Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
NTPG.Q10.B7 Pháp-Hành Tứ-Niệm-Xứ
Này chư tỳ-khưu! Đạo này là con đường duy nhất, để dẫn đến sự thanh-tịnh hoàn toàn trong sạch khỏi mọi phiền-não ô nhiễm trong tâm của Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, Đức-Phật Độc-Giác, chư Thánh Thanh-văn-giác; để diệt sự sầu não, khóc than; để diệt sự khổ tâm, khổ thân; để chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả; để chứng ngộ Niết-bàn.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:6079

Các tên gọi khác

Này chư tỳ-khưu! Đạo này là con đường duy nhất, để dẫn đến sự thanh-tịnh hoàn toàn trong sạch khỏi mọi phiền-não ô nhiễm trong tâm của Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, Đức-Phật Độc-Giác, chư Thánh Thanh-văn-giác; để diệt sự sầu não, khóc than; để diệt sự khổ tâm, khổ thân; để chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả; để chứng ngộ Niết-bàn.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
NTPG.Q10.B7 Pháp-Hành Tứ-Niệm-Xứ

Pháp-Hành Tứ-Niệm-Xứ

Trong kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta: Kinh Đại-niệm- xứ, Đức-Phật thuyết giảng rằng:

“Ekāyano ayaṃ bhikkhave maggo (1)…”

  • Này chư tỳ-khưu! Đạo này là con đường duy nhất, để dẫn đến sự thanh-tịnh hoàn toàn trong sạch khỏi mọi phiền-não ô nhiễm trong tâm của Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, Đức-Phật Độc-Giác, chư Thánh Thanh-văn-giác; để diệt sự sầu não, khóc than; để diệt sự khổ tâm, khổ thân; để chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả; để chứng ngộ Niết-bàn.

Đạo duy nhất này là pháp-hành tứ-niệm-xứ.

  • Này chư tỳ-khưu! Tỳ-khưu hoặc hành-giả trong Phật-giáo này:
  1. Hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh- niệm trực nhận, có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ thân trong phần than niệm-xứ, để diệt tham- tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ- uẩn chấp-thủ này.
  2. Hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh- niệm trực nhận, có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ các thọ trong phần thọ niệm-xứ, để diệt tham- tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ- uẩn chấp-thủ này.
  3. Hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh- niệm trực nhận, có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ tâm trong phần tâm niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn chấp-thủ này.

 
   
 

 

1 Dīghanikāya, Mahāvagga, Kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta.

 

  1. Là hành-giả có tâm tinh-tấn không ngừng, có chánh-niệm trực nhận, có trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ các pháp trong phần pháp niệm-xứ, để diệt tham-tâm hài lòng, và diệt sân-tâm không hài lòng trong ngũ-uẩn chấp-thủ này,…”

Tứ niệm-xứ

  1. Thân niệm-xứ (kāyānupassanāsatipaṭṭhāna): Thân

(kāya) đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

  1. Thọ niệm-xứ (vedanānupassanāsatipaṭṭhāna): Thọ

(vedanā) đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

  1. Tâm niệm-xứ (cittānupassanāsatipaṭṭhāna): Tâm

(citta) là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

  1. Pháp niệm-xứ (dhammānupassanāsatipaṭṭhāna): Pháp (dhamma) là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

* Thân, thọ, tâm, pháp là đối-tượng của pháp-hành tứ niệm-xứ.

Đối-tượng tứ niệm-xứ với đối-tượng thiền-tuệ

Đối-tượng tứ niệm-xứ với đối-tượng thiền-tuệ chỉ khác nhau về danh từ gọi, còn giống nhau về thật-tánh-pháp.

  • Thân thuộc về sắc-pháp cũng là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.
  • Thọ thuộc về danh-pháp cũng là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.
  • Tâm thuộc về danh-pháp cũng là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.
  • Pháp thuộc về sắc-pháp, danh-pháp cũng là đối- tượng của pháp-hành thiền-tuệ.

 

Giảng giải theo Chú-giải

Trong đọan kinh có những câu:

“Ātāpī   sampajāno   satimā   vineyya   loke   abhijjhā domanassaṃ.”

Hành-giả  thực-hành  pháp-hành  tứ  niệm-xứ  hoặc

pháp-hành thiền-tuệ có các chi pháp quan trọng:

  • Ātāpī: Thiêu đốt mọi phiền-não đó pháp-tinh-tấn:
  • Tinh-tấn ngăn ác-pháp không cho phát sinh.
  • Tinh-tấn diệt ác-pháp đã phát sinh.
  • Tinh-tấn làm cho thiện-pháp phát sinh.
  • Tinh-tấn làm tăng trưởng thiện-pháp đã phát sinh.
  • Satimā: Chánh-niệm trực nhận trực tiếp đối-tượng

thân, thọ, tâm, pháp. Chánh-niệm có 4 pháp là:

  • Niệm-thân: Thân là đối-tượng của chánh-niệm.
  • Niệm-thọ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm.
  • Niệm-tâm: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm.
  • Niệm-pháp: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm.
  • Sampajāno: Trí-tuệ tỉnh-giác trực giác ngay đối- tượng mà chánh-niệm đã trực nhận. Trí-tuệ tỉnh-giác thấy rõ, biết rõ thật-tánh của thân, thọ, tâm, pháp hoặc sắc-pháp, danh-pháp đúng theo sự-thật chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).
  • Vineyya: Ngăn chặn, diệt-từng-thời (tadaṅgap- pahāna) hoặc chế-ngự (vikkhambhanappahāna).
  • Abhijjhā: Tham-tâm hài lòng trong đối-tượng thân, thọ, tâm, pháp.
  • Domanassaṃ: Sân-tâm không hài lòng, bởi vì tham- tâm hài lòng trong đối-tượng thân, thọ, tâm, pháp không được như ý, nên phát sinh sân-tâm không hài lòng.
  • Kāye kāyānupassī viharati,

 

  • Vedanāsu vedanānupassī viharati,
  • Citte cittānupassī viharati,
  • Dhammesu dhammānupassī viharati.
  • Kāye kāyānupassī viharati.

Hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ, dõi theo toàn thân trong thân niệm-xứ.

  • Vedanāsu vedanānupassī viharati.

Hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ, dõi theo các thọ trong thọ niệm-xứ.

  • Citte cittānupassī viharati.

Hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ, dõi theo tâm trong tâm niệm-xứ.

  • Dhammesu dhammānupassī viharati.

Hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ, dõi theo các pháp trong pháp niệm-xứ.

Hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác dõi theo đối-tượng niệm-xứ nào trong cùng niệm-xứ ấy riêng biệt, không nên lẫn lộn sang đối-tượng niệm-xứ khác.

Như Chú-giải kinh Tứ-niệm-xứ giảng giải rằng:

“Hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ thiền-tuệ chỉ nên dõi theo đối-tượng toàn thân trong than niệm-xứ mà thôi, không nên lẫn lộn với niệm-xứ khác.

Khi nào hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ thiền-tuệ dõi theo đối-tượng toàn thân trong thân niệm-xứ, khi ấy không nên dõi theo đối-tượng các thọ hoặc đối-tượng tâm hoặc đối-tượng các pháp trong thân niệm-xứ.”

Như vậy,

  • Khi hành-giả có chánh-niệm, có trí-tuệ thiền-tuệ chỉ nên dõi theo đối-tượng toàn thân trong thân niệm-xứ,

 

không nên lẫn lộn trong thọ niệm-xứ, trong tâm niệm- xứ, trong pháp niệm-xứ.

  • Khi hành-giả có chánh-niệm, có trí-tuệ thiền-tuệ chỉ nên dõi theo đối-tượng các thọ trong thọ niệm-xứ, không nên lẫn lộn trong thân niệm-xứ, trong tâm niệm- xứ, trong pháp niệm-xứ.
  • Khi hành-giả có chánh-niệm, có trí-tuệ thiền-tuệ chỉ nên dõi theo đối-tượng tâm trong tâm niệm-xứ, không nên lẫn lộn trong thân niệm-xứ, trong thọ niệm-xứ, trong pháp niệm-xứ.
  • Khi hành-giả có chánh-niệm, có trí-tuệ thiền-tuệ chỉ nên dõi theo đối-tượng các pháp trong pháp niệm-xứ, không nên lẫn lộn trong thân niệm-xứ, trong thọ niệm- xứ, trong tâm niệm-xứ.

dụ:

Một đất nước có kinh-thành, cung điện của Đức-vua ở trung tâm, có 4 con đường từ 4 hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc đều dẫn đến cung điện của Đức-vua.

  • Dân chúng ở hướng Đông, đi đến chầu Đức-vua bằng con đường từ hướng Đông.
  • Dân chúng ở hướng Tây, đi đến chầu Đức-vua bằng con đường từ hướng Tây.
  • Dân chúng ở hướng Nam, đi đến chầu Đức-vua bằng con đường từ hướng Nam.
  • Dân chúng ở hướng Bắc, đi đến chầu Đức-vua bằng con đường từ hướng Bắc.

Dân chúng ở hướng nào đi đến chầu Đức-vua bằng con đường riêng của hướng ấy. Cũng như vậy,

  • Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có chánh- niệm, có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đối-tượng toàn thân trong thân niệm-xứ sự sinh, sự diệt, có 3 trạng-

 

thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng- thái vô-ngã của sắc-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

  • Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có chánh- niệm, có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đối-tượng các thọ trong thọ niệm-xứ sự sinh, sự diệt, có 3 trạng- thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng- thái vô-ngã của danh-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
  • Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có chánh- niệm, có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đối-tượng tâm trong tâm niệm-xứ sự sinh, sự diệt, có 3 trạng-thái- chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của danh-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
  • Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có chánh- niệm, có trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đối-tượng các pháp trong pháp niệm-xứ sự sinh, sự diệt, có 3 trạng- thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng- thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Đối-tượng tứ niệm-xứ

  1. Thân niệm-xứ gồm có 14 đối-tượng.
  2. Thọ niệm-xứ có 1 đối-tượng chia ra làm 9 loại thọ.
  3. Tâm niệm-xứ 1 đối-tượng chia ra làm 16 loại tâm.
  4. Pháp niệm-xứ gồm có 5 đối-tượng.

Như vậy, đối-tượng tứ niệm-xứ gồm có 21 đối-tượng.

 

  1. Thân niệm-xứ gồm có 14 phần (pabba)
  • Niệm hơi thở vào, hơi thở ra,
  • Niệm tứ-oai-nghi: Đi, đứng, ngồi, nằm.
  • Niệm các oai-nghi-phụ: Đi tới trước, đi lui sau, quay bên phải, quay bên trái, co tay vào, co chân vào, duỗi tay ra, duỗi chân ra, …
  • Niệm 32 thể trọc (trược) trong thân: Tóc, lông, móng, răng, da, …
  • Niệm tứ-đại: Địa-đại (đất), thuỷ-đại (nước), hoả-đại (lửa), phong-đại (gió).
  • Niệm tưởng thân của mình như tử thi bỏ nghĩa địa đã trải qua 1-2-3 ngày.
  • Niệm tưởng thân của mình như tử thi bỏ nghĩa địa, bị quạ, diều, chó rừng, … cắn xé ăn thịt.
  • Niệm tưởng thân của mình như tử thi bỏ nghĩa địa, chỉ còn bộ xương dính máu và thịt, có gân ràng rịt.
  • Niệm tưởng thân của mình như tử thi bỏ nghĩa địa, chỉ còn bộ xương dính máu, thịt rã rời.
  • Niệm tưởng thân của mình như tử thi bỏ nghĩa địa, chỉ còn bộ xương khô, không còn máu và thịt nữa.
  • Niệm tưởng thân của mình như tử thi bỏ nghĩa địa, địa, chỉ còn bộ xương rã rời, rải rác mọi nơi.
  • Niệm tưởng thân của mình như tử thi bỏ nghĩa địa, chỉ còn bộ xương màu trắng.
  • Niệm tưởng thân của mình như tử thi bỏ nghĩa địa, chỉ còn đống xương trắng.
  • Niệm tưởng thân của mình như tử thi bỏ nghĩa địa, chỉ còn bột xương trắng.

14 đối-tượng của than niệm-xứ thuộc về sắc-pháp.

  1. Thọ niệm-xứ 1 đối-tượng thọ chia ra làm 9 loại thọ
  • Sukhavedanā: Thọ lạc.

 

  • Dukkhavedanā: Thọ khổ.
  • Adukkhamasukhavedanā: Thọ không khổ không lạc.
  • Sāmisasukhavedanā: Thọ lạc nương nhờ ngũ-dục.
  • Nirāmisasukhavedanā: Thọ lạc không nương nhờ ngũ-dục.
  • Sāmisadukkhavedanā: Thọ khổ nương nhờ ngũ-dục.
  • Nirāmisadukkhavedanā: Thọ khổ không nương nhờ ngũ-dục.
  • Sāmisa adukkhamasukhavedanā: Thọ không khổ không lạc nương nhờ ngũ-dục.
  • Nirāmisa adukkhamasukhavedanā: Thọ không khổ không lạc không nương nhờ ngũ-dục.

Một đối-tượng của thọ niệm-xứ chia ra làm 9 loại thọ thuộc về danh-pháp.

  1. Tâm niệm-xứ 1 đối-tượng tâm chia ra làm 16 loại tâm
  • Sarāgacitta: Tâm có tham đó là 8 tham-tâm.
  • Vītarāgacitta: Tâm không có tham đó là ngoài 8 tham-tâm ra, các tam-giới-tâm còn lại đều là tâm không có tham.
  • Sadosacitta: Tâm có sân đó là 2 sân-tâm.
  • Vītadosacitta: Tâm không có sân đó là ngoài 2 sân- tâm ra, các tam-giới-tâm còn lại đều là tâm không có sân.
  • Samohacitta: Tâm có si đó là 12 bất-thiện-tâm si- tâm-sở đồng sinh.
  • Vītamohacitta: Tâm không có si đó là ngoài 12 bất- thiện-tâm ra, các tam-giới-tâm còn lại đều tâm không si.
  • Saṃkhittacitta: Tâm buồn-chán, buồn-ngủ đó là 4 tham-tâm cần tác-động 1 sân-tâm cần tác động, gồm có 5 bất-thiện-tâm cần tác-động.
  • Vikkhittacitta: Tâm phóng-tâm đó là si-tâm hợp với phóng-tâm tâm-sở phóng-tâm tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm.

 

  • Mahaggatacitta: Tâm bậc cao đó là 15 sắc-giới-tâm

12 vô-sắc-giới-tâm.

  • Amahaggatacitta: Tâm không phải bậc cao đó là 54 dục-giới-tâm.
  • Sa uttaracitta: Tâm có tâm cao hơn đó là dục-giới- tâm, sắc-giới-tâm.
  • Anuttaracitta: Tâm không có tâm cao hơn đó là vô- sắc-giới-tâm.
  • Samāhitacitta: Tâm có định đó là tâm cận-định, tâm an-định.
  • Asamāhitacitta: Tâm không có định đó là tâm không có cận-định, tâm không có an-định.
  • Vimuttacitta: Tâm thoát khỏi phiền-não bằng cách diệt từng-thời (tadaṅgappahāna) và diệt bằng cách chế- ngự (vikkhambhanappahāna) đó là tam-giới thiện-tâm.
  • Avimuttacitta: Tâm không thoát khỏi phiền-não, đó

bất-thiện-tâm, tam-giới quả-tâm.

Một đối-tượng của tâm niệm-xứ chia ra làm 16 loại tâm thuộc về danh-pháp.

  1. Pháp niệm-xứ gồm có 5 đối-tượng
  • Nīvaraṇapabba: Năm pháp-chướng-ngại.
  • Khandhapabba: Ngũ-uẩn chấp-thủ.
  • Āyatanapabba: Thập-nhị-xứ.
  • Bojjhaṅgapabba: Thất-giác-chi.
  • Saccapabba: Tứ Thánh-đế.

4.1- Nīvaraṇapabba: 5 pháp-chướng-ngại

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định hoặc thực- hành pháp-hành thiền-tuệ, ban đầu thường gặp các pháp chướng ngại làm cản trở mọi thiện-pháp không phát triển được.

 

Năm pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) là:

  • Kāmacchanda: Tham-dục trong ngũ-dục(1) là pháp- chướng-ngại đó là tham tâm-sở đồng sinh với 8 tham-tâm.
  • Byāpāda: Sân-hận là pháp-chướng-ngại đó là sân- tâm-sở đồng sinh với 2 sân-tâm.
  • Thinamiddha: Buồn-chán, buồn-ngủ pháp-chướng- ngại đó là buồn-chán tâm-sở và buồn-ngủ tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm 1 sân-tâm cần tác động.
  • Uddhaccakukkucca: Phóng-tâm, hối-hận là pháp- chướng-ngại đó là phóng-tâm tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm hối-hận tâm-sở đồng sinh với 2 sân-tâm.
  • Vicikicchā: Hoài-nghi là pháp-chướng-ngại đó

hoài-nghi tâm-sở đồng sinh với si-tâm hợp với hoài-nghi.

Năm pháp-chướng-ngại của pháp niệm-xứ này thuộc về danh-pháp.

Năm pháp-chướng-ngại này trực tiếp làm chướng ngại đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, nhưng đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì 5 pháp-chướng-ngại này là đối-tượng của pháp-hành tứ- niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ.

  • Hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ, khi pháp-chướng-ngại nào phát sinh, hành-giả trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết đối-tượng pháp-chướng-ngại ấy thuộc về danh-pháp sự sinh, sự diệt, có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của danh-pháp ấy, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh- đạo, Thánh-quả và Niết-bàn được.

Cho nên, 5 pháp-chướng-ngại là 1 trong 5 đối-tượng của phần pháp-niệm-xứ.

 
   
 

 

1 Ngũ dục: sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục.

 

4.2- Khandhapabba: Ngũ-uẩn chấp-thủ

Ngũ-uẩn chấp-thủ (pañcupadānakkhandha) nghĩa là ngũ-uẩn là đối-tượng của 4 pháp-chấp-thủ (tham-dục chấp-thủ, tà-kiến chấp-thủ, pháp-thường-hành chấp-thủ, ngã-kiến chấp-thủ, do tham tâm-sở và tà-kiến tâm-sở).

Ngũ-uẩn chấp-thủ có 5 uẩn là:

  • Sắc-uẩn chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
  • Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
  • Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.
  • Hành-uẩn chấp-thủ đó là 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm là đối- tượng của pháp-chấp-thủ.
  • Thức-uẩn chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm là đối tượng của pháp-chấp-thủ.

Ngũ-uẩn chấp-thủ của pháp niệm-xứ thuộc về sắc- pháp và danh-pháp.

4.3- Āyatanapabba: Thập-nhị-xứ

Thập nhị xứ có 12 xứ chia ra 2 bên:

Bên trong có 6 xứ và bên ngoài có 6 xứ như sau:

  • 6 xứ bên trong:
  • Cakkhāyatana: Nhãn-xứ đó là nhãn-tịnh-sắc làm duyên cho tâm với tâm-sở phát sinh.
  • Sotāyatana: Nhĩ-xứ đó là nhĩ-tịnh-sắc làm duyên cho tâm với tâm-sở phát sinh.
  • Ghānāyatana: Tỷ-xứ đó là tỷ-tịnh-sắc làm duyên cho tâm với tâm-sở phát sinh.

 

  • Jivhāyatana: Thiệt-xứ đó là thiệt-tịnh-sắc làm duyên cho tâm với tâm-sở phát sinh.
  • Kayāyatana: Thân-xứ đó là thân-tịnh-sắc làm duyên cho tâm với tâm-sở phát sinh.
  • Manāyatana: Ý-xứ đó là tất cả tâm làm duyên cho

tâm với tâm-sở phát sinh.

  • 6 xứ bên ngoài
  • Rūpāyatana: Sắc-xứ làm duyên cho tâm với tâm-sở

phát sinh.

  • Saddāyatana: Thanh-xứ làm duyên cho tâm với tâm- sở phát sinh.
  • Gandhāyatana: Hương-xứ làm duyên cho tâm với tâm-sở phát sinh.
  • Rasāyatana: Vị-xứ làm duyên cho tâm với tâm-sở

phát sinh.

  • Phoṭṭhabbāyatana: Xúc-xứ làm duyên cho tâm với tâm-sở phát sinh.
  • Dhammāyatana: Pháp-xứ đó là 52 tâm-sở, 16 sắc- pháp vi-tế, Niết-bàn làm duyên cho tâm với tâm-sở phát sinh.

Khi 6 xứ bên trong tiếp xúc với 6 xứ bên ngoài, phát sinh 6 lộ-trình-tâm, nên tâm với tâm-sở phát sinh:

  • Khi nhãn-xứ tiếp xúc với sắc-xứ, nên phát sinh

nhãn-môn lộ-trình-tâm.

  • Khi nhĩ-xứ tiếp xúc với thanh-xứ, nên phát sinh nhĩ- môn lộ-trình-tâm.
  • Khi tỷ-xứ tiếp xúc với hương-xứ, nên phát sinh tỷ- môn lộ-trình-tâm.
  • Khi thiệt-xứ tiếp xúc với vị-xứ, nên phát sinh thiệt- môn lộ-trình-tâm.
  • Khi thân-xứ tiếp xúc với xúc-xứ, nên phát sinh thân- môn lộ-trình-tâm.

 

  • Khi ý-xứ tiếp xúc với pháp-xứ, nên phát sinh ý-môn lộ-trình-tâm.

Thập-nhị-xứ của phần pháp niệm-xứ thuộc về sắc- pháp và danh-pháp.

4.4- Bojjhaṅgapabba: Thất-giác-chi

Thất-giác-chi có 7 giác-chi, là 7 pháp làm nhân-duyên chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả.

Thất-giác-chi có 7 pháp

  1. Satisambojjhaṅga: Pháp niệm giác-chi làm nhân- duyên chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, có chi pháp là niệm tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 26 tác-hành-thiền-tâm (appanājavanacitta).(1)
  2. Dhammavicayasambojjhaṅga: Pháp phân-tích giác- chi làm nhân-duyên chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, có chi pháp là trí- tuệ tâm-sở đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, 4 đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ, 26 tác-hành-thiền-tâm.
  3. Vīriyasambojjhaṅga: Pháp tinh-tấn giác-chi làm nhân-duyên chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, có chi pháp là tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 26 tác- hành-thiền-tâm.
  4. Pītisambojjhaṅga: Pháp hỷ giác-chi làm nhân- duyên chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, có chi pháp là hỷ tâm-sở đồng

 
   
 

 

1 26 Appanājavanacitta: 26 tác-hành-thiền-tâm đó 5 sắc-giới thiện-tâm + 5 sắc-giới duy-tác-tâm+ 4 vô-sắc-giới thiện-tâm + 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm+ 4 Thánh-đạo-tâm+ 4 Thánh-quả-tâm.

 

sinh với 4 đại-thiện-tâm đồng sinh với hỷ, 4 đại-duy-tác- tâm đồng sinh với hỷ, 3 sắc-giới thiện-tâm, 3 sắc-giới duy-tác-tâm.

  1. Passaddhisambojjhaṅga: Pháp an-tịnh giác-chi làm nhân-duyên chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, có chi pháp là an-tịnh tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 26 tác-hành-thiền-tâm.
  • Samādhisambojjhaṅga: Pháp định-giác-chi làm nhân-duyên chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, có chi pháp là nhất-tâm tâm- sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 26 tác-hành-thiền-tâm.
  • Upekkhāsambojjhaṅga: Pháp xả-giác-chi làm nhân- duyên chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, có chi pháp là trung-dung tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 26 tác-hành-thiền-tâm.

Thất-giác-chi  của  phần  pháp  niệm-xứ  thuộc  về

danh-pháp.

4.5- Saccapabba: Tứ Thánh-đế

Tứ Thánh- đế là sự-thật chân-lý của bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ đã chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

  1. Dukkha ariyasacca: Khổ Thánh-đế là sự-thật chân- lý của chư bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là:
  • Tái-sinh kiếp sau là khổ, già là khổ, chết là khổ, sầu não, khóc than, khổ thân, khổ tâm, khổ cùng cực.
  • Phải gần gũi, thân cận với người không yêu thương là khổ.

 

  • Phải xa lìa người yêu thương là khổ.
  • Mong muốn đừng có sinh, có già, có bệnh, có chết,

… mà không thể nào được như ý là khổ.

Tóm lại, chấp-thủ trong ngũ-uẩn do tham muốn và tà- kiến là khổ.

  1. Dukkhasamudaya ariyasacca: Nhân sinh khổ Thánh- đế là sự-thật chân-lý của chư bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là tham-ái dắt dẫn tái-sinh kiếp sau hợp với tham muốn, hài lòng, say mê trong các đối-tượng, đắm say trong kiếp sống. Nhân sinh khổ Thánh-đế ấy là:
  • Dục-ái (kāmataṇhā) là tham-ái trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái).
  • Hữu-ái (bhavataṇhā) là tham-ái trong 6 đối-tượng ái hợp với thường-kiến, tham-ái trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, trong cõi sắc- giới phạm-thiên, cõi vô-sắc-giới phạm-thiên.
  • Phi-hữu-ái (vibhavataṇhā) là tham-ái trong 6 đối- tượng ái hợp với đọan-kiến.
  1. Dukkhanirodha ariyasacca: Diệt khổ Thánh-đế là sự-thật chân-lý của chư bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là Niết-bàn là pháp diệt tận mọi say mê do tham-ái ấy không còn dư sót bằng 4 Thánh-đạo-tuệ, xả ly, từ bỏ chấp-thủ trong ngũ-uẩn, giải thoát khổ, không còn luyến ái, không còn dính mắc nữa.
  2. Dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasacca: Pháp- hành dẫn đến diệt khổ Thánh-đế là sự-thật chân-lý của chư bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh: Chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh- nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.

 

Đối-tượng tứ-niệm-xứ

  • Thân niệm-xứ có 14 đối-tượng.
  • Thọ-niệm-xứ có 1 đối-tượng chia ra làm 9 loại thọ.
  • Tâm niệm-xứ có 1 đối-tượng chia ra làm 16 loại tâm.
  • Pháp niệm-xứ có 5 đối-tượng.

Như vậy, tứ-niệm-xứ gồm có 21 đối-tượng của pháp- hành tứ-niệm-xứ hoặc đối-tượng của pháp-hành thiền- tuệ, mà mỗi đối-tượng có đọan kết đều tương tự chỉ có khác danh từ gọi của mỗi phần mà thôi.

  • Thân niệm-xứ có đọan kết như sau:

“Iti - ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati,

  • Bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati,
  • Ajjhattabahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati.
  • Samudayadhammānupassī kāyasmiṃ viharati
  • Vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati,
  • Samudayavayadhammānupassī kāyasmiṃ viharati,
  • Atthi kāyo’ti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti, yāvadeva ñāṇamattāya paṭissatimattāya. anissito ca viharati, na ca kiñci loke upādiyati.

Evaṃpi kho bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī Viharati.”

  • Thọ niệm-xứ có đọan kết như sau:

“Iti - ajjhattaṃ vā vedanāsu vedanānupassī viharati,

  • Bahiddhā vā vedanāsu vedanānupassī viharati,
  • Ajjhattabahiddhā vā vedanāsu vedanānupassī viharati.
  • Samudayadhammānupassī vā vedanāsu viharati,
  • Vayadhammānupassī vā vedanāsu viharati,
  • Samudayavayadhammānupassī vedanāsu viharati,
  • Atthi vedanā’ti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti

 

yāvadeva ñāṇamattāya paṭissatimattāya. anissito ca viharati, na ca kiñci loke upādiyati.

Evaṃpi kho bhikkhave, bhikkhu vedanāsu vedanānupassī viharati.”

  • Tâm niệm-xứ có đọan kết như sau:

“Iti - ajjhattaṃ vā citte cittānupassī viharati,

  • Bahiddhā vā citte cittānupassī viharati,
  • Ajjhattabahiddhā vā citte cittānupassī viharati.
  • Samudayadhammānupassī vā cittasmiṃ viharati,
  • Vayadhammānupassī vā cittasmiṃ viharati,
  • Samudayavayadhammānupassī cittasmiṃ viharati,
  • Atthi cittan’ti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti yāvadeva ñāṇamattāya paṭissatimattāya. anissito ca viharati, na ca kiñci loke upādiyati.

Evaṃ pi kho bhikkhave, bhikkhu citte cittānupassī Viharati.”

  • Pháp niệm-xứ có đọan kết như sau:

“Iti - ajjhattaṃ vā dhammesu dhammānupassī viharati,

  • Bahiddhā vā dhammesu dhammānupassī viharati,
  • Ajjhattabahiddhā vā dhammesu dhammānupassī viharati.
  • Samudayadhammānupassī vā dhammesu viharati,
  • Vayadhammānupassī vā dhammesu viharati,
  • Samudayavayadhammānupassī dhammesu viharati
  • Atthi dhammā’ti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti yāvadeva ñāṇamattāya paṭissatimattāya.

anissito ca viharati, na ca kiñci loke upādiyati.

Evaṃ pi kho bhikkhave, bhikkhu dhammesu dhammānupassī viharati.”

 

Ý nghĩa

  • Thân niệm-xứ có đọan kết như sau:

Như vậy, hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân niệm-xứ bên trong của mình.

Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân niệm-xứ bên ngoài mình, của người khác.

Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân niệm-xứ khi thì bên trong của mình, khi thì bên ngoài mình, của người khác.

Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-sinh do nhân-duyên nào sinh trong thân.

Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-diệt do nhân- duyên ấy diệt trong thân.

Hoặc hành-giả chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-sinh do nhân-duyên nào sinh, trạng-thái-diệt do nhân-duyên ấy diệt trong thân.

Chánh-niệm của hành-giả trực nhận rằng: “Chỉ là thân mà thôi”. Đối-tượng hiện-tại chỉ để phát triển chánh-niệm, chỉ để phát triển trí-tuệ tỉnh-giác mà thôi.

Hành-giả không có tham-ái và tà-kiến nương nhờ (nơi đối-tượng và chủ thể), không có chấp-thủ nào (ta và của ta) trong ngũ-uẩn này.

  • Này chư tỳ-khưu! Như vậy, gọi là tỳ-khưu hoặc hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân niệm-xứ.

 

  • Thọ niệm-xứ có đọan kết như sau:

Như vậy, hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ các thọ trong thọ niệm- xứ bên trong của mình.

Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ các thọ trong thọ niệm-xứ bên ngoài mình, của người khác.

Hoặc hành-giả chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ các thọ trong thọ niệm-xứ khi thì bên trong của mình, khi thì bên ngoài mình, của người khác.

Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái sinh do nhân- duyên nào sinh trong các thọ.

Hoặc hành-giả chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-diệt do nhân-duyên ấy diệt trong các thọ.

Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-sinh do nhân-duyên nào sinh, trạng-thái-diệt do nhân-duyên ấy diệt trong các thọ.

Chánh-niệm của hành-giả trực nhận rằng: “Chỉ là thọ mà thôi”. Đối-tượng hiện-tại chỉ để phát triển chánh-niệm, chỉ để phát triển trí-tuệ tỉnh-giác mà thôi.

Hành-giả không có tham-ái và tà-kiến nương nhờ (nơi đối-tượng và chủ thể), không có chấp-thủ nào (ta và của ta) trong ngũ-uẩn này.

  • Này chư tỳ-khưu! Như vậy, gọi là tỳ-khưu hoặc hành- giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thường dõi theo thấy rõ, biết các thọ trong thọ niệm-xứ.

 

  • Tâm niệm-xứ có đọan kết như sau:

Như vậy, hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ tâm trong tâm niệm-xứ bên trong của mình.

Hoặc hành-giả chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ tâm trong tâm niệm-xứ bên ngoài mình, của người khác.

Hoặc hành-giả chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết tâm trong tâm niệm-xứ khi thì bên trong của mình, khi thì bên ngoài mình, của người khác.

Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-sinh do nhân-duyên nào sinh trong tâm.

Hoặc hành-giả chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-diệt do nhân-duyên ấy diệt trong tâm.

Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái sinh do nhân- duyên nào sinh, trạng-thái-diệt do nhân-duyên ấy diệt trong tâm.

Chánh-niệm của hành-giả trực nhận rằng: “Chỉ là tâm mà thôi”. Đối-tượng hiện-tại chỉ để phát triển chánh-niệm, chỉ để phát triển trí-tuệ tỉnh-giác mà thôi.

Hành-giả không có tham-ái và tà-kiến nương nhờ (nơi đối-tượng và chủ thể), không có chấp-thủ nào (ta và của ta) trong ngũ-uẩn này.

  • Này chư tỳ-khưu! Như vậy, gọi là tỳ-khưu hoặc hành- giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ tâm trong tâm niệm-xứ.

 

  • Pháp niệm-xứ có đọan kết như sau:

Như vậy, hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ các pháp trong pháp niệm-xứ bên trong của mình.

Hoặc hành-giả chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ các pháp trong pháp niệm-xứ bên ngoài mình, của người khác.

Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ các pháp trong pháp niệm-xứ khi thì bên trong của mình, khi thì bên ngoài mình, của người khác.

Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-sinh do nhân-duyên nào sinh trong các pháp.

Hoặc hành-giả chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-diệt do nhân-duyên ấy diệt trong các pháp.

Hoặc hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ trạng-thái-sinh do nhân-duyên nào sinh, trạng-thái-diệt do nhân-duyên ấy diệt trong các pháp.

Chánh-niệm của hành-giả trực nhận rằng: “Chỉ là pháp mà thôi”. Đối-tượng hiện-tại chỉ để phát triển chánh-niệm, chỉ để phát triển trí-tuệ tỉnh-giác mà thôi.

Hành-giả không có tham-ái và tà-kiến nương nhờ (nơi đối-tượng và chủ thể), không có chấp-thủ nào (ta và của ta) trong ngũ-uẩn này.

  • Này chư tỳ-khưu! Như vậy, gọi là tỳ-khưu hoặc hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác thường dõi theo thấy rõ, biết rõ các pháp trong pháp niệm-xứ.

 

Nhận xét về đối-tượng hơi thở vào, hơi thở ra trong thân- niệm-xứ

Ānāpānapabba: Đối-tượng hơi thở vào, hơi thở ra vốn là đề-mục thiền-định gọi là ānāpānassati, còn gọi là assāsapassāsa: Hơi thở vào, hơi thở ra.

Theo bộ Chú-giải Pāḷi(1), kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta- vaṇṇanā giảng giải về ānāpānapabba: Đối-tượng hơi thở vào, hơi thở ra có trong thân-niệm-xứ, bởi vì hơi thở vào, hơi thở ra luôn luôn nương nhờ nơi thân.

Hành-giả thực-hành ānāpānapabba: Đối-tượng hơi thở vào, hơi thở ra có 2 giai đọan:

  1. Giai đọan đầu: Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục thiền-định ānāpānassati: Niệm hơi thở vào, hơi thở ra cho đến khi chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm(2) trước.
  2. Giai đọan chót: Sau khi xả thiền sắc-giới với đề- mục thiền-định ānāpānassati ra, lấy bậc thiền ấy làm nền tảng, làm đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ (thuộc về phần niệm tâm) hoặc làm đối-tượng của pháp-hành- thiền-tuệ (danh-pháp).

Hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ (niệm tâm) hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ bằng các cách như sau:

  • Hơi thở vào, hơi thở ra(3) tiếp xúc nơi thân (kāya), đối-tượng xúc (phong-đại) (vāyophoṭṭhabbārammaṇa) thuộc về sắc-pháp làm đối-tượng thiền-tuệ, dục-giới

 
   
 

 

1 Dī. Mahāvaggaṭṭhakathā. Kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇanā.

2 Chứng đắc đến bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào cũng được.

3 Hơi thở vào, hơi thở ra tiếp xúc với thân làm đối-tượng thiền-tuệ là đối- tượng xúc (phong-đại), không phải là hơi thở vào, hơi thở ra dài hoặc ngắn như pháp-hành thiền-định.

 

đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ biết đối-tượng xúc ấy thuộc về danh-pháp.

  • Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có chánh- niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác với đối-tượng xúc (phong-đại) (hơi thở vào, hơi thở ra) thuộc về sắc- pháp ấy, khi trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp hiện-tại ấy, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp ấy, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
  • Cách niệm-thọ: Chi thiền lạc (sukha) (hoặc chi-thiền xả upekkhā) trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm của đề- mục thiền-định ānāpānassati.

Thọ lạc thuộc về danh-pháp làm đối-tượng thiền-tuệ, và bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nương nhờ hadaya- vatthurūpa là nơi sinh của ý-thức-tâm thuộc về sắc-pháp.

  • Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có chánh- niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác với đối-tượng thọ lạc thuộc về danh-pháp, khi trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp hiện- tại ấy, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của danh- pháp, sắc-pháp ấy, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
  • Cách niệm-tâm: Bậc thiền sắc-giới thiện-tâm của

đề-mục thiền-định ānāpānassati.

Sắc-giới thiện-tâm thuộc về danh-pháp làm đối-tượng thiền-tuệ, và sắc-giới thiện-tâm nương nhờ hadayavatthu- rūpa là nơi sinh của ý-thức-tâm thuộc về sắc-pháp.

 

  • Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ chánh- niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác với đối-tượng sắc-giới thiện-tâm thuộc về danh-pháp, khi trí-tuệ thiền- tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh- pháp hiện-tại ấy, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp ấy, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Giảng giải

Đọan kết của ānāpānapabbavaṇṇanā theo Chú-giải Pāḷi bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇanā như sau:

Iti - ajjhataṃ vā’ti evaṃ attano vā assāsapassāsa- kāye kāyānupassī viharati.

  • Bahiddhā vā’ti parassa assāsapassāsakāye
  • Ajjhattabahiddhā vā’ ti kālena attano, kālena parassa assāsapassāsakāye…
  • Atthi kāyo’ti vā panassā’ ti kāyo atthi, na satto, na puggalo, na itthī, na puriso, na attā, na attaniyaṃ, nā’haṃ, na mama, na koci, na kassacīti evamassa sati paccupaṭṭhitā hoti.

Ý nghĩa

Iti - ajjhataṃ vā: Tỳ-khưu, hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác dõi theo thấy rõ, biết rõ toàn thân trong phần hơi thở vào, hơi thở ra bên trong của mình.

  • Bahiddhā vā: Hoặc tỳ-khưu, hành-giả có chánh- niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác dõi theo thấy rõ, biết rõ toàn thân trong phần hơi thở vào, hơi thở ra bên ngoài mình, của người khác, của chúng-sinh khác.

 

  • Ajjhattabahiddhā vā: Hoặc tỳ-khưu, hành-giả có chánh-niệm trực nhận, trí-tuệ tỉnh-giác trực giác dõi theo thấy rõ, biết rõ toàn thân trong phần hơi thở vào, hơi thở ra khi thì bên trong của mình, khi thì bên ngoài mình, của người khác, của chúng-sinh khác, v.v…
  • Atthi kāyo: Chỉ là thân mà thôi, trong phần này là hơi thở vào, hơi thở ra thuộc về sắc-pháp phát sinh do tâm (cittajarūpa) pháp vô-ngã, không phải chúng-sinh (na satto), không phải người (na puggalo), không phải người nữ (na itthī), không phải người nam (na puriso), không phải ngã (na attā), không phải thuộc về ngã (na attaniyaṃ), không phải ta (nā’haṃ), không phải của ta (na mama), không phải ai (na koci), không phải của ai (na kassaci), v.v…
  • Anissito ca viharati: Hành-giả có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác hoàn toàn trong sạch thanh-tịnh, không có tà- kiến tham-ái nương nhờ nơi hơi thở vào, hơi thở ra ấy.
  • Na ca kiñci loke upādīyati: Tâm không còn chấp-thủ do tà-kiến tham-ái cho rằng: Ta, của tanào trong ngũ-uẩn này nữa (đó là tâm của bậc Thánh A-ra-hán).

Như vậy, đối-tượng hơi thở vào, hơi thở ra trong phần thân niệm-xứ này có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả; Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả; Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả, đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Còn lại 20 đối-tượng của tứ-niệm-xứ cũng có ý nghĩa tương tự như phần hơi thở vào, hơi thở ra, song mỗi phần chỉ có khác đối-tượng riêng biệt mà thôi.

Như vậy, 21 đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc thực-hành

 

pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng nào trong 21 đối-tượng ấy cũng đều có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết- bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán như nhau cả thảy.

Nhân-duyên sinh-diệt của sắc-pháp, của danh-pháp

  • Sắc-pháp sinh do 5 nhân-duyên-sinh
  • Sắc-pháp sinh do vô-minh sinh.
  • Sắc-pháp sinh do tham-ái sinh.
  • Sắc-pháp sinh do nghiệp sinh.
  • Sắc-pháp sinh do vật-thực sinh.
  • Trạng-thái-sinh của sắc-pháp.
  • Sắc-pháp diệt do 5 nhân-duyên-diệt
  • Sắc-pháp diệt do vô-minh diệt.
  • Sắc-pháp diệt do tham-ái diệt.
  • Sắc-pháp diệt do nghiệp diệt.
  • Sắc-pháp diệt do vật-thực diệt.
  • Trạng-thái-diệt của sắc-pháp.
  • Danh-pháp sinh do 5 nhân-duyên-sinh
  • Danh-pháp sinh do vô-minh sinh.
  • Danh-pháp sinh do tham-ái sinh.
  • Danh-pháp sinh do nghiệp sinh.
  • Danh-pháp sinh do sắc-pháp, danh-pháp sinh.
  • Trạng-thái-sinh của danh-pháp.
  • Danh-pháp diệt do 5 nhân-duyên-diệt
  • Danh-pháp diệt do vô-minh diệt.
  • Danh-pháp diệt do tham-ái diệt.
  • Danh-pháp diệt do nghiệp diệt.
  • Danh-pháp diệt do sắc-pháp, danh-pháp diệt.
  • Trạng-thái-diệt của danh-pháp.

 

Nhận xét về đọan chót của mỗi đối-tượng

Tứ-niệm-xứ gồm có tất cả 21 đối-tượng của pháp- hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ, mà đọan kết của mỗi phần trong tứ-niệm-xứ đều có:

Iti - ajjhataṃ vā… đối-tượng bên trong của mình như “hơi thở vào, hơi thở ra bên trong của mình; hoặc 4 oai- nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai- nghi nằm bên trong của mình; hoặc thân hoặc thọ, hoặc tâm, hoặc pháp bên trong của mình; v.v…”

Điều ấy là dễ hiểu, không có gì đáng thắc mắc.

  • Bahiddhā vā … đối-tượng bên ngoài mình, của người khác, của chúng-sinh khác như “hơi thở vào, hơi thở ra bên ngoài mình, của người khác; hoặc 4 oai-nghi: Oai-nghi đi, oai-nghi đứng, oai-nghi ngồi, oai-nghi nằm bên ngoài mình, của người khác, của chúng-sinh khác; hoặc thân hoặc thọ, hoặc tâm, hoặc pháp bên ngoài mình, của người khác, của chúng-sinh khác; v.v…”

Điều ấy nên hiểu như thế nào?

Thật ra, đọan kết của mỗi đối-tượng trong tứ-niệm-xứ kết quả đã trải qua quá trình thực-hành pháp-hành tứ- niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ đã có khả năng phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ theo tuần tự từ bậc thấp cho đến bậc cao, trải qua 16 loại trí-tuệ thiền-tuệ, từ trí-tuệ thiền- tuệ tam-giới cho đến trí-tuệ thiền-tuệ siêu-tam-giới:

  • Khi trí-tuệ thứ nhất phát sinh gọi là nāmarūpa- paricchedañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ, phân biệt rõ thật-tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp bên trong của mình đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) đều là pháp-vô-ngã (không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, v.v…),

 

chánh-kiến thiền-tuệ (vipassanāsammā-diṭṭhi), đạt đến pháp-thanh-tịnh thứ 3 gọi là diṭṭhivisuddhi: Chánh- kiến thanh-tịnh, nên diệt-từng-thời (tadaṅgappahāna) được tà-kiến (chưa diệt tận được tà-kiến).

  • Trí-tuệ thứ nhì phát sinh gọi là nāmarūpapaccaya- pariggahañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ nhân-duyên-sinh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp bên trong của mình với paccakkhañāṇa: Trí-tuệ trực-tiếp thấy rõ, biết rõ nhân- duyên-sinh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp bên trong của mình (ajjhatta) như thế nào, và với anumānañāṇa: Trí-tuệ gián-tiếp biết rõ nhân-duyên-sinh của mỗi sắc- pháp, mỗi danh-pháp bên ngoài mình, (bahiddhā) của người khác, của chúng-sinh khác cũng như thế ấy.

Cho nên, trí-tuệ thứ nhì này đạt đến pháp-thanh-tịnh thứ 4 gọi là kaṅkhāvitaraṇavisuddhi: Trí-tuệ thoát-ly hoài- nghi thanh-tịnh, nên diệt-từng-thời (tadaṅgappahāna) được hoài-nghi (chưa diệt tận được hoài-nghi).

Như vậy, hành-giả đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ,

* khi trí-tuệ thứ nhất nāmarūpaparicchedañāṇa phát sinh, thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, của danh- pháp, đạt đến diṭṭhivisuddhi: Chánh-kiến thanh-tịnh, nên diệt-từng-thời được tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi sắc- pháp, danh-pháp tam-giới, hành-giả có chánh-kiến thiền- tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp đều là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, không phải chúng-sinh, không phải vật này, vật kia, v.v… mà trí-tuệ này chỉ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc- pháp, của danh-pháp mà thôi.

Tiếp theo * khi trí-tuệ thứ nhì nāmarūpapaccaya- pariggahañāṇa phát sinh, thấy rõ, biết rõ nhân-duyên-

 

sinh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp, đạt đến kaṅkhā- vitaraṇavisuddhi: Trí-tuệ thoát-ly hoài-nghi thanh-tịnh, nên diệt-từng-thời được hoài-nghi với paccakkhañāṇa: Trí-tuệ trực-tiếp thấy rõ, biết rõ nhân-duyên-sinh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp bên trong của mình (ajjhatta) như thế nào, và với anumānañāṇa: Trí-tuệ gián-tiếp biết rõ nhân-duyên-sinh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp bên ngoài mình (bahiddhā), của người khác, của chúng-sinh khác, của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp hiện-tại, quá-khứ, vị-lai cũng như thế ấy.

Cho nên, hành-giả đang thực-hành pháp-hành thiền- tuệ, khi trí-tuệ thứ nhất nāmarūpaparicchedañāṇa phát sinh diệt-từng-thời được tà-kiến, đến khi trí-tuệ thứ nhì nāmarūpapaccayapariggahañāṇa phát sinh diệt-từng- thời được hoài-nghi.

Với 2 loại trí-tuệ đầu trong 16 loại trí-tuệ thiền-tuệ, hành-giả khả năng diệt-từng-thời được tà-kiến hoài- nghi, nên hành-giả được gọi là cūḷasotāpanna: Tiểu- nhập-lưu. (chưa phải là bậc Thánh Nhập-lưu, bởi vì bậc Thánh Nhập-lưu đã diệt tận được tà-kiến và hoài-nghi).

  • Atthi kāyo: Chỉ là thân mà thôi. Thân thuộc về sắc- pháp pháp-vô-ngã.
  • Anissito ca viharati: Hành-giả đang tiến triễn đúng theo pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ, có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác hoàn toàn trong sạch thanh-tịnh, nên không có tà-kiến tham-ái nương nhờ nơi chủ thể và đối-tượng danh-pháp hoặc sắc-pháp ấy.
  • Na ca kiñci loke upādīyati: Tâm của hành-giả không còn chấp-thủ do tà-kiến tham-ái cho rằng: “Ta, của ta, …” nào trong ngũ-uẩn này nữa.

Đó là tâm của bậc Thánh A-ra-hán.

 

Tóm lại, tứ-niệm-xứ gồm có 21 đối-tượng của pháp- hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ:

  • Thân-niệm-xứ có 14 đối-tượng, thân thuộc về sắc- pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
  • Thọ-niệm-xứ có 1 đối-tượng chia ra làm 9 loại thọ, thọ thuộc về danh-pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
  • Tâm-niệm-xứ có 1 đối-tượng chia ra làm 16 loại tâm, tâm thuộc về danh-pháp là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
  • Pháp-niệm-xứ có 5 đối-tượng, pháp thuộc về sắc- pháp danh-pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

Như vậy, tứ-niệm-xứ gồm có 21 đối-tượng, mà mỗi đối-tượng đều có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập- lưu Thánh-quả; Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả; Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả; A-ra-hán Thánh- đạo, A-ra-hán Thánh-quả, và Niết-bàn.

Hành-giả trở thành Thánh-nhân bậc nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật 5 pháp-chủ (indriya): Tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm- pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của hành-giả.

Đối-tượng thân, thọ, tâm, pháp của pháp-hành tứ- niệm-xứ ý nghĩa như thế nào?

Theo Chú-giải Pāḷi giảng giải rằng:

  • Kāyo’va atthi: Thân chỉ là sắc-thân mà thôi. Sắc- thân thuộc về sắc-pháp pháp-vô-ngã (anattā) nghĩa là na satto: Không phải là chúng-sinh, na puggalo: Không phải là người, na itthī: Không phải là người nữ,

 

na puriso: Không phải là người nam, na attā: Không phải là ngã, na attaniyaṃ: Không phải thuộc về ngã, nā’haṃ: Không phải là ta, na mama: Không phải là của ta, na koci: Không phải là ai cả, na kassaci: Không phải thuộc về của ai cả,…

  • Vedanā’va atthi: Thọ chỉ là thọ mà thôi. Thọ thuộc về danh-pháp pháp-vô-ngã (anattā) nghĩa là na satto: Không phải là chúng-sinh, na puggalo: Không phải là người, na itthī: Không phải là người nữ, na puriso: Không phải là người nam, na attā: Không phải là ngã, na attaniyaṃ: Không phải thuộc về ngã, nā’haṃ: Không phải là ta, na mama: Không phải là của ta, na koci: Không phải là ai cả, na kassaci: Không phải thuộc về của ai cả, …
  • Cittaṃ’va atthi: Tâm chỉ là tâm mà thôi. Tâm thuộc về danh-pháp pháp-vô-ngã (anattā) nghĩa là na satto: Không phải là chúng-sinh, na puggalo: Không phải là người, na itthī: Không phải là người nữ, na puriso: Không phải là người nam, na attā: Không phải là ngã, na attaniyaṃ: Không phải thuộc về ngã, nā’haṃ: Không phải là ta, na mama: Không phải là của ta, na koci: Không phải là ai cả, na kassaci: Không phải thuộc về của ai cả,…
  • Dhammo’va atthi: Pháp chỉ là pháp mà thôi. Pháp thuộc về sắc-pháp, danh-pháp pháp-vô-ngã (anattā) nghĩa là na satto: Không phải là chúng-sinh, na puggalo: Không phải là người, na itthī: Không phải là người nữ, na puriso: Không phải là người nam, na attā: Không phải là ngã, na attaniyaṃ: Không phải thuộc về ngã, nā’haṃ: Không phải là ta, na mama: Không phải là của ta, na koci: Không phải là ai cả, na kassaci: Không phải thuộc về của ai cả,…

 

  • Nếu hành-giả đang thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có chánh-niệm, trí- tuệ tỉnh-giác thấy rõ, biết rõ toàn thân trong thân niệm- xứ sắc-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha- dhamma), thì hành-giả không biết đến chế-định-pháp (paññattidhamma) nghĩa là không biết ta đi, … người, người nam, người nữ, v.v… mà chỉ thấy rõ, biết rõ toàn thân di chuyển, … sắc-pháp hiện hữu mà thôi.
  • Nếu hành-giả đang thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có chánh-niệm, trí- tuệ tỉnh-giác thấy rõ, biết rõ các thọ trong thọ-niệm-xứ danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha- dhamma), thì hành-giả không còn biết đến chế-định-pháp (paññattidhamma) nghĩa là không biết ta khổ,… người khổ, người nam khổ, người nữ khổ, v.v… mà chỉ thấy rõ, biết rõ thọ khổ, … là danh-pháp hiện hữu mà thôi.
  • Nếu hành-giả đang thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ, có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh- giác thấy rõ, biết rõ tâm trong tâm-niệm-xứ danh- pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), thì hành-giả không biết đến chế-định-pháp (paññatti- dhamma) nghĩa là không biết ta biết, người biết, người nam biết, người nữ biết, v.v… mà chỉ thấy rõ, biết rõ tâm biết danh-pháp hiện hữu mà thôi.
  • Nếu hành-giả đang thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ, có chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh- giác thấy rõ, biết rõ pháp trong pháp-niệm-xứ sắc- pháp, danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha- dhamma), thì hành-giả không biết đến chế-định-pháp (paññattidhamma) nghĩa là không biết ta, người, người nam, người nữ, v.v… mà chỉ thấy rõ, biết rõ pháp sắc- pháp, danh-pháp hiện hữu mà thôi.

 

Hành-giả thích hợp với đối-tượng tứ-niệm-xứ

Trong pháp-hành thiền-định, hành-giả được phân loại theo 6 loại bản-tính: Tính-tham, tính-sân, tính-si, tính- suy-diễn, tính-tín, tính-giác.

Trong pháp-hành thiền-tuệ, hành-giả được phân loại theo 2 loại bản-tính, có 4 hạng hành-giả:

  1. Hành-giả có bản-tính tham-ái, trí-tuệ kém.
  2. Hành-giả có bản-tính tham-ái, trí-tuệ nhiều.
  3. Hành-giả có bản-tính tà-kiến, trí-tuệ kém.
  4. Hành-giả có bản-tính tà-kiến, trí-tuệ nhiều.

Nếu hành-giả biết chọn đối-tượng tứ-niệm-xứ hoặc đối-tượng thiền-tuệ phù hợp với bản-tính và trí-tuệ của mình thì việc thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ, trong giai đọan ban đầu rất thuận lợi cho sự phát triển trí-tuệ thiền-tuệ.

Đến giai đọan giữa và giai đọan cuối, đối-tượng thiền tuệ ban đầu có thể thay đổi tuỳ theo phước duyên mà hành-giả đã từng tạo trong những tiền-kiếp và các pháp- hạnh ba-la-mật.

Trong Chú-giải kinh Đại-niệm-xứ giảng giải rằng:

  1. Nếu hành-giả có bản-tính tham-ái, trí-tuệ kém thì nên thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng thân-niệm-xứ thuộc về sắc-pháp thô. Khi chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác dễ thấy rõ, biết rõ toàn thân này là bất-tịnh, nên diệt được tham-ái nương nhờ nơi thân này cho là “tịnh, xinh đẹp”.
  2. Nếu hành-giả có bản-tính tham-ái, trí-tuệ nhiều thì nên thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp- hành thiền-tuệ với đối-tượng trong thọ-niệm-xứ thuộc về danh-pháp. Khi chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác dễ thấy

 

rõ, biết rõ các thọ này là khổ, nên diệt được tham-ái

nương nhờ nơi các thọ này cho là“lạc”.

  1. Nếu hành-giả có bản-tính tà-kiến, trí-tuệ kém thì nên thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng trong tâm-niệm-xứ thuộc về danh-pháp. Khi chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác dễ thấy rõ, biết rõ tâm này là vô-thường, nên diệt được tà-kiến nương nhờ nơi tâm này cho là“thường”.
  2. Nếu hành-giả có bản-tính tà-kiến, trí-tuệ nhiều thì nên thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ với đối-tượng trong pháp-niệm-xứ thuộc về sắc-pháp, danh-pháp vi-tế. Khi chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh- giác dễ thấy rõ, biết rõ các pháp này là vô-ngã, nên diệt được tà-kiến nương nhờ nơi các pháp này cho là“ngã”.

Bốn đối-tượng trong tứ-niệm-xứ: Thân là bất-tịnh, thọ là khổ, tâm là vô-thường, pháp là vô-ngã, đó chỉ là đề cập đến tính chất đặc biệt của mỗi đối-tượng mà thôi, nhưng thực ra, 4 đối-tượng tứ-niệm-xứ: Thân, thọ, tâm, pháp đều có sự sinh, sự diệt, đều có trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái- bất-tịnh, đều có khả năng diệt được 3 pháp-đảo-điên là tưởng điên-đảo, tâm điên-đảo, tà-kiến điên-đảo cho thân, thọ, tâm, pháp tịnh, lạc, thường, ngã.

Vấn: Hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ có nên lựa chọn đối-tượng tứ- niệm-xứ hoặc đối-tượng thiền-tuệ hay không?

Đáp: Hành-giả thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ, nếu lựa chọn được đối-tượng tứ-niệm-xứ hoặc đối-tượng thiền-tuệ phù hợp với bản- tính và trí-tuệ của mình thì pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ chắc chắn sẽ được thuận lợi, được

 

phát triển tốt, trí-tuệ thiền-tuệ sẽ phát sinh, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

Nhưng sự thật, hành-giả không có khả năng biết lựa chọn được đối-tượng tứ-niệm-xứ hoặc đối-tượng thiền- tuệ nào phù hợp với bản-tính và trí-tuệ của mình, thậm chí ngay vị thiền sư cũng không biết nữa, huống gì đệ-tử.

Trích dẫn những tích như sau:

* Tích Suvaṇṇakārattheravatthu(1) đệ-tử của Ngài

Đại-Trưởng-lão Sāriputta được tóm lược như sau:

Người con trai của người thợ vàng còn trẻ xuất gia trở thành tỳ-khưu, là đệ-tử của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, Ngài nghĩ rằng: “Người trai trẻ thường có tham-ái”, nên Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy đệ-tử với đề-mục thiền-định asubha: Bất tịnh, để diệt tham-ái, nhưng đề-mục thiền-định này không phù hợp với bản- tính và trí-tuệ của vị tỳ-khưu trẻ.

Thật vậy, vị tỳ-khưu trẻ đi vào rừng cố gắng tinh-tấn không ngừng suốt 4 tháng mà vẫn không phát sinh nimitta nào cả. Vị tỳ-khưu trở về đảnh lễ Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta, thầy tế độ, trình bạch về pháp- hành của mình như vậy.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta nghĩ rằng: “Vị tỳ-khưu trẻ này thuộc về sự tế độ của Đức-Phật”.

Cho nên, Ngài Đại-Trưởng-lão dẫn người đệ-tử đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con dạy đề-mục thiền-định cho vị tỳ-khưu trẻ này, vị tỳ-khưu này đã thực-hành pháp-hành thiền-định suốt 4 tháng mà vẫn không thể

 
   
 

 

1 Bộ Chú-giải Dhammapadaṭṭhakathā, Tích Suvaṇṇakārattheravatthu.

 

phát sinh nimitta nào, nên con nghĩ rằng: Vị tỳ-khưu này thuộc sự tế độ của Đức-Thế-Tôn, nên con dẫn vị tỳ-khưu này đến hầu Đức-Thế-Tôn.

Đức-Thế-Tôn truyền hỏi rằng:

  • Này Sāriputta! Con dạy đề-mục thiền-định nào cho

đệ-tử của con vậy?

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con dạy đề-mục thiền-định asubha: Bất tịnh cho đệ-tử của con.
  • Này Sāriputta! Con không có trí-tuệ đặc biệt āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ bản-tính cố hữu và mọi phiền-não ngấm ngầm của chúng-sinh, nên con dạy đề-mục thiền-định không phù hợp với đệ-tử.
  • Này Sāriputta! Con nên trở về, người đệ-tử ở lại.

Đức-Thế-Tôn suy xét thấy vị tỳ-khưu trẻ xuất thân từ gia đình người thợ vàng, và tiền-kiếp suốt 500 kiếp đều sinh trong gia đình thợ vàng, y cũng là người thợ làm vàng giỏi khéo tay, nên quen thấy vàng, cho nên đề-mục thiền-định asubha: Bất tịnh là đề-mục thiền-định không phù hợp với tỳ-khưu trẻ này.

Đức-Thế-Tôn hóa ra một đóa hoa sen hồng bằng gang tay thật là xinh đẹp ban cho tỳ-khưu trẻ với lời truyền dạy rằng:

  • Này tỳ-khưu! Con hãy đem đóa hoa sen này cắm trên gò đất đằng sau tăng xá, rồi ngồi thực-hành pháp-hành thiền-định, hướng tâm đến đóa hoa sen ấy bằng cách niệm thầm trong tâm rằng: “Lohitakaṃ,… Lohitakaṃ,… Lohitakaṃ,… Màu đỏ,… Màu đỏ,… Màu đỏ,…

Khi đón nhận đóa hoa sen từ trên tay của Đức-Phật, vị tỳ-khưu trẻ cảm nhận vô cùng hoan hỷ, vâng theo lời dạy của Đức-Phật, vị tỳ-khưu trẻ đi đến sau tăng xá, cắm

 

đóa hoa sen trên gò đất, rồi ngồi thực-hành pháp-hành thiền-định, hướng tâm đến đóa hoa sen ấy bằng cách niệm thầm trong tâm rằng:

“Lohitakaṃ,… Lohitakaṃ,… Lohitakaṃ,… Màu đỏ,… Màu đỏ,… Màu đỏ,…

Vị tỳ-khưu trẻ chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại, nên đối-tượng uggahanimitta phát sinh, rồi tiếp theo đối- tượng paṭibhāganimitta phát sinh, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi tiếp tục chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, cho đến chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cuối cùng tại nơi ấy, chưa thay đổi chỗ ngồi.

Đức-Phật dõi theo biết rõ vị tỳ-khưu trẻ này đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm rồi. Ngài suy xét rằng: “Tỳ-khưu ấy có khả năng tự mình chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn hay không?”

Biết rõ tỳ-khưu ấy không có khả năng, nên Đức-Phật biến đóa hoa sen ấy cho héo tàn, các cánh sen rơi rụng xuống đất.

Vị tỳ-khưu xả thiền ra, ngồi thấy đóa sen héo tàn như vậy, nên nghĩ rằng: “Đóa hoa sen nở thật là xinh đẹp vừa mới đây, nay đóa hoa sen bị héo tàn, các cánh sen rơi rụng cả, đến nhuỵ sen cũng không còn, nay chỉ còn trơ trọi gương sen mà thôi. Sự già của đóa hoa sen như thế nào, rồi sự già ấy chắc chắn cũng sẽ xảy đến trong thân của ta. Các pháp-hữu-vi thật là vô-thường!”

Vị tỳ-khưu bắt đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ toàn thân đó là sắc-pháp sự sinh, sự diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái- chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.

 

Khi ấy, dõi theo biết tâm của vị tỳ-khưu đã phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ rồi, nên Đức-Phật từ Gandhakuṭi phóng hào quang như ngự đến trước mặt thuyết dạy bài kệ rằng:

“Ucchinda sinehamattano, kumudaṃ sāradikaṃva pāṇinā. Santimaggameva brūhaya, Nibbānaṃ Sugatena desitaṃ.”(1)

  • Này tỳ-khưu! Con hãy nên diệt tận tâm tham-ái say mê trong thân của con bằng A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ, như người cắt đứt đóa hoa sen trắng trong mùa sārada tháng 10 bằng lưỡi dao sắc bén.

Con hãy nên tiến hành pháp-hành bát-chánh-đạo chứng ngộ Niết-bàn mà Như-Lai đã thuyết giảng.

Sau khi lắng nghe bài kệ xong, vị tỳ-khưu liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền- não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác 2 loại trí-tuệ đặc biệt:

  1. Indriyaparopariyattañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết

5 pháp-chủ: Tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp- chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ già dặn hoặc non yếu của mỗi chúng-sinh.

  1. Āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ bản- tính cố hữu, thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp, và mọi phiền-não ngấm ngầm của mỗi chúng-sinh.

Ngoài Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác ra, các bậc Thánh Thanh-văn đệ-tử không có một vị nào có 2 loại trí-tuệ đặc biệt này, dù Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta bậc Thánh Tối-thượng-Thanh-văn-giác có trí-tuệ siêu-việt cũng không có 2 loại trí-tuệ đặc biệt này.

1 Dhammapadagāthā thứ 285.

 

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có 2 loại trí-tuệ đặc biệt này, nên mỗi khi Đức-Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh nào, chắc chắn chúng-sinh ấy được sự lợi ích, sự tiến hóa sự an-lạc lâu dài.

* Tích Aniccalakkhaṇavatthu(1)

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthī. Khi ấy, 500 vị tỳ-khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính xin đề-mục-thiền.

Đức-Phật suy xét rằng: “Đề mục thiền nào là pháp- hành phù hợp với nhóm tỳ-khưu này?”

Đức-Phật biết rõ nhóm tỳ-khưu này trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa thường hay thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của ngũ-uẩn, đặc biệt quan tâm đến trạng-thái vô-thường, nên Đức- Phật truyền dạy rằng:

- Này chư tỳ-khưu! Tất cả các pháp-hữu-vi trong tam- giới: Dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới đều có sự sinh, sự diệt là vô-thường, có nghĩa là có rồi không có.

Đức-Phật thuyết dạy bài kệ rằng:

“Sabbe saṅkhārā aniccā’ti, yadā paññāya passati. Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā.”

Tất cả các pháp-hữu-vi đều là vô-thường.

Khi nào trí-tuệ thiền-tuệ thấy trạng-thái vô-thường. Khi thấy rõ như vậy, trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán khổ trong ngũ-uẩn này.

Hành-giả chứng ngộ khổ Thánh-đế đã biết, nhân sinh khổ Thánh-đế đã diệt, v.v…

Đó là Thánh-đạo thanh-tịnh trong sạch này.

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Aniccalakkhaṇavatthu.

 

Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết giảng xong bài kệ, tất cả nhóm 500 tỳ-khưu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham- ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy.

* Tích Dukkhalakkhaṇavatthu(1)

Cũng như trường hợp trên, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh thành Sāvatthī. Khi ấy, 500 vị tỳ-khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính xin đề-mục-thiền.

Đức-Thế-Tôn suy xét rằng: “Đề-mục-thiền nào là pháp-hành phù hợp với nhóm tỳ-khưu này?”

Đức-Phật biết rõ nhóm tỳ-khưu này trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, thường hay thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của ngũ-uẩn, đặc biệt quan tâm đến trạng-thái khổ, bởi vì ngũ-uẩn sinh rồi diệt vô-thường, trạng-thái khổ luôn luôn hành hạ, nên Đức-Phật truyền dạy rằng:

- Này chư tỳ-khưu! Tất cả các pháp-hữu-vi trong tam- giới: Dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới đều có sự sinh, sự diệt là vô-thường, nên sự thật chỉ có khổ mà thôi, có nghĩa là luôn luôn hành hạ.

Đức-Phật thuyết dạy bài kệ rằng:

“Sabbe saṅkhārā dukkhā’ti, yadā paññāya passati. Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā.”

Tất cả các pháp-hữu-vi đều là khổ,

Khi nào trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái khổ,

Khi thấy rõ như vậy, trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán khổ trong ngũ-uẩn này.

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Dukkhalakkhaṇavatthu.

 

Hành-giả chứng ngộ khổ Thánh-đế đã biết, nhân sinh khổ Thánh-đế đã diệt, v.v…

Đó là Thánh-đạo thanh-tịnh trong sạch này.

Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết giảng xong bài kệ, tất cả nhóm 500 tỳ-khưu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham- ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy.

* Tích Anattalakkhaṇavatthu(1)

Cũng như trường hợp trên, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh thành Sāvatthī. Khi ấy, 500 vị tỳ-khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính xin đề-mục-thiền.

Đức-Phật suy xét rằng: “Đề-mục-thiền nào là pháp- hành phù hợp với nhóm tỳ-khưu này?

Đức-Phật biết rõ nhóm tỳ-khưu này trong thời-kỳ Đức- Phật Kassapa thường hay thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của ngũ-uẩn, đặc biệt quan tâm đến trạng-thái vô-ngã, bởi vì ngũ-uẩn sinh rồi diệt là vô-thường, khổ luôn luôn hành hạ, vô chủ, không chiều theo ý muốn của ai, nên Đức-Phật truyền dạy rằng:

- Này chư tỳ-khưu! Tất cả ngũ-uẩn này là pháp-vô- ngã thật sự, có nghĩa là không chiều theo ý muốn của ai cả, nên không thể muốn rằng: Xin ngũ-uẩn của tôi đừng già, đừng bệnh, đừng chết.

Đức-Phật thuyết dạy bài kệ rằng:

“Sabbe dhammā anattā’ti, yadā paññāya passati. Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā.” Tất cả ngũ-uẩn này đều là vô-ngã.

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Tích Anattalakkhaṇavatthu.

 

Khi nào trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái vô-ngã, Khi thấy rõ như vậy, trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán khổ trong ngũ-uẩn này.

Hành-giả chứng ngộ khổ Thánh-đế đã biết, nhân sinh khổ Thánh-đế đã diệt, v.v…

Đó là Thánh-đạo thanh-tịnh trong sạch này.

Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết giảng xong bài kệ, tất cả nhóm 500 tỳ-khưu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế,chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra- hán cả thảy.

Những trường hợp như vậy hầu như rất nhiều trong Tam- Tạng Pāḷi và các Chú-giải Pāḷi, bởi vì chỉ có Đức-Phật mới biết được bản-tính, thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp, 10 pháp-hạnh ba-la-mật, 5 pháp-chủ già dặn hoặc non yếu, mọi phiền-não ngấm ngầm của mỗi chúng-sinh mà thôi.

Ngoài Đức-Phật-Chánh-Đẳng-giác ra, không có một bậc Thánh Thanh-văn nào có khả năng biết được như vậy.

Không ai biết được nghiệp tiềm tàng của mình

Kiếp hiện-tại của mỗi chúng-sinh nói chung, của mỗi người nói riêng là kết quả một phần nhỏ quả của nghiệp được biểu hiện. Còn phần lớn tất cả mọi thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp tiềm tàng trong tâm của mình được tích lũy từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại, tự mình không có khả năng biết được và những người khác cũng không thể biết rõ được. Tuy nhiên, duy nhất chỉ có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mới biết được khả năng tiềm tàng của mỗi chúng-sinh mà thôi.

Thật vậy, Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthakatthera trong

 

tích Cūḷapanthakattheravatthu (1)được tóm lược như sau:

Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthakatthera có sư huynh là Ngài Trưởng-lão Mahāpanthakatthera xuất gia trước, đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Về sau, Ngài Trưởng-lão Mahāpanthakatthera dẫn dắt người em là Cūḷapanthaka xuất gia trở thành tỳ-khưu. Sau khi trở thành tỳ-khưu, tỳ-khưu Cūḷapanthaka trở thành tỳ-khưu kém trí nhớ.

Thật vậy, Ngài Trưởng-lão Mahāpanthakatthera dạy tỳ-khưu Cūḷapanthaka một bài kệ gồm có 4 câu mà suốt 4 tháng Ngài vẫn chưa học thuộc lòng được.

Một hôm, Ngài Trưởng-lão Mahāpanthakatthera bảo với sư đệ Cūḷapanthaka rằng:

- Này Cūḷapanthaka! Dường như sư đệ không có đầy đủ phước duyên trong Phật-giáo, cho nên một bài kệ mà sư đệ học suốt 4 tháng vẫn chưa thuộc lòng được. Còn phận sự thực-hành phạm-hạnh cao thượng để giải thoát khổ làm sao được!

Vậy, sư đệ nên rời khỏi ngôi chùa Ambavana này, trở về nhà trở thành cận-sự-nam tạo bồi bổ thêm các pháp- hạnh ba-la-mật.

Nghe sư huynh của tỳ-khưu Cūḷapanthaka truyền bảo như vậy, thật tâm của tỳ-khưu Cūḷapanthaka hoàn toàn không muốn trở lại đời sống của người tại gia, bởi vì tỳ- khưu Cūḷapanthaka có đức-tin trong sạch tha thiết trong Phật-giáo, nhưng đành phải vâng lời sư huynh.

Hôm ấy, cận-sự-nam Jīvaka Komārabhacca là quan ngự-y của Đức-vua Bimbisāra trong kinh-thành Rājagaha đến ngôi chùa Ambavana đảnh lễ Đức-Phật, rồi lắng nghe Đức-Phật thuyết-pháp.

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Cūḷapanthakattheravatthu.

 

Sau khi nghe pháp xong, cận-sự-nam Jīvaka đến gặp

Ngài Trưởng-lão Mahāpanthakatthera bạch rằng:

  • Kính bạch Ngài Trưởng-lão, trong ngôi chùa này có bao nhiêu vị tỳ-khưu?
  • Này cận-sự-nam Jīvaka! Trong chùa 500 vị tỳ-khưu.
  • Kính bạch Ngài Trưởng-lão, sáng ngày mai, con xin kính thỉnh Đức-Phật ngự cùng với chư Đại-đức-Tăng gồm có 500 vị đến tư thất của con, để cho con cúng dường vật thực.
  • Này cận-sự-nam Jīvaka! Sáng ngày mai, Đức-Phật cùng với chư Đại-đức-Tăng gồm có 499 vị đến tư thất của con, trừ tỳ-khưu Cūḷapanthaka ra.

Nghe sư huynh của tỳ-khưu Cūḷapanthaka nói với cận-sự-nam Jīvaka như vậy, thì tỳ-khưu Cūḷapanthaka không còn hy vọng ở lưu lại tại ngôi chùa Ambavana này được nữa. Tỳ-khưu Cūḷapanthaka cảm thấy vô cùng khổ tâm cùng cực.

Canh chót đêm hôm ấy, Đức-Phật xả đại-bi thiền, xem xét chúng-sinh nào có phước duyên nên tế độ, thì thấy rõ tỳ-khưu Cūḷapanthaka hiện ra, Đức-Phật thấy rõ, biết rõ tỳ-khưu Cūḷapanthaka sẽ trở thành bậc Thánh A- ra-hán.

Đức-Phật tế độ tỳ-khưu Cūḷapanthaka

Sáng sớm hôm ấy, Đức-Phật ngự ra trước cổng chùa

đi kinh hành chờ gặp tỳ-khưu Cūḷapanthaka.

Cũng sáng sớm hôm ấy, tỳ-khưu Cūḷapanthaka rời khỏi ngôi chùa Ambavana, đi trở về nhà. Nhìn thấy Đức- Phật tỳ-khưu Cūḷapanthaka liền đến đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Đức-Phật.

Đức-Phật truyền hỏi rằng:

 

  • Này Cūḷapanthaka! Con đi đâu từ sáng sớm vậy?

Tỳ-khưu Cūḷapanthaka kính bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sư huynh của con bảo rằng: “Con nên rời khỏi ngôi chùa Ambavana, trở về nhà,

trở thành cận-sự-nam, bởi vì con là người kém trí nhớ.” Bạch Ngài.

Đức-Phật truyền dạy rằng:

  • Này Cūḷapanthaka! Con là tỳ-khưu trong giáo pháp của Như-Lai, sư huynh bảo con rời khỏi ngôi chùa Ambavana, sao con không đến với Như-Lai?
  • Này Cūḷapanthaka! Con hãy đến với Như-Lai.

Đức-Phật đưa bàn tay mềm mại có dấu bánh xe sờ trên đầu của tỳ-khưu Cūḷapanthaka, rồi dẫn đến cốc Gandhakuṭi. Đức-Phật truyền bảo tỳ-khưu Cūḷapanthaka ngồi trước cốc Gandhakuṭi, ban cho một miếng vải trắng mới sạch sẽ phát sinh do thần thông, rồi truyền dạy rằng:

  • Này Cūḷapanthaka! Con nên ngồi quay mặt về hướng Đông, hai tay vò miếng vải này, đồng thời niệm trong tâm rằng: “Rajoharaṇaṃ,… Rajoharaṇaṃ,… Rajoharaṇaṃ,

… Vải lau bụi dơ,… Vải lau bụi dơ,… Vải lau bụi dơ,…”

Khi ấy đến giờ, cận-sự-nam Jīvaka bảo gia nhân đến kính thỉnh Đức-Phật ngự cùng với chư Đại-đức-Tăng gồm có 499 vị đến tư thất của ông (không có tỳ-khưu Cūḷapanthaka).

Tỳ-khưu Cūḷapanthaka trở thành bậc Thánh A-Ra-Hán

Vâng theo lời dạy của Đức-Phật, tỳ-khưu Cūḷapanthaka ngồi nhìn về phía mặt trời, vò miếng vải ấy, đồng thời niệm trong tâm rằng: “Rajoharaṇaṃ,… Rajoharaṇaṃ,… Rajoharaṇaṃ,…” “Vải lau bụi dơ,… Vải lau bụi dơ,… Vải lau bụi dơ,…”

 

Khi vò miếng vải mới sạch sẽ ấy, miếng vải ấy trở nên dơ bẩn, tỳ-khưu Cūḷapanthaka thấy miếng vải ấy dơ bẩn như vậy, nên nghĩ rằng: “Miếng vải mới sạch sẽ thật sự, nhưng khi tiếp xúc với thân thể này của ta, miếng vải mới sạch sẽ không còn sạch như trước nữa, nay miếng vải ấy trở nên dơ bẩn như vậy.

Tất cả pháp-hữu-vi đều là vô-thường nhỉ!

Tỳ-khưu Cūḷapanthaka thực-hành pháp-hành thiền- tuệ, phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, nên hiện rõ 3 trạng- thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.

Đức-Phật dõi theo biết rõ rằng: “Tâm của Cūḷa- panthaka đã có trí-tuệ thiền-tuệ rồi”. Đức-Phật phóng hào quang hiện đến ngồi trước mặt tỳ-khưu Cūḷa- panthaka truyền dạy rằng:

  • Này Cūḷapanthaka! Con không chỉ biết đến miếng vải ấy dơ bẩn vì bụi dơ, mà con còn phải biết những bụi dơ đó là rāga: Tham-dục, dosa: Sân-hận, moha: Si-mê ngấm ngầm ở trong tâm của con.

Con hãy nên diệt tận tham-dục, sân-hận, si-mê không còn nữa.

Đức-Phật thuyết dạy 3 bài kệ rằng:

“Rāgo rajo na ca pana reṇu vuccati…” “Doso rajo na ca pana reṇu vuccati...” “Moho rajo na ca pana reṇu vuccati…”

Ý Nghĩa

  • Bụi dơ đó là tham-dục, bụi dơ không có nghĩa là bụi dơ, mà bụi dơ là tên gọi của tham-dục.

Chư tỳ-khưu đã diệt tận được bụi dơ tham-dục ấy rồi, sống trong giáo-pháp của Đức-Phật không còn bụi dơ ấy.

 

  • Bụi dơ đó là sân-hận, bụi dơ không có nghĩa là bụi dơ, mà bụi dơ là tên gọi của sân-hận.

Chư tỳ-khưu đã diệt tận được bụi dơ sân-hận ấy rồi, sống trong giáo-pháp của Đức-Phật không còn bụi dơ ấy.

  • Bụi dơ đó là si-mê, bụi dơ không có nghĩa là bụi dơ, mà bụi dơ là tên gọi của si-mê.

Chư tỳ-khưu đã diệt tận được bụi dơ si-mê ấy rồi, sống trong giáo-pháp của Đức-Phật không còn bụi dơ ấy.

Sau khi lắng nghe 3 bài kệ xong, Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka thực-hành pháp-hành thiền-tuệ liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được tham-dục, sân- hận, si-mê không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra- hán cùng với tứ-tuệ-phân-tích (paṭisambhidā), các phép- thần-thông (abhiññā), đặc biệt thông suốt Tam-Tạng Pāḷi (tīṇi piṭakāni).

Tại tư thất, cận-sự-nam Jīvaka Komārabhacca đem dâng nước đến kính dâng lên Đức-Phật.

Đức-Phật truyền bảo cận-sự-nam Jīvaka rằng:

  • Này Jīvaka! Trong ngôi chùa Ambavana còn có tỳ- khưu phải không ?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài Trưởng-lão Mahā- panthaka cho con biết không còn tỳ-khưu nào trong ngôi chùa Ambavana nữa.
  • Này Jīvaka! Trong ngôi chùa Ambavana vẫn còn có tỳ-khưu.

Nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, cận-sự-nam Jīvaka bảo gia nhân rằng:

  • Này ngươi! Ngươi hãy mau lẹ đến ngôi chùa Amba- vana, để biết còn tỳ-khưu nào, hãy mau trở về báo ngay!

 

Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka hóa ra ngàn tỳ-khưu

Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka nghĩ rằng: Ta sẽ hóa ra ngàn tỳ-khưu mà mỗi nhóm đều làm mỗi công việc khác nhau như học kinh, may y, v.v… quét dọn sạch sẽ trong ngôi chùa Ambavana này.

Gia nhân của ông cận-sự-nam Jīvaka đến chùa, nhìn thấy nhiều vị tỳ-khưu trong ngôi chùa, nên y liền trở về trình cho ông chủ Jīvaka biết trong ngôi chùa Ambavana có nhiều vị tỳ-khưu.

Cận-sự-nam Jīvaka kính bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, trong ngôi chùa Amba- vana có nhiều vị tỳ-khưu.

Đức-Phật truyền bảo rằng:

  • Này Jīvaka! Con hãy nên bảo gia nhân rằng: “Đức- Thế-Tôn truyền bảo tỳ-khưu tên Cūḷapanthaka đến hầu”.

Khi gia nhân đi đến ngôi chùa Ambavana, nói lời truyền bảo của Đức-Phật, thì cả ngàn vị tỳ-khưu đều xưng tên rằng: “Tôi là tỳ-khưu Cūḷapanthaka, tôi là tỳ- khưu Cūḷapanthaka”.

Người nhà trở về kính bạch lên Đức-Phật rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con nghe cả ngàn vị tỳ- khưu đều xưng tên mình là tỳ-khưu Cūḷapanthaka.

Đức-Phật truyền dạy rằng:

  • Này con! Nếu như vậy thì con nghe vị tỳ-khưu nào xưng tên trước rằng: “Tôi là tỳ-khưu Cūḷapanthaka”.

Con hãy đến thỉnh vị tỳ-khưu ấy, các vị tỳ-khưu còn lại sẽ đều biến mất.

Vâng lời dạy của Đức-Phật, gia nhân của cận sự nam Jīvaka đến thỉnh vị tỳ-khưu xưng tên trước, các vị tỳ- khưu còn lại đều biến mất ngay tức khắc.

 

Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka thuyết pháp

Sau khi Đức-Phật cùng chư Đại-đức Tăng thọ thực xong, Đức-Phật truyền bảo cận-sự-nam Jīvaka rằng:

  • Này Jīvaka! Con hãy nên đón nhận bát của tỳ-khưu Cūḷapanthaka, rồi thỉnh tỳ-khưu Cūḷapanthaka thuyết pháp và nói lời chúc phúc hoan hỷ phước-thiện bố-thí cúng dường của con hôm nay.

Vâng lời truyền dạy của Đức-Phật, cận-sự-nam Jīvaka đến nhận bát của tỳ-khưu Cūḷapanthaka, rồi thỉnh Ngài Trưởng-lão thuyết pháp.

Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka thuyết pháp với giọng hay, thông thuộc, thấu suốt Tam-Tạng Pāḷi, nói lời chúc phúc hoan hỷ làm cho số đông phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ trong lời dạy của Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka.

Đức-Phật ngự trở về ngôi chùa Ambavana cùng với nhóm chư Đại-đức-Tăng gồm có đủ 500 vị tỳ-khưu.

Nghiệp quá-khứ của Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka

Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka 1 trong 80 vị Thánh A-ra-hán Đại-Thanh-văn, phép thần thông biến hóa theo tâm xuất sắc nhất trong các hàng Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka vốn là vị đã từng tạo 10 pháp-hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất, kể từ thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara cho đến kiếp chót trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama.

Vấn: Do nguyên nhân nào mà kiếp chót của Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka khi xuất gia trở thành tỳ- khưu, thì Ngài Trưởng-lão trở nên vị tỳ-khưu kém trí nhớ, học một bài kệ gồm có 4 câu, dù Ngài Trưởng-lão

 

cố gắng tinh-tấn ngày đêm suốt 4 tháng vẫn không thuộc lòng được. Cho nên sư huynh của Ngài là Ngài Trưởng- lão Mahāpanthaka là bậc Thánh A-ra-hán nghĩ rằng:

Tỳ-khưu Cūḷapanthaka không có đủ phước duyên trong Phật-giáo, nên khuyên Ngài trở về nhà trở thành cận-sự- nam tạo bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật vậy?

Đáp: Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka là vị tỳ-khưu có nhiều trí-tuệ, thông suốt Tam-Tạng Pāḷi.

Khi tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão nghe vị tỳ-khưu học Pāḷi, đọc đi đọc lại nhiều lần mà không thuộc, nên Ngài cười chế nhạo, làm cho vị tỳ-khưu ấy cảm thấy hổ thẹn, rồi bỏ học thuộc lòng Pāḷi.

Do ác-nghiệp quá-khứ ấy trong tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão cho quả, nên kiếp hiện-tại khi xuất gia trở thành tỳ-khưu thì trở nên vị tỳ-khưu kém trí nhớ, học một bài kệ gồm có 4 câu, dù tỳ-khưu cố gắng tinh-tấn ngày đêm suốt 4 tháng vẫn không thuộc lòng được.

Vấn Do nguyên nhân nào mà Đức-Phật ban cho tỳ- khưu Cūḷapanthaka miếng vải mới sạch sẽ, rồi truyền dạy tỳ-khưu dùng 2 tay vò miếng vải ấy, đồng thời niệm tưởng trong tâm rằng: “Rajoharaṇaṃ, …” như vậy?

Đáp: Trong thời quá-khứ, tiền-kiếp của Ngài Trưởng- lão Cūḷapanthaka là Đức-vua. Một hôm, Đức-vua ngự trên con voi báu đi quan sát quanh kinh-thành lúc trời nắng nóng, mồ hôi chảy ra trên trán.

Đức-vua dùng khăn vải trắng mới sạch sẽ lau mồ hôi trên trán, làm cho chiếc khăn vải trắng ấy đã bị dơ bẩn. Đức-vua phát sinh động tâm về vô-thường, bất-tịnh rằng: “Chiếc khăn vải trắng mới sạch sẽ khi tiếp xúc, lau sắc-thân này thì không còn sạch sẽ như xưa nữa. Chiếc khăn bị dơ bẩn, bởi vì thân thể của ta dơ bẩn”.

 

Tất cả các pháp-hữu-vi đều là vô-thường cả!

Đức-Phật thấy rõ, biết rõ nguyên nhân quá-khứ ấy, nên kiếp hiện-tại Đức-Phật ban cho tỳ-khưu Cūḷapanthaka miếng vải trắng sạch sẽ, rồi truyền dạy Ngài Trưởng-lão dùng 2 tay vò miếng vải ấy, đồng thời niệm tưởng trong tâm rằng: “Rajoharaṇaṃ, …” như vậy. Khi thấy miếng vải bị dơ mà Ngài thấy rõ thân ô trọc, đó là đối-tượng thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác 2 loại trí-tuệ đặc biệt:

  1. Indriyaparopariyattañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết

5 pháp-chủ: Tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp- chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ già dặn hoặc non yếu của mỗi chúng-sinh.

  1. Āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ bản- tính cố hữu, thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp, và mọi phiền-não ngấm ngầm của mỗi chúng-sinh.

Vì vậy, Đức-Phật thấy rõ, biết rõ quá-khứ, hiện-tại và vị-lai của mỗi chúng-sinh, cho nên, khi Đức-Phật tế độ chúng-sinh nào, chắc chắn chúng-sinh ấy được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

Pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ

Pháp-hành tứ-niệm-xứ 4 đối-tượng thân, thọ, tâm, pháp đó là sắc-pháp, danh-pháp, đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ, là pháp-hành chỉ có trong Phật- giáo mà thôi, không có ngoài Phật-giáo, cho nên, pháp- hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ là pháp-hành duy nhất dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

 

Vấn: Tại sao đối-tượng thiền-tuệ thuộc về chân- nghĩa-pháp (paramatthadhamma) mà không phải là chế- định-pháp (paññattidhamma)?

Đáp: Chế-định-pháp (paññattidhamma) pháp không thật-tánh, không có sự sinh, sự diệt, không có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, không dẫn đến chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, không giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài. Cho nên, đối-tượng thiền-tuệ không thuộc về chế-định-pháp (paññatti- dhamma) được.

* Chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) đó là sắc- pháp, danh-pháp tam-giới có thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới, có sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, của danh-pháp tam-giới, có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra- hán, sẽ giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới. Cho nên, đối-tượng thiền-tuệ thuộc về chân-nghĩa-pháp không phải chế-định-pháp (paññattidhamma) được.

Tứ-niệm-xứ có 4 pháp:

  • Thân niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm,

gồm có 14 đối-tượng thuộc về sắc-pháp.

  • Thọ niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm, có 1 đối-tượng chia ra 9 loại thọ thuộc về danh-pháp.
  • Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm,

có 1 đối-tượng chia ra 16 loại tâm thuộc về danh-pháp.

 

  • Pháp niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm,

gồm có 5 đối-tượng thuộc về sắc-pháp, danh-pháp.

Như vậy, thân, thọ, tâm, pháp gồm có 21 đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ, hoặc các sắc-pháp, các danh- pháp là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ đều thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), không phải là chế-định-pháp (paññattidhamma).

Thật ra, trong 21 đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm- xứ, hoặc trong các đối-tượng sắc-pháp, các đối-tượng danh-pháp của pháp-hành thiền-tuệ, hành-giả khó biết được đối-tượng nào là đối-tượng phù hợp với bản-tính và trí-tuệ của mình, để thực-hành pháp-hành thiền-tuệ ban đầu cho được thuận lợi, để phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ.

Cho nên, hành-giả cần phải nên học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu rõ 21 đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ, hoặc tất cả mọi đối-tượng sắc-pháp, mọi đối-tượng danh-pháp của pháp-hành thiền-tuệ, rồi thực-hành thử nghiệm mỗi đối-tượng để biết kết quả ban đầu.

Nếu hành-giả xét thấy đối-tượng ấy phù hợp với bản- tính và trí-tuệ của mình thì tiếp tục thực-hành đối-tượng ấy, để dẫn đến kết quả cuối cùng theo ý nguyện mong giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Để thực-hành đúng theo pháp-hành tứ-niệm-xứ hoặc pháp-hành thiền-tuệ, hành-giả cần phải nên học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu rõ bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta và Chú-giải của bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasuttavaṇṇanā trong Trường-bộ-kinh (Dīghanikāya), phần Mahāvagga- pāḷi và Trung-bộ-kinh (Majjhimanikāya), phần Mūla- paṇṇāsapāḷi và bộ Chú-giải (Aṭṭhakathā) của bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta này, để làm nền tảng căn bản của pháp-hành tứ-niệm-xứ.

 

Và hành-giả còn cần phải học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu bộ Visuddhimagga: Thanh-tịnh-đạo bộ Visuddhi- maggamahāṭīkā: Thanh-tịnh-đạo Phụ-chú-giải làm nền tảng căn bản của pháp-hành thiền-tuệ, để hành-giả hiểu biết cách thực-hành pháp-hành giới, pháp-hành thiền- định, pháp-hành thiền-tuệ.

Nhận xét về 21 đối-tượng trong tứ-niệm-xứ

Trong 21 đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ, đối- tượng nào cũng có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy.

Trong 21 đối-tượng ấy đều là những đối-tượng vô cùng vi-tế và vô cùng sâu sắc, bởi vì thật-tánh của mỗi đối-tượng đều thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha- dhamma), không phải chế-định-pháp (paññattidhamma).

Danh từ ngôn-ngữ gọi mỗi đối-tượng ấy tuy là chế- định-pháp (paññattidhamma) nhưng thuộc về vijjamāna- paññatti: Danh từ ngôn-ngữ chế-định có thật-tánh-pháp hiện hữu làm nền tảng, thật-tánh thật sự đó là mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp hoàn toàn không phải danh từ ngôn-ngữ chế định nào cả.

Cho nên, thân, thọ, tâm, pháp là đối-tượng của pháp- hành tứ-niệm-xứ, mà thân thuộc về sắc-pháp, thọ tâm thuộc về danh-pháp, còn pháp thuộc về sắc-pháp, danh-pháp là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.

Như vậy, đối-tượng của pháp-hành tứ-niệm-xứ đối- tượng của pháp-hành thiền-tuệ chỉ có khác nhau về danh từ ngôn-ngữ mà thôi, còn thật-tánh của đối-tượng thuộc về chân-nghĩa-pháp là hoàn toàn giống nhau.

 

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ chỉ có đối- tượng là thật-tánh của sắc-pháp, của danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) mà thôi, bởi vì chỉ có đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp thuộc về chân- nghĩa-pháp mới có thật-tánh sự sinh, sự diệt, có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Còn chế-định-pháp thuộc về danh từ ngôn ngữ thì hoàn toàn không có thật-tánh, không có sự sinh, sự diệt, không có 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, nên không thể làm đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ, cũng không thể dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thể chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, không thể giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications