Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Sabbaka (Sappaka) Thera
Một vị A-la-hán. Ngài xuất thân từ một gia đình Bà-la-môn ở Sāvatthi, và sau khi nghe Đức Phật thuyết giảng, ngài đã xuất gia. Ngài sống tại tịnh xá Lonagiri (vl. Lena vihāra), bên bờ sông Ajakaranī , hành thiền, và sau một thời gian, ngài đã đắc quả A-la-hán. Ngài đến Sāvatthi để đảnh lễ Đức Phật, và ở lại đó vài ngày, được bà con họ hàng tiếp đãi. Khi ngài muốn trở về nhà, họ nài nỉ ngài ở lại để được họ chu cấp, nhưng ngài từ chối vì ngài thích sống ẩn dật. Những bài kệ ngài thuyết giảng trong dịp này được ghi lại trong Thag.vs.307 10.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:1077

Các tên gọi khác

Một vị A-la-hán. Ngài xuất thân từ một gia đình Bà-la-môn ở Sāvatthi, và sau khi nghe Đức Phật thuyết giảng, ngài đã xuất gia. Ngài sống tại tịnh xá Lonagiri (vl. Lena vihāra), bên bờ sông Ajakaranī , hành thiền, và sau một thời gian, ngài đã đắc quả A-la-hán. Ngài đến Sāvatthi để đảnh lễ Đức Phật, và ở lại đó vài ngày, được bà con họ hàng tiếp đãi. Khi ngài muốn trở về nhà, họ nài nỉ ngài ở lại để được họ chu cấp, nhưng ngài từ chối vì ngài thích sống ẩn dật. Những bài kệ ngài thuyết giảng trong dịp này được ghi lại trong Thag.vs.307 10.

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2025-11-15 10:08:36
Chỉnh sửa gần nhất : 11/17/2025 13:37:46

  • Sabbaka (Sappaka)

An arahant Thera. He belonged to a brahmin family of Sāvatthi, and, after hearing the Buddha preach, entered the Order. He lived in Lonagiri vihāra (v.l. Lena vihāra), on the banks of the Ajakaranī, practising meditation, and, in due course, won arahantship. He visited Sāvatthi to worship the Buddha, and stayed there a few days, entertained by his kinsfolk. When he wished to return to his dwelling they begged him to stay and be supported by them, but he refused because he loved retirement. The verses he spoke on this occasion are given in Thag.vs.307 10.

Thirty one kappas ago he was a Nāga king of great power who, having seen the Pacceka Buddha Sambhavaka, wrapt in samādhi, under the open sky, remained beside him holding a lotus over his head (ThagA.i.399f).

He is probably to be identified with Padumapūjaka of the Apadāna. Ap.i.279 f ; cf. Ap.ii.453f. (Padumudhāriya).

 

  • Sabbaka (Sappaka)

Một vị A-la-hán. Ngài xuất thân từ một gia đình Bà-la-môn ở Sāvatthi, và sau khi nghe Đức Phật thuyết giảng, ngài đã xuất gia. Ngài sống tại tịnh xá Lonagiri (vl. Lena vihāra), bên bờ sông Ajakaranī , hành thiền, và sau một thời gian, ngài đã đắc quả A-la-hán. Ngài đến Sāvatthi để đảnh lễ Đức Phật, và ở lại đó vài ngày, được bà con họ hàng tiếp đãi. Khi ngài muốn trở về nhà, họ nài nỉ ngài ở lại để được họ chu cấp, nhưng ngài từ chối vì ngài thích sống ẩn dật. Những bài kệ ngài thuyết giảng trong dịp này được ghi lại trong Thag.vs.307 10.

Ba mươi mốt kiếp trước, ngài là một vị vua Nāga có sức mạnh to lớn, sau khi nhìn thấy Đức Phật Pacceka Sambhavaka nhập định dưới bầu trời rộng mở, đã đứng bên cạnh ngài, tay cầm một bông sen trên đầu (ThagA.i.399f).

Có lẽ ông được xác định là Padumapūjaka của Apadāna. Ap.i.279 f; cf. Ap.ii.453f. (Padumudhāriya).

Wiki Tâm Học -Danh sách : Trưởng lão tăng kệ - Phần 196 - Chương 4 : (CXCVI) Sabbaka (Thera. 35)


 

 

(CXCVI) Sabbaka (Thera. 35)


Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Sàvatthi trong một gia đình Bà-la-môn, ngài nghe Thế Tôn thuyết pháp, khởi lòng tin và xuất gia. Lựa chọn một đề tài để thiền quán, ngài đi đến tinh xá Lonagiri, trên bờ sông Ajakaranì và tại đấy, sau một thời gian chứng quả A-la-hán. Ði đến Sàvatthi để yết kiến bậc Ðạo Sư, ngài ở lại một thời gian và được bà con đón tiếp. Sau khi khuyên các bà con quy y và giữ giới, ngài muốn trở về chỗ cũ. Các bà con yêu cầu ngài ở lại để được bà con cúng dường, nhưng ngài nói cho họ rõ vì sao ngài đến đây, và sự ưa thích đời sống độc cư. Ngài nói lên bài kệ tán thán trú xứ của ngài:
306. Khi ta thấy con cò,
Trương đôi cánh trắng tinh,
Sợ hãi đám mây đen,
Tìm chỗ kín ẩn nấp;
Khi ấy chính con sông,
Ajakaranì,
Ðem hoan hỷ cho ta.
307. Khi ta thấy con cò,
Trương đôi cánh trắng sạch,
Sợ hãi đám mây đen,
Tìm hang để ẩn nấp,
Nhưng tìm không có thấy.
Khi ấy chính con sông,
Ajakaranì,
Ðem hoan hỷ cho ta.
308. Ai lại không thích thú,
Khi thấy ở tại đây,
Trên cả hai dãy bờ,
Có hàng cây Jambu,
Làm chói sáng bờ sông,
Sau lưng cái hang lớn.
309. Hãy nghe những con nhái,
Khéo thoát những đàn rắn,
Kêu lên niềm hoan hỷ,
Với tiếng kêu nhẹ nhàng:
Nay không phải là thời,
Buông thả với suối rừng,
Thật an ổn con sông
Ajakaranì,
Thoải mái và yên lành,
Thật an vui thích thú!
Rồi các bà con thuận để ngài đi. Vì ngài thích sống nhàn tịnh, đây trở thành lời tuyên bố chánh trí của ngài.

.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm

Xuất hiện ở nikaya khác ( tiểu bộ kinh )



1368 Thời Phật tại thế Xóa


© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
6133
Bài viết
786
Nhân vật
45
Hình ảnh

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications