Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Bà-la-môn Sundarika Bharadvaja
Bà-la-môn Sundarika Bharadvāja là một thầy cúng nổi tiếng có lần làm lễ tế lửa trên bờ sông đã gặp Đức Phật. Như thường lệ, sau tế đàn vị nầy tìm người để cho những thực phẩm cúng tế. Nhìn thấy Đức Phật ngồi gần đó, dù vị thầy cúng nầy không ưa những sa môn tịnh tu nhưng nẩy sanh ý đến hỏi là tu kiểu vậy sau khi chết sanh về đâu nếu không thờ phượng thần linh thượng đế.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:638

Các tên gọi khác

Bà-la-môn Sundarika Bharadvāja là một thầy cúng nổi tiếng có lần làm lễ tế lửa trên bờ sông đã gặp Đức Phật. Như thường lệ, sau tế đàn vị nầy tìm người để cho những thực phẩm cúng tế. Nhìn thấy Đức Phật ngồi gần đó, dù vị thầy cúng nầy không ưa những sa môn tịnh tu nhưng nẩy sanh ý đến hỏi là tu kiểu vậy sau khi chết sanh về đâu nếu không thờ phượng thần linh thượng đế.

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2025-08-30 17:10:59
Chỉnh sửa gần nhất : 11/18/2025 18:39:32

  • Sundarika-Bhāradvāja

A brahmin, one of the Bhāradvājas.

Once, when he was performing Fire-rites on the banks of the Sundarikā, he looked round to see if there were anyone, to whom he could give what was left over from the oblations. He saw the Buddha seated under a tree, his head covered; (to rouse the brahmin's curiosity and to prevent him from being repelled by the sight of a shaven head, says the Commentary) he approached him with the oblation and a water pitcher and addressed him. The Buddha uncovered his head. The sight of the shaven head at first made Sundarika draw back, but, realizing that some brahmins too were shaved, he questioned the Buddha about his birth. The Buddha explained to him that the important thing was not birth, but the leading of a good life. The brahmin was pleased and offered him the oblation, but the Buddha refused it, saying that he did not accept presents for chanting verses. He advised Sundarika to throw the food into the water, where there were no creatures, for who could digest food which had once been offered to a Buddha? The brahmin followed this advice and saw the water hiss and seethe with steam and smoke. Alarmed and with hair on end, he worshipped the Buddha, who preached to him. Sundarika entered the Order and became an arahant. S.i.167f. The account of the meeting between the Buddha and Sundarika is given in the Sutta Nipāta too (p.79 f.), but there the details differ greatly, though the topic of discussion is the same. Several additional verses are attributed to the Buddha regarding the true "sacrifice." The Commentary calls the SN. discourse the Pūralāsa Sutta (SNA.ii.400).

Sundarika-Bhāradvāja was so called from his habit of offering oblations on the banks of the Sundarikā (SA.i.181f). He is also mentioned (M.i.39f) as meeting the Buddha on the banks of the Bāhukā and asking him whether he bathed in that river, because it had the reputation of cleansing sins. The Buddha answered that purity was not to be won that way and preached to him the Vatthūpama Sutta.

According to the Dhammapada Commentary (DhA.iv.163), Sundarika was the brother of Akkosaka and Bilangika Bhāradvāja. There he is mentioned as having abused the Buddha in much the same way as Akkosaka.

  • Sundarika-Bhāradvāja

Một Bà-la-môn, một trong những người Bhāradvājas .

Một lần, khi đang thực hiện Lễ Lửa trên bờ sông Sundarikā , ông nhìn quanh xem có ai để cho những gì còn lại từ lễ vật cúng dường không. Ông thấy Đức Phật ngồi dưới gốc cây, đầu được che phủ; (để khơi dậy sự tò mò của vị Bà-la-môn và để tránh bị đẩy lùi khi nhìn thấy một cái đầu cạo trọc, theo như Chú giải), ông đến gần vị Bà-la-môn với lễ vật cúng dường và một bình nước rồi nói chuyện với ông. Đức Phật bỏ khăn trùm đầu. Thoạt đầu, khi nhìn thấy cái đầu cạo trọc, Sundarika lùi lại, nhưng khi nhận ra rằng một số Bà-la-môn cũng cạo trọc, ông đã hỏi Đức Phật về sự ra đời của mình. Đức Phật giải thích với ông rằng điều quan trọng không phải là sự ra đời, mà là sống một cuộc đời tốt đẹp. Vị Bà-la-môn rất hài lòng và dâng lễ vật cúng dường cho ông, nhưng Đức Phật từ chối, nói rằng Ngài không nhận lễ vật để tụng kinh. Ngài khuyên Sundarika nên ném thức ăn xuống nước, nơi không có sinh vật nào, vì ai có thể tiêu hóa được thức ăn đã từng được dâng lên Đức Phật? Vị Bà-la-môn nghe theo lời khuyên này và thấy nước sôi sùng sục, bốc hơi nước và khói. Kinh hãi, tóc dựng ngược, ông đảnh lễ Đức Phật, và được Ngài thuyết pháp. Sundarika gia nhập Tăng đoàn và đắc quả A -la-hán . (SNA.167f.). Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Đức Phật và Sundarika cũng được ghi lại trong Kinh Tập (Sutta Nipāta ) (tr.79 f.), nhưng chi tiết ở đó khác nhau rất nhiều, mặc dù chủ đề thảo luận vẫn như cũ. Một số bài kệ bổ sung được cho là của Đức Phật về "sự hy sinh" đích thực. Chú giải gọi bài kinh SN. là Kinh Pūralāsa (SNA.ii.400).

Sundarika-Bhāradvāja được gọi như vậy vì ông thường dâng lễ vật trên bờ sông Sundarikā (SA.i.181f). Ông cũng được nhắc đến (Mi39f) khi gặp Đức Phật trên bờ sông Bāhukā và hỏi Ngài có tắm ở đó không, vì dòng sông này nổi tiếng là có thể rửa sạch tội lỗi. Đức Phật trả lời rằng không thể đạt được sự thanh tịnh bằng cách đó và thuyết giảng cho ông bài Kinh Vatthūpama .

Theo Chú giải Dhammapada (DhA.iv.163), Sundarika là anh trai của Akkosaka và Bilangika Bhāradvāja . Trong đó, ông được nhắc đến là đã lăng mạ Đức Phật theo cách tương tự như Akkosaka .

 

Vị này xuất hiện trong Wiki Tâm Học -Danh sách : Kinh Trung Bộ 7.Kinh Ví Dụ Tấm Vải (Vatthūpama sutta)

Bà-la-môn Sundarika Bharadvāja là một thầy cúng nổi tiếng có lần làm lễ tế lửa trên bờ sông đã gặp Đức Phật. Như thường lệ, sau tế đàn vị nầy tìm người để cho những thực phẩm cúng tế. Nhìn thấy Đức Phật ngồi gần đó, dù vị thầy cúng nầy không ưa những sa môn tịnh tu nhưng nẩy sanh ý đến hỏi là tu kiểu vậy sau khi chết sanh về đâu nếu không thờ phượng thần linh thượng đế.

 

Những gì bà la môn Sundarika thấy và nghe ở Đức Phật hoàn toàn bất ngờ và chính ông cũng có quyết định bất ngờ. Câu chuyện được ghi lại như sau:

Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja thấy Thế Tôn đang ngồi dưới gốc cây, đầu được bao trùm, thấy vậy, tay trái cầm món ăn cúng tế còn lại, tay phải cầm bình nước đi đến Thế Tôn.

Và Thế Tôn nghe tiếng chân của Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja liền tháo đồ trùm ở đầu.

Và Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja nghĩ: “Ðầu vị này trọc, vị này là người trọc đầu”, nghĩ vậy, muốn trở lui.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja lại suy nghĩ: “Trọc đầu ở đây, một số Bà-la-môn cũng như vậy. Vậy ta hãy đến và hỏi vấn đề thọ sanh”.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế Tôn:

—Thọ sanh Tôn giả là gì?

(Thế Tôn)

Chớ hỏi về thọ sanh,
Hãy hỏi về sở hành.
Tùy theo mọi thứ củi,
Ngọn lửa được sanh khởi.
Dầu thuộc nhà hạ tiện,
Bậc ẩn sĩ tinh cần,
Ðược xem như thượng sanh,
Biết tàm quý, trừ ác.
Ðiều thuận bởi chân lý,
Thuần thục trong hành trì,
Thông đạt các Thánh kinh,
Phạm hạnh được viên thành.
Tế vật đã đem lại,
Hãy cầu khẩn vị ấy,
Lễ tế làm đúng thời,
Vị ấy xứng cúng dường.

(Sundarika)

Vật cúng này của con,
Thật sự khéo cúng dường,
Nay con đã thấy được,
Bậc sáng suốt như Ngài.
Con không thấy một ai
Có thể sánh được Ngài,
Không có người nào khác
Thọ hưởng vật cúng này.
Tôn giả Gotama,
Hãy thọ hưởng vật cúng.
Ngài thật là Bà-la-môn,
Là bậc đáng tôn trọng.

(Thế Tôn)

Ta không có hưởng thọ,
Vì tụng hát kệ chú,
Thường pháp không phải vậy,
Ðối vị có tri kiến.
Chư Phật đã loại bỏ
Tụng hát các kệ chú,
Chân thật niệm Chánh pháp,
Sở hành là như vậy.
Bậc Ðại Sĩ vẹn toàn,
Cúng dường phải khác biệt.
Ðoạn tận các lậu hoặc,
Trạo hối được lắng dịu,
Với những bậc như vậy,
Cơm nước phải cúng dường,
Thật chính là phước điền,
Cho những ai cầu phước.

—Vậy thưa Tôn giả Gotama, con phải cho ai vật cúng còn lại này?

—Này Bà-la-môn, trong toàn thế giới chư Thiên, Ma giới, Phạm thiên giới, trong chúng Sa-môn và Bà-la-môn, trong thế giới chư Thiên và loài Người, Ta không thấy một ai ăn vật cúng còn lại này có thể tiêu hóa được, ngoại trừ Như Lai hay đệ tử Như Lai. Này Bà-la-môn, vậy này Bà-la-môn, hãy quăng vật cúng còn lại này tại chỗ không có cỏ xanh, hay nhận chìm xuống nước, nơi không có loài hữu tình.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja nhận chìm vật cúng còn lại ấy vào trong nước, nơi không có loài hữu tình.

Vật cúng ấy khi được quăng vào trong nước liền xì lên, sôi lên, phun hơi và phun khói lên. Ví như lưỡi cày đốt nóng cả ngày, khi bỏ vào trong nước, bèn xì lên, sôi lên, phun hơi và phun khói lên. Cũng vậy, vật cúng còn lại ấy khi được quăng vào trong nước bèn xì lên, sôi lên, phun hơi và phun khói lên.

Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja hoảng hốt, lông tóc dựng ngược, đi đến Thế Tôn; sau khi đến liền đứng một bên.

Thế Tôn nói lên bài kệ cho Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja đang đứng một bên:

Này Bà-la-môn kia,
Chớ có nghĩ gì tịnh.
Sự sắp đặt củi lửa,
Như vậy chỉ bề ngoài.
Bậc thiện nhân dạy rằng,
Người ấy không thanh tịnh,
Với những ai chỉ muốn
Thanh tịnh mặt bên ngoài.
Này Bà-la-môn kia,
Ta từ bỏ củi lửa,
Ta chỉ nhen nhúm lên
Ngọn lửa từ nội tâm,
Ngọn lửa thường hằng cháy,
Thường nồng cháy nhiệt tình.
Ta là bậc La-hán,
Ta sống đời Phạm hạnh.
Này Bà-la-môn kia,
Người mang ách kiêu mạn,
Phẫn nộ là khói hương,
Vọng ngôn là tro tàn,
Lưỡi là chiếc muỗng tế,
Tâm là chỗ tế tự,
Tự ngã là ngọn lửa.
Còn người khéo điều phục,
Chánh pháp là ao hồ,
Giới là bến nước tắm,
Không cấu uế, trong sạch,
Ðược thiện nhơn tán thán,
Là chỗ bậc có trí,
Thường tắm, trừ uế tạp.
Khi tay chân trong sạch,
Họ qua bờ bên kia.
Chánh pháp là chân lý,
Tự chế là Phạm hạnh,
Chính con đường trung đạo,
Giúp đạt tối thắng vị,
Ðảnh lễ bậc trực tâm,
Ta gọi tùy pháp hành.

Khi được nói vậy, Bà-la-môn Sundarika Bhāradvāja bạch Thế Tôn:

—Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! …

Và Tôn giả Bhāradvāja trở thành một vị A-la-hán nữa.

 

.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm

Trung A Hàm 093. Kinh Thủy Tịnh Phạm Ch Vai trò : Người nghe

  • Sundarika-Bhāradvāja

A brahmin, one of the Bhāradvājas.

Once, when he was performing Fire-rites on the banks of the Sundarikā, he looked round to see if there were anyone, to whom he could give what was left over from the oblations. He saw the Buddha seated under a tree, his head covered; (to rouse the brahmin's curiosity and to prevent him from being repelled by the sight of a shaven head, says the Commentary) he approached him with the oblation and a water pitcher and addressed him. The Buddha uncovered his head. The sight of the shaven head at first made Sundarika draw back, but, realizing that some brahmins too were shaved, he questioned the Buddha about his birth. The Buddha explained to him that the important thing was not birth, but the leading of a good life. The brahmin was pleased and offered him the oblation, but the Buddha refused it, saying that he did not accept presents for chanting verses. He advised Sundarika to throw the food into the water, where there were no creatures, for who could digest food which had once been offered to a Buddha? The brahmin followed this advice and saw the water hiss and seethe with steam and smoke. Alarmed and with hair on end, he worshipped the Buddha, who preached to him. Sundarika entered the Order and became an arahant. S.i.167f. The account of the meeting between the Buddha and Sundarika is given in the Sutta Nipāta too (p.79 f.), but there the details differ greatly, though the topic of discussion is the same. Several additional verses are attributed to the Buddha regarding the true "sacrifice." The Commentary calls the SN. discourse the Pūralāsa Sutta (SNA.ii.400).

Sundarika-Bhāradvāja was so called from his habit of offering oblations on the banks of the Sundarikā (SA.i.181f). He is also mentioned (M.i.39f) as meeting the Buddha on the banks of the Bāhukā and asking him whether he bathed in that river, because it had the reputation of cleansing sins. The Buddha answered that purity was not to be won that way and preached to him the Vatthūpama Sutta.

According to the Dhammapada Commentary (DhA.iv.163), Sundarika was the brother of Akkosaka and Bilangika Bhāradvāja. There he is mentioned as having abused the Buddha in much the same way as Akkosaka.

Một Bà-la-môn, một trong những người Bhāradvājas .

Một lần, khi đang thực hiện Lễ Lửa trên bờ sông Sundarikā , ông nhìn quanh xem có ai để cho những gì còn lại từ lễ vật cúng dường không. Ông thấy Đức Phật ngồi dưới gốc cây, đầu được che phủ; (để khơi dậy sự tò mò của vị Bà-la-môn và để tránh bị đẩy lùi khi nhìn thấy một cái đầu cạo trọc, theo như Chú giải), ông đến gần vị Bà-la-môn với lễ vật cúng dường và một bình nước rồi nói chuyện với ông. Đức Phật bỏ khăn trùm đầu. Thoạt đầu, khi nhìn thấy cái đầu cạo trọc, Sundarika lùi lại, nhưng khi nhận ra rằng một số Bà-la-môn cũng cạo trọc, ông đã hỏi Đức Phật về sự ra đời của mình. Đức Phật giải thích với ông rằng điều quan trọng không phải là sự ra đời, mà là sống một cuộc đời tốt đẹp. Vị Bà-la-môn rất hài lòng và dâng lễ vật cúng dường cho ông, nhưng Đức Phật từ chối, nói rằng Ngài không nhận lễ vật để tụng kinh. Ngài khuyên Sundarika nên ném thức ăn xuống nước, nơi không có sinh vật nào, vì ai có thể tiêu hóa được thức ăn đã từng được dâng lên Đức Phật? Vị Bà-la-môn nghe theo lời khuyên này và thấy nước sôi sùng sục, bốc hơi nước và khói. Kinh hãi, tóc dựng ngược, ông đảnh lễ Đức Phật, và được Ngài thuyết pháp. Sundarika gia nhập Tăng đoàn và đắc quả A-la-hán . (SNA.167f.). Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Đức Phật và Sundarika cũng được ghi lại trong Kinh Tập ( Sutta Nipāta ) (tr.79 f.), nhưng chi tiết ở đó khác nhau rất nhiều, mặc dù chủ đề thảo luận vẫn như cũ. Một số bài kệ bổ sung được cho là của Đức Phật về "sự hy sinh" đích thực. Chú giải gọi bài kinh SN. là Kinh Pūralāsa (SNA.ii.400).

Sundarika-Bhāradvāja được gọi như vậy vì ông thường dâng lễ vật trên bờ sông Sundarikā (SA.i.181f). Ông cũng được nhắc đến (Mi39f) khi gặp Đức Phật trên bờ sông Bāhukā và hỏi Ngài có tắm ở đó không, vì dòng sông này nổi tiếng là có thể rửa sạch tội lỗi. Đức Phật trả lời rằng không thể đạt được sự thanh tịnh bằng cách đó và thuyết giảng cho ông bài Kinh Vatthūpama .

Theo Chú giải Dhammapada (DhA.iv.163), Sundarika là anh trai của Akkosaka và Bilangika Bhāradvāja . Trong đó, ông được nhắc đến là đã lăng mạ Đức Phật theo cách tương tự như Akkosaka .

IX. Sundarika (S.i,167)

1) Một thời Thế Tôn ở giữa dân tộc Kosala, trên bờ sông Sundarika.
2) Lúc bấy giờ Bà-la-môn Sundarika Bhàradvàja tế lửa trên bờ sông Sundarika, làm lễ cúng dường lửa.
3) Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhàradvàja sau khi tế lửa, làm lễ cúng dường lửa xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, nhìn xung quanh tất cả bốn phương và nghĩ: “Ai có thể hưởng họ món ăn cúng tế còn lại này?”
4) Bà-la-môn Sundarika Bhàradvàja thấy Thế Tôn đang ngồi dưới gốc cây, đầu được bao trùm, thấy vậy, tay trái cầm món ăn cúng tế còn lại, tay phải cầm bình nước đi đến Thế Tôn.
5) Và Thế Tôn nghe tiếng chân của Bà-la-môn Sundarika Bhàradvàja liền tháo đồ trùm ở đầu.
6) Và Bà-la-môn Sundarika Bhàradvàja nghĩ: “Ðầu vị này trọc, vị này là người trọc đầu”, nghĩ vậy, muốn trở lui.
7) Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhàradvàja lại suy nghĩ: “Trọc đầu ở đây, một số Bà-la-môn cũng như vậy. Vậy ta hãy đến và hỏi vấn đề thọ sanh”.
8) Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhàradvàja đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói với Thế Tôn:
— Thọ sanh Tôn giả là gì?
9) (Thế Tôn):
Chớ hỏi về thọ sanh,
Hãy hỏi về sở hành.
Tùy theo mọi thứ củi,
Ngọn lửa được sanh khởi.
Dầu thuộc nhà hạ tiện,
Bậc ẩn sĩ tinh cần,
Ðược xem như thượng sanh,
Biết tàm quý, trừ ác.
Ðiều thuận bởi chân lý,
Thuần thục trong hành trì,
Thông đạt các Thánh kinh,
Phạm hạnh được viên thành.
Tế vật đã đem lại,
Hãy cầu khẩn vị ấy,
Lễ tế làm đúng thời,
Vị ấy xứng cúng dường.
10) Sundarika:
Vật cúng này của con,
Thật sự khéo cúng dường,
Nay con đã thấy được,
Bậc sáng suốt như Ngài.
Con không thấy một ai
Có thể sánh được Ngài,
Không có người nào khác
Thọ hưởng vật cúng này.
Tôn giả Gotama,
Hãy thọ hưởng vật cúng.
Ngài thật là Bà-la-môn,
Là bậc đáng tôn trọng.
11) (Thế Tôn):
Ta không có hưởng thọ,
Vì tụng hát kệ chú,
Thường pháp không phải vậy,
Ðối vị có tri kiến.
Chư Phật đã loại bỏ
Tụng hát các kệ chú,
Chân thật niệm Chánh pháp,
Sở hành là như vậy.
Bậc Ðại Sĩ vẹn toàn,
Cúng dường phải khác biệt.
Ðoạn tận các lậu hoặc,
Trạo hối được lắng dịu,
Với những bậc như vậy,
Cơm nước phải cúng dường,
Thật chính là phước điền,
Cho những ai cầu phước.
12) — Vậy thưa Tôn giả Gotama, con phải cho ai vật cúng còn lại này?
13) — Này Bà-la-môn, trong toàn thế giới chư Thiên, Ma giới, Phạm thiên giới, trong chúng Sa-môn và Bà-la-môn, trong thế giới chư Thiên và loài Người, Ta không thấy một ai ăn vật cúng còn lại này có thể tiêu hóa được, ngoại trừ Như Lai hay đệ tử Như Lai. Này Bà-la-môn, vậy này Bà-la-môn, hãy quăng vật cúng còn lại này tại chỗ không có cỏ xanh, hay nhận chìm xuống nước, nơi không có loài hữu tình.
14) Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhàradvàja nhận chìm vật cúng còn lại ấy vào trong nước, nơi không có loài hữu tình.
15) Vật cúng ấy khi được quăng vào trong nước liền xì lên, sôi lên, phun hơi và phun khói lên. Ví như lưỡi cày đốt nóng cả ngày, khi bỏ vào trong nước, bèn xì lên, sôi lên, phun hơi và phun khói lên. Cũng vậy, vật cúng còn lại ấy khi được quăng vào trong nước bèn xì lên, sôi lên, phun hơi và phun khói lên.
16) Rồi Bà-la-môn Sundarika Bhàradvàja hoảng hốt, lông tóc dựng ngược, đi đến Thế Tôn; sau khi đến liền đứng một bên.
17) Thế Tôn nói lên bài kệ cho Bà-la-môn Sundarika Bhàradvàja đang đứng một bên:
Này Bà-la-môn kia,
Chớ có nghĩ gì tịnh.
Sự sắp đặt củi lửa,
Như vậy chỉ bề ngoài.
Bậc thiện nhân dạy rằng,
Người ấy không thanh tịnh,
Với những ai chỉ muốn
Thanh tịnh mặt bên ngoài.
Này Bà-la-môn kia,
Ta từ bỏ củi lửa,
Ta chỉ nhen nhúm lên
Ngọn lửa từ nội tâm,
Ngọn lửa thường hằng cháy,
Thường nồng cháy nhiệt tình.
Ta là bậc La-hán,
Ta sống đời Phạm hạnh.
Này Bà-la-môn kia,
Người mang ách kiêu mạn,
Phẫn nộ là khói hương,
Vọng ngôn là tro tàn,
Lưỡi là chiếc muỗng tế,
Tâm là chỗ tế tự,
Tự ngã là ngọn lửa.
Còn người khéo điều phục,
Chánh pháp là ao hồ,
Giới là bến nước tắm,
Không cấu uế, trong sạch,
Ðược thiện nhơn tán thán,
Là chỗ bậc có trí,
Thường tắm, trừ uế tạp.
Khi tay chân trong sạch,
Họ qua bờ bên kia.
Chánh pháp là chân lý,
Tự chế là Phạm hạnh,
Chính con đường trung đạo,
Giúp đạt tối thắng vị,
Ðảnh lễ bậc trực tâm,
Ta gọi tùy pháp hành.
18) Khi được nói vậy, Bà-la-môn Sundarika Bhàradvàja bạch Thế Tôn:
— Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!…
19) Và Tôn giả Bhàradvàja trở thành một vị A-la-hán nữa.

Xuất hiện ở nikaya khác ( tiểu bộ kinh )



1078 Thời Phật tại thế Xóa
1082 Tỳ kheo thời Phật Xóa


© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
6133
Bài viết
786
Nhân vật
45
Hình ảnh

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications