Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
A Tu La Vương Pahārāda
Pahārāda An Asura chief (D.ii.259). Buddhaghosa says (AA.ii.758) he was one of the three leaders of the Asuras, the others being Vepacitti and Rāhu. He first conceived a wish to see the Buddha on the day of the Enlightenment; but this wish was not fulfilled until eleven years later, when he visited the Buddha at Verañjā. The conversation which then took place is recorded in the Pahārāda Sutta (q.v.).
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:750

Các tên gọi khác

Pahārāda An Asura chief (D.ii.259). Buddhaghosa says (AA.ii.758) he was one of the three leaders of the Asuras, the others being Vepacitti and Rāhu. He first conceived a wish to see the Buddha on the day of the Enlightenment; but this wish was not fulfilled until eleven years later, when he visited the Buddha at Verañjā. The conversation which then took place is recorded in the Pahārāda Sutta (q.v.).

General Information

Roll : 125
Academic Year : 2020
Gender : Nam
Khởi tạo : 2025-09-24 08:41:22
Chỉnh sửa gần nhất : 09/24/2025 08:42:24

Pahārāda

An Asura chief (D.ii.259). Buddhaghosa says (AA.ii.758) he was one of the three leaders of the Asuras, the others being Vepacitti and Rāhu. He first conceived a wish to see the Buddha on the day of the Enlightenment; but this wish was not fulfilled until eleven years later, when he visited the Buddha at Verañjā. The conversation which then took place is recorded in the Pahārāda Sutta (q.v.).

 

Pahārāda

Một thủ lĩnh Asura (D.ii.259). Buddhaghosa nói (AA.ii.758) rằng ông là một trong ba thủ lĩnh của Asura, hai người kia là Vepacitti và Rāhu . Ban đầu, ông ấp ủ ước nguyện được gặp Đức Phật vào ngày Giác Ngộ; nhưng ước nguyện này chỉ thành hiện thực mười một năm sau, khi ông đến viếng thăm Đức Phật tại Verañjā . Cuộc trò chuyện diễn ra sau đó được ghi lại trong Kinh Pahārāda (qv).

 

Xuất hiện trong Wiki Tâm Học -Danh sách : Trung A Hàm 035. Kinh A-tu-la

 

AN 8.19 – Kinh A-tu-ta Pahārāda: Pahārādasuttaṃ

1. Một thời, Thế Tôn trú ở Verañjā, dưới gốc cây Naḷerupucimanda.
2. Rồi vua A-tu-la Pahārāda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi đứng một bên.
3. Thế Tôn nói với vua A-tu-la Pahārāda đang đứng một bên:
- Này Pahārāda, có phải các A-tu-la thích thú biển lớn?
- Bạch Thế Tôn, các A-tu-la thích thú biển lớn.
- Này Pahārāda, có bao nhiêu sự vi diệu chưa từng có trong biển lớn, mà do thấy chúng , các A-tu-la thích thú biển lớn?
- Bạch Thế Tôn, có tám vi diệu chưa từng có trong biển lớn, mà do thấy chúng, các A-tu-la thích thú biển lớn. Thế nào là tám? (4-11)  
4. Bạch Thế Tôn, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm.
Bạch Thế Tôn, vì rằng biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ nhất, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
5. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ.
Vì rằng bạch Thế Tôn, biển lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ, bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ hai, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn không có chấp chứa xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng lên bờ hay vất lên đất liền.
Vì rằng bạch Thế Tôn, biển lớn không có chấp chứa xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng lên bờ hay vất lên đất liền. Nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ ba, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
7. Lại nữa, bạch Thế Tôn, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunā, sông Aciravatī, sông Sarabhū, sông Mahī, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ cũ, trở thành biển lớn.
Vì rằng, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunā, sông Aciravatī, sông Sarabhū, sông Mahī, các con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ cũ, trở thành biển lớn, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ tư, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
8. Lại nữa, bạch Thế Tôn, phàm có những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển lớn được thấy có vơi có đầy.
Bạch Thế Tôn, vì rằng, phàm có những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển lớn được thấy có vơi có đầy, bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ năm, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
9. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn chỉ có một vị là vị mặn. Vì rằng, bạch Thế Tôn, biển lớn chỉ có một vị là vị mặn, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ sáu, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
10. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đây có những châu báu này, như trân châu, ma-ni châu, lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não.
Vì rằng, bạch Thế Tôn, biển lớn có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đây có những châu báu này, như trân châu, ma-ni châu, lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não. Bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ bảy, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
11. Lại nữa, bạch Thế Tôn, biển lớn là trú xứ các loại chúng sanh lớn, tại đấy, có những chúng sanh như các con Timi, Timiṅgala, Timiramiṅgalā, những loại Asura (A-tu-la), các loại Nāgā, các loại Gandhabbā. Trong biển có những loài hữu tình có tự ngã dài một trăm do-tuần, hai trăm do-tuần, ba trăm do-tuần, bốn trăm do-tuần, năm trăm do-tuần.
Vì rằng, bạch Thế Tôn, biển lớn là trú xứ các loài chúng sanh lớn như các con Timi, Timiṅgala, Timiramiṅgalā, những loại Asura, các loại Nāgā, các loại Gandhabbā. Trong biển có những loài hữu tình có tự ngã dài một trăm do-tuần, hai trăm do-tuần, ba trăm do-tuần, bốn trăm do-tuần, năm trăm do-tuần, nên bạch Thế Tôn, đây là vi diệu chưa từng có thứ tám, do thấy vậy, thấy vậy, các A-tu-la thích thú biển lớn.
12. Nhưng bạch Thế Tôn, các Tỷ-kheo có thích thú trong Pháp và Luật này?
- Này Pahārāda, Tỷ-kheo có thích thú trong Pháp và Luật này.
- Bạch Thế Tôn, trong Pháp và Luật này có bao nhiêu pháp vi diệu chưa từng có mà do thấy chúng, thấy chúng, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này?
- Này Pahārāda, có tám pháp vi diệu này chưa từng có trong Pháp và Luật này, mà do thấy chúng, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này. Thế nào là tám?
13. Ví như, này Pahārāda, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm.
Cũng vậy, này Pahārāda, trong Pháp và Luật này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí thình lình.
Này Pahārāda, vì rằng trong Pháp và Luật này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí thình lình, nên này Pahārāda, đây là vi diệu chưa từng có thứ nhất, mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
14. Ví như, này Pahārāda, biển lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ.
Cũng vậy, này Pahārāda, khi các học pháp được Ta sửa soạn cho các đệ tử, các đệ tử của Ta, dầu cho vì nhân sinh mạng cũng không vượt qua.
Vì rằng này Pahārāda các học pháp được Ta sửa soạn cho các đệ tử, các đệ tử của Ta, dầu cho vì nhân sinh mạng, cũng không vượt qua; nên này Pahārāda, trong Pháp và Luật này, đây là vi diệu chưa từng có thứ hai, mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
15. Ví như, này Pahārāda, biển lớn không có chấp chứa xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng lên bờ hay vất lên đất liền.
Cũng vậy, này Pahārāda, người nào là ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh đáng nghi ngờ, có những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn, nhưng tự nhận là Sa-môn, không phải sống Phạm hạnh nhưng tự nhận có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh. Chúng Tăng không sống chung với người ấy, lập tức hội họp lại và đuổi người ấy ra khỏi. Dầu cho người ấy có ngồi giữa chúng Tỷ-kheo Tăng, nhưng người ấy sống xa chúng Tăng và chúng Tăng sống xa người ấy.
Vì rằng, này Pahārāda, người người nào là ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh đáng nghi ngờ, có những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn, nhưng tự nhận là Sa-môn, không phải sống Phạm hạnh nhưng tự nhận có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh. Chúng Tăng không sống chung với người ấy, lập tức hội họp lại và đuổi người ấy ra khỏi. Dầu cho người ấy có ngồi giữa chúng Tỷ-kheo Tăng, nhưng người ấy sống xa chúng Tăng và chúng Tăng sống xa người ấy. Nên này Pahārāda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ ba, mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
16. Ví như, này Pahārāda, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunā, sông Aciravatī, sông Sarabhū, sông Mahīcác con sông ấy khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ cũ, trở thành biển lớn.
Cũng vậy, này Pahārāda, có bốn giai cấp: Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà, sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Như Lai tuyên bố, họ từ bỏ tên và họ của họ từ trước, và họ trở thành những Sa-môn Thích tử.
Này Pahārāda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ tư, mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
17. Ví như, này Pahārāda, phàm có những dòng nước gì ở đời chảy vào biển lớn, phàm có những nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy biển lớn được thấy có vơi có đầy.
Cũng vậy, này Pahārāda, nếu có nhiều Tỷ-kheo nhập vào Niết-bàn giới không có dư y, Niết-bàn giới cũng không vì vậy được thấy có vơi có đầy.
Này Pahārāda, vì nếu có nhiều vị Tỷ-kheo nhập vào Niết-bàn giới không có dư y, Niết-bàn giới cũng không vì vậy được thấy có vơi có đầy; này Pahārāda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ năm, mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
18. Ví như, này Pahārāda, biển lớn chỉ có một vị mặn.
Cũng vậy, này Pahārāda, Pháp và Luật cũng chỉ có một vị là vị giải thoát.
Này Pahārāda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ sáu, mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
19. Ví như, này Pahārāda, biển lớn có nhiều châu báu, có nhiều loại châu báu, ở đây có những châu báu này, như trân châu, ma-ni châu, lưu-ly, xa-cừ, ngọc bích, san hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não.
Cũng vậy, này Pahārāda, Pháp và Luật này có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này, như Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi, Thánh đạo tám ngành.
Này Pahārāda, vì rằng Pháp và Luật này có nhiều châu báu, nhiều loại châu báu, ở đấy có những châu báu này, như Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi, Thánh đạo tám ngành, nên này Pahārādan, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ bảy, mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
20. Ví như, này Pahārāda, biển lớn là trú xứ các loại chúng sanh lớn, tại đấy, có những chúng sanh như các con Timi, Timiṅgala, Timiramiṅgalā, những loại Asura (A-tu-la), các loại Nāgā, các loại Gandhabbā. Trong biển có những loài hữu tình có tự ngã dài một trăm do-tuần, hai trăm do-tuần, ba trăm do-tuần, bốn trăm do-tuần, năm trăm do-tuần.
Cũng vậy, này Pahārāda, Pháp và Luật này là trú xứ của các loài chúng sanh lớn. Ở đấy có những loại chúng sanh này: bậc Dự lưu, bậc đã hướng đến chứng ngộ Dự lưu quả, bậc Nhất Lai, bậc đã hướng đến chứng ngộ Nhất lai quả, bậc Bất lai, bậc đã hướng đến chứng ngộ Bất lai quả, bậc A-la-hán, bậc đã hướng đến chứng ngộ quả A-la-hán.
Này Pahārāda, vì rằng Pháp và Luật này là trú xứ của các loại chúng sanh lớn. Ở đấy có những chúng sanh này: bậc Dự lưu, bậc đã hướng đến chứng ngộ Dự lưu quả, bậc Nhất Lai, bậc đã hướng đến chứng ngộ Nhất lai quả, bậc Bất lai, bậc đã hướng đến chứng ngộ Bất lai quả, bậc A-la-hán, bậc đã hướng đến chứng ngộ quả A-la-hán. Này Pahārāda, trong Pháp và Luật này, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ tám, mà do thấy vậy, thấy vậy, các Tỷ-kheo thích thú trong Pháp và Luật này.
.

Xuất hiện trong các kinh A Hàm

Trung A Hàm 035. Kinh A-tu-la Vai trò : Người nghe



1195 Thời Phật tại thế Xóa


© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications