famine, Asibandhaka visited Nigantha Nātaputta, who asks him to go and defeat the Buddha in debate. Asibandhaka is at first reluctant, but his teacher propounds to him a dilemma to put to the Buddha, and he agrees to go.

Is it true that the Buddha extols compassion to clansmen? Why, then, does the Buddha ask for alms in a place stricken with famine? The Buddha's answer is that there are eight ways of injuring clansmen, and that begging for alms is not one of them. And Asibandhakaputta, pleased with the answer, declares himself to be a follower of the Buddha.

Asibandhakaputta's conversation with the Buddha, in which the Buddha tells him that only a man's kamma can determine the state of his rebirth, is quoted in the Nettippaka-rana (pp.45-47).

Một gāmani (trưởng làng). Ông đến gặp Đức Phật tại Vườn Xoài Pārileyyaka ở Nālandā và hỏi Ngài nhiều câu hỏi khác nhau, được ghi lại trong Samyutta Nikāya (iv.312ff). Một trong những câu hỏi này liên quan đến phong tục của các Bà-la-môn Pacchābhumaka (có lẽ là nơi ông thuộc về) là nâng một người chết lên và mang người đó ra ngoài, gọi tên người đó để đưa người đó lên thiên đường nhanh chóng. Chắc chắn Đức Phật, một vị A-la-hán, v.v., có thể khiến cả thế giới lên thiên đường như vậy nếu Ngài muốn. Đức Phật trả lời là không, và giải thích, bằng nhiều ví dụ khác nhau, rằng chỉ có nghiệp của một người mới có thể quyết định nơi người đó sẽ tái sinh. Trong một dịp khác, Đức Phật nói với ông, để trả lời một câu hỏi, rằng Đức Phật chỉ giảng dạy Giáo pháp đầy đủ cho một số đệ tử nhất định chứ không phải cho những người khác; giống như một người nông dân gieo hạt giống, trước tiên chọn thửa ruộng tốt nhất, sau đó là thửa ruộng trung bình, và cuối cùng là thửa ruộng có đất xấu nhất.

Asibandhakaputta thưa với Đức Phật rằng, theo Nigantha Nātaputta (ông được mô tả là một Nigantha-Sāvaka, S.iv.317), một người sống theo thói quen như thế nào thì sẽ đi đến định mệnh của mình như vậy. Đức Phật chỉ ra sự phi lý của quan điểm này và nói với ông rằng tất cả các Như Lai đều đặt ra những quy tắc cụ thể để hướng dẫn tín đồ của mình, để họ có thể đạt được sự phát triển.

Kinh sách ghi lại (S.iv.322ff) rằng một lần nọ, khi Nālandā bị nạn đói hoành hành, Asibandhaka đến gặp Nigantha Nātaputta, và được Nigantha Nātaputta mời đi tranh luận với Đức Phật. Ban đầu Asibandhaka tỏ ra ngần ngại, nhưng vị thầy của ông đã đưa ra một tình huống khó xử để trình bày với Đức Phật, và ông đã đồng ý.

Có đúng là Đức Phật ca ngợi lòng từ bi đối với người trong tộc không? Vậy tại sao Đức Phật lại đi khất thực ở một nơi đang có nạn đói? Đức Phật trả lời rằng có tám cách làm hại người trong tộc, và khất thực không phải là một trong số đó. Và Asibandhakaputta, hài lòng với câu trả lời, tuyên bố mình là đệ tử của Đức Phật.

Cuộc trò chuyện giữa Asibandhakaputta và Đức Phật, trong đó Đức Phật nói với ông rằng chỉ có nghiệp của một người mới có thể quyết định trạng thái tái sinh của người đó, được trích dẫn trong Nettippaka-rana (trang 45-47).

 

Xuất hiện ở Kinh Nghiệp quả  và trung a hàm Wiki Tâm Học -Danh sách : Trung A Hàm 017. Kinh Già-di-ni

 

Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ đức Thế Tôn rồi tìm nơi hợp lẽ kế bên để ngồi, rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch đức Thế Tôn, các vị Bà-la-môn trú đất phương Tây, mang theo bình nước, đeo vòng hoa huệ (sevāla), nhờ nước được thanh tịnh. Những người thờ lửa, khi một người đã chết, đã mệnh chung, họ nhấc bổng và mang vị ấy ra ngoài (uyyāpenti), kêu tên vị ấy lên, và dẫn vị ấy vào Thiên giới. Còn Ngài, bạch đức Thế Tôn, là bậc Arahán, Chánh Đẳng Giác, Ngài có thể làm như thế nào cho toàn thể chúng sinh, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh lên cõi thiện, cõi trời và cõi người này?

- Này vị trưởng thôn, ông hãy bình tĩnh và kiên nhẫn trả lời Như Lai nhé.

Ông nghĩ thế nào về việc một kẻ sát sinh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Rồi một hội chúng đông đảo, tụ tập lại, chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, tán dương rằng: “Mong cho vị này khi nào chết sẽ được sinh lên cõi thiện, cõi trời và cõi người!”. Ông nghĩ thế nào? Này vị trưởng thôn, người ấy do việc cầu khẩn của đại chúng ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy liệu có được sinh lên cõi thiện, cõi trời và cõi người này không?

- Thưa không được, bạch đức Thế Tôn.

- Lại nữa, vị trưởng thôn, có người lấy một tảng đá lớn ném xuống hồ nước sâu. Rồi một đám người đông đảo, tụ tập lại, chắp tay đi khắp nơi và nói rằng: “Hãy đứng lên, tảng đá lớn! Hãy nổi lên, tảng đá lớn! Hãy trôi vào bờ, này tảng đá lớn!”. Ông nghĩ thế nào, vị trưởng thôn, tảng đá lớn ấy do việc cầu khẩn của đại chúng ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn thì có thể trồi lên, hay nổi lên, hay trôi dạt vào bờ không?

- Thưa không được, bạch đức Thế Tôn.

- Cũng vậy, này trưởng thôn, người nào sát sinh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Rồi một hội chúng đông đảo, tụ tập lại, chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, tán dương rằng: “Mong cho vị này khi nào chết sẽ được sinh lên cõi thiện, cõi trời và cõi người!”. Nhưng người ấy, sau khi thân hoại mạng chung thì sẽ bị đọa vào cõi dữ, súc sinh, đọa xứ, địa ngục.

Ông nghĩ thế nào, này trưởng thôn? Nếu như một người từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không tham lam, không sân hận, có chánh tri kiến. Rồi một hội chúng đông đảo, tụ tập lại, chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, trù ẻo rằng: “Mong cho vị này khi nào chết sẽ đọa vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục!”. Ông nghĩ thế nào, này trưởng thôn, người ấy do nhân cầu khẩn của quần chúng đông đảo ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, sau khi thân hoại mạng chung, có thể bị sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục hay không?

- Thưa không thể, bạch đức Thế Tôn.

- Lại nữa, vị trưởng thôn, có người nhận chìm một chậu sữa đông (sappi) hay một chậu dầu vào trong một hồ nước sâu rồi đập vỡ chậu ấy thành từng mảnh vụn và chìm xuống nước. Còn sữa đông hay dầu thì vẫn nổi bên trên. Rồi một hội chúng đông đảo, tụ tập lại, chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, và nói: “Hãy chìm xuống, này sữa đông và dầu! Hãy chìm sâu xuống, này sữa đông và dầu. Hãy chìm xuống tận đáy, này sữa đông và dầu!”. Ông nghĩ thế nào, này trưởng thôn, sữa đông ấy, dầu ấy, có do nhân cầu khẩn của đám người đông đảo ấy, do nhân tán dương, do nhân chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn của đám đông ấy nên bị chìm xuống, hay chìm sâu xuống, hay đi xuống tận đáy không?

- Thưa không thể, bạch đức Thế Tôn.

- Cũng vậy, này trưởng thôn, có người từ bỏ sát sinh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không tham lam, không sân hận, theo chánh tri kiến. Rồi một hội chúng đông đảo, tụ tập lại, chắp tay đi khắp nơi cầu khẩn, nguyền rủa rằng: “Mong rằng người này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ đọa vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục!”. Nhưng người ấy sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sinh lên cõi thiện, cõi trời và cõi người.

Khi nghe nói vậy, thôn trưởng Asibandhakaputta bạch đức Thế Tôn:

- Thật là vi diệu, bạch đức Thế Tôn! Thật là vi diệu, bạch đức Thế Tôn!

Bạch Ngài, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được đức Thế Tôn dùng nhiều cách dẫn dụ, giải thích.

Kính bạch đức Thế Tôn, con nay xin quy y Phật, Pháp và chúng Tăng. Kính mong đức Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!

Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa!

 

.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm

Trung A Hàm 017. Kinh Già-di-ni Vai trò : Người nghe

  • Asibandhakaputta

A gāmani (headman). He came to the Buddha in the Pārileyyaka Mango Grove in Nālandā and asked him various questions, recorded in the Samyutta Nikāya (iv.312ff). One of these related to the custom among the Pacchābhumaka (Westlander) brahmins (where, perhaps, he himself belonged) of lifting a man up when dead and carrying him out, calling him by name to speed him heavenward. Surely the Buddha who is an arahant, etc., could make the whole world go to heaven thus if he chose. To this the Buddha answers no, and explains, by various similes, that only a man's kamma can determine where he will be reborn. On another occasion, the Buddha tells him, in answer to a question, that the Buddha teaches the Dhamma in full only to certain disciples and not to others; just as a farmer sowing seed selects, first the best field, then the moderate, and lastly, the field with the worst soil.

Asibandhakaputta tells the Buddha that, according to Nigantha Nātaputta (he is described as a Nigantha-Sāvaka, S.iv.317), as a man habitually lives so goes he forth to his destiny. The Buddha points out the absurdity of this view and tells him that all Tathāgatas lay down definite rules for the guidance of their followers, so that they may attain development.

It is recorded (S.iv.322ff) that once, when Nālandā was stricken with famine, Asibandhaka visited Nigantha Nātaputta, who asks him to go and defeat the Buddha in debate. Asibandhaka is at first reluctant, but his teacher propounds to him a dilemma to put to the Buddha, and he agrees to go.

Is it true that the Buddha extols compassion to clansmen? Why, then, does the Buddha ask for alms in a place stricken with famine? The Buddha's answer is that there are eight ways of injuring clansmen, and that begging for alms is not one of them. And Asibandhakaputta, pleased with the answer, declares himself to be a follower of the Buddha.

Asibandhakaputta's conversation with the Buddha, in which the Buddha tells him that only a man's kamma can determine the state of his rebirth, is quoted in the Nettippaka-rana (pp.45-47).

  • Asibandhakaputta

Một gāmani (trưởng làng). Ông đến gặp Đức Phật tại Vườn Xoài Pārileyyaka ở Nālandā và hỏi Ngài nhiều câu hỏi khác nhau, được ghi lại trong Samyutta Nikāya (iv.312ff). Một trong những câu hỏi này liên quan đến phong tục của các Bà-la-môn Pacchābhumaka (có lẽ là nơi ông thuộc về) là nâng một người chết lên và mang người đó ra ngoài, gọi tên người đó để đưa người đó lên thiên đường nhanh chóng. Chắc chắn Đức Phật, một vị A-la-hán, v.v., có thể khiến cả thế giới lên thiên đường như vậy nếu Ngài muốn. Đức Phật trả lời là không, và giải thích, bằng nhiều ví dụ khác nhau, rằng chỉ có nghiệp của một người mới có thể quyết định nơi người đó sẽ tái sinh. Trong một dịp khác, Đức Phật nói với ông, để trả lời một câu hỏi, rằng Đức Phật chỉ giảng dạy Giáo pháp đầy đủ cho một số đệ tử nhất định chứ không phải cho những người khác; giống như một người nông dân gieo hạt giống, trước tiên chọn thửa ruộng tốt nhất, sau đó là thửa ruộng trung bình, và cuối cùng là thửa ruộng có đất xấu nhất.

Asibandhakaputta thưa với Đức Phật rằng, theo Nigantha Nātaputta (ông được mô tả là một Nigantha-Sāvaka, S.iv.317), một người sống theo thói quen như thế nào thì sẽ đi đến định mệnh của mình như vậy. Đức Phật chỉ ra sự phi lý của quan điểm này và nói với ông rằng tất cả các Như Lai đều đặt ra những quy tắc cụ thể để hướng dẫn tín đồ của mình, để họ có thể đạt được sự phát triển.

Kinh sách ghi lại (S.iv.322ff) rằng một lần nọ, khi Nālandā bị nạn đói hoành hành, Asibandhaka đến gặp Nigantha Nātaputta, và được Nigantha Nātaputta mời đi tranh luận với Đức Phật. Ban đầu Asibandhaka tỏ ra ngần ngại, nhưng vị thầy của ông đã đưa ra một tình huống khó xử để trình bày với Đức Phật, và ông đã đồng ý.

Có đúng là Đức Phật ca ngợi lòng từ bi đối với người trong tộc không? Vậy tại sao Đức Phật lại đi khất thực ở một nơi đang có nạn đói? Đức Phật trả lời rằng có tám cách làm hại người trong tộc, và khất thực không phải là một trong số đó. Và Asibandhakaputta, hài lòng với câu trả lời, tuyên bố mình là đệ tử của Đức Phật.

Cuộc trò chuyện giữa Asibandhakaputta và Đức Phật, trong đó Đức Phật nói với ông rằng chỉ có nghiệp của một người mới có thể quyết định trạng thái tái sinh của người đó, được trích dẫn trong Nettippaka-rana (trang 45-47).

Wiki Tâm Học -Danh sách : Tương Ưng bộ .TU053 - Tập IV- Chương Tám – Tương Ưng Thôn Trưởng

VI. Người Ðất Phương Tây hay Người Ðã Chết (S.iv,311)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Nàlandà, tại rừng Pàvàrikamba.

2) Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, các vị Bà-la-môn trú đất phương Tây, mang theo bình nước, đeo vòng hoa huệ (sevàla), nhờ nước được thanh tịnh. Những người thờ lửa, khi một người đã chết, đã mệnh chung, họ nhắc bổng và mang vị ấy ra ngoài (uyyàpenti), kêu tên vị ấy lên, và dẫn vị ấy vào Thiên giới. Còn Thế Tôn, bạch Thế Tôn, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Thế Tôn có thể làm như thế nào cho toàn thể thế giới, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này?

4) — Vậy, này Thôn trưởng, ở đây, Ta sẽ hỏi Ông. Nếu Ông kham nhẫn hãy trả lời.

5) Này Thôn trưởng, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, một người sát sanh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: “Mong người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này!” Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, người ấy do nhân cầu khẩn của đại quần chúng ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chấp tay đi cùng khắp, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

6) — Ví như, này Thôn trưởng, có người lấy một tảng đá lớn ném xuống một hồ nước sâu. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: “Hãy đứng lên, tảng đá lớn! Hãy nổi lên, tảng đá lớn! Hãy trôi vào bờ, này tảng đá lớn!” Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, tảng đá lớn ấy do nhân cầu khẩn của đại quần chúng ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chấp tay đi cùng khắp, có thể trồi lên, hay nổi lên, hay trôi dạt vào bờ không?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

— Cũng vậy, này Thôn trưởng, người nào sát sanh, lấy của không cho, sống theo tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hận, theo tà kiến. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: “Mong người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này!” Nhưng người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

7) Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Ở đây, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham, không có sân hận, có chánh tri kiến. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói rằng: “Mong người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục!” Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, người ấy do nhân cầu khẩn của quần chúng đông đảo ấy, hay do nhân tán dương, hay do nhân chấp tay đi cùng khắp, sau khi thân hoại mạng chung, có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục không?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

8) — Ví như, này Thôn trưởng, có người nhận chìm một ghè sữa đông (sappi) hay một ghè dầu vào trong một hồ nước sâu rồi đập bể ghè ấy. Ở đây, ghè ấy trở thành từng miếng vụn, hay từng mảnh vụn và chìm xuống nước. Còn sữa đông hay dầu thời nổi lên trên. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói: “Hãy chìm xuống, này sữa đông và dầu! Hãy chìm sâu xuống, này sữa đông và dầu. Hãy chìm xuống tận đáy, này sữa đông và dầu!”. Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, sữa đông ấy, dầu ấy, có do nhân cầu khẩn của đám quần chúng đông đảo ấy, do nhân tán dương, do nhân chấp tay đi cùng khắp của quần chúng đông đảo ấy nên bị chìm xuống, hay chìm sâu xuống, hay đi xuống tận đáy không?

— Thưa không, bạch Thế Tôn.

— Cũng vậy, này Thôn trưởng, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ sống tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham, không có sân, theo chánh tri kiến. Rồi một quần chúng đông đảo, tụ tập, tụ họp lại, cầu khẩn, tán dương, chấp tay đi cùng khắp và nói: “Mong rằng người này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục!” Nhưng người ấy sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.

9) Khi nghe nói vậy, thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:

— Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con nay xin quy y Phật, Pháp và chúng Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!

VII. Thuyết Pháp (S.iv,314)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Nàlandà, tại rừng Pàvàrikamba.

2) Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

3) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, có phải Thế Tôn sống vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đối với tất cả chúng sanh và loài hữu tình?

— Ðúng vậy, này Thôn trưởng, Như Lai sống vì hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đối với tất cả chúng sanh và loài hữu tình.

4) — Nhưng vì sao, bạch Thế Tôn, đối với một số người, Thế Tôn thuyết pháp một cách hoàn toàn trọn vẹn; đối với một số người, Thế Tôn thuyết pháp không hoàn toàn trọn vẹn như vậy?

— Vậy, này Thôn trưởng, ở đây, Ta sẽ hỏi Ông, Ông kham nhẫn như thế nào, hãy trả lời như vậy.

5) Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, ở đây, một người cày ruộng có ba thửa ruộng, một loại tốt, một loại bậc trung, một loại xấu, đất cứng, có chất muối, đất độc. Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Người cày ruộng ấy muốn gieo hột giống, thời gieo ở thuở ruộng nào trước, ruộng tốt, hay ruộng bậc trung, hay ruộng loại xấu, đất cứng, có chất muối, đất độc?

— Bạch Thế Tôn, người gia chủ cày ruộng muốn gieo hột giống, gieo vào thửa ruộng tốt; sau khi gieo ở đấy xong, lại gieo vào thửa ruộng loại trung; sau khi gieo ở đấy xong, vị ấy có thể gieo hay không gieo hạt giống vào thửa ruộng loại xấu, đất cứng, có chất muối, đất độc. Vì sao? Tối thiểu cũng có thể làm món ăn cho các trâu bò.

6) — Ví như thửa ruộng tốt, này Thôn trưởng, là các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni của Ta. Ðối với họ, Ta thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ta nói lên cho họ biết đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh. Vì sao? Này Thôn trưởng, vì họ sống lấy Ta làm ngọn đèn, lấy Ta làm hang ẩn, lấy Ta làm chỗ che chở, lấy Ta làm chỗ nương tựa.

7) Ví như thửa ruộng loại trung, này Thôn trưởng, là các vị nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Ta. Ta thuyết pháp cho họ, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ta nói lên cho họ biết đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh. Vì sao? Này Thôn trưởng, vì họ sống lấy Ta làm ngọn đèn, lấy Ta làm hang ẩn, lấy Ta làm chỗ che chở, lấy Ta làm chỗ nương tựa.

8) Ví như thửa ruộng xấu, đất cứng, có chất muối, đất độc, này Thôn trưởng, là các ngoại đạo Sa-môn, Bà-la-môn, du sĩ. Ta thuyết pháp cho họ sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, trình bày cho họ biết đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh. Vì sao? Vì rằng, nếu họ hiểu được chỉ một câu, như vậy là họ được hạnh phúc, an lạc lâu dài.

9) Ví như, này Thôn trưởng, một người có ba bình nước, một bình nước không nứt rạn, không chảy nước, không thấm nước; một bình nước không nứt rạn, nhưng chảy nước và thấm nước; một bình nước nứt rạn, chảy nước, thấm nước. Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Nếu có người muốn chứa nước, người ấy sẽ chứa nước ở đâu trước, người ấy chứa bình nước không nứt rạn, không chảy nước, không thấm nước, hay bình nước không nứt rạn, nhưng chảy nước và thấm nước, hay bình nước nứt rạn, chảy nước và thấm nước?

— Bạch Thế Tôn, người ấy muốn chứa nước, người ấy sẽ chứa vào bình nước không có nứt rạn, không có chảy nước, không có thấm nước. Sau khi chứa nước vào đấy rồi, người ấy mới chứa nước vào bình nước không nứt rạn, nhưng chảy nước và thấm nước. Sau khi chứa nước vào đấy rồi, người ấy mới chứa nước hay không chứa nước vào bình nước bị nứt rạn, bị chảy nước, bị thấm nước. Vì sao? Vì ít nhứt cũng có thể dùng để rửa vật dụng.

10) — Ví dụ với bình nước không nứt rạn, không chảy nước, không thấm nước, này Thôn trưởng, là các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni của Ta. Ta thuyết pháp cho họ, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, trình bày đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh. Vì sao? Này Thôn trưởng, vì họ sống lấy Ta làm ngọn đèn, lấy Ta làm hang ẩn, lấy Ta làm chỗ che chở, lấy Ta làm chỗ nương tựa.

11) Ví dụ với cái bình nước không nứt rạn, nhưng chảy nước và thấm nước, này Thôn trưởng, là các nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Ta. Ta thuyết pháp cho họ, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, trình bày đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn,thanh tịnh. Vì sao? Này Thôn trưởng, vì họ lấy Ta làm ngọn đèn, lấy Ta làm hang ẩn, lấy Ta làm chỗ che chở, lấy Ta làm chỗ nương tựa.

12) Ví dụ với cái bình nước bị nứt rạn, bị chảy nước, bị thấm nước, này Thôn trưởng, là các ngoại đạo Sa-môn, Bà-la-môn, du sĩ. Ta thuyết pháp cho họ, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, trình bày cho họ biết đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh. Vì sao? Vì rằng, nếu họ chỉ hiểu được một câu, như vậy là họ được hạnh phúc, an lạc lâu dài.

13) Khi được nghe nói vậy, thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:

— Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!… từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

VIII. Vỏ Ốc (S.iv,317)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Nàlandà, tại rừng Pàvàrikamba.

2) Rồi Thôn trưởng Asibandhakaputta, đệ tử của phái Ni-kiền-tử đi đến Thế Tôn…

3) Thế Tôn nói với thôn trưởng Asiband-hakaputta đang ngồi một bên:

— Này Thôn trưởng, Nigantha Nàtaputta thuyết pháp như thế nào cho chúng đệ tử?

4) — Bạch Thế Tôn, Nigantha Nàtaputta thuyết pháp cho chúng đệ tử như sau: “Ai sát hại sanh mạng, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Ai lấy của không cho, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Ai sống tà hạnh trong các dục, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Ai nói láo, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Phàm sống tối đa, tối đa như thế nào, chiều hướng ấy sanh thú của họ sẽ như vậy”. Như vậy, bạch Thế Tôn, Nigantha Nàtaputta thuyết pháp cho các đệ tử.

— Phàm sống tối đa, tối đa như thế nào, này Thôn trưởng, chiều hướng ấy sanh thú của họ sẽ như vậy. Nếu sự thật là vậy, thời sẽ không có ai phải sanh vào đọa xứ, địa ngục như lời của Nigantha Nàtaputta.

5) Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Có người sát hại sanh mạng, ban đêm hay ban ngày, hay thỉnh thoảng làm. Thời nào là nhiều hơn, thời vị ấy sát hại sanh mạng, hay thời vị ấy không sát hại sanh mạng?

— Bạch Thế Tôn, có người sát hại sanh mạng, ban đêm hay ban ngày, hay thỉnh thoảng làm. Thời này là ít hơn, là thời vị ấy sát hại sanh mạng. Và thời kia là nhiều hơn, thời vị ấy không sát hại sanh mạng.

— Phàm sống tối đa, tối đa như thế nào, này Thôn trưởng, chiều hướng ấy sanh thú của vị ấy sẽ như vậy. Nếu sự thật là vậy, thời sẽ không có ai phải sanh vào đọa xứ, địa ngục như lời của Nigantha Nàtaputta.

6) Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Có người lấy của không cho, ban đêm hay ban ngày, hay thỉnh thoảng làm. Thời nào là nhiều hơn, thời vị ấy lấy của không cho hay thời vị ấy không lấy của không cho?

— Bạch Thế Tôn, có người lấy của không cho, ban đêm hay ban ngày, hay thỉnh thoảng làm. Thời này là ít hơn, thời vị ấy lấy của không cho. Và thời kia là nhiều hơn, thời vị ấy không lấy của không cho.

— Phàm sống tối đa, tối đa như thế nào, này Thôn trưởng, chiều hướng ấy sanh thú của vị ấy sẽ như vậy. Nếu sự thật là vậy, thời sẽ không có ai sanh vào đọa xứ, địa ngục như lời của Nigantha Nàtaputta.

7) Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Có người sống theo tà hạnh trong các dục, ban đêm hay ban ngày, hay thỉnh thoảng làm. Thời nào là nhiều hơn, thời vị ấy sống theo tà hạnh trong các dục, hay thời vị ấy không sống theo tà hạnh trong các dục?

— Bạch Thế Tôn, có người sống theo tà hạnh trong các dục, ban đêm hay ban ngày, hay thỉnh thoảng làm. Thời này là ít hơn, thời vị ấy sống theo tà hạnh trong các dục. Và thời kia là nhiều hơn, thời vị ấy không sống theo tà hạnh trong các dục.

— Phàm sống tối đa, tối đa như thế nào, này Thôn trưởng, chiều hướng ấy sanh thú của vị ấy sẽ như vậy. Nếu sự thật là vậy, thời không có ai sẽ sanh vào đọa xứ, địa ngục như lời của Nigantha Nàtaputta.

8) Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng? Có người sống nói láo, ban đêm hay ban ngày, hay thỉnh thoảng nói. Thời nào là nhiều hơn, thời vị ấy nói láo, hay thời vị ấy không nói láo?

— Bạch Thế Tôn, có người nói láo, ban đêm hay ban ngày, hay thỉnh thoảng nói. Thời này là ít hơn, thời vị ấy nói láo. Và thời kia là nhiều hơn, thời vị ấy không nói láo.

— Phàm sống tối đa, tối đa như thế nào, này Thôn trưởng, chiều hướng ấy sanh thú của vị ấy sẽ như vậy. Nếu sự thật là vậy, thời không ai sẽ sanh vào đọa xứ, địa ngục như lời của Nigantha Nàtaputta.

9) Ở đây, này Thôn trưởng, có vị Ðạo sư nói như sau, thấy như sau: “Ai sát hại sanh mạng, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Ai lấy của không cho, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Ai sống theo tà hạnh trong các dục, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục. Ai nói láo, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục”. Này Thôn trưởng, người đệ tử đặt lòng tin tưởng vào vị Ðạo sư ấy.

10) Vị ấy suy nghĩ: “Thầy ta nói như sau, thấy như sau: ‘Ai sát hại sanh mạng tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục’. Nay ta có sát hại một sanh mạng. Như vậy, ta phải sanh vào đọa xứ, địa ngục”. Vị ấy chấp trước tà kiến ấy. Này Thôn trưởng, không đoạn tận lời ấy, không đoạn tận tâm ấy, không từ bỏ kiến ấy, vị ấy chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục như vậy. ” Thầy ta nói như sau, thấy như sau: ‘Ai lấy của không cho, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục’. Nay ta có lấy của không cho. Như vậy, ta phải sanh vào đọa xứ, địa ngục.” Vị ấy chấp trước tà kiến ấy. Này Thôn trưởng, không đoạn tận lời ấy, không đoạn tận tâm ấy, không từ bỏ kiến ấy, vị ấy chắc chắn rơi vào đọa xứ, địa ngục như vậy. “Thầy ta nói như sau, thấy như sau: ‘Ai sống theo tà hạnh trong các dục, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục’. Nay ta sống theo tà hạnh trong các dục. Như vậy, ta phải sanh vào đọa xứ, địa ngục”. Vị ấy chấp trước tà kiến ấy. Này Thôn trưởng, không đoạn tận lời ấy, không đoạn tận tâm ấy, không từ bỏ kiến ấy, vị ấy chắc chắn rơi vào đọa xứ, địa ngục như vậy. “Thầy ta nói như sau, thấy như sau: ‘Ai nói láo, tất cả phải sanh vào đọa xứ, địa ngục’. Nay ta nói láo. Như vậy, ta phải sanh vào đọa xứ, địa ngục”. Vị ấy chấp trước tà kiến ấy. Này Thôn trưởng, không đoạn tận lời ấy, không đoạn tận tâm ấy, không từ bỏ kiến ấy, vị ấy chắc chắn rơi vào đọa xứ, địa ngục như vậy.

11) Ở đây, này Thôn trưởng, Như Lai sanh ra ở đời, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn; Như Lai dùng nhiều phương tiện chỉ trích, công kích sát sanh và nói: “Chớ có sát sanh”; chỉ trích, công kích lấy của không cho và nói: “Chớ có lấy của không cho”; chỉ trích, công kích sống theo tà hạnh trong các dục và nói: “Chớ có sống theo tà hạnh trong các dục”; chỉ trích, công kích nói láo và nói: “Chớ có nói láo”. Này Thôn trưởng, người đệ tử đặt lòng tin tưởng vào vị Ðạo Sư ấy. Vị ấy suy tư như sau:

12) “Thế Tôn dùng nhiều phương tiện chỉ trích, công kích sát sanh và nói: ‘Chớ có sát sanh”. Nay ta có sát hại như thế này, hay như thế kia. Như vậy là không nên (sutthu), như vậy là không tốt. Và do duyên ấy ta có thể hối hận: ‘Ác nghiệp ta làm, nay sẽ không làm nữa'”. Người ấy do suy tư như vậy, liền từ bỏ sát sanh. Và trong tương lai, người ấy đình chỉ sát sanh. Như vậy, ác nghiệp ấy được vượt qua.

13) “Thế Tôn dùng nhiều phương tiện chỉ trích, công kích lấy của không cho và nói: ‘Chớ có lấy của không cho”. Nay ta có lấy của không cho như thế này, hay như thế kia. Như vậy là không nên, như vậy là không tốt. Và do duyên ấy, ta có thể hối hận: ‘Ác nghiệp ta làm, nay sẽ không làm nữa’. Người ấy do suy tư như vậy, liền từ bỏ lấy của không cho. Và trong tương lai, người ấy đình chỉ lấy của không cho. Như vậy, ác nghiệp ấy được vượt qua.

14) “Thế Tôn dùng nhiều phương tiện chỉ trích, công kích sống theo tà hạnh trong các dục..”..

15) “Thế Tôn dùng nhiều phương tiện chỉ trích, công kích nói láo..”..

16) Do đoạn tận sát sanh, người ấy trở thành người không sát sanh. Do đoạn tận lấy của không cho, người ấy trở thành người không lấy của không cho. Do đoạn tận sống theo tà hạnh trong các dục, người ấy trở thành người không sống theo tà hạnh trong các dục. Do đoạn tận nói láo, người ấy trở thành người từ bỏ nói láo. Do đoạn tận nói hai lưỡi, người ấy trở thành người từ bỏ nói hai lưỡi. Do đoạn tận nói lời độc ác, người ấy trở thành người từ bỏ nói lời độc ác. Do đoạn tận lời nói phù phiếm, người ấy trở thành người từ bỏ nói lời phù phiếm. Ðoạn tận tham, không có tham lam, đoạn tận sân, không có sân tâm, đoạn tận tà kiến, người ấy trở thành người theo chánh kiến. Này Thôn trưởng, vị Thánh đệ tử ấy từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ si, chánh niệm, tỉnh giác, với tâm câu hữu với từ, sống biến mãn một phương. Như vậy, phương thứ hai. Như vậy, phương thứ ba. Như vậy, phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân.

17) Ví như, này Thôn trưởng, một người lực sĩ thổi tù và (bằng con ốc), với ít mệt nhọc làm cho bốn phương được biết. Cũng vậy, này Thôn trưởng, tu tập từ tâm giải thoát như vậy, làm cho tăng trưởng như vậy, phàm nghiệp làm có hạn lượng, ở đây, sẽ không còn dư tàn; ở đây, sẽ không còn tồn tại. Này Thôn trưởng, vị Thánh đệ tử ấy, như vậy từ bỏ tham, từ bỏ sân, từ bỏ si, chánh niệm, tỉnh giác, với tâm câu hữu với bi… với tâm câu hữu với hỷ… với tâm câu hữu với xả, sống biến mãn một phương. Như vậy, phương thứ hai. Như vậy, phương thứ ba. Như vậy, phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân.

18) Ví như, này Thôn trưởng, một người lực sĩ thổi tù và, với ít mệt nhọc làm cho bốn phương được biết. Cũng vậy, này Thôn trưởng, tu tập xả tâm giải thoát như vậy, làm cho tăng trưởng như vậy, phàm nghiệp làm có hạn lượng, ở đây, sẽ không còn dư tàn; ở đây, sẽ không còn tồn tại.

19) Khi được nghe nói vậy, thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:

— Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!… từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

IX. Gia Tộc (S.iv,322)

1) Một thời Thế Tôn du hành ở giữa dân tộc Kosala cùng với đại chúng Tỷ-kheo và đi đến Nàlandà. Tại đây, Thế Tôn trú ở Nàlandà, tại rừng Pàvarikamba.

2) Lúc bấy giờ, Nàlandà đang bị đói kém, khó để lo miệng sống (dviihitikà), xương trắng đầy tràn, lúa chỉ còn cọng rạ (sàlàkàvuttà).

3) Lúc bấy giờ Nigantha Nàtaputta sống ở Nàlandà với đại chúng Nigantha.

4) Rồi Thôn trưởng Asibandhakaputta, đệ tử của Nigantha Nàtaputta, đi đến Nigantha Nàtaputta; sau khi đến đảnh lễ Nigantha Nàtaputta rồi ngồi xuống một bên.

5) Nigantha Nàtaputtta nói với thôn trưởng Asibandhakaputta đang ngồi một bên:

— Hãy đến, này Thôn trưởng, hãy đến cật vấn Sa-môn Gotama. Như vậy, tiếng đồn tốt đẹp sẽ được lan khắp về Ông: “Sa-môn Gotama, một vị có thần lực như vậy, có uy lực như vậy, đã bị thôn trưởng Asibandhakaputta cật vấn!”

— Thưa Tôn giả, làm thế nào con có thể cật vấn Sa-môn Gotama, một vị có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy?

6) — Hãy đến, này Thôn trưởng, hãy đến Sa-môn Gotama; sau khi đến, nói với Sa-môn Gotama như sau:

“– Bạch Thế Tôn, có phải Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các gia đình, tán thán bảo vệ các gia đình, tán thán từ mẫn với các gia đình”?

Này Thôn trưởng, được hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như sau:

“– Ðúng như vậy, này Thôn trưởng, Như Lai dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các gia đình, tán thán sự bảo vệ, tán thán lòng từ mẫn”.

Thời ông hỏi Sa-môn Gotama:

“– Vậy vì sao, bạch Thế Tôn, Thế Tôn cùng đại chúng Tỷ-kheo lại du hành tại Nàlandà đói kém, khó để lo miệng sống, xương trắng đầy tràn, lúa chỉ còn cọng rạ? Như vậy, Thế Tôn thực hành tàn phá các gia đình, thực hành sự bất hạnh cho các gia đình, thực hành sự tổn hại cho các gia đình”.

Như vậy, này Thôn trưởng, bị ông hỏi với câu hỏi có hai đầu nhọn, Sa-môn Gotama không có thể nhổ ra, cũng như không có thể nuốt xuống.

7) — Thưa vâng, Tôn giả.

Thôn trưởng Asibandhakaputta vâng đáp Nigantha Nàtaputta, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Nigantha Nàtaputta, thân phía hữu hướng về người rồi đi đến Thế Tôn; sau khi đến, thôn trưởng đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

8) Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Asiband-hakaputta bạch Thế Tôn:

— Có phải, bạch Thế Tôn, Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các gia đình, tán thán sự bảo vệ, tán thán lòng từ mẫn?

— Ðúng vậy, này Thôn trưởng, Như Lai dùng nhiều phương tiện tán thán, thương kính các gia đình, tán thán sự bảo vệ, tán thán lòng từ mẫn.

— Vậy vì sao, bạch Thế Tôn, Thế Tôn cùng đại chúng Tỷ-kheo lại du hành tại Nàlandà đói kém, khó để lo miệng sống, xương trắng đầy tràn, lúa chỉ còn cọng rạ? Như vậy, Thế Tôn thực hành tàn phá các gia đình, thực hành bất hạnh cho các gia đình, thực hành tổn hại cho các gia đình.

9) — Này Thôn trưởng, Ta nhớ từ chín mươi mốt kiếp về trước, Ta không hề biết đã có làm hại một gia đình cho đến một bữa cơm nấu cúng dường. Các gia đình ấy đều rất giàu, tiền của nhiều, tài sản nhiều, vàng bạc nhiều, vật dụng nhiều, ngũ cốc nhiều. Tất cả tài sản ấy được thâu hoạch do bố thí, được thâu hoạch một cách chân thật, được thâu hoạch một cách tự chế.

10) Này Thôn trưởng, có tám nhân, có tám duyên làm tổn hại các gia đình. Do quốc vương, các gia đình đi đến tổn hại. Hay do trộm cướp, các gia đình đi đến tổn hại. Hay do lửa, các gia đình đi đến tổn hại. Hay do nước, các gia đình đi đến tổn hại. Hay họ tìm không được tiền của dấu cất. Hay do biếng nhác, họ bỏ bê công việc. Hay trong gia đình khởi lên kẻ phá hoại gia đình, người ấy phân tán, phá hoại, làm tổn hại (vikirati vidhamati viddhamseti). Và vô thường là thứ tám. Này Thôn trưởng, chính tám nhân, tám duyên này làm tổn hại các gia đình.

11) Này Thôn trưởng, vì rằng tám nhân này, tám duyên này có mặt, có hiện hữu, nếu ai nói về Ta như sau: “Thế Tôn thực hành tàn phá các gia đình, thực hành bất hạnh cho các gia đình, thực hành tổn hại cho các gia đình; thời này Thôn trưởng, nếu người ấy không bỏ lời nói ấy, không bỏ tâm ấy, không từ bỏ kiến ấy, chắc chắn (yathàhatam) người ấy sẽ bị ném vào địa ngục như vậy.

12) Khi được nói vậy, thôn trưởng Asiband-hakaputta bạch Thế Tôn:

— Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!… từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

X. Manicùlam (Châu báu trên đỉnh đầu) (S.iv,325)

1) Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

2) Lúc bấy giờ trong cung vua, quần thần nhà vua đang ngồi tụ họp, câu chuyện sau đây được khởi lên: “Các Sa-môn thuộc dòng Thích tử được phép dùng vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử được giữ vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử được nhận lấy vàng bạc”.

3) Lúc bấy giờ, thôn trưởng Manicùlaka đang ngồi trong hội chúng ấy.

4) Rồi thôn trưởng Manicùlaka thưa với hội chúng ấy: “Các Tôn giả chớ có nói như vậy. Các Sa-môn Thích tử không được phép dùng vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử không được giữ vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử không được nhận lấy vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử từ bỏ châu báu và vàng bạc. Họ đã ly khai vàng và bạc”. Nhưng thôn trưởng Manicùlaka không có thể làm cho hội chúng ấy chấp nhận.

5) Rồi thôn trưởng Manicùlaka đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

6) Ngồi một bên, thôn trưởng Manicùlaka bạch Thế Tôn:

— Ở đây, bạch Thế Tôn, trong cung vua, một số quần thần nhà vua đang ngồi tụ họp, và câu chuyện sau đây được khởi lên: “Các Sa-môn Thích tử được phép dùng vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử được giữ vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử được nhận lấy vàng bạc”. Khi được nói vậy, bạch Thế Tôn, con nói với hội chúng ấy: “Các Tôn giả chớ có nói như vậy. Các Sa-môn Thích tử không được phép dùng vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử không được giữ vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử không được nhận lấy vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử từ bỏ châu báu và vàng bạc. Họ đã ly khai vàng và bạc”. Nhưng bạch Thế Tôn, con không có thể làm cho hội chúng ấy chấp nhận.

7) Trả lời như vậy, bạch Thế Tôn, không biết con có nói đúng lời Thế Tôn? Con không xuyên tạc Thế Tôn với điều không thật? Con đã trả lời thuận pháp, đúng pháp và không một ai nói lời tương ứng đúng pháp có lý do để chỉ trích?

— Trả lời như vậy, này Thôn trưởng, Ông nói đúng lời của Ta. Ông không xuyên tạc Ta với điều không thật. Ông đã trả lời thuận pháp, đúng pháp và không một ai nói lời tương ứng đúng pháp có lý do để chỉ trích.

8) Này Thôn trưởng, các Sa-môn Thích tử không được phép dùng vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử không được giữ vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử không được nhận lấy vàng bạc. Các Sa-môn Thích tử đã từ bỏ châu báu và vàng bạc. Họ đã ly khai vàng và bạc. Ðối với ai được dùng vàng bạc, người ấy cũng được phép dùng năm dục trưởng dưỡng. Ðối với ai được phép dùng năm dục trưởng dưỡng, người ấy hoàn toàn thọ trì phi Sa-môn pháp, phi Thích tử pháp. Này Thôn trưởng, Ta nói như sau: Cỏ được đi tìm cầu bởi ai cần đến cỏ. Củi được đi tìm cầu bởi ai cần đến củi. Cỗ xe được đi tìm cầu bởi ai cần đến cỗ xe. Người được đi tìm cầu bởi ai cần đến người. Nhưng này Thôn trưởng, không bất cứ một lý do gì Ta nói rằng vàng, bạc được chấp nhận, được tìm cầu.

Xuất hiện ở nikaya khác ( tiểu bộ kinh )



1193 Thời Phật tại thế Xóa


© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
6133
Bài viết
786
Nhân vật
45
Hình ảnh

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications