Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Bà-la-môn Janussoni
Bà la môn Jāṇussoṇi là một uyên thâm giáo điển Veda. Vị nầy là một trong những quốc sư của vua Pasenadi. Được xem là bậc tư vấn nổi tiếng (mahāpurohita) cùng với bốn bà là môn trí thức khác trong xứ Kosala là Cankī, Tārukkha, Pokkharasāti và Todeyya. Với địa vị của mình, Bà la môn Jāṇussoṇi có được cả hai danh tiếng và sự giàu có. Sau nầy trở thành một đệ tử Phật. Những giai thoại liên quan tới vị nầy được ghi lại ở nhiều bài kinh trong Tam Tạng.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:637

Các tên gọi khác

Bà la môn Jāṇussoṇi là một uyên thâm giáo điển Veda. Vị nầy là một trong những quốc sư của vua Pasenadi. Được xem là bậc tư vấn nổi tiếng (mahāpurohita) cùng với bốn bà là môn trí thức khác trong xứ Kosala là Cankī, Tārukkha, Pokkharasāti và Todeyya. Với địa vị của mình, Bà la môn Jāṇussoṇi có được cả hai danh tiếng và sự giàu có. Sau nầy trở thành một đệ tử Phật. Những giai thoại liên quan tới vị nầy được ghi lại ở nhiều bài kinh trong Tam Tạng.

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2025-08-30 17:05:31
Chỉnh sửa gần nhất : 11/18/2025 18:41:45

  • Jānussonī

A mahāsāla brahmin, ranking with eminent brahmins such as CankīTārukkhaPokkharasāti and Todeyya (SN. p.115). He is mentioned as staying in Icchānangala (M.ii.196), where he evidently took part in the periodical gatherings of brahmin leaders - and also at Manasākata (D.i.235). He was a follower of the Buddha, of whom he was a great admirer. He appears to have been in the habit of talking to well known teachers of other schools and hearing their opinion of the Buddha, either for the purpose of comparing his own faith in him or of discovering their views. Two such conversations are recorded - one with Subha Todeyyaputta (M.ii.209), the other with Pilotika (M.i.175ff).

His discussion with Pilotika he reported to the Buddha, who expanded it to form the Culahatthipadopama Sutta. The Buddha also preached to Jānussoni the Bhayabherava Sutta (M.i.16ff). Jānussoni's permanent residence was Sāvatthi (DA.ii.399), and he often visited the Buddha at Jetavana, consulting him on many topics, such as:

  • results of actions (A.i.56),
  • sanditthaka-nibbāna (A.i.157),
  • tevijja-brahmins (A.i.166),
  • fearlessness of death (A.ii.173),
  • the ideals of various classes of persons (A.iii.362),
  • true celibacy (A.iv.54),
  • the Paccārohani ceremony (A.v.233ff., 249ff.),
  • the efficacy of gifts (A.v.269ff.), and
  • eternalism and annihilation (S.ii.76).

He had a white chariot with silver fittings and white trappings drawn by four pure white mares. He would drive about in this, wearing white garments, turban-cloths and sandals and fanned by a white fan. The reins, the goads and the canopy were also of white. His chariot was considered the finest in all Sāvatthi (S.v.4f; cp. M.i.175 and ii.208).

Buddhaghosa says that Jānussoni was not his personal name but the name of the rank he held as chaplain to the Kosala king. MA.i.90; according to AA. (i.308) it was the name of any noble family, members of which held this rank. Cp. Govindiye abhisiñci (at D.ii.231).

  • Jānussonī

Một Bà-la-môn Mahāsāla, ngang hàng với các Bà-la-môn lỗi lạc như Cankī , Tārukkha , Pokkharasāti và Todeyya (SN. tr. 115). Ông được nhắc đến là đã ở tại Icchānangala (M.ii.196), nơi ông rõ ràng đã tham gia các cuộc họp định kỳ của các nhà lãnh đạo Bà-la-môn - và cũng ở Manasākata (Di235). Ông là một tín đồ của Đức Phật, người mà ông vô cùng ngưỡng mộ. Ông dường như có thói quen trò chuyện với các bậc thầy nổi tiếng của các trường phái khác và lắng nghe ý kiến ​​của họ về Đức Phật, hoặc để so sánh đức tin của mình đối với Ngài hoặc để khám phá quan điểm của họ. Hai cuộc trò chuyện như vậy đã được ghi lại - một với Subha Todeyyaputta (M.ii.209), và một với Pilotika (Mi175ff).

Cuộc thảo luận với Pilotika được ông thuật lại với Đức Phật, và Đức Phật đã khai triển nó thành Kinh Culahatthipadopama . Đức Phật cũng thuyết giảng cho Jānussoni Kinh Bhayabherava (Mi16ff). Trụ xứ của Jānussoni là Sāvatthi (DA.ii.399), và ông thường đến gặp Đức Phật tại Jetavana , thỉnh cầu Ngài về nhiều vấn đề, chẳng hạn như:

  • kết quả của hành động (Ai56),
  • sanditthaka-nibbāna (Ai157),
  • tevijja-brahmins (Ai166),
  • sự không sợ chết (A.ii.173),
  • lý tưởng của các tầng lớp người khác nhau (A.iii.362),
  • sự độc thân thực sự (A.iv.54),
  • lễ Paccārohani (Av233ff., 249ff.),
  • hiệu quả của quà tặng (Av269ff.), và
  • chủ nghĩa vĩnh cửu và sự hủy diệt (S.ii.76).

Ngài có một cỗ xe trắng với những đồ trang trí bằng bạc và những vật trang trí màu trắng do bốn con ngựa cái trắng tinh kéo. Ngài thường cưỡi cỗ xe này đi khắp nơi, mặc y phục trắng, khăn xếp, dép và quạt bằng một chiếc quạt trắng. Dây cương, gậy thúc ngựa và mái che cũng màu trắng. Cỗ xe của ngài được coi là đẹp nhất trong toàn thành Sāvatthi (Sv4f; so sánh Mi175 và ii.208).

Buddhaghosa nói rằng Jānussoni không phải là tên riêng của ông mà là tên của cấp bậc mà ông giữ làm tuyên úy cho vua Kosala. MA.i.90; theo AA. (i.308), đó là tên của bất kỳ gia đình quý tộc nào có thành viên giữ cấp bậc này. So sánh Govindiye abhisiñci (tại D.ii.231).

 

Bà la môn Jāṇussoṇi là một uyên thâm giáo điển Veda. Vị nầy là một trong những quốc sư của vua Pasenadi. Được xem là bậc tư vấn nổi tiếng (mahāpurohita) cùng với bốn bà là môn trí thức khác trong xứ Kosala là Cankī, Tārukkha, Pokkharasāti và Todeyya. Với địa vị của mình, Bà la môn Jāṇussoṇi có được cả hai danh tiếng và sự giàu có. Sau nầy trở thành một đệ tử Phật. Những giai thoại liên quan tới vị nầy được ghi lại ở nhiều bài kinh trong Tam Tạng.

 

Xuất hiện trong khá nhiều kinh tạng Pali Trung bộ kinh và Tăng Chi bộ kinh

Wiki Tâm Học -Danh sách : Kinh Trung Bộ 4.Kinh Sợ Hãi Khiếp Đảm (Bhayabherava sutta)

27. Tieu kinh Du dau chan voi

Microsoft Word - 47.Kinh Jāṇussoṇi (Jāṇussoṇisuttaṃ).docx Kinh Tăng Chi - Phẩm Jànussoni | Pháp Đăng Thiền Tuệ

Trích tăng chi bộ kinh  Kinh Tăng Chi - Phẩm Jànussoni | Pháp Đăng Thiền Tuệ

 

(XI) (177) Jànussoni
1. Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
– Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi Bà-la-môn, cho bố thí, làm các lễ cúng cho người chết. Mong rằng, bố thí này cho bà con huyết thống đã chết được lợi ích! Mong rằng các bà con huyết thống đã chết, thọ hưởng bố thí này! Thưa Tôn giả Gotama, bố thí có lợi ích gì cho các bà con huyết thống đã chết không? Các bà con huyết thống đã chết có được thọ hưởng bố thí ấy hay không?
– Này Bà-la-môn, nếu có tương ưng xứ, thời có lợi ích, không có lợi ích nếu không có tương ưng xứ.
– Thưa Tôn giả Gotama, thế nào là tương ưng xứ, thế nào là không tương ưng xứ?
2. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân, có tà kiến. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào địa ngục ăn. Món ăn của chúng sanh ở địa ngục ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở nơi đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
3. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh… có tà kiến. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào loại bàng sanh. Món ăn của chúng sanh ở bàng sanh ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ; trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
4. Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham ái, không có tâm sân hận, có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh cộng trú với loài Người. Món ăn của loài người như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
5. Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh… có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cộng trú với chư Thiên. Món ăn của chư Thiên như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà La môn đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
6. Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh… có tà kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi ngạ qủy. Món ăn của chúng sanh ngạ qủy như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Món ăn nào các bạn bè , hoặc than hữu, hoặc bà con, hoặc người cùng huyết thống từ đấy muốn hướng cúng cho vị ấy, tại đấy vị ấy sống với món ăn ấy; tại đấy , vị ấy tồn tại với món ăn ấy.Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy được lợi ích của bố thí ấy.
7. Thưa Tôn giả Gotama, nếu bà con huyết thống ấy đã chết, không sanh vào chỗ ấy, thời ai hưởng bố thí ấy?
– Này Bà-la-môn, các bà con huyết thống khác đã chết, được sanh vào chỗ ấy, những người ấy được hưởng bố thí ấy.
– Thưa Tôn giả Gotama, nếu bà con huyết thống đã chết, không sanh vào chỗ ấy, và các bà con huyết thống khác cũng không sanh vào chỗ ấy, thời ai hưởng bố thí ấy?
– Không có trường hợp ấy, không có cơ hội ấy, này Bà-la-môn, rằng chỗ ấy có thể trống không trong một thời gian dài, không có người bà con huyết thống đã chết. Nhưng này Bà-la-môn, người bố thí không phải có hưởng quả.
– Có phải Tôn giả Gotama nói một giả thuyết không thế xảy ra?
– Này Bà-la-môn, Ta nói một giả thuyết không thể xảy ra. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Người ấy bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các loài voi. Tại đây, vị ấy được đồ ăn, đồ uống, vòng hoa, các loại trang sức khác. Vì rằng, ở đây, này Bà-la-môn, có sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, do vậy người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các loài voi. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc; do vậy, tại đấy vị ấy được các món ăn, các đồ uống, vòng hoa, các đồ trang sức khác. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Người ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh cộng trú với các loài ngựa… sanh cộng trú với các loài bò… Cộng trú với các loài gia cầm. Vị ấy tại đấy, được các món ăn, các đồ uống, vòng hoa, các đồ trang sức khác. Vì rằng, này Bà-la-môn, có sát sanh, có lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, có nói láo, có nói hai lưỡi, có nói lời độc ác, có nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào cộng trú với các loài gia cầm. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn với các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc, nên tại đấy vị ấy được đồ ăn, đồ uống, vòng hoa, các loại trang sức khác. Ở đây, này Bà-la-môn, có hạng người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham ái, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến. Người ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với loài Người. Tại đấy, vị ấy được năm loại dục công đức sai khác, thuộc về loài Người. Vì rằng, này Bà-la-môn, vị ấy từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham ái, không có sân tâm, có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh cộng trú với loài Người. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, các trú xứ, đèn đuốc; do vậy, ở đấy vị ấy được năm dục công đức của loài Người. Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh… có chánh kiến, người ấy bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên. Vị ấy tại đấy được năm loại dục công đức của chư Thiên. Vì rằng ở đây có từ bỏ sát sanh… có chánh kiến, cho nên sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh cộng trú với chư Thiên. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Do vậy, tại đấy vị ấy được năm dục công đức của chư Thiên. Tuy nhiên, này Bà-la-môn, người bố thí không phải không có kết quả.
8. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama! Cho đến như thế này, thưa Tôn giả Gotama, là vừa đủ để bố thí, là vừa đủ để tổ chức các tín thí. Vì rằng, ở đấy, người bố thí không phải không có kết quả (như đã được nói).
– Như vậy, này Bà-la-môn, người bố thí này không phải không có kết quả.
– Thật kỳ diệu thay Tôn giả Gotama… Xin Tôn giả Gotama hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Nguồn: thuvienhoasen.org
.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm

Trung A Hàm 147. Kinh Văn Đức Vai trò : Người nghe

Trung A Hàm 146. Kinh Tượng Tích Dụ Vai trò : Người nghe

Trung A Hàm 148. Kinh Hà Khổ Vai trò : Người nghe

Trung A Hàm 149. Kinh Hà Dục Vai trò : Người nghe

Xuất hiện ở nikaya khác ( tiểu bộ kinh )



1079 Thời Phật tại thế Xóa
1083 Tỳ kheo thời Phật Xóa


© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
6133
Bài viết
786
Nhân vật
45
Hình ảnh

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications