Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Bà la môn Dhammika ( Kosala Trung A H 130) Kinh Giáo
1. Trưởng lão Dhammika. - Một vị Bà-la-môn xứ Kosala, được quy y tại buổi lễ dâng hương của Jetavana và vào một tịnh xá làng. Vì bực tức khi các vị sư đến thăm tịnh xá, ngài đã dừng lại, và ngài trở thành trụ trì duy nhất của tịnh xá. Khi một cư sĩ trình báo sự việc này với Đức Phật, Đức Phật đã cho mời ông đến và thuyết giảng cho ông nghe câu chuyện Rukkhadhamma Jātaka , cho thấy rằng trong quá khứ, ngài cũng đã phạm tội tương tự. Trưởng lão Dhammika chuyên tâm nghiên cứu các bài kệ trong Jātaka và nhờ phát triển tuệ giác, ngài đã đắc quả A-la-hán.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:752

Các tên gọi khác

1. Trưởng lão Dhammika. - Một vị Bà-la-môn xứ Kosala, được quy y tại buổi lễ dâng hương của Jetavana và vào một tịnh xá làng. Vì bực tức khi các vị sư đến thăm tịnh xá, ngài đã dừng lại, và ngài trở thành trụ trì duy nhất của tịnh xá. Khi một cư sĩ trình báo sự việc này với Đức Phật, Đức Phật đã cho mời ông đến và thuyết giảng cho ông nghe câu chuyện Rukkhadhamma Jātaka , cho thấy rằng trong quá khứ, ngài cũng đã phạm tội tương tự. Trưởng lão Dhammika chuyên tâm nghiên cứu các bài kệ trong Jātaka và nhờ phát triển tuệ giác, ngài đã đắc quả A-la-hán.

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2025-09-24 12:15:23
Chỉnh sửa gần nhất : 10/10/2025 16:13:59
Bà la môn Dhammika ( Kosala Trung A H 130) Kinh Giáo


1. Dhammika Thera.-A brahmin of Kosala who was converted at the presentation of Jetavana and entered a village vihāra. As he became irritated when monks visited the vihāra they desisted, and he became sole master of the vihāra. When this was reported to the Buddha by a layman, the Buddha sent for him and preached to him the Rukkhadhamma Jātaka, showing that in the past, too, he had been guilty of similar conduct. Dhammika concentrated on the verses of the Jātaka and, developing insight, became an arahant.

In the time of Sikhī Buddha he had been a hunter and had listened to the Buddha preaching to an assembly of the gods in a forest.

Thag.303-6; ThagA.i.396ff. According to A.iii.366ff. Dhammika had to leave seven lodgings, one after the other, because the lay supporters of the lodgings could not tolerate his insulting ways. He therefore sought the Buddha and complained to him. The Rukkhadhamma Jātaka mentioned here is evidently not the story of the same name mentioned in the Jātaka Commentary (i.327ff.). The story is given in full in the Anguttara Nikāya (loc. cit.). There the Buddha is said to have related to him stories of several past teachers, showing the evil effects of reviling others.

He may be identical with Ghosasaññaka of the Apadāna (Ap.ii.451).

1. Trưởng lão Dhammika. - Một vị Bà-la-môn xứ Kosala, được quy y tại buổi lễ dâng hương của Jetavana và vào một tịnh xá làng. Vì bực tức khi các vị sư đến thăm tịnh xá, ngài đã dừng lại, và ngài trở thành trụ trì duy nhất của tịnh xá. Khi một cư sĩ trình báo sự việc này với Đức Phật, Đức Phật đã cho mời ông đến và thuyết giảng cho ông nghe câu chuyện Rukkhadhamma Jātaka , cho thấy rằng trong quá khứ, ngài cũng đã phạm tội tương tự. Trưởng lão Dhammika chuyên tâm nghiên cứu các bài kệ trong Jātaka và nhờ phát triển tuệ giác, ngài đã đắc quả A-la-hán.

Vào thời Đức Phật Sikhī, ông là một thợ săn và đã lắng nghe Đức Phật thuyết giảng cho một hội đồng các vị thần trong một khu rừng.

Thag.303-6; ThagA.i.396ff. Theo A.iii.366ff., Dhammika phải rời bỏ bảy chỗ trọ, lần lượt từng chỗ một, vì những người cư sĩ tại đó không thể chịu đựng được cách hành xử lăng mạ của ông. Do đó, ông đã đến tìm Đức Phật và than phiền. Câu chuyện Rukkhadhamma Jātaka được đề cập ở đây rõ ràng không phải là câu chuyện cùng tên được đề cập trong Chú giải Jātaka (i.327ff.). Câu chuyện được trình bày đầy đủ trong Anguttara Nikāya (loc. cit.). Ở đó, Đức Phật được cho là đã kể cho ông nghe những câu chuyện về một số vị thầy quá khứ, cho thấy hậu quả tai hại của việc lăng mạ người khác.

Ông có thể giống hệt với Ghosasaññaka của Apadāna (Ap.ii.451).

[1]Tương đương Pāli A.6.54 Dhammika-sutta.

[2]Bản Pāli: Phật tại Rājagaha, núi Gijjhakūṭa.

[3]Đàm-di 曇彌. Pāli: Dhammika thera, nguyên là một Bà-la-môn ở Kosala, quy Phật vào lúc rừng Jetavana được cúng.

Xuất hiện trong kinh 

 

Kinh Tập (Sutta Nipata)

Kinh Dhammika

HT Thích Minh Châu dịch


Trong bài kinh nầy, Ðức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.


 

"Như vầy tôi nghe."

"Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Jetavana, khu vườn ông Anathapindika. Rồi nam cư sĩ Dhammika đi đến Thế Tôn với 500 nam cư sĩ, sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Dhammika nói lên những bài kệ với Thế Tôn:"

Dhammika:

376.
"Kính thưa Gotama,
Bậc trí tuệ rộng lớn,
Con xin kính hỏi Ngài,
Vấn đề (đặc biệt) này:
Với vị đệ tử Ngài,
Làm thế nào là thiện?
Nếu là vị xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Hay là vị có nhà,
Sống đời nam cư sĩ?"

377.
"Ngài rõ biết đường đi,
Cùng mục đích tối hậu,
Của Thế Tôn đời này,
Và thế giới chư Thiên,
Không ai so sánh Ngài,
Bậc thấy nghĩa thù diệu,
Chính Ngài được tôn xưng,
Là đức Phật thù thắng."

378.
"Ngài biết tất cả trí,
Ngài trình bày chánh pháp,
Vì lòng thương, từ mẫu,
Ðối với mọi chúng sanh.
Ngài mở rộng bức màn,
Bậc có mắt mọi nơi.
Không cấu uế (thanh tịnh)
Ngài chói toàn thế giới."

379.
"Vị vua loài Naga
Tên Ê-ra-va-nô,
Ðã đến gần bên Ngài,
Ðược nghe: Ngài chiến thắng.
Vị ấy tìm đến Ngài.
Ðể nghe lời khuyên nhủ,
Sau khi nghe, thích thú
Nói lên lời: "Lành thay!"

380.
"Vua Vessavana,
Kuvera đến Ngài,
Tìm hiểu hỏi han Ngài
Về vấn đề diệu pháp,
Ðược hỏi, ôi bậc trí,
Hãy nói lên cho vua!
Sau khi nghe, vị ấy,
Cũng thích thú, ưa thích!"

381.
"Các bậc ngoại đạo này,
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Các tà mạng ngoại đạo,
Hay các Ni Kiền Tử.
Tất cả không vượt qua,
Hơn thắng trí của Ngài,
Như người đang đứng lại.
Không thắng kẻ đi mau."

382.
"Các Bà la môn này,
Ưa luận tranh khẩu chiến,
Có những bậc Phạm chí,
Ðã đến tuổi trưởng thượng,
Tất cả đều trói buộc,
Bởi tư tưởng của Ngài,
Kể cả những hạng người,
Tự phụ nói khoe khoang!"

383.
"Pháp này là tế nhị,
Ðem lại nguồn an lạc,
Ðã được Thế Tôn Ngài,
Khéo nói, khéo thuyết giảng,
Tất cả mọi hạng người,
Ðều thích thú ưa nghe,
Ðược hỏi, hãy nói lên,
Ôi đức Phật tối thượng."

384.
"Các vị tỷ kheo này,
Ðang ngồi đây tất cả,
Kể cả nam cư sĩ,
Tất cả đều chờ nghe!
Hãy để chúng nghe pháp,
Bậc vô uế giác ngộ!
Như chư Thiên nghe lời,
Vasava khéo nói!"

Thế Tôn:

385.
"Tỷ kheo, hãy nghe Ta!
Ta khiến các ngươi nghe!
Pháp đoạn trừ điều ác!
Tất cả hãy thọ trì.
Với ai thấy ý nghĩa,
Nghĩ ngợi có suy tư,
Hãy sống theo chánh hạnh,
Thích hợp với xuất gia."

386.
"Tỷ kheo chớ ra ngoài,
Trong thời gian phi thời,
Hãy đi làng khất thực,
Ðúng thời, thì hãy đi!
Ai đi đứng phi thời,
Bị bẫy sập trói buộc,
Do vậy các đức Phật,
Không có đi phi thời."

387.
"Các sắc và các tiếng,
Các vị hương và xúc,
Chính những loại pháp ấy,
Làm mê hoặc chúng sanh,
Hãy nhiếp phục, lòng dục,
Ðối với các pháp ấy,
Hãy vào cho đúng thời,
Ðể dùng buổi ăn sáng!"

388.
"Tỷ kheo được đúng thời,
Các đồ ăn khất thực,
Hãy đi về một mình,
Ngồi tại chỗ an tịnh,
Suy tư hướng nội tâm,
Ý không chạy ra ngoài,
Làm cho thoát ra khỏi,
Mọi chấp thủ tự ngã."

389.
"Nếu vị ấy có nói,
Với một vị đệ tử,
Hãy nói với một vị,
Một tỷ kheo nào khác,
Hãy nói cho vị ấy,
Sự thù diệu chánh pháp,
Không có nói hai lưỡi,
Không bài xích một ai."

390.
"Nhưng có những hạng người,
Dùng khẩu chiến bằng lời,
Những hạng người tuệ nhỏ
Chúng ta không tán thán.
Triền phược trói buộc chúng,
Từ chỗ này chỗ kia,
Ở đây chúng dẫn tâm
Ðưa tâm đi quá xa."

391.
"Ðồ khất thực, tinh xá,
Cùng sàng tọa trú xứ,
Nước để trừ bụi nhớp,
Y áo Tăng già lê,
Sau khi nghe chánh pháp,
Do Thiện thệ thuyết giảng,
Bậc đệ tử thắng tuệ,
Quán sát, hãy dùng chúng."

392.
"Do vậy đồ khất thực,
Sàng tọa và trú xứ,
Nước để trừ bụi nhớp,
Y áo Tăng già lê
Ðối với những pháp ấy,
Ðừng để cho dính nhiễm,.
Tỷ kheo như giọt nước,
Không dính trên lá sen."

393.
"Trách nhiệm của gia chủ,
Ta cũng nói các ngươi,
Làm theo đúng như vậy,
Ðệ tử là tốt lành.
Pháp tỷ kheo toàn diện,
Khó thành tựu đầy đủ,
Vì là người gia chủ,
Phải làm nhiều việc đời."

394.
"Chớ giết loài hữu tình,
Chớ bảo người giết hại,
Hay chấp nhận kẻ khác
Giết hại các người khác,
Ðối với mọi sanh loại,
Từ bỏ các hình phạt,
Ðối với kẻ mạnh bạo,
Như đối kẻ run sợ."

395.
"Rồi hãy quyết từ bỏ,
Lấy của không được cho,
Ðệ tử khéo sáng suốt,
Vật gì, vật của ai,
Chớ khiến người khác lấy,
Chớ chấp nhận lấy trộm,
Hãy từ bỏ chấm dứt,
Mọi của cải không cho."

396.
"Hãy từ bỏ tránh xa
Ðời sống phi Phạm hạnh,
Như bậc trí tránh né,
Lửa cháy hố than hừng,
Nếu tự mình bất lực,
Không thể sống Phạm hạnh,
Thời chớ có xâm phạm,
Vợ của các người khác."

397.
"Khi đi đến hội chúng.
Hay đi đến đoàn chúng,
Hay một mình một người,
Chớ nói lời nói láo.
Chớ khiến người nói láo,
Chớ chấp nhận nói láo,
Tất cả điều không thật,
Hãy tránh xa từ bỏ."

398.
"Chớ sống theo nếp sống,
Uống rượu và say rượu,
Với vị là cư sĩ,
Ðã chấp nhận pháp này,
Chớ khiến người uống rượu,
Chớ chấp thuận uống rượu,
Sau khi biết uống rượu,
Cuối đường là điên cuồng."

399.
"Chỉ kẻ ngu say rượu,
Mới làm các điều ác,
Và khiến các người khác.
Sống buông lung phóng dật,
Hãy từ bỏ tránh xa,
Xứ phi công đức này,
Khiến điên cuồng si mê,
Làm kẻ ngu thỏa thích."

400.
"Chớ có giết hữu tình,
Chớ lấy của không cho,
Chớ nói láo không thật,
Chớ uống rượu say mê,
Từ bỏ phi Phạm hạnh,
Không hành trì dâm dục.
Không có ăn ban đêm,
Không ăn lúc phi thời."

401.
"Chớ mang các vòng hoa,
Chớ dùng các nước thơm,
Hãy nằm trên mặt đất,
Trên thảm chiếu trải dài,
Tám hạnh này được gọi,
Là hạnh ngày trai giới,
Do đức Phật giảng dạy,
Ðể chấm dứt khổ đau."

402.
"Từ nay ngày trai giới,
Chia nửa tháng hai phần,
Ngày mười bốn, mười lăm,
Hay ngày tám mỗi tháng,
Với tâm ý hoan hỷ,
Thực hành thần thông pháp
Gồm có đủ tám phần,
Khéo đầy đủ vẹn toàn."

403.
"Do vậy, vào buổi sáng,
Thực hàng ngày trai giới,
Bậc có trí sáng suốt,
Với tâm tư tín thành,
Với tâm ý tùy hỷ,
Cúng dường tỷ kheo Tăng,
Với món ăn đồ uống,
Hợp với khả năng mình."

404.
"Hãy nuôi dưỡng mẹ cha,
Hợp pháp và đúng pháp,
Và cũng đúng với pháp,
Hãy làm nghề buôn bán,
Người gia chủ như vậy,
Sở hành không phóng dật,
Ðược sanh làm Thiên nhân,
Tên là: "Tự chói sáng"


Chân thành cám ơn anh Nguyễn Quang Trung đã có thiện tâm giúp đánh máy bài kinh nầy (07/97).

.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm

Trung A Hàm 130. Kinh Giáo Vai trò : Người nghe



1197 Thời Phật tại thế Xóa


© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications