Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Đại đức XA NẶC ( Chandaka – Channa )
Đại đức XA NẶC (Chandaka – Channa) (Người hầu cận trung thành của thái tử Tất Đạt Đa thuở trước ở hoàng cung) (Lời người dịch: Xa Nặc vốn là người hầu cận trung thành của thái tử Tất Đạt Da. Tuy xuất thân tu giai cấp nô lệ, nhưng ông đã thường được nhắc nhở tới trong kinh điển, vì cuộc đời của ông đã gắn bó khắn khít với cuộc đời đức Phật, từ thời gian trai trẻ của Ngài hồi còn ở hoàng cung Ca Tì La Vệ, cũng như sau ngày Ngài thành đạo. Có thể nói, ông chỉ sống xa đức Phật trong khoảng 8 năm, từ khi Ngài đi xuất gia Ca Diếp khi Ngài về thăm hoàng cung lần thứ nhất sau ngày thành đạo. Câu chuyện về đại đức Xa Nặc sau đây, đã được chúng tôi trích dịch từ sách Disciples of the Buddha của Zenno Ishigami [bản dịch Anh ngữ của Richard L. Gage và Paul McCarthy – Kosei Publishing Co. xuất bản, Tokyo, 1989, trang 131-137]).
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:16

Các tên gọi khác

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2023-02-22 17:01:23
Chỉnh sửa gần nhất : 11/19/2025 14:51:16
Đại đức XA NẶC ( Chandaka – Channa )

3. Channa.-Gotama's charioteer and companion, born on the same day as Gotama (J.i.54; Mtu.ii.156, 164, 189, 233; iii.91, 262; BuA.233; SA.ii.231; DhsA.34. ThagA. (i.155) says he was the son of a servant woman of Suddhodana). When Gotama left household life, Channa rode with him on the horse Kanthaka as far as the river Anomā. There Gotama gave him his ornaments and bade him take Kanthaka back to his father's palace (A thūpa was later erected on the spot where Channa turned back; Dvy.391). When, however, Kanthaka died of a broken heart, Channa's grief was great, for he had suffered a double loss. It is said that he begged for leave to join Gotama as a recluse, but this leave was refused (J.i.64f). He therefore returned to Kapilavatthu, but when the Buddha visited his Sākiyan kinsfolk, Channa joined the Order. Because of his great affection for the Buddha, however, egotistical pride in "our Buddha, our Doctrine" arose in him and he could not conquer this fondness nor fulfil his duties as a Bhikkhu. (ThagA.i.155; his verse no.69 quoted in Thag. does not, however, refer to any such remissness on his part).

Once, when in the Ghositārāma in Kosambī, Channa committed a fault but was not willing to acknowledge it. When the matter was reported to the Buddha, he decreed that the ukkhepaniya-kamma be carried out against him, forbidding him to eat or dwell with the Sangha. He therefore changed his residence, but was everywhere "boycotted," and returned to Kosambī subdued and asking for reprieve, which was granted to him. Vin.ii.23ff. His obstinacy and perverseness are again mentioned elsewhere - e.g., Vin.iv.35, 113, 141. A patron of his once erected a vihāra for him, but he so thatched and decked it that it fell down. In trying to repair it he damaged a brahmin's barley field (Vin.iii.47). See also Vin.iii.155f., 177.

Later, in a dispute between the monks and the nuns, he deliberately sided with the latter; this was considered so perverse and so lacking in proper esprit de corps, that the Buddha decreed on him the carrying out of the Brahmadanda whereby all monks were forbidden to have anything whatsoever to do with him. This was the last disciplinary act of the Buddha, and the carrying out thereof was entrusted to Ananda. D.ii.154. It would, however, appear from DhA.ii.110 that the Brahmadanda was inflicted on Channa for his having repeatedly reviled Sāriputta and Moggallāna in spite of the Buddha's warning. In this version other details also vary.

When Ananda visited Channa at the Ghositārāma and pronounced on him the penalty, even his proud and independent spirit was tamed; he became humble, his eyes were opened, and dwelling apart, earnest and zealous, he became one of the arahants, upon which the penalty automatically lapsed (Vin.ii.292). In the past, Channa met Siddhattha Buddha going towards a tree, and being pleased with him, spread for him a soft carpet of leaves round which he spread flowers. Five kappas ago he became king seven times, under the name of Tinasanthāraka (ThagA.i.155).

He is probably identical with Senāsanadāyaka of the Apadāna (i.137).

Channa is identified with the hunter in the Suvannamiga (III.187), the Gijjha (III.332), the Rohantamiga (IV.423), the Cūlahamsa (V.354), and the Mahāhamsa (V.382) Jātakas, with the wrestler in the Sālikedāra Jātaka (IV.282) and with Cetaputta in the Vessantara Jātaka (VI.593).

See also Channa Sutta (1).

3. Channa. - Người đánh xe và là bạn đồng hành của Gotama , sinh cùng ngày với Gotama (Ji54; Mtu.ii.156, 164, 189, 233; iii.91, 262; BuA.233; SA.ii.231; DhsA.34. ThagA. (i.155) nói rằng ông là con trai của một người hầu gái của Suddhodana). Khi Gotama rời bỏ cuộc sống gia đình, Channa đã cưỡi ngựa Kanthaka cùng ông đến tận sông Anomā . Tại đó, Gotama đã trao cho ông những món đồ trang sức của mình và bảo ông đưa Kanthaka trở về cung điện của cha mình (Một bảo tháp sau đó được dựng lên tại nơi Channa quay trở lại; Dvy.391). Tuy nhiên, khi Kanthaka chết vì đau khổ, nỗi đau buồn của Channa rất lớn, vì ông đã phải chịu một mất mát gấp đôi. Người ta nói rằng ông đã xin phép xuất gia với Đức Phật Gotama, nhưng lời xin phép này bị từ chối (Ji64f). Vì vậy, ông trở về Kapilavatthu, nhưng khi Đức Phật đến thăm họ hàng Thích Ca của mình, Channa đã gia nhập Tăng đoàn. Tuy nhiên, vì lòng sùng kính Đức Phật quá lớn, lòng tự hào vị kỷ về "Đức Phật của chúng ta, Giáo Pháp của chúng ta" đã nảy sinh trong ông và ông không thể chế ngự được lòng yêu mến này cũng như không thể hoàn thành bổn phận của một Tỳ kheo. (ThagA.i.155; tuy nhiên, bài kệ số 69 được trích dẫn trong Thag. không đề cập đến bất kỳ sự chểnh mảng nào như vậy từ phía ông).

Có lần, tại Ghositārāma ở Kosambi , Channa đã phạm lỗi nhưng không chịu nhận lỗi. Khi sự việc được trình lên Đức Phật, Ngài ra sắc lệnh phải chịu nghiệp ukkhepaniya-kamma đối với ông, cấm ông ăn uống hay ở chung với Tăng đoàn. Vì vậy, ông đã thay đổi chỗ ở, nhưng bị "tẩy chay" khắp nơi, và trở về Kosambi, bị khuất phục và cầu xin ân xá, và được chấp thuận. Vin.ii.23ff. Sự ngoan cố và ngang bướng của ông lại được đề cập ở những nơi khác - ví dụ, Vin.iv.35, 113, 141. Một thí chủ của ông đã từng dựng cho ông một tịnh xá, nhưng ông đã lợp mái và lợp mái quá nhiều đến nỗi nó bị đổ. Trong khi cố gắng sửa chữa, ông đã làm hư hại cánh đồng lúa mạch của một bà la môn (Vin.iii.47). Xem thêm Vin.iii.155f., 177.

Sau đó, trong một cuộc tranh cãi giữa các tăng ni, ông đã cố tình đứng về phía sau; điều này bị coi là quá sai trái và thiếu tinh thần đồng đội đúng đắn, đến nỗi Đức Phật đã ra lệnh cho ông thực hiện Brahmadanda, theo đó tất cả các tăng ni đều bị cấm không được có bất kỳ mối quan hệ nào với ông. Đây là hành động kỷ luật cuối cùng của Đức Phật, và việc thực hiện được giao cho Ananda. DhA.ii.154. Tuy nhiên, từ DhA.ii.110, có vẻ như Brahmadanda đã được áp dụng cho Channa vì ông đã nhiều lần chửi rủa Sāriputta và Moggallāna bất chấp lời cảnh báo của Đức Phật. Trong phiên bản này, các chi tiết khác cũng khác nhau.

Khi Ananda đến thăm Channa tại Ghositārāma và tuyên án phạt, ngay cả tính kiêu ngạo và độc lập của ông cũng được chế ngự; ông trở nên khiêm nhường, đôi mắt được mở ra, và sống ẩn dật, chân thành và nhiệt thành, ông trở thành một trong những vị A-la-hán, và nhờ đó hình phạt tự động được xóa bỏ (Vin.ii.292). Trong quá khứ, Channa gặp Đức Phật Siddhattha đang đi đến một gốc cây, và rất hài lòng với Ngài, đã trải một tấm thảm mềm mại bằng lá và rải hoa xung quanh cho Ngài. Năm đại kiếp trước, ông đã lên ngôi vua bảy lần, dưới tên Tinasantāraka (ThagA.i.155).

Ông có lẽ giống hệt với Senāsanadāyaka của Apadāna (i.137).

Channa được đồng nhất với người thợ săn trong Suvannamiga (III.187), Gijjha (III.332), Rohantamiga (IV.423), Cūlahamsa (V.354) và Mahāhamsa (V.382) Jātakas, với đô vật trong Sālikedāra Jātaka (IV.282) và với Cetaputta trong Vessantara Jātaka (VI.593).

Xem thêm Channa Sutta (1).


 

 

PHỤ LỤC
(Do cư sĩ Hạnh Cơ biên soạn thêm)

Đại đức XA NẶC

(Chandaka – Channa)

(Người hầu cận trung thành của thái tử Tất Đạt Đa thuở trước ở hoàng cung)

(Lời người dịch: Xa Nặc vốn là người hầu cận trung thành của thái tử Tất Đạt Da. Tuy xuất thân tu giai cấp nô lệ, nhưng ông đã thường được nhắc nhở tới trong kinh điển, vì cuộc đời của ông đã gắn bó khắn khít với cuộc đời đức Phật, từ thời gian trai trẻ của Ngài hồi còn ở hoàng cung Ca Tì La Vệ, cũng như sau ngày Ngài thành đạo. Có thể nói, ông chỉ sống xa đức Phật trong khoảng 8 năm, từ khi Ngài đi xuất gia Ca Diếp khi Ngài về thăm hoàng cung lần thứ nhất sau ngày thành đạo. Câu chuyện về đại đức Xa Nặc sau đây, đã được chúng tôi trích dịch từ sách Disciples of the Buddha của Zenno Ishigami [bản dịch Anh ngữ của Richard L. Gage và Paul McCarthy – Kosei Publishing Co. xuất bản, Tokyo, 1989, trang 131-137]).

Mùa mưa năm ấy, đức Phật đã về an cư tại tu viện Kì Viên (Jetavana). Rất đông đảo chư tăng đã qui tụ về đây để được tu học dưới sự chỉ dạy của Ngài, trong đó có đại đức Xa Nặc. Đức Phật nói pháp mỗi ngày, và mọi người đều chú tâm lắng nghe từng lời dạy của Ngài. Trong tăng đoàn, có hai vị được đại chúng kính trọng một cách đặc biệt, đó là tôn giả Xá Lợi Phất, trí tuệ bậc nhất, và tôn giả Mục Kiền Liên, thần thông bậc nhất, nhưng đại đức Xa Nặc thì lại nhìn hai vị ấy với lòng đầy ắp ganh tị. 

Cũng nghe lời Phật dạy, nhưng mỗi vị đệ tử đã chọn cho mình một pháp môn riêng để hành đạo. Có vị thì thích ngồi thiền để đưa tâm thức vào cảnh định sâu thẳm. Có vị chỉ thích học thuộc lòng những bài pháp của Phật. Có vị thì chú ý vào việc nghiên cứu và bàn luận về phương diện lí thuyết của giáo pháp. Rất nhiều vị thích gần gũi các vị trưởng lão để được chỉ dẫn cho những điều khó hiểu trong giáo lí.

Đạc biệt, hai trưởng lão Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, lúc nào cũng được các vị sư trẻ tuổi bu quanh với lòng thiết tha học hỏi. Điều đó đã làm cho đại đức Xa Nặc cảm thấy bị chạm tự ái rất nhiều.

Xa Nặc vốn là một người nô lệ, phục vụ trong hoàng cung Ca Tì La Vệ, thủ đô của vương quốc Thích Ca. Khi đức Phật (nguyên là thái tử đông cung của vương quốc Thích Ca) trở về Ca Tì La Vệ lần đầu tiên sau ngày thành đạo, Xa Nặc vừa nhìn thấy Ngài, liền phát sinh lòng kính ngưỡng sâu xa. Ông ước mong sẽ được làm đệ tử của bậc tôn quí ấy, nhưng làm sao đây? Một kẻ nô lệ thì đâu có thể được chấp nhận vào tăng đoàn! Dù vậy, khi nhìn thấy con của các vị hoàng thân đi xuất gia thì ông không thể tự kềm chế nỗi ao ước của mình được. Ông bèn lấy hết can đảm, đến trước đức Phật, thưa với giọng ấp úng:

– Con cũng muốn được xuất gia, nhưng con lại là một kẻ thuộc giai cấp nô lệ … Có lẽ con không có hi vọng gì …

Đức Phật liền bảo ngay:

– Này Xa Nặc! Hãy đến đây, ông sẽ được xuất gia.

Rồi Ngài dạy cho ông biết rằng, trong giáo pháp của Ngài không có sự phân biệt giai cấp. Mọi người đều có thể giác ngộ nếu biết tôn kính Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng, và nghiêm trì giới luật, cố gắng đạt đạo. Ông đã nhìn chăm chú vào mắt đức Phật khi Ngài dạy những lời ấy. Về sau, mỗi khi nhớ lại cái nhìn đầy tình thương yêu sâu thẳm của Ngài lúc ấy, Xa Nặc đều cảm thấy niềm an lạc dâng cao trong tâm hồn.

Đúng như lời Phật dạy, trong giáo đoàn của Ngài có rất nhiều vị từng là Bà la môn, thương gia hay địa chủ. Nhiều vị từng là những trưởng giả cự phú, và họ đã từ bỏ tất cả để sống đời xuất gia. Có nhiều vị quí tộc đã từ bỏ cả những người vợ xinh đẹp của họ. Tất cả đều khóac trên mình chiếc áo ca sa giống nhau, và đi khất thực đó đây với một chiếc bình bát như nhau.

Từ khi đại được Xa Nặc trở thành một trong những vị tì kheo gia nhập tăng đoàn từ buổi sớm, những vị xuất gia sau đó đều tỏ lòng kính trọng đại đức. Thấy thế, đại đức đã suy nghĩ: “Hồi còn ở hoàng cung, ta đã từng bị mọi người sai bảo và khinh bỉ, nhưng từ bây giờ trở đi thì mọi chuyện đều đổi khác”. 

Thật vậy, từ khi mọi người từ lớn đến nhỏ trong tăng đoàn đối xử một cách cung kính, đại đức Xa Nặc càng ngày càng cảm thấy hãnh diện về địa vị của mình. Bây giờ đại đức thấy, hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, chỉ xuất gia suýt soát cùng thời gian với đại đức, mà lại được các đại đức trẻ tuổi tìm đến nương tựa coi như là hai vị cố vấn đầy kinh nghiệm của họ; đại đức tự hỏi, “Tại sao người đáng nương tựa không phải là ta?” Đại đức bắt đầu cảm thấy bị xúc phạm, và cuối cùng thì công khai nói xấu hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Sự việc đó đến tai Phật. Ngài liền cho gọi đại đức đến và hỏi tại sao lại có thái độ như vậy. Đại đức đã nhận lời quở trách của Phật như một liều thuốc bổ dưỡng, và đã hối hận đến nỗi không dám ngẩng dầu lên.

Từ đó đại đức cố gắng kiểm soát tâm ý mình, và siêng năng tu tập, nhưng chỉ một thời gian sau, chứng nào lại vẫn tật ấy. Bất cứ lúc nào đại đức nhìn thấy hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, mối hận cũ lại bùng lên, mà đôi khi lại còn mãnh liệt hơn trước. Nhiều vị đại đức trẻ, công phu tu học còn non yếu, lại vô tình nuôi lớn thêm sự ngông cuồng của đại đức bằng cách dành cho đại đức những lời tâng bốc đẹp đẽ. Bởi vậy, một lần nữa, đại đức lại gây hấn với hai vị trưởng lão kia. Đức Phật biết tin, lại khiển trách, và đại đức lại tỏ lòng hối lỗi, nhưng sự ăn năn của đại đức lúc nào cũng chỉ được một thời gian ngắn thôi. Sau khi đã ba lần phạm cùng một lỗi ấy, đức Phật mới gọi đại đức đến và trách mắng một cách nặng nề: 

– Này Xa Nặc! Hai thầy Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên thật sự là những người bạn tu tốt nhất của thầy trong đạo pháp. Thầy không nên để cho chính mình bị kéo vào những hành vi sai trái bởi sự ngu muội và những người không xứng đáng.

Khi mùa mưa chấm dứt, và đồi núi cùng những cánh đồng ở Kiều Tát La (Kosala) phơi mình tươi sáng dưới ánh nắng mặt trời, đức Thích Ca Mâu Ni liền rời tu viện Kì Viên, lên đường tiếp tục sự nghiệp hoằng hóa. Chư tăng cũng vậy, đã lần lượt rời tu viện để đi hành đạo ở nhiều địa phương khác nhau. Đại đức Xa Nặc cũng rời tu viện, và tự mình tìm theo dấu chân Phật. Từ thành Xá Vệ (Sravasti – Savatthi), đại đức đi về hướng Nam đến trấn Ta Chỉ Đa (Saketa), rồi sang thành Ba La Nại (Varanasi – Baranasi), một thành phố thương mại nằm trên bờ sông Hằng, và là thủ đô của vương quốc Ca Thi. Từ đó đi ngược bờ sông, đại đức đến Kiều Thưởng Di (Kausambi – Kosambi), một trung tâm mậu dịch phồn thịnh, và là kinh đô của vương quốc Bạt Sa (Vatsa – Vamsa). Đại đức đến đâu cũng được dân chúng hoan nghênh; tại vì, người dân ở địa phương nào cũng vậy, đều rất sung sướng được đón tiếp bất cứ vị đệ tử nào của Phật đi ngang qua khu vực của họ, và đều đem hết lòng thành hướng về vị ấy để chờ nghe thuyết pháp. Trong lúc đó thì đại đức lại tin rằng, sở dĩ đại đức được tiếp đón nồng hậu như thế là bởi vì đại đức đã trở thành một vị tăng xuất chúng, xứng đáng nhận được sự tôn kính của tín đồ dành riêng cho mình.

Sau một cuộc hành trình dài, đức Phật đến tu viện Cù Sư La (Ghosilarama – Ghositarama) (1) ở thành phố Kiều Thưởng Di. Đại đức Xa Nặc cũng đến đây gặp Phật, và ở lại đó vài hôm. Tại đây, một vị thí chủ giàu có và nhiệt thành, đã tỏ lòng kính trọng và muốn cúng dường cho đại đức, bèn thỉnh nguyện:

– Bạch đại đức Xa Nặc! Xin đại đức hãy ở lại đây để giảng pháp. Con muốn xây riêng cho đại đức một ngôi chùa. Xin đại đức vui lòng chọn địa điểm và chỉ dẫn cho con biết nên xây ngôi chùa ấy như thế nào.

Đại đức vui mừng không xiết, và thầm nghĩ: “Cuối cùng thì ta cũng được mọi người tôn kính như Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên!”

Đại đức liền đi rảo quanh kinh thành Kiều Thưởng Di, và tìm thấy một cây ni câu đà (nyagrodha – nigrodha) rất lớn, sống lâu có đến vài trăm năm. Cho rằng cây đại thọ này chắc chắn sẽ cho gỗ tốt để xây chùa, đại đức bèn mướn người cưa nó xuống, nhưng thật là không may, cây đại thọ đó được người địa phương coi là một cây linh thiêng, được dân chúng sùng kính trải qua nhiều thế hệ. Quá tức giận với hành động khinh suất của đại đức Xa Nặc, dân chúng trong thành phố liền kéo nhau đến tu viện Cù Sư La để khiếu nại. Đức Phật liền cho gọi đại đức đến và quở trách nặng nề:

– Có phải thầy nghĩ rằng đó là những hành động chính đáng của một vị tì kheo, khi thầy khinh thường những gì mà dân chúng sùng bái? Thầy có biết rằng, nhiệm vụ của một vị tì kheo chỉ là đem giáo pháp phân bố cho mọi người nhằm giúp họ đạt đến an lạc và hạnh phúc không? Hành động của thầy quả thật đã làm tổn thưong cho đạo pháp và gây nguy hiểm cho giáo đoàn!

Xa Nặc cũng lại buồn rầu trong một thời gian, và ngôi chùa nguy nga ba tầng đã sớm hoàn thành, đại đức lại vui mừng vô hạn. Đại đức quyết định lợp thêm một mái ngói thật đẹp, nhưng mái ngói ấy chưa kịp hoàn tất thì ngôi chùa đã bị sập vì quá nặng; làm cho rất nhiều công nhân bị thương. Vậy mà đại đức bất chấp tất cả, ngôi chùa xa xỉ của đại đức cứ phải hoàn thành! Đại đức đã bảo vị thí chủ mua cho một chiếc giường thật rộng và đẹp như những chiếc giường của các hoàng tử hay quí tộc nằm, để đại đức dùng. Đại đức đã từ chối tham dự lễ “bố tát” mỗi nửa tháng, vì cho rằng mình không phạm lỗi lầm gì để phải tới đó thú nhận.

Đại đức Xa Nặc hoàn toàn không thể khắc phục những khuyết điểm của mình. Đại đức tiếp tục phạm luật, rồi sám hối, rồi lại phạm luật không giữ đúng những lời hứa trước đức Phật, lần này lại lần khác, cứ thế cho đến già.

Tại rừng Câu Thi Na (Kusinagara – Kusinara), trước giờ phút nhập niết bàn, đức Phật đã dặn dò tôn giả A Nan, sau khi Ngài nhập diệt, tất cả mọi người trong tăng đoàn không được nói chuyện với Xa Nặc, dù ở bất cứ trường hợp nào. Nếu Xa Nặc muốn gợi chuyện với vị nào, vị đó phải giữ im lặng, không trả lời. Tôn giả A Nan hỏi tại sao Ngài phải có quyết định đó, đức Phật dạy:

– Xa Nặc vẫn còn chìm sâu trong vọng tưởng. Ngày nào Như Lai còn sống trên đời, thì ngày đó thầy ấy còn có người kềm chế, nhưng sau khi Như Lai diệt độ rồi thì không ai có thể kềm chế thầy ấy được. Muốn giúp cho thầy ấy tỉnh ngộ, chúng ta phải cô lập thầy ấy một thời gian, để thầy ấy tự xét lại chính mình.

Lúc bấy giờ đại đức Xa Nặc đang bố giáo ở một vùng gần đó, cho nên tin đức Phật nhập niết bàn đã đến với đại đức rất nhanh. Đại đức lập tức đến rừng Câu Thi Na, hỏi thăm tôn giả A Nan chi tiết về giờ phút nhập diệt của đức Phật. A Nan từng nổi tiếng là người luôn luôn tử tế và thiện cảm, vậy mà tôn giả đã không trả lời câu hỏi thăm của Xa Nặc, lại quay mắt đi với vẻ mặt đau buồn. Đại đức tự hỏi: “Có phải vì ông ấy quá buồn rầu đến nỗi kiệt sức, cho nên không trả lời được câu hỏi của ta?” Nhưng khi khám phá ra là ai ai cũng đều từ chối nói chuyện với mình, thì đại đức liền đổi thái độ từ ngạc nhiên ra giận dữ. Đại đức nghĩ, toàn thể tăng chúng tại đây đã quyết định xa lánh mình sau khi Phật nhập diệt. Đại đức lại càng tức giận, và bỏ đi. thế rồi trên đường đi, các cị tăng sĩ bạn tu khác, khi vừa nhìn thấy đại đức từ xa, đã vội lẩn tránh không muốn gặp mặt. Đại đức rất đổi kinh ngạc về thái độ lạ lùng ấy của họ. Đại đức liên tiếp bị đẩy vào tình cảnh cô đơn, và sự đau đớn bởi cách đối xử ấy còn thê thảm hơn nỗi đau đớn về thể xác, nhưng đại đức hoàn toàn không hiểu được lí do đã dựng nên bức tường băng đá của sự im lặng này.

Một ngày kia, đại đức Xa Nặc đi thơ thẩn đến vườn Lộc Uyển, gần thành Ba La Nại, nơi mà trước đây đức Phật đã chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên. Thình lình đại đức nhớ ra rằng, chỉ có thiền tọa mới giải tỏa được mọi nỗi lo âu một cách hữu hiệu. Thế rồi đại đức ngồi xuống nơi một gốc cây lớn trong khu vườn, và bắt đầu nhập định. Trải qua nhiều ngày như thế, đại đức đã chiến đấu mạnh mẽ với cảm giác cô đơn và ý tưởng bị mọi người bỏ rơi. Rồi một hôm, chỉ trong khoảnh khắc ngắn trước buổi bình mình, một tia sáng của sự thật bỗng lóe lên trong tâm thức, đại đức chợt nhận ra: “Suốt trong thời gian qua, ta đã là một tên nô lệ của sự tham đắm. Đức Phật đã từng dạy về Bốn Sự Thật như là một phương pháp để thoát khỏi vũng lầy tham đắm này. Ta đã hãnh diện giảng dạy cho tín đồ về những sự thật đó, nhưng chính ta thì lại không tu tập cho bản thân mình. Ta chỉ biết sử dụng mọi năng lượng của mình trong việc hủy báng người khác, mà chưa từng đối diện với chính mình”. Chiếc cùm từng khóa chặt tâm ý đại đức bấy lâu, giờ đã bị tháo tung. Đại đức vừa thấy rõ mặt mũi của sự ngu dốt mà từ lâu nay đại đức đã ôm lấy. Đại đức cũng bắt đầu hiểu được lí do vì sao mà gần đây đại chúng đã công khai xa lánh mình.

Đại đức liền rời vườn Lộc Uyển, và đi thẳng về tu viện Cù Sư La, nơi đó, tôn giả A Nan đang có mặt. Đại đức gieo mình dưới chân tôn giả, xin tha thứ; và tôn giả chỉ dạy lại cho phương pháp tu tập để có thể đạt đến an lạc thực sự.

Tôn giả A Nan nhìn Xa Nặc một cách chăm chú, rồi nghiêm nghị gật dầu. Bấy giờ tôn giả mới cho cho đại đức biết những gì đức Phật đã dặn dò trước khi Ngài nhập niết bàn. Đại đức lẩm bẩm: “Đức Thế Tôn thật dã săn sóc cho mình rất nhiều, nhưng mình lại là đứa đệ tử ngu ngốc nhất của Ngài, cả đến giờ phút Ngài nhập diệt”. Đó là lần đầu tiên đại đức nhận thức rõ rệt tình thương yêu bao la của Phật.

Thật chậm rãi và thật nghiêm trang, tôn giả A Nan bắt đầu giảng dạy trở lại cho đại đức về Ba Ngôi Báu và con đường của tám sự hành trì chân chánh. Lời dạy của tôn giả hoàn toàn làm tươi mát lại tâm hồn Xa Nặc, như nước thấm vào khoảnh đất khô. Và cuối cùng, đại đức đã đạt đến cái trạng thái không còn bị lay chuyển nữa. Từ hôm đó, đại đức dã dùng tất cả thì giờ và công sức vào việc tu tập. Rốt cuộc, đại đức dã chứng được quả vị A la hán, mọi người đều sùng kính.

Niềm vui của đại đức Xa Nặc khi vừa giác ngộ đã được ghi lại trong phẩm “Trưởng Lão Kệ” (2) như sau:

 Nhờ vị trưởng lão có trí tuệ siêu việt,

 Tôi được nghe giáo pháp vi diệu của bậc Tôn Sư,

 Và tu tập để đạt đến quả Vô sinh,

 Quả thật người (3) đã theo đuổi tận cùng,

 Con đường đưa đến sự an lạc tuyệt đối.

CHÚ THÍCH (của người dịch)

(1) Cù Sư La (Ghosila – Ghosita) là một vị trưởng lão ở thành phố Kiều Thưởng Di, kinh đô của vương quốc Bạt Sa. Ông là một trong ba vị đại thần của vua Ưu Điền (Udayana). Một hôm, nghe nói có Phật và giáo đoàn đang hành hóa tại thành Xá Vệ, ông liền sang đó để xin yết kiến Phật và nghe pháp. Ông qui y theo Phật và thỉnh Phật sang Kiều Thưởng Di hoằng hóa. Được Phật chấp thuận, ông quay về Kiều Thưởng Di xây cất một ngôi tu viện lớn ngay trong khu rừng cây của ông để cúng dường Phật và giáo đoàn, gọi là tu viện Cù Sư La.

(2) “Trưởng Lão Kệ” (Theragatha), trong Tiểu Bộ Kinh [Khuddakanikaya], thuộc Tạng Pali).(3) Ở câu thứ nhì của bài kệ, đại đức Xa Nặc đã dùng chữ “tôi” (I – đại danh từ ngôi thứ nhất) để nói về mình; nhưng ở câu thứ tư, đại đức lại dùng chữ “người” (he – đại danh từ ngôi thứ ba), cũng để nói về mình. Đó là ý tứ sâu xa của bậc đạt đạo. Khi chưa đạt ngộ thì còn thấy có TA là người học đạo, nhưng khi đã đạt ngộ rồi thì không còn thấy có cái TA ấy nữa.

.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm

2. Channa Sutta.-Channa Thera goes from cell to cell in the monastery at Isipatana, asking the Elders to teach him the Dhamma. Finding that their teachings do not help him in getting rid of craving, he visits Ananda at the Ghositārāma. Ananda praises Channa for his new-found humility, and repeats to him a sermon which he (Ananda) had heard the Buddha preach to the monk Kacchānagotta, dealing with the paticcasamuppāda.

Channa expresses his delight with the exposition of Ananda (S.iii.132ff). The Commentary (SA.ii.231f) says that this account refers to Channa, the companion of the Buddha. After the infliction on him of the Brahmadanda, he was greatly affected, and wandered from place to place. In the course of these wanderings he came to Benares.

2. Kinh Channa. - Trưởng lão Channa đi từ phòng này sang phòng khác trong tu viện ở Isipatana, thỉnh cầu các vị Trưởng lão thuyết giảng Giáo Pháp. Nhận thấy giáo lý của họ không giúp mình đoạn trừ tham ái, ngài đến gặp Ananda tại Ghositārāma. Ananda khen ngợi Channa vì sự khiêm nhường mới mẻ của ông, và lặp lại cho ông nghe một bài pháp mà ngài (Ananda) đã nghe Đức Phật thuyết giảng cho Tỳ kheo Kacchānagotta, bàn về Duyên khởi (Paticcasamuppāda).

Channa bày tỏ sự vui mừng với lời giải thích của Ananda (S.iii.132ff). Chú giải (SA.ii.231f) cho biết câu chuyện này ám chỉ Channa, người bạn đồng hành của Đức Phật. Sau khi chịu hình phạt của Brahmadanda, ông vô cùng đau buồn và lang thang từ nơi này sang nơi khác. Trong chuyến đi này, ông đến Benares .



259 Thời Phật tại thế Xóa
418 Gia đình thân hữu thái tử Tất Đạt Đa Xóa


1039 Sakya Xóa

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
6133
Bài viết
786
Nhân vật
45
Hình ảnh

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications