Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDAKA – đệ nhất về giáo giới tỳ kheo ni
Nandaka tương lai, sanh vào trong một gia đình danh giá trong kinh thành Hamsavati, thời của Đức Phật Padumuttara. Khi đang nghe Đức Phật thuyết pháp, vị ấy chứng kiến một vị tỳ khưu được Đức Phật vinh danh là vị tỳ khưu Tối thắng về việc giáo giới các tỳ khưu ni. Vị ấy có ước muốn tha thiết được danh hiệu ấy trong thời của một vị Phật tương lai. Do đó vị ấy đã tổ chức cúng dường to lớn đến Đức Phật và bày tỏ ước nguyện trước Đức Phật. Đức Phật thấy nguyện vọng của vị ấy sẽ được thành tựu và đã thọ ký cho vị ấy.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:517

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2023-03-22 19:10:25
Chỉnh sửa gần nhất : 11/18/2025 21:50:58
ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDAKA – đệ nhất về giáo giới tỳ kheo ni

ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDAKA – đệ nhất về giáo giới tỳ kheo ni

1. Nandaka (v.l. Nanda) Thera. A householder of Savatthi. (The Apadāna (ii.499) says he belonged to a rich clan of merchants and that he entered the Order at the ceremony of dedication of Jetavana.)

Having entered the Order after hearing a sermon of the Buddha, he developed insight and soon attained arahantship. Once, at the Buddha's request, he preached a sermon to the nuns; on the first day they became sotāpannas, and, on the second, five hundred of them attained arahantship. From that time the Buddha declared him foremost among exhorters of the nuns. [A.i.25. The sermon he preached is known as the Nandakovada Sutta. The Anguttara Commentary (i.173) says that the nuns were Sakyan maidens who had entered the Order with Pajāpatī. At first Nandaka was reluctant to preach to them, they having been his wives in a previous birth when he was king, and he feared the calumny of his colleagues who might suggest that he wished to see his former companions. He, therefore, sent another monk in his place; but the Buddha, knowing that only Nanda's preaching would effect the nuns' release, insisted on his going.]

The Theragāthā (vs.279 82) contains several verses uttered by him to a woman to whom he was once married. She met him begging alms in Savatthi and smiled to him with sinful heart.

His aspiration after eminence was formed in the time of Padumuttara Buddha, when he heard a disciple of that Buddha declared foremost among exhorters of nuns. He offered the Buddha a very costly robe and illuminated his bodhi tree. In the time of Kakusandha Buddha he was a karavīka bird and delighted the Buddha with his song. Later, he was a peacock, and sang three times daily at the door of a Pacceka Buddha's cell. (ThagA. i.384f. The Apadana verses given in this context differ from those given in the Apadana itself (ii 499 f.).

The Anguttara Nikaya attributes two discourses to Nandaka. The first (A.i.193f. See sv., Sālha) was preached at the Migāramātupasāda and takes the form of a discussion with Sālha, Migāra's grandson, and Rohana, Pekkhuniya's grandson -  on greed, covetousness, malice and delusion, and the benefits following their destruction. The second discourse is a sermon addressed to the monks at the waiting hall at Jetavana. It is said that the Buddha was attracted to the spot by the sound of Nandaka's preaching, and, finding the door locked, stood for a long time outside, listening (A.iv.358ff.; throughout the three watches of the night says the Commentary, AA.ii.794; also MA.i.348). When his back began to ache he knocked at the door, and, having entered, told Nandaka that he had been waiting until the end of his discourse to speak to him. Nandaka expressed his regret that he should have kept the Buddha waiting and pleaded ignorance of his presence. The Buddha, conscious of Nandaka's remorse, went on to praise his sermon, and said that the preaching of such sermons was the duty of all pious monks. When the Buddha left, Nandaka resumed his sermon, and told his audience of the five results of listening to the Dhamma in due season.

The Majjhima Commentary (ii.1019) states that Nandaka was once the leader of a guild of five hundred slaves of Benares and that Pajapati Gotami was his wife. One day, while fetching water, his wife noticed five hundred Pacceka Buddhas enter the city, and, on her return, she witnessed their departure. On enquiry, she learnt that they had applied to a merchant for lodgings for the rainy season, but that he had been unable to help. She undertook the care of them and, having enlisted the support of all her companions and their husbands, she and her husband ministered to the Pacceka Buddhas. As a result, they were born together as man and wife for many births, as were their helpers. In one birth Nandaka was king, and all the women became his wives. In this birth, the women were born as Pajapati's companions, and they left the world in her company. To them was the Nandakovada Sutta preached.

1. Nandaka (vl Nanda) Thera. Một gia chủ ở Savatthi . ( Apadāna (ii.499) nói rằng ông thuộc một gia tộc thương gia giàu có và ông gia nhập Tăng đoàn tại buổi lễ khánh thành Jetavana .)

Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, ngài đã gia nhập Tăng đoàn, ngài đã phát triển tuệ giác và sớm đạt được quả vị A-la-hán . Một lần, theo lời yêu cầu của Đức Phật, ngài đã thuyết pháp cho các ni cô; vào ngày đầu tiên, họ đã đắc quả Dự lưu , và vào ngày thứ hai, năm trăm người trong số họ đã đắc quả A-la-hán. Từ đó, Đức Phật tuyên bố ngài là người đứng đầu trong số những người khuyên bảo các ni cô. [Ai25. Bài pháp ngài thuyết được gọi là Kinh Nandakovada . Chú giải Tăng chi bộ (i.173) nói rằng các ni cô là những thiếu nữ dòng Thích Ca đã gia nhập Tăng đoàn cùng với Pajāpatī . Lúc đầu, Nandaka không muốn thuyết pháp cho họ, vì họ đã từng là vợ của ngài trong một kiếp trước khi ngài làm vua, và ngài sợ sự vu khống của các đồng sự, những người có thể cho rằng ngài muốn gặp lại những người bạn đồng hành cũ của mình. Do đó, ngài đã cử một nhà sư khác thay thế; nhưng Đức Phật biết rằng chỉ có lời thuyết giảng của Nanda mới có thể giải thoát các ni cô nên đã kiên quyết yêu cầu ông đi.]

Theragāthā (câu 279-82) có một số bài kệ do ngài đọc cho một người phụ nữ mà ngài đã từng kết hôn. Bà gặp ngài đang khất thực ở Savatthi và mỉm cười với ngài với một trái tim tội lỗi.

Nguyện vọng cầu đạo của ngài được hình thành từ thời Đức Phật Padumuttara , khi ngài nghe một đệ tử của Đức Phật được tuyên bố là bậc nhất trong số các vị hộ trì ni giới. Ngài đã dâng Đức Phật một chiếc y rất quý giá và thắp sáng cây bồ đề của Ngài. Vào thời Đức Phật Kakusandha , ngài là một con chim Karavīka và làm Đức Phật vui thích với tiếng hót của mình. Về sau, ngài là một con công, và hót ba lần mỗi ngày trước cửa tịnh thất của một vị Phật Độc Giác . (ThagA. i.384f. Các bài kệ Apadana được đưa ra trong bối cảnh này khác với các bài kệ được đưa ra trong chính Apadana (ii 499 f.).

Kinh Anguttara Nikaya ghi lại hai bài thuyết pháp của Nandaka. Bài thứ nhất (Ai193f. Xem sv., Sālha ) được thuyết giảng tại Migāramātupasāda và diễn ra dưới hình thức một cuộc thảo luận với Sālha, cháu trai của Migāra, và Rohana , cháu trai của Pekkhuniya - về tham lam, tham lam, sân hận và si mê, cùng những lợi ích sau khi chúng được đoạn trừ. Bài thứ hai là một bài thuyết pháp dành cho các vị tỳ kheo tại sảnh đường ở Jetavana. Người ta kể rằng Đức Phật bị thu hút đến nơi này bởi âm thanh thuyết pháp của Nandaka, và khi thấy cửa khóa, Ngài đã đứng bên ngoài lắng nghe rất lâu (A.iv.358ff.; Chú giải AA.ii.794 ghi lại; cũng như MA.i.348). Khi lưng bắt đầu đau nhức, ngài gõ cửa, bước vào và nói với Nandaka rằng ngài đã đợi đến cuối buổi thuyết pháp mới được nói chuyện với ngài. Nandaka tỏ ra hối hận vì đã để Đức Phật chờ đợi và viện cớ không biết sự hiện diện của ngài. Nhận thấy sự hối hận của Nandaka, Đức Phật tiếp tục khen ngợi bài thuyết pháp của ngài và nói rằng việc thuyết giảng những bài pháp như vậy là bổn phận của tất cả các vị tỳ kheo thuần thành. Khi Đức Phật rời đi, Nandaka tiếp tục thuyết pháp và kể cho đại chúng nghe về năm quả của việc lắng nghe Giáo Pháp đúng lúc.

Chú giải Trung bộ (ii.1019) kể rằng Nandaka từng là thủ lĩnh của một phường hội gồm năm trăm nô lệ ở Benares và Pajapati Gotami là vợ của ông. Một ngày nọ, khi đang lấy nước, vợ ông thấy năm trăm vị Phật Pacceka vào thành phố, và khi trở về, bà đã chứng kiến ​​họ rời đi. Khi hỏi thăm, bà được biết rằng họ đã đến xin một thương gia để ở trọ trong mùa mưa, nhưng ông ta không thể giúp đỡ. Bà đảm nhận việc chăm sóc họ và sau khi nhận được sự hỗ trợ của tất cả các bạn đồng hành và chồng của họ, bà và chồng đã phục vụ các vị Phật Pacceka. Kết quả là, họ đã được sinh ra cùng nhau như vợ chồng trong nhiều kiếp, cũng như những người giúp đỡ họ. Trong một kiếp, Nandaka là vua, và tất cả phụ nữ đều trở thành vợ của ông. Trong kiếp này, những người phụ nữ được sinh ra làm bạn đồng hành của Pajapati, và họ đã rời bỏ thế gian cùng với bà. Đối với họ là bài kinh Nandakovada Sutta đã được thuyết giảng.

ĐẠI TRƯỞNG LÃO NANDAKA

 

Nguyện vọng quá khứ

 

Nandaka tương lai, sanh vào trong một gia đình danh giá trong kinh thành Hamsavati, thời của Đức Phật Padumuttara. Khi đang nghe Đức Phật thuyết pháp, vị ấy chứng kiến một vị tỳ khưu được Đức Phật vinh danh là vị tỳ khưu Tối thắng về việc giáo giới các tỳ khưu ni. Vị ấy có ước muốn tha thiết được danh hiệu ấy trong thời của một vị Phật tương lai. Do đó vị ấy đã tổ chức cúng dường to lớn đến Đức Phật và bày tỏ ước nguyện trước Đức Phật. Đức Phật thấy nguyện vọng của vị ấy sẽ được thành tựu và đã thọ ký cho vị ấy.

Đời sống Sa-môn trong kiếp chót


Người đàn ông danh giá ấy sống cuộc đời còn lại làm những việc phước cho đến chết và chỉ tái sanh vào các cõi hạnh phúc. Trong thời của Đức Phật Gotama, vị ấy sanh vào một gia đình danh giá ở Sāvatthi. Khi đến tuổi trưởng thành, vị ấy nghe pháp của Đức Phật đã khởi sanh lòng tịnh tín đến mức vị ấy từ bỏ thế gian và sống đời xuất gia. Không bao lâu, nhờ tinh cần hành đạo, vị ấy chứng đắc đạo quả A-la-hán. Vị ấy có khả năng đặc biệt về Túc mạng minh. Vị ấy cũng là một nhà diễn thuyết thiên phú có khả năng thu hút sự chú ý của bốn chúng mà hội tụ trước Đức Phật hay chúng Tăng bằng tài năng diễn thuyết của vị ấy. Như vậy vị ấy nổi tiếng là trưởng lão Nandaka -Người thuyết giảng Chánh pháp.

Một thời nọ, Đức Phật đã phải can thiệp vào hai nhóm đang tranh chấp là những hoàng tử Sakyan thuộc bộ tộc Koliya và những người thuộc bộ tộc Kapilavatthu sống ở hai bên của con sông nhỏ tên Rohini, vì họ không thể hòa giải trong việc phân phối con nước ít ỏi đến mỗi nhóm chuyên trồng trọt. Sau khi hòa giải hai bên, Đức Phật bảo 250 hoàng tử ở mỗi phe nên xuất gia Sa-môn. Năm trăm hoàng tử Sakyan vẫn còn trẻ. (Họ còn luyến ái gia đình), và không thấy hạnh phúc trong đời sống của tỳ khưu. Đức Phật dẫn họ đến hồ Kuṇāla. Tại đó Ngài thuyết Bổn sanh Kuṇāla Jātaka làm khởi dậy sự thức tỉnh về tình cảm trong họ. Đức Phật biết rõ điều này và đã giảng dạy cho họ về Tứ Thánh Đế khiến họ được an trú trong thánh quả Nhập lưu. Rồi Đức Phật thuyết đến họ bài kinh Mahāsamaya trong khu rừng Mahāvana, cuối bài pháp cả năm trăm vị tỳ khưu đều trở thành A-la-hán.

Năm trăm người vợ của những tỳ khưu đã từ bỏ đời sống thế tục, họ không tìm thấy lý do nào để ở lại trong những lâu đài cao vút. Thế nên, tất cả họ đều kéo đến bà Mahāpajāpati Gotamī, là dưỡng mẫu của Đức Phật, để cầu xin Đức Phật cho phép họ được xuất gia.

Họ đi đến khu rừng Mahāvana ở đó, theo sự thỉnh cầu tha thiết của bà Mahāpajāpati Gotamī, Đức Phật cho phép họ trở thành những tỳ khưu ni sau khi ban hành tám Trọng pháp mà họ phải thọ trì. Vì trước họ không có tỳ khưu ni nên lễ thâu nhận của họ chỉ được tổ chức

bởi các vị tỳ khưu. (Về sau, sự thâu nhận các tỳ khưu ni đòi hỏi phải có cả hai chúng tỳ khưu và tỳ khưu ni). Điều quan trong liên quan đến trưởng lão Nandaka là tất cả năm trăm vị tỳ khưu ni ấy trong những kiếp quá khứ, họ đều đã từng làm hoàng hậu của trưởng lão Nandaka khi vị ấy làm vua.

Rồi Đức Phật bảo các vị tỳ khưu giáo giới cho các tỳ khưu ni. Khi đến phiên trưởng lão Nandaka giáo giới cho năm trăm tỳ khưu ni thì vị ấy không đi mà ủy nhiệm một vị khác làm phận sự. Sở dĩ như vậy, vì vị ấy biết bằng Túc mạng minh rằng năm trăm tỳ khưu ni ấy đã từng là vợ của vị ấy trong kiếp quá khứ. Vị ấy e rằng, nếu một vị tỳ khưu khác có Túc mạng minh nhìn thấy vị ấy được vây quanh bởi những tỳ khưu ni này, thì vị ấy có thể bị hiểu lầm là vẫn còn luyến ái với những bà vợ cũ.

Năm trăm tỳ khưu ni đều nhiệt tâm khi thọ lãnh lời giáo giới từ trưởng lão Nandaka. Khi ấy Đức Phật nói với trưởng lão Nandaka: “ Này Nandaka, hãy đích thân giáo giới các tỳ khưu ni, đừng phó thác cho vị khác khi đến phiên của con.” Trưởng lão Nandaka tôn kính làm theo lời dạy của Đức Phật, đi đến các vị tỳ khưu ni vào phiên của vị ấy, là ngày thứ mười bốn âm lịch, nhằm ngày Bố tát (uposatha). Vị ấy giáo giới họ về chủ đề Sáu nội xứ (āyatana), vào lúc kết thúc bài pháp năm trăm tỳ khưu ni, là những công chúa dòng Sakya trước kia, đều chứng đắc quả thánh Nhập lưu.

Các vị tỳ khưu ni rất hoan hỉ với bài Pháp của trưởng lão Nandaka. Họ đi đến Đức Phật và bày tỏ sự tán thán của họ về Đạo và Quả siêu thế mà họ đã trải nghiệm. Khi ấy Đức Phật xem xét trường hợp của họ, và thấy rằng cũng bài pháp ấy do trưởng lão Nandaka thuyết giảng, nếu được thuyết lại, thì sẽ đưa họ đến đạo quả A-la-hán. Bởi vậy vào ngày hôm sau, Đức Phật bảo họ nghe lại bài pháp ấy từ trưởng lão Nandaka, kết quả là năm trăm vị tỳ khưu ni đều trở thành những vị A-la-hán.

Vào ngày hôm ấy khi năm trăm tỳ khưu ni đi đến Đức Phật, Ngài biết rằng bài pháp được lập lại đã đem lại lợi ích cho họ và Ngài nói: “ Này các tỳ khưu, bài pháp do tỳ khưu Nandaka thuyết ngày hôm

qua giống như trăng tròn xuất hiện vào ngày mười bốn của tháng; bài pháp mà vị ấy thuyết ngày hôm nay giống như trăng tròn xuất hiện vào ngày mười lăm của tháng.” Như vậy Đức Thế Tôn đã tán dương phước đức về bài pháp của trưởng lão Nandaka.

(Bài pháp đầy đủ của trưởng lão Nandaka có tìm thấy ở bài kinh Nandakovāda Sutta, Uparipaṇṇāsa.)

(e) Sự hoạch đắc danh hiệu Etadagga

Liên quan đến sự kiện trên, vào một dịp, khi ngồi giữa chúng tỳ khưu, Đức Phật đã công bố:

Etadaggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ bhikkhunovādakānaṃ yadidaṃ Nandako.

Này các tỳ khưu, trong số các Thinh văn đệ tử của Như Lai mà giáo giới đến các tỳ khưu ni, thì tỳ khưu Nandaka

là Đệ nhất.

.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm

Xuất hiện ở nikaya khác ( tiểu bộ kinh )



825 Top 80 vị trưởng lão tăng đoàn Đức Phật Xóa


© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
6133
Bài viết
786
Nhân vật
45
Hình ảnh

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications