Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
NTPG.Q01.B05 Đức Tăng
Thế nào gọi là chư Thánh-Tăng? Chư tỳ-khưu-Tăng là bậc thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật, quý Ngài đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành 4 bậc Thánh-nhân. Cho nên, chư tỳ-khưu Thánh-Tăng ấy gọi là chư Thánh-Tăng (Ariyasaṃgha). Chư Thánh-Tăng có 4 đôi, thành 8 bậc tính theo siêu-tam-giới-tâm.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:6017

Các tên gọi khác

Thế nào gọi là chư Thánh-Tăng? Chư tỳ-khưu-Tăng là bậc thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật, quý Ngài đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành 4 bậc Thánh-nhân. Cho nên, chư tỳ-khưu Thánh-Tăng ấy gọi là chư Thánh-Tăng (Ariyasaṃgha). Chư Thánh-Tăng có 4 đôi, thành 8 bậc tính theo siêu-tam-giới-tâm.

General Information

Danh sách : Liên quan
:

ĐỨC-TĂNG (SAṂGHA)

Danh từ “Tăng” là dịch âm từ tiếng Pāḷi “Saṃgha”.

Saṃgha: Chư-Tăng nghĩa là đoàn thể.

Trong câu: Bhagavato sāvakasaṃgho: Chư-Tăng là bậc thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn.

Hoặc danh từ: Bhikkhusaṃgha: Chư tỳ-khưu-Tăng, Bhikkhunisaṃgha: Chư tỳ-khưu-ni-Tăng.

Saṃgha: Chư-Tăng

Chư-Tăng có 2 hạng:

  • Chư Thánh-Tăng: Ariyasaṃgha.
  • Chư phàm-Tăng: Puthujjanasaṃgha.

Thế nào gọi là chư Thánh-Tăng?

Chư tỳ-khưu-Tăng là bậc thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật, quý Ngài đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, trở thành 4 bậc Thánh-nhân.

Cho nên, chư tỳ-khưu Thánh-Tăng ấy gọi là chư Thánh-Tăng (Ariyasaṃgha). Chư Thánh-Tăng có 4 đôi, thành 8 bậc tính theo siêu-tam-giới-tâm.

Bậc Thánh-Tăng có 4 đôi

4 Thánh-đạo ® 4 Thánh-quả tương xứng:

  • Nhập-lưu Thánh-đạo ® Nhập-lưu Thánh-quả.
  • Nhất-lai Thánh-đạo ® Nhất-lai Thánh-quả.
  • Bất-lai Thánh-đạo ® Bất-lai Thánh-quả.
  • A-ra-hán Thánh-đạo ® A-ra-hán Thánh-quả.

 

8 Bậc Thánh-Tăng

4 Thánh-đạo

  • Bậc Nhập-lưu Thánh-đạo (Sotāpattimagga).
  • Bậc Nhất-lai Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga).
  • Bậc Bất-lai Thánh-đạo (Anāgāmimagga).
  • Bậc A-ra-hán Thánh-đạo (Arahattamagga).

4 Thánh-quả

  • Bậc Nhập-lưu Thánh-quả (Sotāpattiphala).
  • Bậc Nhất-lai Thánh-quả (Sakadāgāmiphala).
  • Bậc Bất-lai Thánh-quả (Anāgāmiphala).
  • Bậc A-ra-hán Thánh-quả (Arahattaphala).

4 Bậc Thánh-nhân (Ariyapuggala)

Chư Thánh-Tăng tính theo Thánh-nhân có 4 bậc:

  • Bậc Thánh Nhập-lưu (Sotāpanna).
  • Bậc Thánh Nhất-lai (Sakadāgāmī).
  • Bậc Thánh Bất-lai (Anāgāmī).
  • Bậc Thánh A-ra-hán (Arahanta).

Được trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật, hành-giả cần phải có đầy đủ hai điều kiện:

  • Những tiền-kiếp trong quá khứ, hành-giả đã từng tạo 10 pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn.
  • Kiếp hiện-tại, hành-giả có duyên lành đến hầu Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác, hoặc gặp được bậc Thánh thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật, có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi thực-hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được phiền-não, tham-ái, ... mới trở thành bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, theo tuần tự từ bậc Thánh

 

Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, đến bậc Thánh A-ra-hán cao thượng nhất như sau:

  • Hành-giả thiện-trí phàm-nhân thuộc về hạng người tam-nhân thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā), trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh thanh-văn đệ-tử thứ nhất của Đức-Phật.
  • Hành-giả là bậc Thánh Nhập-lưu tiếp tục thực- hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại thô (dosa), trở thành bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Thanh-văn đệ-tử thứ nhì của Đức-Phật.
  • Hành-giả là bậc Thánh Nhất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh- quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại vi-tế (dosa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Bất-lai bậc Thánh thanh-văn đệ-tử thứ ba của Đức- Phật.
  • Hành-giả là bậc Thánh Bất-lai tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), buồn-chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội-lỗi (ahirika), không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A- ra-hán cao thượng, là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử thứ tư cao thương nhất của Đức-Phật.

 

Quả báu của bậc Thánh-nhân

Phàm tất cả mọi chúng-sinh còn là phàm-nhân có đầy đủ 108 loại tham-ái, 1500 loại phiền-não, nên còn tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài từ vô-thủy trải qua vô số kiếp không có kiếp chót cuối cùng là vô-chung.

Song chư bậc Thánh-nhân đã diệt tận được tham-ái, phiền-não rồi thì tử sinh luân-hồi trong tam-giới được hạn chế lại tùy theo mỗi bậc Thánh-nhân như sau:

  1. Quả báu của bậc Thánh Nhập-lưu

Bậc Thánh Nhập-lưu là bậc Thánh đã diệt tận được tà-kiến trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến hoài-nghi trong 1 si-tâm hợp với hoài-nghi.

Kiếp hiện-tại cho đến kiếp vị-lai, 5 bất-thiện-tâm (ác- tâm) này vĩnh viễn không còn làm khổ bậc Thánh Nhập- lưu nữa.

Bậc Thánh Nhập-lưu sau khi chết, chắc chắn không còn tái-sinh trong 4 cõi ác-giới: địa-ngục, a-su-ra, ngạ- quỷ, súc-sinh, chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện- giới cõi người, 6 cõi trời dục-giới mà thôi.

  • Bậc Thánh Nhập-lưu có 3 hạng
  1. Sattakkhattuparamasotāpanna: Bậc Thánh Nhập- lưu 5 pháp-chủ(1) năng lực yếu, nên còn phải tái-sinh kiếp sau làm người hoặc làm chư-thiên cõi trời dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa.

Đến kiếp thứ 7 thì chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

 
   
 

 

1 5 pháp-chủ (Indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định- pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ.

 

  1. Kolaṃkolasotāpanna: Bậc Thánh Nhập-lưu 5 pháp-chủ năng lực trung bình, nên còn phải tái-sinh kiếp sau làm người hoặc làm chư-thiên từ 2-3-5 kiếp nữa, mới có thể trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  2. Ekabījīsotāpanna: Bậc Thánh Nhập-lưu 5 pháp- chủ năng lực mạnh, nên chỉ còn tái-sinh kiếp sau làm người hoặc làm chư-thiên 1 kiếp nữa.

Ngay trong kiếp ấy sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

  • Bậc Thánh Nhập-lưu đặc biệt

Trường hợp ngoại lệ, có 7 vị Thánh Nhập-lưu đặc biệt

tái-sinh hơn 7 kiếp (1) như sau:

  1. Phú hộ Ānāthapiṇḍika,
  2. Bà Visākhā mahā upāsikā,
  3. Chư-thiên Cullaratha,
  4. Chư-thiên Mahāratha,
  5. Chư-thiên Anekavaṇṇa,
  6. Chư-thiên Nāgadatta,
  7. Đức-vua trời Sakka (hiện-tại).

Bảy bậc Thánh Nhập-lưu này có phát nguyện muốn hưởng sự an-lạc trong cõi trời từ cõi dục-giới đến các tầng trời sắc-giới phạm-thiên cho đến tầng trời sắc-giới phạm-thiên tột đỉnh là Sắc-cứu-cánh-thiên (Akaniṭṭha), mới trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn tại cõi trời Sắc-cứu-cánh-thiên, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

 
   
 

 

1 Bộ Chú-giải Saṃyuttanikāya, Mahāvagga, kinh Ekābhiññasutta.

 

  1. Quả báu của bậc Thánh Nhất-lai

Bậc Thánh Nhất-lai là bậc Thánh đã diệt tận được

sân loại thô trong sân-tâm.

Trong kiếp hiện-tại, bậc Thánh Nhất-lai không còn khổ do bởi sân-tâm loại thô nữa.

Bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh làm người hoặc làm chư-thiên 1 kiếp nữa mà thôi. Ngay trong kiếp ấy sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

  1. Quả báu của bậc Thánh Bất-lai

Bậc Thánh Bất-lai là bậc Thánh đã diệt tận được tham-tâm không hợp tà-kiến trong cõi dục-giới sân- tâm loại vi-tế không còn dư sót.

Trong kiếp hiện-tại, bậc Thánh Bất-lai không còn khổ do bởi tham-tâm trong cõi dục-giới và sân-tâm nữa.

Bậc Thánh Bất-lai sau khi chết, không còn tái-sinh trở lại cõi dục-giới, chỉ tái-sinh lên cõi sắc-giới phạm-thiên mà thôi. Nếu bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn- pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ, thì sẽ hóa-sinh lên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Suddhavāsa (Tịnh-cư-thiên), có 5 tầng trời theo năng lực của mỗi pháp-chủ như sau:

  • Nếu bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ ngũ thiền sắc- giới thiện-tâm, có tín-pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại, thì đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh kiếp kế-tiếp lên tầng trời Avihā (Vô-phiền-thiên), có tuổi thọ 1.000 đại-kiếp trái đất.
  • Nếu bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ ngũ thiền sắc- giới thiện-tâm, có tấn-pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4

 

pháp-chủ còn lại, thì đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh kiếp kế-tiếp lên tầng trời Atappa (Vô-nhiệt-thiên), có tuổi thọ 2.000 đại-kiếp trái đất.

  • Nếu bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ ngũ thiền sắc- giới thiện-tâm, có niệm-pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại, thì đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh kiếp kế-tiếp lên tầng trời Sudassa (Thiện-hiện-thiên,) có tuổi thọ 4.000 đại-kiếp trái đất.
  • Nếu bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ ngũ thiền sắc- giới thiện-tâm, có định-pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại, thì đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh kiếp kế-tiếp lên tầng trời Sudassī (Thiện-kiến-thiên), có tuổi thọ 8.000 đại-kiếp trái đất.
  • Nếu bậc Thánh Bất-lai chứng đắc đệ ngũ thiền sắc- giới thiện-tâm, có tuệ-pháp-chủ nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại, thì đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-nghiệp ấy cho quả hóa-sinh kiếp kế-tiếp lên tầng trời Akaniṭṭha (Sắc-cứu-cánh-thiên), tuổi thọ 16.000 đại-kiếp trái đất.

Bậc Thánh Bất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán tại cõi trời sắc-giới phạm-thiên Suddhavāsa ấy, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi tại cõi trời sắc-giới phạm-thiên ấy.

  • Bậc Thánh Bất-lai có 5 hạng
  1. Antarāparinibbāyī: Bậc Thánh Bất-lai sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy chưa đến một nửa tuổi thọ của tầng trời ấy, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  2. Upahaccaparinibbāyī: Bậc Thánh Bất-lai sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy quá một nửa tuổi thọ của tầng trời ấy, rồi tịch diệt Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

 

  1. Asaṅkhāraparinibbāyī: Bậc Thánh Bất-lai không cần phải tinh-tấn nhiều cũng trở thành bậc Thánh A-ra- hán tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy rồi tịch diệt Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  2. Saṅkhāraparinibbāyī: Bậc Thánh Bất-lai cần phải tinh-tấn, mới trở thành bậc Thánh A-ra-hán tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  3. Uddhaṃsoto akaniṭṭhagāmī: Bậc Thánh Bất-lai khi hết tuổi thọ trong tầng trời sắc-giới bậc thấp, tuần tự tái- sinh lên tầng trời sắc-giới bậc cao, cho đến tầng trời sắc-giới Akaniṭṭha tột đỉnh, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra- hán rồi tịch diệt Niết-bàn tại tầng trời sắc-giới Akaniṭṭha ấy, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  1. Quả báu của bậc Thánh A-ra-hán

Bậc Thánh A-ra-hán là bậc Thánh cao thượng đã diệt tận được 5 bất-thiện-tâm (ác-tâm) còn lại đó là 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến và 1 si-tâm hợp với phóng-tâm nghĩa là tất cả mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót.

Trong kiếp hiện-tại, bậc Thánh A-ra-hán hoàn toàn không còn khổ-tâm do phiền-não nữa, chỉ còn khổ-thân do quả của nghiệp cũ mà thôi.

Ngay kiếp hiện-tại, bậc Thánh A-ra-hán đến khi hết tuổi thọ, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Bậc Thánh A-ra-hán có nhiều hạng

  1. Bậc Thánh A-ra-hán Tevijja là bậc Thánh A-ra- hán có tam-minh là tiền-kiếp-minh, thiên-nhãn-minh và trầm-luân-tận-minh.

 

  1. Bậc Thánh A-ra-hán Chaḷabhiñña là bậc Thánh A- ra-hán lục thông: đa-dạng-thông, thiên-nhãn-thông, thiên-nhĩ-thông, tha-tâm-thông, tiền-kiếp-thông và trầm- luân-tận-thông.
  2. Bậc Thánh A-ra-hán Catupaṭisambhidappabheda là bậc Thánh A-ra-hán tứ tuệ-phân-tích là nghĩa (nhân) phân-tích, pháp (quả) phân-tích, ngôn-ngữ phân- tích và ứng-đối phân-tích.
  3. Bậc Thánh A-ra-hán Ubhatobhāgavimutta là bậc Thánh A-ra-hán giải thoát bằng 2 pháp-hành là pháp- hành thiền-định chứng đắc đến 4 bậc thiền vô-sắc-giới và pháp-hành thiền-tuệ chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả.
  4. Bậc Thánh A-ra-hán Paññāvimutta là bậc Thánh A-ra-hán giải thoát bằng pháp-hành thiền-tuệ chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả (còn gọi là Bậc Thánh A-ra-hán Sukkhavipassaka là bậc Thánh- nhân không thực-hành pháp-hành thiền-định trước, không chứng đắc bậc thiền nào, chỉ thực-hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán).

Chư bậc Thánh A-ra-hán có sự khác biệt nhau về trí- tuệ, thần-thông trong kiếp hiện-tại, đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn rồi thì hoàn toàn không có sự khác biệt nhau, đều giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Bậc Thánh Thanh-văn-giác

Trong Phật-giáo, bậc Thánh thanh-văn-giác ba thứ bậc:

  1. Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác (Aggasāvaka).

 

  1. Bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác (Mahāsāvaka).
  2. Bậc Thánh thanh-văn-giác hạng thường (Pakatisāvaka).
  1. Vị Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác như thế nào?

Để trở thành vị Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác, thì vị bồ-tát ấy phát nguyện muốn trở thành bậc Thánh- Tối-thượng thanh-văn-giác, rồi tạo 10 pháp-hạnh ba-la- mật bậc hạ.

Khi có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian, vị bồ-tát ấy cần phải đến hầu đảnh lễ Đức-Phật- Chánh-Đẳng-Giác ấy, bạch với Đức-Phật biết rõ ý- nguyện muốn trở thành vị Thánh Tối-thượng thanh-văn- giác của Đức-Phật trong thời vị-lai.

Đức-Phật suy xét thấy vị bồ-tát ấy hội đủ các chi- pháp để trở thành vị Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác, thì Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại 1 a-tăng- kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất và Đức-Phật-Chánh- Đẳng-Giác trong thời vị-lai.

Bắt đầu từ kiếp ấy, vị bồ-tát ấy trở thành vị bồ-tát Tối- thượng thanh-văn-giác.

Vị bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác ấy tiếp tục thực- hành 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ cho được đầy đủ trọn vẹn suốt trong khoảng thời gian 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất, chờ đến khi Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác ấy xuất hiện trên thế gian.

Vị bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác ấy cần phải đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật ấy, rồi xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật ấy.

 

Sau khi trở thành tỳ-khưu, vị tỳ-khưu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ tuệ-phân-tích, lục thông.

Trong dịp Đức-Phật chủ trì tại hội chúng chư Thánh thanh-văn đệ-tử, Đức-Phật tuyên dương vị Thánh Tối- thượng thanh-văn-giác ấy giữa chư Thánh Thanh-văn đệ-tử, đúng theo sở nguyện của vị Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử đã phát nguyện và đã được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời quá-khứ thọ ký.

Mỗi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác chỉ có 2 vị Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác mà thôi.

  • Đức-Phật Gotama 2 vị Thánh Tối-thượng thanh- văn đệ-tử là:
  • Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta là vị Thánh Tối- thượng thanh-văn đệ-tử bên phải có trí-tuệ xuất-sắc nhất trong hàng Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
  • Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna là vị Thánh Tối-thượng thanh-văn đệ-tử bên trái có phép-thần-thông xuất-sắc nhất trong hàng Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.
  1. Vị Thánh Đại-thanh-văn-giác như thế nào?

Để trở thành vị Thánh Đại-thanh-văn-giác, thì vị Bồ- tát ấy phát nguyện muốn trở thành vị Thánh Đại-thanh- văn-giác, rồi tạo 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ.

Khi có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian, vị Bồ-tát ấy cần phải đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy, bạch với Đức-Phật biết rõ ý-

 

nguyện muốn trở thành vị Thánh Đại-thanh-văn-giác của Đức-Phật trong thời vị-lai.

Đức-Phật suy xét thấy vị bồ-tát ấy hội đủ chi-pháp để trở thành vị Thánh Đại-thanh-văn-giác, thì Đức-Phật thọ ký xác định thời gian còn lại 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa và Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.

Bắt đầu từ kiếp ấy, vị Bồ-tát ấy trở thành vị Bồ-tát

Đại-thanh-văn-giác.

Vị Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác ấy tiếp tục thực-hành 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ cho được đầy đủ trọn vẹn suốt trong khoảng thời gian 100 ngàn đại-kiếp trái đất, chờ đến khi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy xuất hiện trên thế gian.

Vị Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác ấy cần phải đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật ấy, rồi xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật ấy.

Sau khi trở thành tỳ-khưu, vị tỳ-khưu thực-hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ-tuệ-phân-tích, lục thông.

Trong dịp Đức-Phật chủ trì tại hội chúng chư Thánh thanh-văn đệ-tử, Đức-Phật tuyên dương vị Thánh Đại- thanh-văn-giác về đức-hạnh nào xuất sắc nhất trong các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử, đúng theo sở nguyện của vị Thánh Đại-thanh-văn-giác ấy đã phát nguyện và đã được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời quá-khứ thọ ký.

Đức-Phật Gotama 80 vị Thánh Đại-thanh-văn-giác.

 

80 Vị Thánh Đại-Thanh-Văn-Giác

40 Vị Thánh A-ra-hán bên phải Đức-Phật

  1. Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta (Aggasāvaka),
  2. Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña,
  3. Ngài Trưởng-lão Vappa,
  4. Ngài Trưởng-lão Bhaddiya,
  5. Ngài Trưởng-lão Mahānāma,
  6. Ngài Trưởng-lão Assaji,
  7. Ngài Trưởng-lão Nālaka,
  8. Ngài Trưởng-lão Yasa,
  9. Ngài Trưởng-lão Vimala,
  10. Ngài Trưởng-lão Subāhu,
  11. Ngài Trưởng-lão Puṇṇaji,
  12. Ngài Trưởng-lão Gavampati,
  13. Ngài Trưởng-lão Uruvelakassapa,
  14. Ngài Trưởng-lão Nadīkassapa,
  15. Ngài Trưởng-lão Gayākassapa,
  16. Ngài Trưởng-lão Mahākassapa,
  17. Ngài Trưởng-lão Mahākaccāyana,
  18. Ngài Trưởng-lão Mahākoṭṭhita,
  19. Ngài Trưởng-lão Mahākappina,
  20. Ngài Trưởng-lão Mahācunda,
  21. Ngài Trưởng-lão Anuruddhā,
  22. Ngài Trưởng-lão Kaṅkhārevata,
  23. Ngài Trưởng-lão Ānanda,
  24. Ngài Trưởng-lão Nandaka,
  25. Ngài Trưởng-lão Bhagu,
  26. Ngài Trưởng-lão Nandiya,
  27. Ngài Trưởng-lão Kimila,
  28. Ngài Trưởng-lão Bhaddiya,
  29. Ngài Trưởng-lão Rāhulā,
  30. Ngài Trưởng-lão Sīvali,

 

  1. Ngài Trưởng-lão Upāli,
  2. Ngài Trưởng-lão Dabba,
  3. Ngài Trưởng-lão Upasena,
  4. Ngài Trưởng-lão Mahāpuṇṇa,
  5. Ngài Trưởng-lão Cūḷapuṇṇa,
  6. Ngài Trưởng-lão Soṇakuṭikaṇṇa,
  7. Ngài Trưởng-lão Soṇakoḷivisa,
  8. Ngài Trưởng-lão Rādha,
  9. Ngài Trưởng-lão Subhūti,
  10. Ngài Trưởng-lão Khadiravaniyarevata.

40 Vị Thánh A-ra-hán bên trái Đức-Phật

  1. Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna (Aggasāvaka),
  2. Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla,
  3. Ngài Trưởng-lão Vakkali,
  4. Ngài Trưởng-lão Kāḷudāyi,
  5. Ngài Trưởng-lão Mahā-udāyi,
  6. Ngài Trưởng-lão Pilindavaccha,
  7. Ngài Trưởng-lão Sobhita,
  8. Ngài Trưởng-lão Kumārakassapa,
  9. Ngài Trưởng-lão Raṭṭhapāla,
  10. Ngài Trưởng-lão Vaṅgīsa,
  11. Ngài Trưởng-lão Sabhiya,
  12. Ngài Trưởng-lão Sela,
  13. Ngài Trưởng-lão Upavāna,
  14. Ngài Trưởng-lão Meghiya,
  15. Ngài Trưởng-lão Sāgata,
  16. Ngài Trưởng-lão Nāgita,
  17. Ngài Trưởng-lão Lakuṇḍakabhaddiya,
  18. Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja,
  19. Ngài Trưởng-lão Mahāpanthaka,
  20. Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka,
  21. Ngài Trưởng-lão Bākula,

 

  1. Ngài Trưởng-lão Kuṇḍadhāna,
  2. Ngài Trưởng-lão Dārucīriya,
  3. Ngài Trưởng-lão Yasoja,
  4. Ngài Trưởng-lão Ajita,
  5. Ngài Trưởng-lão Tissametteyya,
  6. Ngài Trưởng-lão Puṇṇaka,
  7. Ngài Trưởng-lão Mettagū,
  8. Ngài Trưởng-lão Dhotaka,
  9. Ngài Trưởng-lão Upasīva,
  10. Ngài Trưởng-lão Nanda,
  11. Ngài Trưởng-lão Hemaka,
  12. Ngài Trưởng-lão Todeyya,
  13. Ngài Trưởng-lão Kappa,
  14. Ngài Trưởng-lão Jatukaṇṇi,
  15. Ngài Trưởng-lão Bhadrāvudha,
  16. Ngài Trưởng-lão Udaya,
  17. Ngài Trưởng-lão Posāla,
  18. Ngài Trưởng-lão Piṅgiya,
  19. Ngài Trưởng-lão Mogharāja.

Vị Thánh A-ra-hán có danh-hiệu Etadagga

Trong 80 vị Thánh A-ra-hán Đại-thanh-văn-giác 41 vị được danh hiệu Etadagga đức-hạnh xuất sắc nhất trong hàng Thánh nam thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama:

  1. Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña có tuổi hạ cao đệ nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
  2. Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta có đại-trí-tuệ đệ

nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama. 3- Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna các

phép-thần-thông đệ nhất…

 

  1. Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa thọ hạnh đầu- đà đệ nhất…
  2. Ngài Trưởng-lão Anuruddha có thiên-nhãn-thông

đệ nhất…

  1. Ngài Trưởng-lão Bhaddiya sinh trong dòng dõi cao quý đệ nhất…
  2. Ngài Trưởng-lão Lakuṇḍakabhaddiya có giọng nói ngọt ngào nghe êm tai đệ nhất…
  3. Ngài Trưởng-lão Piṇḍolabhāradvāja có lời nói dũng cảm như sư tử rống đệ nhất…
  4. Ngài Trưởng-lão Puṇṇa là vị pháp-sư đệ nhất…
  5. Ngài Trưởng-lão Kaccāna có tài thuyết giải rộng

đệ nhất…

  1. Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka có phép đa-dạng- thần-thông biến hóa theo tâm đệ nhất…
  2. Ngài Trưởng-lão Mahāpanthaka xả thiền vô-sắc- giới, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ để trở thành bậc Thánh A-ra-hán đệ nhất…
  3. Ngài Trưởng-lão Subhūti thọ dụng vật thí hoàn toàn không có lỗi đệ nhất…
  4. Ngài Trưởng-lão Khadiravaniyarevata có hạnh sống trong rừng đệ nhất…
  5. Ngài Trưởng-lão Kaṅkhārevata thường nhập thiền

đệ nhất…

  1. Ngài Trưởng-lão Soṇakoḷivisa có hạnh đại tinh- tấn đệ nhất…
  2. Ngài Trưởng-lão Soṇakuṭikaṇṇa có tài thuyết pháp nói đạo giọng hay đệ nhất…
  3. Ngài Trưởng-lão Sīvali có tài lộc đệ nhất…
  4. Ngài Trưởng Lão Vakkali có đức-tin trong sạch

đệ nhất…

 

  1. Ngài Trưởng-lão Rāhula rất mong mỏi học giới,

định, tuệ đệ nhất…

  1. Ngài Trưởng-lão Raṭṭhapāla xuất gia với đức-tin đệ nhất…
  2. Ngài Trưởng-lão Kuṇḍadhāna bắt thăm được số một đệ nhất…
  3. Ngài Trưởng-lão Vaṅgīsa có trí-tuệ nhạy bén đệ

nhất…

  1. Ngài Trưởng-lão Upasena có hạnh đáng tôn kính

đệ nhất…

  1. Ngài Trưởng-lão Dabba sắp đặt chỗ ở chư tỳ- khưu đệ nhất…
  2. Ngài Trưởng-lão Pilindavaccha được chư-thiên kính yêu đệ nhất…
  3. Ngài Trưởng-lão Dārucīriya chứng đắc mau lẹ đệ

nhất…

  1. Ngài Trưởng-lão Kumārakassapa có tài thuyết pháp hay đệ nhất…
  2. Ngài Trưởng-lão Mahākoṭṭhita có đầy đủ tứ-tuệ- phân-tích đệ nhất…
  3. Ngài Trưởng Lão Ānanda là bậc đa văn túc trí, trí nhớ tốt, trí-tuệ thông suốt, có sự tinh-tấn không ngừng, hầu hạ Đức-Phật chu đáo đệ nhất…
  4. Ngài Trưởng-lão Uruvelakassapa có đệ tử đông đảo đệ nhất…
  5. Ngài Trưởng-lão Kāḷudāyī làm cho dòng họ kính trọng đệ nhất…
  6. Ngài Trưởng-lão Bākula có sức khỏe đầy đủ đệ

nhất…

  1. Ngài Trưởng-lão Sobhita có tiền-kiếp-thông nhớ tiền-kiếp đệ nhất…

 

  1. Ngài Trưởng-lão Upāli thọ trì tạng luật đệ nhất…
  2. Ngài Trưởng-lão Nandaka có tài dạy dỗ tỳ khưu- ni đệ nhất…
  3. Ngài Trưởng-lão Nanda giữ gìn lục căn thanh- tịnh đệ nhất…
  4. Ngài Trưởng-lão Mahākappina có tài dạy dỗ tỳ khưu đệ nhất…
  5. Ngài Trưởng-lão Sāgata nhập thiền đề-mục lửa

đệ nhất…

  1. Ngài Trưởng-lão Rādha phát triển trí-tuệ từng bậc

đệ nhất…

  1. Ngài Trưởng-lão Mogharāja sử dụng (mặc) y vải loại thô xấu đệ nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Mỗi vị Thánh A-ra-hán có danh hiệu Etadagga xuất sắc này do tâm phát nguyện, riêng 2 vị là Ngài Đại- Trưởng-lão Sāriputta Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā- moggalāna được Đức-Phật Anomadassī trong thời quá- khứ thọ ký, 39 vị còn lại được Đức-Phật Padumuttara trong thời quá-khứ thọ ký và xác định thời gian đến thời Đức-Phật Gotama được thành tựu.

 

  1. Vị Thánh Thanh-văn-giác hạng thường như thế nào?

Để trở thành vị Thánh thanh-văn-giác hạng thường, thì vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ trong suốt khoảng thời gian dưới 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

Vị Bồ-tát ấy có duyên lành đến hầu Đức-Phật Chánh-

Đẳng-Giác, hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-

 

Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian hoặc Đức-Phật đã tịch diệt Niết-bàn.

Vị Bồ-tát ấy có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức- Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, lắng nghe chánh pháp của Đức-Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc:

  • Chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā), trở thành bậc Thánh Nhập-lưu vị Thánh thanh-văn-giác hạng thường.
  • Hoặc chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại thô (dosa), trở thành bậc Thánh Nhất-lai vị Thánh thanh-văn-giác hạng thường.
  • Hoặc chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền-não là sân loại vi-tế (dosa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Bất-lai vị Thánh thanh-văn-giác hạng thường.
  • Hoặc chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham (lobha), si (moha), ngã-mạn (māna), buồn- chán (thīna), phóng-tâm (uddhacca), không biết hổ-thẹn tội-lỗi (ahirika), không biết ghê-sợ tội-lỗi (anottappa) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng vị Thánh thanh-văn-giác hạng thường.

Vị Bồ-tát hành-giả ấy trở thành Thánh-nhân bậc nào là do năng lực của 10 pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp- chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp- chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của vị Bồ-tát thanh- văn-giác hạng thường ấy.

 

Đức-Phật Gotama có vô số bậc Thánh thanh-văn- giác hạng thường đủ các loài chúng-sinh như loài người, chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trong cõi trời sắc-giới.

Hoặc bậc Thánh Nhập-lưu chứng đắc bậc thiền vô- sắc-giới sau khi chết, vô-sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trên cõi trời vô-sắc-giới.

Vấn: Vị Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác và vị Đại- thanh-văn-giác khác nhau với bậc Thánh thanh-văn-giác hạng thường như thế nào?

Đáp: * Bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác vốn dĩ là vị Bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác được Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất nữa và Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị lai.

Đến thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy xuất hiện trên thế gian, vị Bồ-tát Tối-thượng thanh-văn-giác ấy sinh làm người có đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la- mật, trực-tiếp đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác ấy, lắng nghe chánh-pháp, rồi xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Vị Bồ-tát tỳ-khưu ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Trong dịp Đức-Phật chủ trì tại hội chúng chư Thánh thanh-văn đệ-tử, Đức-Phật tuyên dương vị Thánh Tối- thượng thanh-văn-giác ấy giữa chư Thánh thanh-văn đệ- tử, đúng theo sở nguyện của vị Thánh Tối-thượng thanh-

 

văn đệ-tử đã phát nguyện và đã được Đức-Phật Chánh-

Đẳng-Giác trong thời quá-khứ thọ ký.

  • bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác vốn dĩ là vị Bồ- tát Đại-thanh-văn-giác được Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác thọ ký xác định thời gian còn lại là 100 ngàn đại- kiếp trái đất nữa và Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai.

Đến thời-kỳ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy xuất hiện trên thế gian, vị Bồ-tát Đại-thanh-văn-giác ấy sinh làm người có đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la-mật, trực- tiếp đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác ấy, lắng nghe chánh-pháp, rồi xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Vị Bồ-tát tỳ-khưu ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Trong dịp Đức-Phật chủ trì tại hội chúng chư Thánh thanh-văn đệ-tử, Đức-Phật tuyên dương vị Thánh Đại- thanh-văn-giác ấy giữa chư Thánh thanh-văn đệ-tử, đúng theo sở nguyện của vị Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử đã phát nguyện và đã được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời quá-khứ thọ ký.

  • Bậc Thánh thanh-văn-giác hạng thường vốn dĩ là vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường không có Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định thời gian còn lại.

Vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường tạo 10 pháp- hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian dưới 100 ngàn đại-kiếp trái đất (thời gian không nhất định).

 

Vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường có nhân-duyên đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian hoặc Đức-Phật đã tịch diệt Niết-bàn, nhưng giáo-pháp của Đức-Phật hiện còn lưu truyền trên thế gian.

Vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường là bậc xuất-gia tỳ-khưu, sa-di hoặc cận-sự-nam, cận-sự-nữ, chư vị thiên- nam hoặc vị thiên-nữ, hoặc chư phạm-thiên,… có đức- tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo, lắng nghe chánh-pháp của Đức- Phật, rồi thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được phiền-não, trở thành Thánh-nhân bậc nào do năng lực của các pháp-hạnh ba- la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp- chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của vị Bồ-tát thanh-văn-giác hạng thường ấy.

Đó là sự khác nhau giữa bậc Thánh Tối-thượng thanh-văn-giác, bậc Thánh Đại-thanh-văn-giác với bậc Thánh thanh-văn-giác hạng thường như vậy.

 

Bậc Thánh Nữ Thanh-Văn-Giác

Trong Phật-giáo, bậc Thánh nữ Thanh-văn-giác có ba thứ bậc:

  1. Bậc Thánh nữ Tối-thượng thanh-văn-giác (Aggasāvikā).
  2. Bậc Thánh nữ Đại-thanh-văn-giác (Mahāsāvikā).
  3. Bậc Thánh nữ thanh-văn-giác hạng thường (Pakatisāvikā).

 

Để trở thành vị Thánh nữ Tối-thượng thanh-văn-giác và vị Thánh nữ Đại-thanh-văn-giác nào, thì vị Bồ-tát nữ thanh-văn-giác ấy cần phải thực-hành 10 pháp-hạnh ba- la-mật bậc hạ và nói lời phát nguyện muốn trở thành bậc Thánh thanh-văn-giác ấy, được Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác thọ ký cũng như vị Bồ-tát nam thanh-văn-giác.

Để trở thành vị Thánh nữ thanh-văn-giác hạng thường, thì vị Bồ-tát nữ thanh-văn-giác ấy cũng cần phải thực-hành 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ trong suốt khoảng thời gian như vị Bồ-tát nam thanh-văn-giác bậc thường.

Đức-Phật Gotama có 2 vị Thánh nữ Tối-thượng thanh-văn-giác là:

  • Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Khemā là vị Thánh nữ A- ra-hán Tối-thượng thanh-văn-giác có trí-tuệ đặc biệt xuất sắc nhất trong hàng Thánh nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
  • Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā là vị Thánh nữ A-ra-hán Tối-thượng thanh-văn-giác có phép-thần- thông đặc biệt xuất sắc bậc nhất trong hàng Thánh nữ- thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Hai vị Thánh nữ Tối-thượng thanh-văn-giác ấy do đã phát nguyện và đã được Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời quá-khứ thọ ký.

Đức-Phật Gotama có số vị Thánh nữ Đại-thanh-văn- giác không rõ, nhưng điều chắc chắn có 13 Thánh nữ A- ra-hán, mỗi vị có đức-hạnh đặc biệt xuất sắc nhất trong hàng Thánh nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

Đức-Phật Gotama có vô số vị Thánh nữ thanh-văn- giác hạng thường đủ các loài chúng-sinh.

 

Vị Thánh nữ A-ra-hán có danh-hiệu Etadagga

Trong các vị Thánh nữ A-ra-hán, có 13 vị được danh hiệu Etadagga đức-hạnh xuất sắc nhất trong hàng Thánh nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama:

  1. Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Mahāpajāpatigotamī xuất gia tỳ-khưu-ni đầu tiên có tuổi hạ cao nhất trong hàng Thánh nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
  2. Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Khemā có đại trí-tuệ đệ nhất trong hàng Thánh nữ thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
  3. Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā có các phép-thần-thông đệ nhất…
  4. Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Paṭācārā thông suốt tạng luật đệ nhất…
  5. Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Dhammadinnā là vị pháp sư thuyết pháp hay đệ nhất…
  6. Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Nandā nhập thiền hưởng an-lạc đệ nhất…
  7. Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Soṇā có pháp tinh-tấn đệ

nhất…

  1. Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Sakulā phép nhãn-thông

đệ nhất…

  1. Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Kuṇḍalakesā có trí-tuệ nhạy bén đệ nhất…
  2. Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Bhaddākāpilānī có phép tiền-kiếp-thông nhớ tiền-kiếp đệ nhất…
  3. Ngài    Đại-đức    tỳ-khưu-ni    Bhaddakaccānā Yasodharā có phép đại-thần-thông đặc biệt đệ nhất…
  4. Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Kīsāgotamī thường sử dụng (mặc) y vải loại thô đệ nhất…

 

  1. Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Siṅgālakamātu có đức- tin trong sạch đệ nhất trong hàng Thánh nữ Thanh-văn- đệ-tử của Đức-Phật Gotama.

Mỗi vị Thánh nữ A-ra-hán có danh hiệu Etadagga xuất sắc này do tâm phát nguyện và được Đức-Phật Padumuttara trong thời quá khứ thọ ký xác định thời gian đến thời Đức-Phật Gotama được thành tựu.

Thế nào gọi là chư phàm-Tăng?

Chư tỳ-khưu-Tăng là bậc thanh-văn đệ-tử của Đức- Phật, quý Ngài đã lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, rồi đang thực-hành theo pháp-hành thiền-tuệ mà chưa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh- đạo, Thánh-quả nào, vẫn còn là phàm-nhân.

Vì vậy, chư tỳ-khưu-Tăng phàm-nhân ấy gọi là chư phàm-Tăng (Puthujjanasaṃgha).

Chư-Tăng có 2 hạng

  1. Paramatthasaṃgha: Chư tỳ-khưu-Tăng là bậc Thánh-nhân cao thượng.
  2. Sammutisaṃgha: Tỳ-khưu-Tăng do chế định.

Chư tỳ-khưu-Tăng là bậc Thánh-nhân cao thượng như thế nào?

Tỳ-khưu là bậc Thánh-nhân cao thượng (paramattha- saṃgha), là tỳ-khưu đã trở thành bậc Thánh-nhân bậc cao thì không bao giờ trở xuống bậc Thánh-nhân bậc thấp, hoặc Thánh-nhân bậc thấp không bao giờ bị thoái hóa trở xuống thành hạng phàm-nhân.

Thật ra, chỉ có bậc Thánh-nhân bậc thấp chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh-nhân bậc cao là bậc Thánh A-ra- hán mà thôi.

 

Cho nên, chư tỳ-khưu Thánh-Tăng này gọi là bậc Thánh-nhân cao thượng (paramatthasaṃgha).

Tỳ-khưu-Tăng do chế định như thế nào?

Tỳ-khưu này được thành tựu do chư tỳ-khưu-Tăng làm lễ hành-tăng-sự tụng ñatticatutthakammavācā nâng đỡ lên, rồi chế định thành tỳ-khưu. Vị tỳ-khưu này vẫn còn là hạng phàm-nhân, chưa phải Thánh-nhân.

Chư tỳ-khưu phàm-nhân này thực-hành giới giống như vị tỳ-khưu Thánh-Tăng và cũng hành-tăng-sự chung với chư tỳ-khưu Thánh-Tăng.

Tỳ-khưu thuộc hạng phàm-nhân này có thể tiến hóa trong pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, thực- hành pháp-hành thiền-tuệ, để mong chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, để chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết- bàn, trở thành bậc Thánh-nhân cao thượng.

Và trái lại, tỳ-khưu thuộc hạng phàm-nhân này cũng có thể thoái hóa trong Phật-giáo, hoàn tục trở lại đời sống người tại gia cư-sĩ.

Vì vậy, tỳ-khưu này do chư tỳ-khưu-Tăng chế định (sammutisaṃgha) gọi là tỳ-khưu, khác với chư tỳ-khưu Thánh-Tăng là bậc Thánh-nhân cao thượng.

 

Cách Thức Thọ Tỳ-Khưu

Trong Phật-giáo, Đức-Phật đã chế định ra 8 cách thức thọ tỳ-khưu Upasampadā.

  • Đối với tỳ-khưu có 5 cách như sau:
  1. Ehi Bhikkhūpasampadā: Thọ tỳ-khưu bằng cách

Đức-Phật gọi “Ehi Bhikkhu”.

 

  1. Saraṇagamanūpasampadā: Thọ tỳ-khưu bằng cách thọ phép quy-y Tam-Bảo.
  2. Ovādapaṭiggahaṇūpasampadā: Thọ tỳ-khưu bằng cách thọ nhận lời giáo huấn của Đức-Phật.
  3. Pañhābyākaraṇūpasampadā: Thọ tỳ-khưu bằng cách trả lời đúng câu hỏi của Đức-Phật.
  4. Ñatticatutthakammūpasampadā: Thọ tỳ-khưu bằng cách tụng 1 lần ñatti (tuyên-ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành-sự-ngôn).
  • Đối với tỳ-khưu-ni có 3 cách như sau:
  1. Garudhammapaṭiggahaṇūpasampadā: Thọ tỳ-khưu- ni bằng cách thọ nhận 8 trọng-pháp.
  2. Dūtenūpasampadā: Thọ tỳ-khưu-ni bằng cách nhờ qua người đại diện.
  3. Aṭṭhavācikūpasampadā: Thọ tỳ-khưu-ni bằng cách hành tăng sự giữa chư Tăng 2 phái: Tỳ-khưu-ni-Tăng trước và tỳ-khưu-Tăng sau, mỗi phái tụng 1 lần ñatti (tuyên-ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành- sự-ngôn) trở thành 8 lần tụng (aṭṭhavācikūpasampadā).(1)

Phần Giải Thích

  • Thọ tỳ-khưu (Bhikkhu upasampadā)

Đức-Phật chế định ban hành phép xuất-gia trở thành tỳ-khưu có 5 cách như sau:

  1. Ehi Bhikkhūpasampadā như thế nào?

Người cận-sự-nam, hoặc đạo-sĩ, tu-sĩ ngoại-đạo sau khi nghe Đức-Phật thuyết pháp, phát sinh đức-tin trong

 
   
 

 

1 Tìm hiều đầy đủ trong quyển “ Gương Bậc Xuất-Gia”, cùng soạn-giả.

 

sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo, muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu, người cận- sự-nam ấy đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính xin Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Đức-Phật sử dụng Phật-nhãn xem xét đến tiền-kiếp người nam ấy, thấy rõ, biết rõ: “Người nam ấy là người đã tạo đầy đủ trọn vẹn 10 pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ, đã từng bố thí 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu (tam y, quả bát, dây thắt lưng, dao cạo tóc, ống kim chỉ và đồ lọc nước) và đã phát nguyện xuất gia bằng cách Đức-Phật gọi: Ehi Bhikkhu.”

Vì vậy, khi Đức-Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ truyền dạy rằng:

“Ehi Bhikkhu. Svākkhāto dhammo cara brahma- cariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.”

  • “Này con! Con hãy đến với Như-Lai, con trở thành tỳ-khưu theo ý nguyện. Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh-tấn thực-hành phạm- hạnh cao thượng, để chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A- ra-hán Thánh-quả, hầu mong chấm dứt sự khổ tử sinh luân-hồi.”

Khi Đức-Phật truyền dạy vừa dứt lời, ngay tức thì, người cận-sự-nam ấy, hoặc đạo-sĩ, tu-sĩ ngoại-đạo ấy trở thành tỳ-khưu, có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu, được thành tựu do quả của phước-thiện như thần-thông của giới-tử ấy. Vị tỳ-khưu ấy có tăng tướng trang nghiêm, thân, khẩu, ý thanh-tịnh như một vị tỳ-khưu có 60 hạ.

Như vậy, gọi là thọ tỳ-khưu bằng cách gọi: Ehi Bhikkhūpasampadā.

 

Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña là vị đầu tiên thọ tỳ-khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu”, cũng là vị tỳ- khưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama, và tiếp theo tuần tự các Ngài Trưởng-lão Vappa, Ngài Trưởng-lão Bhaddiya, Ngài Trưởng-lão Mahānāma, và Ngài Trưởng-lão Assaji cũng đều thọ tỳ-khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu”.

Chỉ có Đức-Phật mới có khả năng cho phép giới tử thọ tỳ-khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu” mà thôi.

Ngoài ra, chư bậc Thánh thanh-văn đệ-tử không có oai lực cho thọ tỳ-khưu theo cách ấy.

Đức-Phật Gotama cho phép giới tử thọ tỳ-khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu” tất cả gồm có 28.647 vị tỳ khưu.

  • Trong Tạng Luật Pāḷi gồm có 1.344 vị như sau:
  • Nhóm Pañcavaggī có 5 vị.
  • Ngài Trưởng-lão Yasa và bạn hữu gồm có 56 vị.
  • Nhóm Bhaddavaggī và bạn hữu gồm có 1.030 vị.
  • Nhị vị Aggasāvaka và nhóm đệ tử gồm có 252 vị.
  • Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla có 1 vị.
  • Trong Tạng Kinh Pāḷi gồm có 27.303 vị như sau:
  • Bà-la-môn Sela và nhóm đệ-tử gồm có 301 vị.
  • Đức vua Mahākappina và các quan cận thần gồm

1.001 vị.

  • Dân kinh-thành Kapilavatthu gồm có 10.000 vị,
  • Bà-la-môn Pārāyanika nhóm đệ-tử gồm 16.001 vị.

Gồm có tất cả 28.647 vị tỳ-khưu Ehi Bhikkhu.

  1. Saraṇagamanūpasampadā như thế nào?

Trong thời-kỳ đầu tiên truyền bá Phật-giáo, Đức-Phật truyền dạy chư bậc Thánh-Tăng mỗi vị một con đường đi khắp nơi thuyết pháp để tế độ chúng-sinh, nếu

 

người cận-sự-nam có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có ý- nguyện muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu, thì Đức-Phật cho phép chư bậc Thánh-Tăng rằng:

  • Anujānāmi bhikkhave, imehi tīhi saraṇagamanehi pabbajjaṃ upasampadaṃ.(1)
  • Này chư tỳ-khưu! Như-Lai cho phép thọ sa-di, tỳ- khưu bằng cách cho thọ phép quy-y Tam-bảo.

Giới-tử thọ sa-di, tỳ-khưu trước tiên phải cạo tóc, râu, mặc y cà-sa màu lõi mít, để chừa vai bên phải, ngồi chồm hổm, chắp 2 tay để trên trán xin thọ phép quy-y Tam-bảo: Quy-y Phật-bảo, Quy-y Pháp-bảo, Quy-y Tăng-bảobằng tiếng Pāḷi, giới-tử cần phải đọc từng chữ, từng câu phải đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10 byañjanabuddhi theo Ngài Trưởng-lão thầy tế-độ như sau:

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.

Khi người giới-tử nào thọ phép quy-y Tam-bảo xong, người giới-tử ấy trở thành tỳ-khưu.

Tuy nhiên, với điều kiện Ngài Trưởng-lão thầy tế-độ và giới-tử cả 2 bên đều đọc từng chữ, từng câu phải đúng

 
   
 

 

1 Vinayapiṭaka, Bộ Mahāvagga, phần Pabbajjūpasampadākathā.

 

theo ṭhāna, karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10 byañjanabuddhi gọi là ubhato suddhi thì giới-tử mới trở thành sa-di, tỳ-khưu được.

Như vậy, gọi là thọ tỳ-khưu bằng cách thọ phép quy-y Tam-bảo.

  1. Ovādapaṭiggahaṇūpasampadā như thế nào?

Đức-Phật giáo huấn Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa

3 điều rằng:

  • Này Kassapa! Trong Phật-giáo này, con nên thực- hành rằng:“Trước tiên ta nên biết hổ-thẹn tội-lỗi và biết ghê-sợ tội-lỗi đối với vị cao hạ, vị bằng hạ, vị nhỏ hạ.”
  • Này Kassapa! Trong Phật-giáo này, con nên thực- hành rằng:“Ta nên lắng nghe chánh-pháp, nên cung kính chánh-pháp, ghi nhớ đầy đủ mọi chánh-pháp ấy.”
  • Này Kassapa! Trong Phật-giáo này, con nên thực- hành rằng: “Ta nên thực-hành thân niệm-xứ.”

Khi Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa thọ nhận 3 điều giáo huấn của Đức-Phật, chính là sự thành tựu thọ tỳ-khưu của Ngài.

Như vậy, gọi là thọ tỳ-khưu bằng cách thọ nhận lời giáo huấn của Đức-Phật.

Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho Ngài Đại- Trưởng-lão Mahākassapa mà thôi.

  1. Pañhābyākaraṇūpasampadā như thế nào?

Tại ngôi chùa Pubbārāma, Đức-Phật đang ngự đi kinh hành. Khi ấy Sa-di Sopāka đến hầu đảnh lễ Đức- Phật. Đức-Phật bèn hỏi Sa-di Sopāka câu hỏi liên quan đến đề-mục asubha “bất-tịnh” rằng:

 

  • Uddhamātakasaññā’ti và Sopāka! rūpasaññā’ti vā ime dhammā nānatthā nānā byañjanā, udahu ekatthā byañjanameva nānā …
  • Này Sopāka! Niệm tưởng tử-thi 2-3 ngày sình lên hoặc niệm tưởng sắc-pháp, hai pháp này nghĩa khác nhau, danh từ gọi khác nhau? Hay nghĩa giống nhau, danh từ gọi khác nhau?”

Vị Sa-di Sopāka mới lên 7 tuổi, bạch với Đức-Phật rằng:

  • Uddhamātakasaññā’ti và Bhagavā rūpasaññā’ti vā ime dhammā ekatthā byañjanameva nānā ...
  • Kính bạch Đức Thế Tôn, niệm tưởng tử-thi 2-3 ngày sình lên hoặc niệm tưởng sắc-pháp, nghĩa giống nhau, chỉ có danh từ gọi khác nhau. Bạch Ngài.

Đức-Phật hài lòng câu trả lời của vị Sa-di Sopāka, nên

Đức-Phật cho phép vị Sa-di Sopāka trở thành tỳ-khưu.

Đó gọi là thọ tỳ-khưu bằng cách trả lời đúng câu hỏi của Đức-Phật.

Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho vị Sa-di Sopāka mà thôi.

  1. Ñatticatutthakammūpasampadā như thế nào?

Chư Thánh-Tăng đi du hành khắp mọi nơi thuyết- pháp tế độ chúng-sinh, các cận-sự-nam (upāsaka) phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, xin phép xuất gia trở thành tỳ-khưu càng ngày càng đông.

Cho nên, Đức-Phật bỏ cách thọ tỳ-khưu bằng cách thọ phép quy-y Tam-bảo rằng:

  • Yā sā bhikkhave, mayā tīhi saraṇagamanehi upasampadā anuññatā, taṃ ajjatagge paṭikkhipāmi.

 

  • Anujānāmi bhikkhave, ñatticatutthena kammena upasampādetuṃ.(1)
  • Này chư tỳ-khưu! Như-Lai đã cho phép thọ tỳ-khưu bằng cách thọ Tam-quy. Kể từ nay về sau, Như-Lai bỏ cách thọ tỳ-khưu ấy.
  • Này chư tỳ-khưu! Như-Lai cho phép thọ tỳ-khưu bằng cách tụng một lần ñatti (tuyên-ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành-sự-ngôn), gọi là ñatti- catutthakammavācā.”

Cách thọ tỳ-khưu này bắt đầu từ Ngài Trưởng-lão Rādha và được lưu truyền mãi cho đến ngày nay.

Hiện nay, trong các nước Phật-giáo theo truyền thống Nguyên-thuỷ Theravāda, như các nước Srilankā (Tích- Lan), nước Myanmar (Miến-Điện), nước Thailand (Thái-Lan), nước Cambodia (Cam-pu-chia), nước Laos (Lào), Phật-giáo Nguyên-Thủy Theravāda Việt-Nam, v.v… mặc dầu mỗi nước có ngôn ngữ khác nhau, song tất cả đều căn cứ theo Tạng Luật Pāḷi làm cơ bản.

Cho nên các nước Phật-giáo Theravāda vẫn cố gắng giữ gìn, duy trì y nguyên theo truyền thống thọ sa-di theo cách thọ phép quy-y Tam-bảo bằng tiếng Pāḷi, vị thầy tế-độ hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo, giới-tử thọ phép quy-y Tam-bảo, cả hai bên (giới-tử và vị thầy tế-độ) đều phải phát âm từng chữ, từng câu đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10 byañjanabuddhi gọi là ubhato suddhi thì giới-tử mới trở thành sa-di được.

Và nghi thức thọ tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-Tăng từ 5 vị tỳ-khưu thật trở lên hội họp tại nơi Sīmā, có 1 hoặc 2 hoặc 3 Ngài Trưởng-lão luật sư tụng ñatticatuttha-

 
   
 

 

1 Vinayapiṭaka, Bộ Mahāvagga, phần Paṇāmitakathā.

 

kammavācā: tụng một lần ñatti (tuyên-ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā (thành-sự-ngôn), phát âm từng chữ, từng câu phải đúng theo ṭhāna, karaṇa, payatana của văn phạm Pāḷi và đúng theo 10 byañjanabuddhi mới thành-tựu, giới-tử trở thành vị tỳ-khưu.

Như vậy, gọi là thọ tỳ-khưu bằng cách tụng ñatti- catutthakammavācā.

Ngoài cách thọ tỳ-khưu này ra, còn lại tất cả mọi cách hành-Tăng-sự (saṃghakamma) khác, chư tỳ-khưu-Tăng các nước hội họp tại Sīmā cũng tụng ñattikammavācā bằng tiếng Pāḷi, hầu như giống hệt nhau, kể cả tụng những bài kinh parittapāḷi nữa.

Đây là đặc tính chung của các nước Phật-giáo theo truyền thống nguyên-thủy Theravāda, bởi vì các nước này đều căn cứ y theo Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi làm nền tảng cơ bản chính để hành-tăng-sự (saṃgha- kamma) trong các nghi lễ trong Phật-giáo nguyên-thuỷ Theravāda.

 

Thọ Tỳ-Khưu-Ni (Bhikkhunī upasampadā)

Đức-Phật chế định ban hành phép thọ tỳ-khưu-ni có 3 cách như sau:

  1. Garudhammapaṭiggahaṇūpasampadā như thế nào?

Thời-kỳ Đức-Phật ngự tại giảng đường Kuṭāgāra trong khu rừng lớn thuộc xứ Vesalī. Khi ấy, bà Mahā- pajāpatigotamī cùng nhóm 500 cận-sự-nữ dòng Sakya tự cạo đầu, mặc y giống như bậc xuất-gia, đi chân không từ kinh-thành Kapilavatthu đến xứ Vesālī, đứng trước cổng giảng đường Kuṭāgāra, buồn tủi khóc than, vì Đức-Phật không cho phép phái nữ thọ tỳ-khưu-ni.

 

Ngài Trưởng-lão Ānanda nhìn thấy bá mẫu Mahā- pajāpatigotamī cùng nhóm 500 cận-sự-nữ dòng Sakya thật đáng thương như vậy, nên Ngài Trưởng-lão vào kính xin Đức-Phật cho phép người nữ được thọ tỳ-khưu- ni. Đức-Phật truyền dạy:

  • Nếu dì mẫu Mahāpajāpatigotamī chấp thuận thọ nhận 8 trọng pháp (garudhamma) thì đó là sự thọ tỳ- khưu-ni của dì mẫu.

Bà Mahāpajāpatigotamī cung kính chấp thuận, thọ nhận 8 trọng pháp mà Đức-Phật đã chế định ban hành vào hạ thứ 5 của Đức-Phật tại giảng đường Kuṭāgāra trong khu rừng lớn gần kinh-thành Vesālī.

Như vậy, gọi là thọ tỳ-khưu-ni bằng cách thọ nhận 8 trọng pháp.

Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho bà Mahā- pajāpatigotamī mà thôi. Vị Đại-đức tỳ-khưu-ni Mahā- pajāpatigotamī là vị tỳ-khưu-ni đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Còn 500 cận-sự-nữ dòng Sakya được Đức-Phật cho phép xuất gia thọ tỳ-khưu-ni chỉ có phái chư tỳ-khưu- Tăng tụng ñatticatutthakammavācā mà thôi, bởi vì chưa có tỳ-khưu-ni-tăng.

  1. Dūtenūpasampadā như thế nào?

Trường hợp cô Aḍḍhakāsī, trước khi thọ tỳ-khưu-ni, cô là một kỹ nữ nổi tiếng. Nay nữ-giới-tử Aḍḍhakāsī đã thọ tỳ-khưu-ni giữa tỳ-khưu-ni-Tăng rồi, chuẩn bị lên đường đi đến kinh-thành Sāvatthi để hầu đảnh lễ Đức- Phật và xin thọ tỳ-khưu-ni giữa tỳ-khưu-Tăng.

Nữ-giới-tử Aḍḍhakāsī hay tin có một nhóm trai trẻ ăn chơi sẽ đón đường bắt cô. Do đó, nữ-giới-tử không dám đi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, nên nhờ một người đại

 

diện đến bạch với Đức-Thế-Tôn về sự khó khăn, trở ngại của cô trong việc đi đến xin phép thọ tỳ-khưu-ni giữa chư tỳ-khưu-Tăng.

Đức-Phật biết sự việc như vậy, nên truyền dạy chư tỳ- khưu rằng:

  • Anujānāmi bhikkhave, dūtena pi upasampadetuṃ.
  • Này chư tỳ-khưu! Như-Lai cho phép nữ-giới-tử Aḍḍhakāsī thọ tỳ-khưu-ni bằng cách nhờ qua người đại diện.

Như vậy, gọi là thọ tỳ-khưu-ni bằng cách nhờ qua người đại diện.

Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho nữ-giới-tử Aḍḍhakāsī mà thôi.

  1. Aṭṭhavācīkūpasampadā như thế nào?

Trước khi thọ tỳ-khưu-ni, giới-tử là Sikkhāmānā được tu tập giữ gìn 6 giới hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn suốt 2 năm (nếu phạm giới nào, phải bắt đầu trở lại).

Khi giới-tử Sikkhāmānā đủ 2 năm rồi, được phép thọ giới tỳ-khưu-ni gồm có 2 giai đoạn.

* Giai đoạn đầu: Phái tỳ-khưu-ni-Tăng hội họp tại nơi Sīmā (ranh-giới Sīmā), có 2 hoặc 3 vị tỳ-khưu-ni luật sư tụng một lần ñatti (tuyên-ngôn) và tiếp theo tụng

3 lần Kammavācā (thành-sự-ngôn), gọi là ñatti- catutthakammavācā.

* Giai đoạn cuối: Giới-tử tỳ-khưu-ni ấy đến trình phái tỳ-khưu-Tăng hội họp tại nơi Sīmā, có 2 hoặc 3 vị tỳ- khưu luật sư tụng 1 lần ñatti và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā, gọi là ñatticatutthakammavācā.

Như vậy, cách thọ tỳ-khưu-ni phải hành-Tăng-sự giữa chư Tăng 2 phái: phái tỳ-khưu-ni-Tăng trước và tiếp theo phái  tỳ-khưu-Tăng  sau,  mỗi  phái  đều  tụng  ñatti-

 

catutthakammavācā, gồm đủ 8 lần, nên gọi là Aṭṭha- vācīkūpasampadā.

Đó là cách thọ tỳ-khưu-ni được áp dụng chung cho tất cả tỳ-khưu-ni.

Trong thời-kỳ Đức-Phật, bà Mahāpajāpatigotamī cùng nhóm 500 cận-sự-nữ dòng Sakya đến xin Đức-Phật thọ tỳ-khưu-ni.

Đặc biệt bà Mahāpajāpatigotamī cung kính chấp thuận thọ nhận 8 trọng-pháp của Đức-Phật đã ban hành. Đó là cách thọ tỳ-khưu-ni của bà Mahāpajāpatigotamī.

Còn nhóm 500 cận-sự-nữ dòng Sakya, Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu-ni, chỉ có phái tỳ-khưu-Tăng tụng 1 lần ñatti và tiếp theo tụng 3 lần kammavācā, gọi là ñatti- catutthakammavācā, bởi vì, khi ấy chưa có phái tỳ- khưu-ni-Tăng. Tất cả nhóm 500 cận-sự-nữ dòng Sakya trở thành tỳ-khưu-ni.

Kể từ đó về sau, nghi thức thọ tỳ-khưu-ni giữa chư Tăng 2 phái: phái tỳ-khưu-ni-Tăng trước và chư tỳ-khưu- Tăng sau, mỗi phái tụng ñatticatutthakammavācā, gồm đủ 8 lần gọi là Aṭṭhavācīkūpasampadā.

Tám Trọng-pháp (Aṭṭha Garudhamma)

  1. “Dù tỳ-khưu-ni có 100 hạ, cũng phải đứng dậy đón tiếp, chắp tay cung kính đảnh lễ tỳ-khưu vừa mới thọ tỳ- khưu trong ngày hôm ấy.”

Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực-hành theo cho đến trọn đời.

  1. “Tỳ-khưu-ni không nên an cư nhập hạ nơi chùa không có tỳ-khưu-Tăng.”

Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực-hành theo cho đến trọn đời.

 

  1. Tỳ-khưu-ni luôn luôn quan tâm 2 điều:
  • Hỏi ngày Uposatha: Ngày lễ tụng giới bổn.
  • Nghe lời giáo huấn của tỳ-khưu-Tăng hằng nửa tháng một lần.

Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực-hành theo cho đến trọn đời.

  1. “Tỳ-khưu-ni sau khi an cư nhập hạ xong, phải làm lễ Pavāraṇā: Thỉnh mời giữa chư Tăng 2 phái: phái tỳ- khưu-ni-Tăng và phái tỳ-khưu-Tăng.”

Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực-hành theo cho đến trọn đời.

  1. “Tỳ-khưu-ni phạm tội nặng (saṃghādisesa), phải bị hành phạt mānatta suốt 15 ngày giữa chư Tăng 2 phái: phái tỳ-khưu-ni-Tăng và phái tỳ-khưu-Tăng.”

Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực-hành theo cho đến trọn đời.

  1. “Giới-tử là Sikkhāmānā(1) đã thực-tập 6 giới trong sạch và đầy đủ suốt 2 năm, rồi mới được làm lễ thọ tỳ- khưu-ni giữa chư Tăng 2 phái: phái tỳ-khưu-ni-Tăng trước và phái tỳ-khưu-Tăng sau.”

Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời.

  1. “Tỳ-khưu-ni không được chửi rủa mắng nhiếc tỳ- khưu-Tăng trong bất cứ trường hợp nào.”

Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời.

  1. “Sau khi thọ tỳ-khưu-ni rồi, cấm dạy tỳ-khưu-Tăng, chỉ có tỳ-khưu dạy tỳ-khưu-ni mà thôi.”

1 Sikkhāmānā thực tập 6 giới: Ngũ giới + giới không ăn phi thời (quá giờ ngọ: 12 giờ) trong sạch suốt 2 năm. Trong thời gian thực tập, nếu phạm một giới nào vị Sikkhāmānā phải bắt đầu lại từ đầu.

 

Đó là điều mà tỳ-khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực-hành theo cho đến trọn đời.

Đó là 8 trọng pháp (aṭṭha garudhamma) mà chư tỳ- khưu-ni phải tôn trọng, cung kính thực-hành theo cho đến trọn đời.

Tỳ-Khưu Đầu Tiên Và Cuối Cùng Của Đức-Phật

  • Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm-lịch), đúng 2 tháng sau, vào ngày rằm tháng 6 (âm-lịch), Đức-Phật Gotama thuyết pháp bài kinh Chuyển-Pháp-Luân đầu tiên tại khu rừng Uruvelā, gần kinh-thành Bārāṇasī, tế độ nhóm 5 tỳ-khưu có Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña là trưởng nhóm.

Sau khi lắng nghe bài kinh này xong, chỉ có Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña là vị đầu tiên chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Nhập- lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu (Sotapanna) đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, nên Đức-Phật gọi Ngài Đại-Trưởng-lão với tên mới là Aññāsikoṇḍañña.

Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña kính xin Đức- Phật cho phép thọ sa-di, tỳ-khưu. Đức-Phật cho phép Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña thọ tỳ-khưu theo cách thức gọi “Ehi Bhikkhu!

Khi Đức-Phật vừa dứt lời, ngay khi ấy, Ngài Đại- Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña trở thành tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu, có tăng tướng trang nghiêm, thân, khẩu, ý thanh-tịnh như một Ngài Đại-đức có 60 hạ.

Như vậy, Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña vị tỳ-khưu Thánh-Tăng đầu tiên trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama, đồng thời Tam-bảo: Đức-Phật-bảo,

 

Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo đầy đủ trọn vẹn xuất hiện trên thế gian.

Từ đó về sau, Đức-Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh suốt 45 năm, đến ngày rằm tháng tư (âm lịch), tại khu rừng Kusinārā, trước khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, có vị đạo-sĩ ngoại đạo Subhadda đến hầu đảnh lễ Đức- Phật, kính xin phép hỏi những điều hoài-nghi mà chưa có một vị Đạo-sư nào có thể giải đáp làm cho ông hài lòng được.

Đức-Phật biết rõ vị đạo-sĩ Subhadda này có duyên lành với Đức-Phật, chỉ có Đức-Phật mới tế độ vị đạo-sĩ Subhadda này được, nên Đức-Phật ngự đến khu rừng Kusinārā này để tịch diệt Niết-bàn, chờ tế độ vị đạo-sĩ Subhadda người đệ-tử cuối cùng của Đức-Phật Gotama.

Vị đạo-sĩ Subhadda bạch hỏi những điều hoài-nghi, nhưng Đức-Phật không trực tiếp giải đáp câu hỏi, mà Đức-Phật thuyết giảng trong giáo-pháp của Đức-Phật có pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, nên mới có bậc Thánh thứ nhất là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh thứ nhì là bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh thứ ba là bậc Thánh Bất-lai và bậc Thánh thứ tư là bậc Thánh A-ra- hán cao-thượng nhất.

Lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp như vậy, vị đạo-sĩ Subhadda phát sinh đức-tin trong sạch trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, kính xin Đức-Phật cho phép thọ sa-di, tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Sau khi trở thành tỳ-khưu không lâu, vị tỳ-khưu Subhadda thực-hành pháp-hành thiền-tuệ liền dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái,

 

mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A- ra-hán, trước khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn.

Vậy, Ngài Trưởng-lão Subhadda là vị tỳ-khưu cũng là bậc Thánh A-ra-hán cuối cùng của Đức-Phật Gotama.

Đức-Tăng có 2 hạng

  • Thánh-Tăng (Ariyasaṃgha)
  • Phàm-Tăng (Puthujjanasaṃgha) 1- Thánh-Tăng là thế nào?

Thánh-Tăng (Ariyasaṃgha) gồm có nhiều tỳ-khưu

bậc Thánh (Ariyabhikkhu) đã diệt tận được phiền não, tham-ái, ác-pháp ... tùy theo khả năng của Thánh-đạo- tuệ của mỗi bậc Thánh tỳ-khưu.

Tỳ-khưu Thánh-Tăng có 4 bậc

  • Tỳ-khưu Thánh-Nhập-lưu chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
  • Tỳ-khưu Thánh-Nhất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
  • Tỳ-khưu Thánh-Bất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
  • Tỳ-khưu Thánh A-ra-hán.

Chư tỳ-khưu-Tăng đều là bậc Thánh-nhân gọi là chư Thánh-Tăng.

2- Phàm-Tăng là thế nào?

Phàm-Tăng (Puthujjanasaṃgha) gồm có chư tỳ-khưu phàm-nhân (puthujjanabhikkhu) có từ 5 vị tỳ-khưu trở lên, chưa diệt tận được phiền-não, tham-ái, ác-pháp nào.

 

Khả năng của bậc Thánh-nhân

  • Các bậc Thánh-nhân ngang bằng nhau, có khả năng biết lẫn nhau, qua cuộc đàm đạo với nhau, hoặc biết bằng tha-tâm-thông của bậc Thánh-nhân.
  • Thánh-nhân bậc thấp không có khả năng biết Thánh-nhân bậc cao, mà chỉ có Thánh-nhân bậc cao có khả năng biết Thánh-nhân bậc thấp mà thôi.
  • Tất cả mọi hạng phàm-nhân hoàn toàn không có khả năng biết được các bậc Thánh-nhân, bởi vì, muốn biết bậc Thánh-nhân phải biết bằng tuệ-nhãn (paññā- cakkhu), không phải thấy bằng mắt-thường (maṃsa- cakkhu) hoặc trí-tuệ của hạng phàm-nhân.

 

Đức-Tăng suy-đồi

Sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, trải qua thời gian lâu dài về sau theo tuần tự thời gian tuổi thọ của Phật- giáo 5.000 năm, pháp-thành Phật-giáo dần dần bị mai một, bị suy đồi, pháp-hành Phật-giáo cũng dần dần bị mai một, bị suy đồi, cuối cùng pháp-học Phật-giáo cũng dần dần bị mai một, bị suy đồi. Cho nên, trải qua thời gian lâu dài về sau, Đức-Tăng cũng dần dần bị mai một, bị suy đồi.

Theo lịch sử Phật-giáo Theravāda, kỳ kết tập Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư tại đảo quốc Srilankā, Phật-lịch 450 năm sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, chư tỳ-khưu-Tăng và chư tỳ-khưu-ni-Tăng vẫn còn đông đủ.

  • Theo bản dịch tiếng Myanmar Theragāthā và Therī- gāthā, phần nói đầu, mục tỳ-khưu-ni bắt đầu và kết thúc được tóm lược như sau:

 

  • Tỳ-khưu-ni bắt đầu từ hạ thứ 5 của Đức-Phật tại giảng đường Kuṭāgāra, gần kinh thành Vesālī, bà Mahā- pajāpatigotamī là vị tỳ-khưu-ni đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama cùng với 500 cận-sự-nữ dòng Sakya xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni. Từ đó, chư tỳ-khưu- ni-Tăng càng ngày càng được phát triển đông thêm ở trong nước.

Đến thời-kỳ Đức-vua Asoka lên ngôi khoảng 218 năm sau khi Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn, Đức-vua là Đấng Minh-quân trị vì cõi Nam-thiện-bộ-châu, cũng là người cận-sự-nam (upāsaka) có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, nên Phật-giáo được phát triển mạnh, chư tỳ-khưu và chư tỳ-khưu-ni rất đông.

Đức-vua Asoka không chỉ hộ độ chư tỳ-khưu-Tăng và chư tỳ-khưu-ni tăng trong nước, mà còn hộ độ gửi các phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng đi sang truyền bá Phật-giáo các nước lân cận.

Phật lịch năm 236, Đức-vua Asoka gửi phái đoàn gồm có 5 Ngài Trưởng-lão Ngài Trưởng-lão Mahinda(1) làm trưởng đoàn sang đảo quốc Srilankā để truyền bá Phật-giáo. Vào thời-kỳ ấy, Đức-vua Devanampiyatissa trị vì đảo quốc Srilankā này là bạn thân của Đức-vua Asoka, nên Phật-giáo được phát triển tốt, có nhiều người cận-sự-nam (upāsaka) xuất gia trở thành tỳ-khưu, cũng có những cận-sự-nữ (upāsikā) có ý nguyện muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni.

Đức-vua Asoka gửi phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu- ni-Tăng do Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Saṃghamittā (2) làm

1 Ngài vốn Thái-tử Đức-vua Asoka, nay bậc Thánh A-ra-hán.

2 Ngài vốn Công-chúa của Đức-vua Asoka, nay bậc Thánh A-ra-hán.

 

trưởng đoàn sang đảo quốc Srilankā, để làm lễ xuất-gia trở thành tỳ-khưu-ni cho những cận-sự-nữ (upāsikā) trong hoàng tộc và dân chúng.

Trên đảo quốc Srilankā, Phật-giáo được thịnh hành và phát triển tốt, từ Đức-vua cùng các quan trong triều cho đến dân chúng có đức-tin nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có nhiều người xuất gia trở thành tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni rất đông.

Đến thời-kỳ Đức-vua Vaṭṭagāmani là cận-sự-nam (upāsaka) có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật- bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, hộ độ chư Ngài Đại- Trưởng-lão trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi tại đảo quốc Srilankā vào khoảng thời gian 450 năm sau khi Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn.

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ tư này, trọn bộ Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được ghi chép bằng chữ viết trên lá buông, suốt 1 năm mới hoàn tất, rồi chư Ngài Đại-Trưởng-lão kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng khẩu một lần nữa.

Trong khoảng thời gian ấy, trên đảo quốc Srilankā, chư tỳ-khưu-Tăng và chư tỳ-khưu-ni-Tăng vẫn còn.

  • Theo sự nhận định của chư Đại-Trưởng-lão dịch bộ Theragāthā và Therīgāthā, phần nói đầu bằng tiếng Myanmar. Về sau thời gian đến khoảng sau Phật-lịch 500 năm tỳ-khưu-ni không còn nữa, chỉ còn chư tỳ- khưu-Tăng trên đảo quốc Srilankā mà thôi.

Hiện nay, chư tỳ-khưu-Tăng theo truyền thống Phật- giáo nguyên-thuỷ Theravāda đang hiện hữu trong các nước Tích Lan (Srilankā), nước Miến Điện (Myanmar), nước Thái Lan, nước Lào, nước Campuchia, v.v… rất đông.

 

Trong thời vị-lai, theo diễn tiến thời gian về sau, chư tỳ-khưu càng ngày càng dần dần giảm đức-tin nơi Tam- bảo, dần dần giảm trí-tuệ hiểu biết đúng đắn trong pháp- học Phật-giáo.

Đó là nguyên-nhân làm cho pháp-thành Phật-giáo dần dần bị mai một, bị suy thoái; pháp-hành Phật-giáo dần dần bị mai một, bị suy thoái; và pháp-học Phật-giáo dần dần bị mai một, bị suy thoái theo thời gian theo tuổi thọ của Phật-giáo 5.000 năm.

Mặc dù Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi và Tạng Kinh Pāḷi bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, chỉ còn Tạng Luật Pāḷi, thì Phật-giáo vẫn chưa bị mai một, chưa bị suy đồi.

Đến khi Tạng Luật Pāḷi bắt đầu dần dần bị mai một, bị suy thoái, mà chư tỳ-khưu-Tăng vẫn còn hành-tăng-sự (Saṃghakamma) trong những ngày giới uposathakamma hằng tháng, và hành-tăng-sự lễ thọ tỳ-khưu, v.v… thì Đức-Tăng vẫn chưa bị mai một, chưa bị suy đồi.

Theo quá trình diễn tiến của thời gian về sau, tỳ-khưu càng ngày càng dần dần giảm đức-tin nơi Tam Bảo, cho nên có số tỳ-khưu không tôn trọng nghiêm chỉnh giữ gìn tất cả mọi điều-giới luật mà Đức-Phật đã chế định và ban hành đến chư tỳ-khưu.

Số tỳ-khưu ấy coi thường, nên phạm các điều-giới nhẹ (lahuka āpatti), phạm giới nói bậy (dubbhāsita āpatti), phạm giới hành bậy (dukkaṭa āpatti) rồi dần dần phạm giới pācittiya (pācittiya āpatti), cho đến phạm giới trọng (thullaccaya āpatti).

Những giới điều này thuộc về giới nhẹ (lahuka āpatti), vị tỳ-khưu nào đã phạm những giới nhẹ này, nếu biết tôn trọng giới thì vị tỳ-khưu ấy có thể làm lễ sám hối những giới ấy với một vị tỳ-khưu khác không phạm

 

giới ấy. Sau khi đã sám hối xong, vị tỳ-khưu ấy có giới trong sạch trở lại.

Theo tuần tự thời gian lâu dài về sau, tỳ-khưu phạm giới nặng (garuka āpatti).

Giới nặng có hai loại giới là điều-giới saṃghādisesa (giới xin hành phạt) và điều-giới pārājika (giới bại hoại phẩm hạnh tỳ-khưu).

  • Nếu vị tỳ-khưu nào đã phạm giới saṃghādisesa (Saṃghādisesa āpatti) nào thì vị tỳ-khưu ấy vẫn còn phẩm hạnh tỳ-khưu, nhưng vị tỳ-khưu ấy đã phạm giới mà không thể sám hối được, bởi vì giới saṃghādisesa này thuộc về giới nặng, nên vị tỳ-khưu ấy phải xin chịu hành phạt và trải qua 3 giai đoạn hành parivāsakamma, mānattakamma, abbhānakamma để cho giới được trong sạch trở lại, theo luật mà Đức-Phật đã chế định và ban hành đến chư tỳ-khưu.
  • Nếu vị tỳ-khưu nào phạm giới Pārājika (Pārājika āpatti: Phạm giới bại hoại phẩm hạnh tỳ-khưu) thì vị tỳ- khưu ấy mất phẩm-hạnh tỳ-khưu, phải hoàn tục trở lại người cận-sự-nam tại gia, hoặc có thể xuống bậc thấp, trở thành vị sa-di suốt đời, không bao giờ thọ tỳ-khưu được nữa.

Trong thời vị-lai, Tạng Luật Pāḷi bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, do tỳ-khưu phàm-nhân không còn hiểu biết về giới luật, về cách hành-tăng-sự, …

Chư tỳ-khưu ấy có những hành vi cử chỉ, nói năng biểu hiện ra nơi thân và khẩu không làm cho người khác phát sinh đức-tin. Tỳ-khưu ấy không hành thiện-pháp mà hành ác-pháp do bởi phiền-não, tham-ái, tạo nên ác- nghiệp do thân, khẩu, ý, tự làm khổ mình, làm khổ người.

Trong thời vị-lai, gần mãn tuổi thọ Phật-giáo 5.000

 

năm, tỳ-khưu chỉ còn là cái tên gọi bhikkhu: tỳ-khưumà không có giới của tỳ-khưu, mặc y nhuộm không đúng màu theo Đức-Phật đã chế định.

Trải qua thời gian sau nữa, tỳ-khưu may y vai trái mặc choàng phần trên thân, y nội mặc che phần dưới thân, không còn cắt ra thành 5 hoặc 7 điều như luật Đức- Phật đã chế định, chỉ may tấm vải dính lại để mặc.

Khi chư tỳ-khưu đi khất thực, không ôm bát đàng hoàng, mà chỉ cầm cái bát bằng bàn tay, giống như nhóm ngoại đạo hành khất xin ăn.

Thời gian sau nữa, tỳ-khưu ấy nghĩ: “Lợi ích gì chúng ta mặc tấm vải y lớn này, ta chỉ cần cắt một mảnh y nhỏ quấn vào cổ, hoặc cột vào cổ tay, hoặc quấn trên đầu để thuận tiện làm công việc nuôi sống gia đình.”

Tuy vậy, Đức-Phật dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

  • Này Ānanda! Trong thời vị-lai, có hạng người tên gọi là tỳ-khưu “bhikkhu” chỉ còn mảnh y nhỏ quấn cổ, hoặc cột ở cổ tay là người phạm giới, hành ác-pháp, nhưng thí chủ có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có tác-ý thiện-tâm làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng, trong số tỳ-khưu không có giới ấy.
  • Này Ānanda! Người thí-chủ làm phước-thiện bố-thí, sự cúng dường đến chư tỳ-khưu-Tăng trong thời vị-lai ấy, Như-Lai dạy rằng:

“Phước-thiện bố-thí ấy vẫn có quả-báu vô lượng không sao kể xiết được.”

Như-Lai không hề dạy trực tiếp hoặc gián tiếp rằng: “Thí chủ làm phước-thiện bố-thí đến cá nhân thọ-thí,

được quả báu nhiều hơn là làm phước-thiện bố-thí đến

chư tỳ-khưu-Tăng-thí.”(1)

1 Maj. Uparipaṇṇāsa. Kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta.

 

Qua đoạn kinh trên, Đức-Phật dạy những thí chủ làm phước-thiện bố-thí cúng dường, với tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm hướng tâm đến chư tỳ-khưu-Tăng, nên thí-chủ có được phước-thiện bố-thí vô lượng.

Thật ra, chỉ có cá nhân tỳ-khưu phạm giới (bhikkhu dussīla) mà thôi.

Tiếp theo qua thời gian về sau nữa, tỳ-khưu ấy nghĩ rằng: “Lợi ích gì mảnh y nhỏ quấn vào cổ, hoặc cột vào cổ tay này.”

Chư tỳ-khưu ấy cởi vất bỏ mảnh y nhỏ kia, mặc bộ đồ màu trắng setavatthaṃcủa người tại gia. Khi ấy, hình tướng của tỳ-khưu hoàn toàn bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn (liṅga antaradhāna).

Phật-Giáo suy đồi

Đến 5.000 năm mãn tuổi thọ của Phật-giáo, khi ấy, Phật-giáo hoàn toàn không còn nữa, nghĩa là Đức-Pháp pháp-thành Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp- học Phật-giáo Đức-Tăng chư tỳ-khưu-Tăng thanh- văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama hoàn toàn không còn trên cõi người này, do không có tỳ-khưu thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật giữ gìn duy trì Phật-giáo nữa.

Xá-lợi Đức-Phật Niết-bàn (Dhātuparinibbāna)

Đức-Phật Gotama có ba loại Niết-bàn:

  1. Kilesaparinibbāna: Phiền-não Niết-bàn.
  2. Khandhaparinibbāna: Ngũ-uẩn Niết-bàn.
  3. Dhātuparinibbāna: Xá-lợi Đức-Phật Niết-bàn.

Parinibbāna nghĩa là “tịch-diệt” khi tịch diệt rồi không còn nhân-duyên (paccaya) phát sinh lại nữa gọi là parinibbāna, cũng gọi là Nibbāna.

 

Thông thường, các pháp-hữu-vi (saṅkhatadhamma) tâm, tâm-sở, sắc-pháp được cấu tạo do bởi 4 nhân- duyên: nghiệp (kamma), tâm (citta), thời-tiết (utu), vật- thực (āhāra), cho nên, pháp-hữu-vi này sau khi diệt rồi, còn có nhân-duyên, nên phát sinh pháp-hữu-vi khác liên tục không ngừng, từ kiếp này sang kiếp khác, từ vô thuỷ cho đến kiếp hiện-tại cuối cùng của bậc Thánh A- ra-hán.

Song Niết-bàn thuộc về pháp-vô-vi (asaṅkhata- dhamma), không do bởi một nhân-duyên nào cấu tạo, cho nên khi tịch diệt rồi không có nhân-duyên nào làm cho phát sinh được nữa.

  • Đức Bồ Tát Siddhattha chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não không còn dư sót nữa, gọi là Kilesa- parinibbāna: Phiền-não Niết-bàn (nghĩa là tất cả mọi phiền-não đã diệt rồi, vĩnh viễn không có nhân-duyên phát sinh phiền-não được nữa), tại cội Đại-Bồ-đề trong khu rừng Uruvelā (nay gọi là Buddhagayā, tại nước Ấn- Độ) vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm-lịch), trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, lúc ấy tròn đúng 35 tuổi.
  • Đức-Phật Gotama thuyết-pháp tế độ chúng-sinh suốt 45 năm. Đến ngày rằm tháng tư (âm-lịch) Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn gọi là Khandhaparinibbāna: Ngũ-uẩn Niết-bàn (nghĩa là ngũ-uẩn đã diệt rồi, vĩnh viễn không có nhân-duyên sinh ngũ-uẩn khác được nữa), tại khu rừng Kusinārā. Đức-Phật tròn đúng 80 tuổi.

 

  • Trong thời vị-lai, khi Phật-giáo bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn trong cõi người này, khi ấy, tất cả mọi Xá- lợi của Đức-Phật Gotama đều tịch diệt Niết-bàn gọi là Dhātuparinibbāna: Xá-lợi Đức-Phật Gotama Niết-bàn hoàn toàn không còn viên nào dù nhỏ nhất bằng hạt cải.

Xá-lợi Đức-Phật Gotama Niết-bàn như thế nào?

Xá-lợi Đức-Phật Gotama Niết-bàn nghĩa là tất cả mọi Xá-lợi cỡ lớn nhỏ của Đức-Phật Gotama đều tịch diệt Niết-bàn, không còn dư sót lại trong toàn các cõi-giới chúng sinh.

Chư Phật Chánh-Đẳng-Giác mới có Xá-lợi Đức- Phật Niết-bàn, còn chư Phật-Độc-Giác, chư Thánh A- ra-hán thanh-văn-giác chỉ có Phiền-não Niết-bàn Ngũ-uẩn Niết-bàn mà thôi, không có Xá-lợi Niết-bàn.

Do năng lực phát nguyện của Đức-Phật Gotama, đến khi Phật-giáo bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn mất hẳn trong cõi người này, loài người không còn biết lễ bái cúng dường Xá-lợi của Đức-Phật Gotama nữa.

Khi ấy, tất cả Xá-lợi của Đức-Phật Gotama hiện có trên toàn cõi người, cõi Long-vương, cõi trời dục-giới, Xá-lợi của Đức-Phật Gotama dù lớn, dù nhỏ như hạt cải cũng đều tụ hội lại một chỗ tại cội Đại-Bồ-đề xưa, nơi mà Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, nay gọi là Buddhagayā, tại nước Ấn-Độ.

Tất cả mọi Xá-lợi của Đức-Phật Gotama dù lớn dù nhỏ đều kết dính lại thành pho tượng kim thân Đức- Phật Gotama trong tư thế ngồi kiết già có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ ngồi ngự tại cội Đại-Bồ-đề, phát ra hào quang sáu màu, như

 

phép thần thông, giống như hồi Đức-Phật hóa phép- thần-thông yamakapaṭihāriya.

Trong thời-kỳ ấy, loài người không có một ai đến chiêm-bái cúng dường, bởi vì loài người không còn ai hiểu biết đến Xá-lợi Đức-Phật Gotama, mà chỉ có chư- thiên, chư phạm-thiên trong mười ngàn cõi giới tụ hội chiêm-bái cúng dường, than vãn rằng:

“Ajja satthā parinibbāti, ajja sāsanaṃ osakkati, pacchimadassanaṃ dāni idaṃ amhākaṃ.(1)

“Hôm nay, Đức-Thế-Tôn là bậc Thiên-Nhân-sư tịch diệt Xá-lợi Niết-bàn, hôm nay, Phật-giáo bị tiêu diệt hoàn toàn. Bây giờ, đây là sự chiêm-bái cúng dường Xá- lợi Đức-Phật lần cuối cùng của chúng ta.”

Sau đó, hỏa-đại (chất lửa) phát xuất từ pho tượng kim thân Đức-Phật Gotama. Thật phi thường chưa từng có, ngọn lửa phát ra từ pho tượng kim thân Đức-Phật Gotama phóng lên tận cõi trời phạm-thiên. Khi viên Xá-lợi nhỏ bằng hạt cải còn, thì ngọn lửa vẫn còn, cho đến khi tất cả mọi Xá-lợi của Đức-Phật Gotama đều bị tịch diệt mất hẳn không còn dư sót lại. Khi ấy, ngọn lửa mới tắt hẳn.

Như vậy, gọi là Xá-lợi Đức-Phật Niết-bàn nghĩa là tất cả Xá-lợi của Đức-Phật Gotama đều tịch diệt lần cuối cùng trên thế gian này, đồng thời giáo-pháp của Đức-Phật Gotama cũng bị tiêu hoại hoàn toàn trong cõi người, bởi vì, các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama không còn trong cõi người này nữa.

Song các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama là chư-thiên, chư phạm-thiên gồm cả bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama lẫn hạng phàm là chư-thiên, chư phạm-thiên vẫn còn trong các cõi trời

1 Chú-giải Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta.

 

dục-giới, cõi trời sắc-giới phạm-thiên, cõi trời vô-sắc- giới phạm-thiên cho đến mãn kiếp của họ.

Toàn thể chư-thiên, chư phạm-thiên phát sinh động- tâm (saṃvega), thành kính cúng dường những đóa hoa trời, vật thơm trời, cúng dường Xá-lợi Đức-Phật Gotama.

Còn chư-thiên, chư phạm-thiên còn phàm (chưa phải là Thánh) phát nguyện rằng:

“Anāgate uppajjanakaṃ Buddhaṃ passituṃ labhissāma Bhagavā.(1)

“Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do phước-thiện lễ bái cúng dường Xá-lợi Đức-Phật Gotama này, cầu mong tất cả chúng con có duyên lành sẽ đến hầu Đức-Phật xuất hiện trong thời vị-lai.”

Phát nguyện xong, chư-thiên, chư phạm-thiên trở về cõi trời của mình. Từ đó, cõi người mất hẳn ánh sáng của chánh-pháp, ác-pháp càng ngày càng tăng trưởng, ngược lại thiện-pháp càng ngày càng suy thoái dần dần, nỗi khổ thân, khổ tâm càng ngày càng tăng, tuổi thọ con người càng ngày càng giảm. Khi mọi ác-pháp càng tăng trưởng, thì tuổi thọ con người lại càng giảm dần, giảm dần cho đến khi tuổi thọ con người còn khoảng 10 năm.

Vào thời-kỳ ấy, nạn chém giết lẫn nhau sẽ xảy ra vô cùng tàn khốc, khủng khiếp, không còn biết phân biệt bà con thân bằng quyến thuộc, bạn bè, anh em, thậm chí không còn biết đến cha mẹ con cái nữa.

Một số người hoảng sợ sẽ chạy vào rừng trốn thoát thân, khi biết nạn chém giết không còn nữa, nên số người ấy gặp lại nhau, cam kết với nhau sẽ không giết hại lẫn nhau nữa.

1 Chú-giải Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta.

 

Con người bắt đầu biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội- lỗi, biết giữ giới, thiện-pháp bắt đầu tăng trưởng dần dần, còn ác-pháp bắt đầu suy thoái dần dần. Nhờ vậy, tuổi thọ con người càng ngày càng tăng trưởng lên từ 10 năm, 20 năm, 100 năm, 1.000 năm, 1000 ngàn năm, v.v…

Khi mọi thiện-pháp càng ngày càng tăng trưởng lên, thì tuổi-thọ con người tăng dần, tăng dần cho đến tột đỉnh A-tăng-kỳ năm.(1)

Thời-kỳ ấy, con người có tuổi thọ sống lâu, nên sinh tâm dể duôi (thất niệm), ác-pháp lại bắt đầu phát sinh ... Do nguyên nhân ấy làm cho tuổi-thọ con người giảm dần, giảm dần cho đến thời-kỳ con người có tuổi thọ khoảng 80 ngàn năm.

Trong thời vị-lai, thời-kỳ con người có tuổi thọ khoảng 80 ngàn năm, khi ấy, Đức-Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian, cùng trong kiếp trái đất này mà chúng ta đang sống.

Kiếp trái đất này gọi là Bhaddakappa có nhiều diễm phúc nhất, bởi vì Bhaddakappa này có 5 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác theo tuần tự xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất này.

Mỗi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian đều có khoảng cách thời gian trải qua một chu kỳ tuổi thọ con người giảm dần đến tột cùng chỉ còn 10 năm, rồi tuổi thọ lại tăng dần đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm (số 1 đứng đầu theo sau có 140 số 0), rồi tuổi thọ lại giảm dần đến thời-kỳ tuổi thọ con người mà Đức-

1 A-tăng-kỳ năm tính theo số lượng, số 1 đứng đầu theo sau 140 số không (0), viết tắt là 10140.

 

Phật Chánh-Đẳng-Giác chọn thời điểm xuất hiện trên thế gian như sau:

Trong thời-kỳ quá khứ đã có 3 Đức-Phật xuất hiện theo tuần tự trong kiếp trái đất này:

  1. Đức-Phật Kakusandha xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 40 ngàn năm.
  2. Đức-Phật Koṇāgamana xuất hiện trên thế gian vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 30 ngàn năm.
  3. Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian vào thời

đại con người có tuổi thọ khoảng 20 ngàn năm.

Trong thời hiện-tại Đức-Phật Gotama của chúng ta xuất hiện trên thế gian trong thời đại con người có tuổi thọ khoảng 100 năm. Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết- bàn lúc tròn 80 tuổi.

Trong thời vị-lai, trong cùng kiếp trái đất gọi là Bhaddakappa này, vào thời đại con người có tuổi thọ khoảng 80 ngàn năm, Đức-Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian. Đức-Phật Metteyya có tuổi thọ 80.000 năm mới tịch diệt Niết-bàn.

Con người đang sinh sống trong thời-kỳ 1 a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất. Trong thời vị-lai, sau khi Đức-Phật Metteyya tịch diệt Niết-bàn, và giáo-pháp của Đức-Phật Metteyya bị mai một, bị tiêu hoại hoàn toàn trong cõi người, ác-pháp dần dần tăng trưởng, còn thiện-pháp lại dần dần bị suy thoái, tuổi thọ con người cũng dần dần giảm xuống đến cùng tột.

Đến thời cuối cùng, kiếp trái đất này sẽ bị tiêu hoại dần không có chúng-sinh nào sinh sống, trải qua 1 a- tăng-kỳ hoại trái đất không còn nữa, rồi sẽ tiếp đến 1 a- tăng-kỳ không, rồi sẽ tiếp đến 1 a-tăng-kỳ thành một kiếp trái đất mới khác chưa có chúng-sinh nào đến sinh.

 

Như vậy, 1 đại-kiếp trái đất trải qua 4 a-tăng-kỳ: 1 a- tăng-kỳ thành, 1 a-tăng-kỳ trụ, 1 a-tăng-kỳ hoại, 1 a- tăng-kỳ không.

Các loài chúng-sinh chỉ sinh sống trong 1 a-tăng-kỳ trụ của kiếp trái đất mà thôi.

Theo lịch sử tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, từ Đức- Phật này đến Đức-Phật kia có khi trải qua vô số kiếp trái đất không có Đức-Phật nào xuất hiện trên thế gian gọi là Suññakappa: Kiếp trái đất không có Đức-Phật.

Kiếp trái đất mà chúng ta đang sinh sống, thật là vô cùng diễm phúc, có đến 5 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian là:

Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇāgamana, Đức- Phật Kassapa, Đức-Phật Gotama, Đức-Phật Metteyya.

 

(Chương I: Ba Ngôi Cao Cả đã trình bày xong)

 

 

 

CHƯƠNG II

TAM-BẢO (RATANATTAYA)

Chương I Ba Ngôi Cao Cả đã trình bày xong, tiếp theo chương II Tam-Bảo: Ratanattaya như sau:

Ratana: Bảo là gì?

Bảo hay báu (ratana) nghĩa là những gì quý báu đáng hài lòng, đáng hoan hỷ, đáng tôn trọng nhất.

Chú-giải bài kinh Dhātuvibhaṅgasutta(1) trình bày những châu báu (ratana) được tóm lược như sau:

Chọn món quà vô giá

Đức-vua Bimbisāra ngự tại kinh-thành Rājagaha trị vì quốc độ Magadha (trung-xứ), Đức-vua muốn chọn một món quà quý báu nhất để gửi biếu Đức-vua Pukkusāti, người bạn thân thiết ngự tại kinh-thành Takkasīlā ở xứ biên địa. Đức-vua Bimbisāra suy xét rằng:

Trong đời này châu báu có hai loại:

  • Vật báu là vàng, bạc, kim cương, ngọc maṇi, ...
  • Sinh-mạng báu là những chúng-sinh cao quý, ... Trong hai loại báu này, sinh-mạng báu là cao quý hơn. Sinh-mạng báu có hai loại:
  • Gia-súc báu là ngựa báu, voi báu, ...
  • Nhân-loại báu là bậc thiện-trí có tài, có đức, ... Trong hai loại báu này, nhân-loại báu là cao quý hơn.

1 Majjhimanikāya, Uparipaṇṇāsa, Kinh Dhātuvibhaṅgasutta.

 

Nhân-loại báu có hai hạng:

  • Nữ báu là Chánh-cung Hoàng-hậu của Đức-Chuyển- luân Thánh-vương.
  • Nam báu là Đức-Chuyển-luân Thánh-vương.

Trong hai loại báu này, nam báu quý hơn nữ báu, bởi vì người nữ quý trọng người nam.

Nam báu có hai hạng:

  • Người tại gia báu là Đức-vua, Đức-Chuyển-luân Thánh-vương, ...
  • Bậc xuất-gia báu là vị sa-di, vị tỳ-khưu, ...

Trong hai hạng người báu này, dù là Đức-vua hay Đức-Chuyển-luân Thánh-vương cũng cung kính đảnh lễ vị sa-di, vị tỳ-khưu.

Vì vậy, bậc xuất-gia báu là cao quý hơn cả. Bậc xuất-gia báu có hai bậc:

  • Bậc Hữu-học báu là hạng thiện-trí phàm-nhân và 3

bậc Thánh-nhân: Bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất- lai, bậc Thánh Bất-lai là bậc còn phải học và hành giới- định-tuệ.

  • Bậc Vô-học báu bậc Thánh A-ra-hán là Bậc đã học và hành giới-định-tuệ đầy đủ xong rồi, không còn học và hành giới-định-tuệ nữa.

Ân-đức của 100 ngàn vị Thánh Hữu-học cũng không bằng ân-đức của một vị Thánh Vô-học (bậc Thánh A- ra-hán).

Vì vậy, trong hai bậc Thánh này, bậc Thánh Vô-học (bậc Thánh A-ra-hán) là cao quý hơn cả.

Bậc Thánh Vô-học báu có hai bậc:

  • Bậc Thánh Thanh-văn Vô-học báu bậc Thánh A- ra-hán thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

 

  • Đức-Phật-bảo là Bậc chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, gọi là Đức-Phật-bảo.

Ân-đức của 100 ngàn vị Thánh thanh-văn Vô-học báu, cũng không bằng ân-đức của một Đức-Phật-bảo.

Vì vậy, trong hai Bậc này, Đức-Phật-bảo là cao thượng hơn cả.

Đức-Phật-bảo có hai bậc:

  • Đức-Phật Độc-Giác là Bậc chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, gọi là Đức-Phật Độc-Giác.

Đức-Phật Độc-Giác có nhiều Vị cùng một thời, song Đức-Phật Độc-Giác không giáo huấn chúng-sinh cùng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài, nên không có người chứng đắc thành bậc Thánh-nhân.

  • Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác là Bậc chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị trong toàn cõi-giới chúng-sinh.

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có khả năng đặc biệt thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn được.

Ân-đức của 100 ngàn Đức-Phật Độc-Giác cũng không bằng ân-đức của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Vì vậy, trong hai Đức-Phật-bảo này, Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác là cao thượng hơn cả.

 

Sau khi suy xét xong, Đức-vua Bimbisāra truyền hỏi nhóm sứ giả của Đức-vua Pukkusāti rằng:

  • Này các khanh! Đức-vua Pukkusāti ngự tại kinh- thành Takkasīlā có hay biết Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức- Tăng đã xuất hiện trên thế gian này hay không?

Đoàn sứ giả tâu với Đức-vua Bimbisāra rằng:

  • Muôn tâu Đại-vương, trong kinh-thành Takkasīlā chưa từng nghe đến danh hiệu của Đức-Phật, Đức- Pháp, Đức-Tăng, thì Đức-vua của hạ thần làm sao hay biết được Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng đã xuất hiện trên thế gian. Tâu Đại-vương.

Đức-vua Bimbisāra suy xét rằng:

“Đức-vua Pukkusāti người bạn thân thiết của ta chưa hề hay biết Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng đã xuất hiện trên thế gian.

Vậy, ta nên chọn Ân-Đức-Phật, Ân-Đức-Pháp, Ân- Đức-Tăng làm món quà pháp vô giá biếu Đức-vua Pukkusāti.”

Món quà Đức-Pháp-Bảo

Đức-vua Bimbisāra lấy một tấm biển vàng ròng không mỏng, không dày, chiều dài 4 hắc tay (cùi), chiều rộng một gang tay, ngự lên tầng lầu cao, Đức-vua phát nguyện thọ trì bát-giới uposathasīla, để thân và khẩu được trong sạch. Đầu tiên Đức-vua khắc ghi 9 Ân-Đức- Phật trên tấm biển vàng ròng như sau:

Buddhaguṇa: Ân-Đức-Phật

“Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjācaraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro Purisadammasārathi, Satthā devamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā.”

 

Ý nghĩa 9 Ân-Đức-Phật:

  1. Arahaṃ: Đức A-ra-hán là Bậc cao thượng có thân khẩu ý hoàn toàn trong sạch và thanh-tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của chư-thiên, phạm- thiên và nhân-loại.
  2. Sammāsambuddho: Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác là Bậc chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền khiên tật, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên, gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác độc nhất vô nhị trong toàn muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh.
  3. Vijjācaraṇasampanno: Đức Minh-Hạnh-Túc là Bậc có đầy đủ trọn vẹn Tam-minh, Bát-minh và 15 Đức- hạnh cao thượng.
  4. Sugato: Đức Thiện-Ngôn là Bậc thuyết pháp chân-lý đem lại lợi ích thật sự cho chúng-sinh.
  5. Lokavidū: Đức Thông-Suốt Tam-tổng-pháp là Bậc thấy rõ, biết rõ tổng các loài chúng-sinh, tổng các cõi chúng-sinh, tổng các pháp-hành.
  6. Anuttaro purisadammasārathi: Đức Vô-Thượng giáo hóa chúng-sinh là Bậc giáo huấn chúng-sinh cải tà quy chánh, cải ác làm thiện, từ hạng phàm-nhân lên bậc Thánh-nhân.
  7. Satthā devamanussānaṃ: Đức Thiên-Nhân-Sư là Bậc Thầy của chư-thiên, chư phạm-thiên, nhân-loại, …
  8. Buddho: Đức-Phật là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đặc biệt diệt

 

được mọi tiền khiên tật, trở thành bậc Thánh A-ra-hán

đầu tiên trong toàn muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh.

Đức-Phật có khả năng đặc biệt thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, cũng chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn tùy theo năng lực của pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp- chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ- pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.

  1. Bhagavā: Đức-Thế-Tôn là Bậc có 6 ân-đức đặc biệt do đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật của Đức-Phật.

Đức-vua khắc câu kệ tán dương Ân-Đức-Phật.

“Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā, Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ.

Na no samaṃ atthi Tathāgatena, Idampi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ, Etena saccena suvatthi hotu.”(1)

Tất cả mọi châu báu trong cõi người, Trong cõi Long cung, cùng các cõi trời, Cũng không thể sánh bằng Đức-Phật-bảo, Đức-Phật này là châu báu vô thượng.

Do năng lực của lời chân thật này

Cầu mong mọi chúng-sinh được an lành. Tiếp theo Đức-vua khắc ghi 6 Ân-Đức-Pháp:

Dhammaguṇa: Ân-Đức-Pháp

“Svākkhāto Bhagavatā Dhammo, Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi.”

1 Bộ Khuddakanikāya, Suttanipāta, Kinh Rattanasutta.

 

Ý nghĩa 6 Ân-Đức-Pháp:

  1. Svākkhāto dhammo: Pháp gồm có 10 chánh-pháp mà Đức-Phật đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối, có ý nghĩa đầy đủ, văn chương trong sáng, rõ ràng và thanh-tịnh.

10 chánh-pháp là:

  • Pháp học chánh-pháp.
  • 9 Pháp siêu-tam-giới (4 Thánh-đạo + 4 Thánh-quả

+ 1 Niết-bàn).

  1. Sandiṭṭhiko dhammo: Chánh-pháp gồm 9 pháp siêu-tam-giới mà chư Thánh-nhân đã chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, rồi tự thấy, tự biết pháp ấy bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới của mình.
  2. Akāliko dhammo: Chánh-pháp đó là 4 Thánh-đạo cho quả tương xứng 4 Thánh-quả không có thời gian ngăn cách, nghĩa là sau khi chứng đắc Thánh-đạo nào liền cho Thánh-quả ấy sau một sát-na tâm diệt rồi sinh.
  3. Ehipassiko dhammo: Chánh-pháp đó là 9 pháp siêu-tam-giới thuộc chân-nghĩa-pháp rất trong sạch và thanh-tịnh, nên dám mời đến để thực chứng, thực đắc.
  4. Opaneyyiko dhammo: Chánh-pháp đó là 9 pháp siêu-tam-giới là pháp nên hướng tâm chứng đắc trước tiên, để mong giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
  5. Paccattaṃ veditabbo viññūhi dhammo: Chánh- pháp đó là 9 pháp siêu-tam-giới mà chư bậc thiện-trí Thánh-nhân đã chứng đắc rồi, tự mình biết rõ, tự mình nhập Thánh-quả hưởng an lạc Niết-bàn tịch tịnh.

Đức-vua khắc câu kệ tán dương Ân-Đức-Pháp:

 

“Yaṃ Buddhaseṭṭho parivaṇṇayī suciṃ, Samādhimānantarikaññamāhu.

Samādhinā tena samo na vijjati. Idampi Dhamme ratanaṃ paṇītaṃ Etena saccena suvatthi hotu.”(1)

Đức-Phật cao thượng nhất thường tán dương, Chánh-định thanh-tịnh trong Thánh-đạo nào, Cho liền Thánh-quả ấy không ngăn cách,

Mà các bậc thiền-định trong tam-giới, Không sánh bằng chánh-định siêu-tam-giới, Đức-Pháp này là châu báu vô thượng,

Do năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong mọi chúng-sinh được an lành.

Tiếp theo Đức-vua khắc ghi 9 Ân-Đức-Tăng:

Saṃghaguṇa: Ân Đức-Tăng

“Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ujup- paṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ñāyappatipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho. Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā, esa Bhagavato sāvakasaṃgho, āhuneyyo, pāhuneyyo, dakkhiṇeyyo, añjalikaraṇīyo, anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.”

Ý nghĩa 9 Ân-Đức-Tăng:

  1. Suppaṭipanno: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật.
  2. Ujuppaṭipanno: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành trung thực đúng theo pháp-hành trung-đạo, không quanh co lầm lạc.

1 Bộ Khuddakanikāya, Suttanipāta, kinh Ratanasutta.

 

  1. Ñāyappaṭipanno: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành theo pháp- hành bát-chánh-đạo chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
  2. Sāmīcippaṭipanno: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành giới-định- tuệ đúng đắn xứng đáng để chúng-sinh tôn kính lễ bái cúng dường.

Cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā, esa Bhagavato sāvakasaṃgho: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo tâm siêu-tam-giới).

Chư Thánh thanh-văn đệ-tử có 4 đôi

    • Nhập-lưu Thánh-đạo ® Nhập-lưu Thánh-quả
    • Nhất-lai Thánh-đạo     ® Nhất-lai Thánh-quả
    • Bất-lai Thánh-đạo       ® Bất-lai Thánh-quả
    • A-ra-hán Thánh-đạo  ® A-ra-hán Thánh-quả

Chư Thánh thanh-văn đệ-tử có 8 bậc Thánh: 4 Thánh-đạo:

  • Nhập-lưu Thánh-đạo (Sotāpattimagga).
  • Nhất-lai Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga).
  • Bất-lai Thánh-đạo (Anāgāmimagga).
  • A-ra-hán Thánh-đạo (Arahattamagga).

4 Thánh-quả:

  • Nhập-lưu Thánh-quả (Sotāpattiphala).
  • Nhất-lai Thánh-quả (Sakadāgāmiphala).
  • Bất-lai Thánh-quả (Anāgāmiphala).
  • A-ra-hán Thánh-quả (Arahattaphala).
  1. Āhuneyyo: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ

 

vật dụng mà thí chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được quả báu lớn.

  1. Pāhuneyyo: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức- Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ dành cho những vị khách quý như quý Ngài.
  2. Dakkhiṇeyyo: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ có đức-tin trong sạch nơi Tam- bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đem dâng cúng đến quý Ngài, để mong được quả báu tốt lành cho mình và những người thân quyến.
  3. Añjalikaraṇīyo: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng cho chúng-sinh chắp tay cung kính lễ bái cúng dường.
  4. Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa: Chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Thế-Tôn là phước điền cao thượng của chúng-sinh không đâu sánh được.

Đức-vua khắc câu kệ tán dương Ân-Đức-Tăng.

“Ye puggalā aṭṭha sataṃ pasatthā, Cattāri etāni yugāni honti.

Te dakkhiṇeyyā Sugatassa sāvakā, Etesu dinnāni mahapphalāni.

Idampi Saṃghe ratanaṃ paṇītaṃ, Etena saccena suvatthi hotu.”

Chư bậc Thánh thiện-trí thường tán dương, Tám bậc Thánh là bốn đôi tương xứng, Chư Thánh-Tăng ấy xứng đáng thọ nhận, Những phẩm vật cúng dường của thí chủ.

Quả báu lớn sẽ phát sinh đến họ,

Đức-Tăng này là châu báu vô thượng,

 

Do năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong mọi chúng-sinh được an lành.

Pháp-hành Thiền-định

Sau khi khắc Ân-đức Tam-bảo xong, Đức-vua khắc ghi pháp-hành thiền-định đề-mục niệm hơi thở vào - hơi thở ra”. Giảng giải tỉ mỉ phương pháp bắt đầu thực- hành đề-mục niệm hơi thở vào - hơi thở ra cho đến khi chứng đắc theo tuần tự 4 bậc thiền sắc-giới.

Đức-vua đặc biệt khuyên rằng:

“Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian rồi, giáo-pháp của Đức-Phật dẫn dắt chúng-sinh giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài. Nếu bạn có thể xuất gia được thì thật là một điều cao quý nhất.”

Sau khi khắc ghi xong món quà Đức-Pháp-bảo, Đức- vua truyền lệnh đoàn sứ giả mang lá thư đến trình lên Đức-vua Pukkusāti, yêu cầu Đức-vua chuẩn bị làm lễ đón rước món quà Đức-Pháp-bảo cho thật long trọng.

Trong thư Đức-vua Bimbisāra ghi rõ rằng:

“Tâu Đại-vương, khi cung kính tiếp nhận món quà Đức-Pháp-bảo này xong, xin Đại-vương cung thỉnh lên lâu đài, chỉ một mình Đại-vương mở ra cung kính đọc mà thôi.”

Đức-vua Pukkusāti tiếp đoàn sứ giả của Đức-vua Bimbisāra và nhận lá thư của Đức-vua Bimbisāra. Đọc xong lá thư, Đức-vua liền truyền lệnh các quan trang hoàng cung điện thật lộng lẫy, sửa sang trang hoàng con đường từ kinh-thành Takkasīlā đến biên giới, để làm lễ cung nghinh đón rước món quà Đức-Pháp-bảo của Đức- vua Bimbisāra.

 

Tôn kính món quà Đức-Pháp-Bảo

Với tâm vô cùng tôn kính Đức-Pháp-bảo, Đức-vua Bimbisāra tự tay mình sắp đặt món quà Đức-Pháp-bảo từ đầu đến cuối như sau:

Trước tiên trải một tấm vải mịn dệt bằng lông thú đắp trên tấm biển vàng được khắc ân-đức Tam-bảo, và pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm hơi thở vào- hơi thở ra ấy, cuốn tròn lại đặt vào trong chiếc hộp nhỏ quý giá, tiếp theo tuần tự như sau:

  • đặt chiếc hộp nhỏ này vào trong chiếc hộp vàng,
  • đặt chiếc hộp vàng này vào trong chiếc hộp bạc,
  • đặt chiếc hộp bạc này vào trong chiếc hộp ngọc maṇi,
  • đặt chiếc hộp ngọc maṇī này vào trong chiếc hộp xích châu,
  • đặt chiếc hộp xích châu này vào trong chiếc hộp hồng ngọc,
  • đặt chiếc hộp hồng ngọc này vào trong chiếc hộp bích ngọc,
  • đặt chiếc hộp bích ngọc vào trong chiếc hộp thạch anh,
  • đặt chiếc hộp thạch anh vào trong chiếc hộp ngà,
  • đặt chiếc hộp ngà vào trong chiếc hộp đá quý,
  • đặt chiếc hộp đá quý vào trong ngôi tháp nhỏ,
  • đặt ngôi tháp nhỏ ấy tuần tự đến các ngôi tháp cuối cùng là ngôi tháp lớn chắc chắn và quý giá nhất, bao bọc xung quanh ngôi tháp lớn này bằng tấm vải tốt đẹp, rồi đóng dấu ấn của Đức-vua Bimbisāra.

Đức-vua truyền lệnh rằng:

  • Này các khanh! Các khanh hãy truyền lệnh của Trẫm

đến các quan, và thần dân thiên-hạ hãy sửa sang, trang

 

hoàng con đường dài từ kinh-thành đến vùng biên giới, để làm lễ cung nghinh tiễn đưa món quà Đức-Pháp-bảo đến kinh-thành Takkasīlā.(1)

Lễ cung nghinh Đức-Pháp Bảo

Được biết Đức-vua Pukkusāti đã chuẩn bị sẵn sàng để làm lễ đón rước món quà Đức-Pháp-bảo, Đức-vua Bimbisāra tổ chức cuộc đại lễ tiễn đưa món quà Đức- Pháp-bảo rất long trọng.

Đức-vua Bimbisāra mặc đại lễ phục, làm lễ cung thỉnh ngôi Tháp-Bảo đặt lên cái ngai quý báu trên lưng con voi báu của triều đình, bên trên có chiếc lọng màu trắng, có cờ hiệu. Đức-vua Bimbisāra làm lễ cúng dường Pháp-bảo xong, cung kính tiễn đưa món quà Đức-Pháp-bảo đến kinh-thành Takkasīlā. Đức-vua ngự theo sau con voi báu cho đến biên giới mới ngừng lại.

Một lần nữa, Đức-vua Bimbisāra lễ bái cúng dường Đức-Pháp-bảo xong, mới truyền lệnh tiếp tục lên đường cung nghinh Đức-Pháp-bảo sang biên giới xứ khác.

Đức-vua Bimbisāra đứng nhìn theo và nghĩ rằng:

“Con đem hết lòng tôn kính Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, nay con làm lễ tiễn đưa Đức- Pháp-bảo đến kinh-thành Takkasīlā như thành kính tiễn đưa Đức-Phật vậy.”

Đến khi đoàn tùy tùng cung nghinh Đức-Pháp-bảo đi xa dần, không còn nhìn thấy nữa, Đức-vua Bimbisāra mới chịu hồi cung, ngự trở về kinh-thành Rājagaha.

 

1 Từ kinh-thành Rājagaha đến kinh-thành Takkasīlā khoảng cách 192 do tuần (mỗi do tuần khoảng 20 km).

 

Lễ đón rước món quà Đức-Pháp-Bảo

Đức-vua Pukkusāti tổ chức lễ đón rước món quà Đức-Pháp-bảo tại biên giới rất long trọng, rồi cung nghinh về đến kinh-thành Takkasīlā, nhằm vào ngày rằm (ngày giới).

Đức-vua Pukkusāti làm lễ tiếp nhận tại cung điện xong, vâng theo lời căn dặn trong thư của Đức-vua Bimbisāra, Đức-vua Pukkusāti cung thỉnh lên lâu đài, không cho phép một ai theo hầu. Đặt món quà Đức- Pháp-bảo trên bàn, Đức-vua quỳ gối, cung kính mở lớp vải có dấu ấn của Đức-vua Bimbisāra, tuần tự mở từ ngôi tháp lớn đến các ngôi tháp nhỏ, thỉnh chiếc hộp ngọc ra, rồi cũng tuần tự mở từ chiếc hộp này đến chiếc hộp khác cho đến chiếc hộp cuối cùng.

Nhìn thấy một cuộn tấm vàng ròng, Đức-vua Pukkusāti hai tay nâng lên, trân trọng đặt trên bàn, rồi cung kính từ từ mở cuộn tấm vàng ròng ấy ra. Thấy mặt trên có lớp vải mỏng quý giá, Đức-vua Pukkusāti nghĩ:

“Chắc chắn hôm nay ta được đọc điều mà ta chưa từng đọc, được biết điều mà ta chưa từng biết.”

Hai tay cung kính dở lớp vải mịn, nhìn thấy các dòng chữ đều đặn, Đức-vua Pukkusāti phát sinh đức-tin trong sạch, bắt đầu chăm chú đọc từng chữ, từng câu 9 Ân- Đức-Phật, liền phát sinh hỷ lạc chưa từng có bao giờ, Đức-vua Pukkusāti ngồi nhắm mắt hưởng sự an-lạc.

Tiếp theo chăm chú đọc tiếp từng chữ, từng câu 6 Ân- Đức-Pháp. Cũng như lần trước, phát sinh hỷ lạc chưa từng có bao giờ, Đức-vua Pukkusāti cũng ngồi nhắm mắt hưởng sự an-lạc một lát.

Tiếp theo chăm chú đọc từng chữ từng câu 9 Ân-Đức-

 

Tăng, cũng như hai lần trước, phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có bao giờ, Đức-vua Pukkusāti ngồi hưởng sự an- lạc trong đối tượng Ân-đức Tam-bảo.

Sau đó, Đức-vua Pukkusāti chăm chú đọc từng chữ từng câu pháp-hành thiền-định đề-mục niệm hơi thở vào

- hơi thở ra. Hiểu rõ phương pháp thực-hành.

Đức-vua Pukkusāti thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục niệm hơi thở vào - hơi thở ra theo sự hướng dẫn của Đức-vua Bimbisāra, tuần tự dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, cho đến đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cao nhất của thiền sắc-giới.

Đức-vua Pukkusāti an hưởng sự an-lạc thanh-tịnh của thiền, kéo dài suốt nửa tháng, không còn quan tâm đến công việc triều chính. Thấy vậy, các quan trong triều, thần dân thiên hạ tụ hội thỉnh cầu Đức-vua lâm triều, trông coi triều đình, trị vì đất nước.

Nghe các quan yêu cầu như vậy, Đức-vua suy xét rằng: “Ta nên tiếp tục làm Vua trị vì đất nước này, hay ta nên xuất gia theo giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.”

Quyết định xuất gia, nên Đức-vua Pukkusāti lấy thanh gươm cắt tóc, mở cánh cửa sổ ném nắm tóc xuống nền và truyền bảo rằng:

- Này các khanh! Các khanh hãy chọn Đức-vua khác trị vì đất nước này.

Sau đó, Đức-vua truyền gọi vị quan cận thần thân tín đi tìm bộ y và cái bát đất, rồi tự mình mặc y với tác-ý tâm-sở đồng sinh với đại-thiện-tâm xuất-gia theo giáo- pháp của Đức-Phật Gotama.

Đức-vua Pukkusāti mang hình tướng là một bậc xuất gia mặc bộ y mang bát đất bước xuống lâu đài, đi ra

 

khỏi kinh-thành Takkasīlā hướng tâm đến kinh-thành Rājagaha khoảng cách 192 do tuần.

Khi đến kinh-thành Rājagaha, Đức-vua Pukkusāti không ngự vào cung điện yết kiến Đức-vua Bimbisāra, mà nghỉ nhờ đêm tại lò gốm.

Trong đêm ấy, Đức-Thế-Tôn từ kinh-thành Sāvatthi ngự đến lò gốm cũng xin nghỉ nhờ qua đêm, để có cơ hội thuyết pháp tế độ Đức-vua Pukkusāti, nhưng Đức-Thế- Tôn dùng thần thông che dấu kim thân của Đức-Phật, nên mọi người chỉ thấy Đức-Phật như một vị tỳ-khưu bình thường mà thôi.

Vì vậy, Đức-vua Pukkusāti ở chung với Đức-Phật từ đầu hôm, mà không nhận biết được Đức-Phật Gotama.

Biết Đức-vua Pukkusāti đang mệt mỏi, vì đi đường xa, nên Đức-Phật đợi Đức-vua Pukkusāti nghỉ ngơi cho lại sức. Khi ấy, Đức-Phật mới thuyết pháp tế độ Đức- vua Pukkusāti. Sau khi nghe pháp xong, Đức-vua Pukkusāti liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết- bàn, Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết- bàn, Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai, đồng thời nhận biết được Đức-Thế-Tôn.

Đức-vua Pukkusāti đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, xin sám hối điều không biết của mình và kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép xuất gia sa-di, tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức- Thế-Tôn.

Nhưng rất tiếc, Đức-vua Pukkusāti chưa đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu (tam-y, bát, dây thắt lưng, dao cạo tóc, kim chỉ, đồ lọc nước), nên Đức-Phật không thể cho phép xuất gia trở thành sa-di, tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

 

Trong khi Đức-vua Pukkusāti đang tìm vải tại nơi đống rác, để may y. Khi ấy, một con bò chạy đến húc vào Đức-vua Pukkusāti làm cho Đức-vua chết ngay tại nơi ấy.

Đức-vua vốn là bậc Thánh Bất-lai, nên sau khi chết, đệ tứ thiền sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới Tịnh-cư-thiên (Suddhavāsa) tầng trời thứ nhất gọi là Vô-phiền-thiên (Avihā), rồi sẽ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết- bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn tại cõi trời ấy, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Quả báu của món quà Đức-Pháp-Bảo

Đức-vua Pukkusāti đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới, có quyết định quan trọng từ bỏ ngôi vua, xuất gia gặp được Đức-Phật. Và sau khi nghe Đức-Phật thuyết pháp, Đức-vua đã trở thành bậc Thánh Bất-lai là bậc Thánh thứ ba trong Phật-giáo, được tái-sinh lên tầng trời sắc- giới phạm-thiên Tịnh-cư-thiên, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn tại cõi trời sắc-giới ấy, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Đức-vua Pukkusāti có được những quả báu tốt lành ấy là nhờ món quà Đức-Pháp-bảo của Đức-vua Bimbisāra đã gửi biếu. Cho nên, món quà Đức-Pháp-bảo ấy thật là vô giá.

Trong đời có những món quà quý giá đáng hài lòng, nếu món quà ấy là của một nhân vật quan trọng đáng tôn kính, thì nó trở thành một vật kỷ niệm, một vật gia bảo trong gia đình, dòng họ.

 

Như vậy, món quà ấy có giá trị về cả vật chất lẫn tinh thần, nhưng nếu đem so sánh với món quà Đức-Pháp- bảo mà người nào hiểu biết, thực-hành đúng theo chánh- pháp, sẽ nâng đỡ cuộc đời của người ấy trở nên cao thượng, trở thành bậc thiện-trí phàm-nhân hoặc bậc Thánh-nhân, thì món quà Đức-Pháp-bảo ấy thật là vô giá biết dường nào! Cho nên, Đức-Phật dạy:

“Sabbadānaṃ dhammadānaṃ jināti,…”

Pháp thí là cao thượng hơn tất cả mọi sự thí, ...

Như vậy, bậc thiện-trí biết tôn kính, sử dụng chánh- pháp làm Món-Quà-Pháp (Dhammapaṇṇākāra) biếu đến những người thân yêu của mình, không chỉ gây được một thiện-cảm khó quên, mà còn đem lại cho họ sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài, trong kiếp hiện-tại lẫn nhiều kiếp vị-lai đối với người thân yêu của mình.

Tiền-kiếp Đức-vua Pukkusāti

Trong tích Ngài Trưởng-lão Bāhiyadārucīriya(1) có đoạn đề cập đến tiền-kiếp của Đức-vua Pukkusāti được tóm lược như sau:

Tiền-kiếp của Đức-vua Pukkusāti đã từng là một vị tỳ- khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa thời quá-khứ.

Vào thời ấy, giáo-pháp của Đức-Phật Kassapa sắp bị mai một. Một nhóm 7 vị tỳ-khưu phát sinh động tâm, đồng tâm nhất trí với nhau, quyết tâm cố gắng thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trước khi Phật-giáo chưa bị mai một, chưa bị suy thoái hoàn toàn.

Bảy vị tỳ-khưu đảnh lễ ngôi Bảo-Tháp, dẫn nhau vào

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Bāhiyadārucīriyattheravatthu.

 

rừng làm một cái thang bắt lên đỉnh núi cao, 7 vị tỳ-khưu leo lên đỉnh núi xong, xô đẩy cái thang ngã xuống. 7 vị tỳ-khưu quyết tâm thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.

Ngay đêm thứ nhất, một vị tỳ-khưu chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với lục thông. Ngài Trưởng- lão sử dụng phép-thần-thông bay đi khất thực đem về chia cho 6 vị tỳ-khưu còn lại, nhưng 6 vị tỳ-khưu ấy đều không chịu nhận vật thực, chỉ có quyết tâm thực-hành pháp-hành thiền-tuệ mà thôi.

Đến ngày thứ hai một vị tỳ-khưu chứng đắc thành bậc Thánh Bất-lai có phép-thần-thông. Ngài Trưởng-lão sử dụng thần thông bay đi khất thực đem về chia cho 5 vị tỳ-khưu còn lại, nhưng 5 vị tỳ-khưu ấy cũng đều không chịu nhận vật thực, quyết tâm thực-hành pháp-hành thiền-tuệ mà không chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, vẫn còn là vị tỳ-khưu phàm-nhân.

Đến ngày thứ bảy, thì cả 5 vị tỳ-khưu đều viên tịch, dục-giới thiện-nghiệp cho quả tái-sinh lên cõi trời dục- giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy.

  • Vào thời-kỳ Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, 5 vị thiên-nam chết từ cõi trời, đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh làm người.
  • Một vị là Đức-vua Pukkusāti, 4 vị còn lại là Ngài Trưởng-lão Kumārakassapa, Ngài Trưởng-lão Dārucīriya, Ngài Trưởng-lão Dabba Mallaputta Ngài Satiya Paribbājaka.

Do nhờ các pháp-hạnh ba-la-mật đầy đủ và 5 pháp- chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp- chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ đã tích lũy từ nhiều kiếp trong quá-khứ, cho nên khi Đức-vua Pukkusāti tiếp nhận  được  món  quà  Đức-Pháp-bảo  của  Đức-vua

 

Bimbisāra, có được cơ hội tốt làm nhân-duyên phát sinh mọi thiện-pháp đến với Đức-vua Pukkusāti như vậy.

Còn 4 vị còn lại đều có duyên lành đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, được lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp tế độ, họ đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Tam-Bảo (Ratanattaya)

Tam-Bảo là ba ngôi báu:

  • Đức-Phật-bảo (Buddharatana).
  • Đức-Pháp-bảo (Dhammaratana).
  • Đức-Tăng-bảo (Saṃgharatana).

Ý nghĩa Ratana: Bảo trong ba ngôi Tam-Bảo

Sở dĩ Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng được suy tôn là Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo là vì mỗi ngôi có đủ 5 đức-tính quý báu và cao thượng:

  1. Cittīkata: Làm cho phát sinh tâm tôn kính.
  2. Mahaggha: Vô giá.
  3. Atula: Không gì sánh được, vô thượng.
  4. Dullabhadassana: Khó được nghe, khó được thấy.
  5. Anomasattaparibhoga: Hạng chúng-sinh cao quý có duyên lành được thừa hưởng.

Đó là 5 đức-tính quý báu và cao thượng của ba ngôi

Tam-bảo.

 

  1. ĐỨC-PHẬT-BẢO (Buddharatana)

Đức-Phật gọi là Đức-Phật-bảo vì có 5 đức-tính quý báu và cao thượng như sau:

 

1.1- Đức-Phật-Bảo xứng đáng được tôn kính

Đức-Phật có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ. Đức-Phật là Bậc đã diệt tận được tất cả mọi phiền não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp cùng mọi tiền- khiên-tật.

Cho nên, tất cả chúng-sinh như Đức-vua, Sa-môn, Bà- la-môn, dân chúng, chư-thiên, phạm-thiên, v.v... khi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật đều tỏ lòng tôn kính, đảnh lễ xong ngồi một nơi hợp lẽ, chiêm ngưỡng Đức-Phật có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, có hào quang tỏa ra sáng ngời, mát mẻ làm tâm họ vô cùng hoan hỷ.

Khi nghe Đức-Phật thuyết pháp, họ ngồi chắp hai tay lắng nghe, rồi phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật.

Sau khi nghe pháp, họ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-

đế, chứng đắc như sau:

  • Có số chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
  • Có số chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
  • Có số chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh- quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Bất-lai.
  • Có số chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
  • Có số xin phép xuất gia trở thành sa-di, tỳ-khưu trong giáo pháp của Đức-Phật.
  • Có số xin thọ phép quy-y Tam-bảo trở thành cận- sự-nam, hoặc cận-sự-nữ nương nhờ nơi Tam-bảo: Đức- Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo cho đến trọn đời.

Và cứ mỗi lần được đến hầu Đức-Phật, lại càng tăng thêm đức-tin và lòng tôn kính Đức-Phật.

 

Vì vậy, Đức-Phật Đức-Phật-bảo xứng đáng được tôn kính.

1. 2- Đức-Phật-Bảo là vô giá

Những châu báu trong đời dù quý giá đến mức nào cũng có thể định giá trị của báu vật ấy được. Còn Đức- Phật 9 Ân-Đức-Phật cao thượng nhất nên không thể nào định giá được.

Thật vậy, khi Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, ông phú hộ Jotika có tòa lâu đài bằng các thứ ngọc quý, do chư-thiên hóa ra; ông phú hộ Jaṭila có hòn núi bằng vàng ròng, v.v... Những phú hộ ấy đến hầu Đức-Phật, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật, họ từ bỏ gia đình, lâu đài bằng ngọc quý, hòn núi vàng, xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Sau khi họ trở thành tỳ-khưu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ tuệ-phân-tích, lục thông, ...

Vì vậy, Đức-Phật Đức-Phật-bảo vô giá trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh.

1.3- Đức-Phật-Bảo là tối thượng

Trong muôn ngàn cõi-giới chúng-sinh, chư-thiên, phạm-thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, v.v... không một ai có giới-đức hoàn toàn trong sạch như Đức-Phật.

Tương tự như vậy, không một ai có định-đức, tuệ- đức, giải-thoát-đức, giải-thoát tri-kiến-đức hoàn toàn trong sạch đầy đủ như Đức-Phật. Chỉ có Đức-Phật mới có đủ 5 đức cao thượng hoàn toàn đầy đủ.

 

Vì vậy, Đức-Phật Đức-Phật-bảo Tối Thượng trong mười ngàn cõi thế-giới chúng-sinh.

Thật vậy, trong Chi-bộ-kinh, Đức-Phật dạy:

  • Này chư Tỳ-khưu! Một bậc độc nhất vô nhị đang xuất hiện trên thế gian (mười ngàn cõi-giới chúng- sinh), không có vị thứ hai như Ngài, không có bậc đồng đẳng, không có người tương đồng, không có người sánh bằng, không có người cạnh tranh, bậc không giống như tất cả chúng-sinh, mà giống như chư Phật trong quá khứ, là bậc Tối Thượng trong tất cả chúng-sinh. Bậc độc nhất vô nhị ấy là ai?

Bậc độc nhất vô nhị ấy là Như-Lai, Đức A-ra-hán,

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

  • Này chư tỳ-khưu! Bậc độc nhất vô nhị này đang xuất hiện trên thế gian, thì không có vị thứ hai như Ngài,…

Đức-Phật là Bậc Tối-Thượng trong tất cả chúng-sinh muôn loài .(1)

  1. 4- Đức-Phật-Bảo khó được nghe, khó được thấy

Trong đời, những thứ châu báu quý hiếm, thường khó được thấy, khó có được dễ dàng. Khó hơn cả trong vòng tử sinh luân-hồi, mỗi chúng-sinh thật khó được nghe đến danh hiệu Đức-Phật, thật khó có cơ hội đến chiêm ngưỡng Đức-Phật.

Thật vậy, theo lịch sử của Đức-Phật Gotama, từ Đức- Phật Dīpaṅkara đến Đức-Phật Koṇḍañña, thời gian khoảng cách trải qua 1 a-tăng-kỳ đại-kiếp trái đất thành- trụ-hoại-không vô số kể, mà không có một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác nào xuất hiện trên thế gian, gọi là suññakappa: kiếp trái đất không có Đức-Phật xuất hiện.

1 Aṅguttaranikāya, Ekakanipāta, Ekapuggalavagga.

 

Tương tự như vậy, từ Đức-Phật Koṇḍañña đến Đức- Phật Maṅgala, từ Đức-Phật Sobhita đến Đức-Phật Anomadassī, và từ Đức-Phật Nārada đến Đức-Phật Padumuttara, thời gian khoảng cách trải qua một a-tăng- kỳ đại-kiếp trái đất thành-trụ-hoại-không vô số kể, mà không có một Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian.

Cho nên, mỗi khi Đức-Phật xuất hiện trên thế gian này thật là một điều hy hữu, vô cùng hiếm có, bởi vì để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác cần phải thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật suốt khoảng thời gian lâu dài, trải qua vô số kiếp.

Như Đức-Phật Gotama hiện tại trong thời đại chúng ta thuộc về Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ siêu- việt, tiền-kiếp của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có trí- tuệ siêu-việt đã thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp-hạnh ba-la-mật trải qua vô số kiếp, suốt khoảng thời gian tổng cộng 3 thời-kỳ là 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất. Đó là khoảng thời gian chỉ bằng một nửa (½) thời gian của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có đức-tin siêu- việt và bằng một phần tư (¼) thời gian của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác có tinh-tấn siêu-việt mà thôi.

Cho nên, mỗi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian là một điều vô cùng hy hữu, rất hiếm có.

Vì vậy, hằng ngày Đức-Phật thường nhắc nhở khuyên dạy chư tỳ-khưu rằng:

- Này chư tỳ-khưu! Các con cố gắng tinh-tấn hoàn thành mọi phận sự tứ Thánh-đế bằng pháp không dể duôi, thực-hành pháp-hành tứ niệm-xứ, bởi vì

“Buddhuppādo dullabho lokasmiṃ, ... Đức-Phật xuất hiện trên thế gian này là một điều khó được, ...”

 

Cho nên, Đức-Phật Đức-Phật-bảo khó được nghe, khó có cơ hội đến chiêm ngưỡng, khó có cơ hội được đến quy y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo.

1.5- Đức-Phật Bảo là nơi quy-y nương nhờ của hạng chúng-sinh có phước duyên

Trong đời, những thứ châu báu như kim cương, hột xoàn, ngọc maṇi, ... là những đồ trang sức của người giàu sang phú quý. Còn những người nghèo khổ thiếu thốn, thì không có được những thứ châu báu ấy. Những thứ châu báu trong cõi người, cõi Long-cung, cõi chư- thiên, phạm-thiên không thể nào sánh với Đức-Phật.

Đức-Phật Đức-Phật-bảo là vô giá, là cao thượng nhất, cho nên những người nào đến kính xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, thì chắc chắn những người ấy đã từng có phước duyên nơi Đức-Phật quá khứ hoặc chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật quá khứ, đã từng thực-hành và tích lũy ở trong tâm các pháp-hạnh ba-la-mật trải qua nhiều đời nhiều kiếp trong quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại này.

Cho nên, kiếp hiện-tại những người ấy mới có cơ hội tốt, có phước duyên đến xin quy-y nương nhờ nơi Đức- Phật-bảo.

Vì vậy, Đức-Phật-bảo là nơi nương nhờ của hạng chúng-sinh có phước duyên với Đức-Phật.

Đó là 5 đức-tính quý báu và cao thượng của Đức- Phật-bảo.

  1. ĐỨC-PHÁP-BẢO (Dhammaratana)

Đức-Pháp-bảo đó là 10 chánh-pháp: 1 pháp-học chánh-pháp 9 pháp siêu-tam-giới (4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn) đó là lời giáo huấn của Đức-Phật.

 

Đức-Pháp gọi là Đức-Pháp-bảo vì có 5 đức-tính quý báu và cao thượng như sau:

  1. 1- Đức-Pháp-Bảo xứng đáng được tôn kính

- Pháp-học chánh-pháp đó là học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, là lời giáo huấn của Đức-Phật Gotama mà các hàng thanh-văn đệ-tử đều phải có lòng tôn kính, có phận sự học pháp-học chánh-pháp.

Đối với các hàng thanh-văn đệ-tử còn là phàm-nhân ba bậc Thánh Hữu-học (bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai) cần phải học pháp- học chánh-pháp làm nền-tảng để thực-hành pháp-hành- giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.

Đối với bậc Thánh Vô-học là bậc Thánh A-ra-hán học pháp-học chánh-pháp để giữ gìn và duy trì, bảo tồn chánh-pháp cho được trường tồn lâu dài trên thế gian, đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc cho chúng-sinh chư-thiên và nhân-loại.

Chín pháp siêu-tam-giới đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn đó là quả của pháp-hành thiền-tuệ.

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A- ra-hán, rồi giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam- giới.

Vì vậy, Đức-Pháp Đức-Pháp-bảo xứng đáng được tôn kính không những đối với các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, mà còn đối với chư Phật trong quá-khứ, Đức-Phật hiện-tại và chư Phật trong vị-lai nữa, cũng đều tôn kính Đức-Pháp-bảo.

 

  1. 2- Đức-Pháp-Bảo là vô giá

Những thứ châu báu trong đời, dù quý giá đến mức nào cũng chỉ làm cho chủ nhân hoan hỷ, đem lại cho chủ nhân sự lợi ích trong kiếp hiện-tại mà thôi, không đem lợi ích trong những kiếp vị-lai. Còn Đức-Pháp-bảo 6 Ân-Đức-Pháp đem lại cho các hàng thanh-văn đệ-tử sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cả trong kiếp hiện- tại lẫn nhiều kiếp vị-lai, và đặc biệt được giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Vì vậy, Đức-Pháp Đức-Pháp-bảo thật vô giá.

    1. - Đức-Pháp-Bảo là cao thượng
      • Pháp-học chánh-pháp là những lời giáo huấn của Đức-Phật, chỉ dẫn chúng-sinh con đường giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới. Vậy, pháp-học chánh- pháp là cao thượng.
      • Chín pháp siêu-tam-giới đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn là quả của pháp-hành thiền-tuệ.

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến trở thành 4 bậc Thánh-nhân cao thượng bậc Thánh Nhập- lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Vì vậy, Đức-Pháp Đức-Pháp-bảo cao thượng.

2.4- Đức-Pháp-Bảo là khó được nghe

Đức-Pháp xuất hiện trên thế gian khi có Đức-Phật xuất hiện trên thế gian, mà Đức-Phật xuất hiện trên thế gian là một điều khó. Do đó, Đức-Pháp-bảo cũng khó được nghe.

Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, đồng thời Đức-Pháp-bảo cũng xuất hiện trên thế gian.

 

Tuy Đức-Phật Gotama đã tịch diệt Niết-bàn cách đây

2.562 năm rồi, song Đức-Pháp-bảo vẫn còn tồn tại trên thế gian cho đến 5.000 năm tuổi thọ Phật-giáo.

Sau 5.000 năm, Đức-Pháp-bảo sẽ bị hoàn toàn mai một, bị suy đồi trong cõi người. Khi ấy, loài người sẽ không còn được nghe chánh-pháp nữa.

Vì vậy, Đức-Pháp Đức-Pháp-bảo khó được nghe.

2.5- Đức-Pháp Bảo là nơi quy-y nương nhờ của hạng chúng-sinh có phước duyên

Những chúng-sinh nào có đầy đủ phước duyên đến xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-Bảo, thì những chúng-sinh ấy cũng được quy-y nương nhờ nơi Đức- Pháp-Bảo.

Quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo hai hạng người:

  • Chư Thánh Thanh-văn đệ-tử sau khi đã chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh- nhân là đã quy-y nương nhờ nơi Pháp-thành chánh- pháp. Bậc Thánh-nhân ấy cũng quy-y nương nhờ nơi Pháp-học chánh-pháp, Pháp-hành chánh-pháp.
  • Những hạng phàm-nhân kính xin quy-y nương nhờ nơi pháp-học chánh-pháp pháp-hành chánh-pháp, chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, nên chưa được quy-y nương nhờ nơi pháp-thành chánh-pháp.

Những hàng thanh-văn đệ-tử là các bậc Thánh-nhân hoặc hạng phàm-nhân chắc chắn là những người đã có phước-duyên nơi Đức-Phật quá khứ, hoặc chư Thánh thanh-văn đệ-tử quá khứ, đã từng tích lũy các pháp-hạnh ba-la-mật trải qua nhiều kiếp trong quá khứ. Cho nên, kiếp hiện-tại này mới có cơ hội tốt, có phước duyên đến quy-y nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo.

 

Vì vậy, Đức-Pháp-bảo là nơi quy-y nương nhờ của hạng chúng-sinh có phước-duyên.

Đó 5 đức-tính quý báu cao thượng của Đức-Pháp-bảo.

 

  1. ĐỨC-TĂNG-BẢO (Saṃgharatana)

Đức-Tăng-bảo đó là Ariyasaṃgha: chư Thánh-Tăng, là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, có 4 đôi thành 8 bậc Thánh.

4 Thánh-đạo ® 4 Thánh-quả tương xứng

  • Nhập-lưu Thánh-đạo ® Nhập-lưu Thánh-quả.
  • Nhất-lai Thánh-đạo ® Nhất-lai Thánh-quả.
  • Bất-lai Thánh-đạo ® Bất-lai Thánh-quả.
  • A-ra-hán Thánh-đạo ® A-ra-hán Thánh-quả.

4 Thánh-đạo

  • Nhập-lưu Thánh-đạo (Sotāpattimagga).
  • Nhất-lai Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga).
  • Bất-lai Thánh-đạo (Anāgāmimagga).
  • A-ra-hán Thánh-đạo (Arahattamagga).

4 Thánh-quả

  • Nhập-lưu Thánh-quả (Sotāpattiphala).
  • Nhất-lai Thánh-quả (Sakadāgāmiphala).
  • Bất-lai Thánh-quả (Anāgāmiphala).
  • A-ra-hán Thánh-quả (Arahattaphala).

4 bậc Thánh-nhân

  • Bậc Thánh Nhập-lưu (Sotāpanna).
  • Bậc Thánh Nhất-lai (Sakadāgāmī).
  • Bậc Thánh Bất-lai (Anāgāmī).
  • Bậc Thánh A-ra-hán (Arahanta).

 

Đức-Thánh-Tăng gọi là Đức-Tăng-bảo vì có 5 đức- tính quý báu và cao thượng như sau:

  1. 1- Đức-Tăng-Bảo xứng đáng được tôn kính

Đức-Tăng-bảo đó là chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, quý Ngài đã thực-hành đúng theo chánh-pháp, có giới-đức trong sạch và thanh-tịnh, có định-đức vững vàng, có tuệ-đức diệt tận được phiền não, có giải-thoát- đức an-tịnh, có giải-thoát tri-kiến-đức quán xét các pháp.

Quý Ngài là chư Thánh-Tăng đã thừa hưởng chánh- pháp và giữ gìn duy trì phát huy chánh-pháp của Đức- Phật từ thế hệ này sang thế hệ khác, giữ gìn duy trì chánh-pháp được trường tồn cho đến ngày nay.

Vì vậy, Đức-Tăng-bảo thật xứng đáng được tôn kính.

3.2- Đức-Tăng-Bảo là vô giá

Đức-Tăng-bảo là chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, có đủ 9 ân-đức-Tăng, quý Ngài là phước điền cao thượng của chúng-sinh không có nơi nào sánh bằng.

Những người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, họ tôn kính, lễ bái, dâng lễ cúng dường đến chư tỳ-khưu Thánh-Tăng, dù ít dù nhiều, chắc chắn có được phước-thiện vô lượng và có quả của phước-thiện vô cùng phong phú, vô lượng, ngay cả trong kiếp hiện-tại, lẫn vô số kiếp vị-lai.

Họ được thành tựu quả báu trong cõi người (manussa- sampatti), quả báu trong cõi trời (devasampatti) và đặc biệt cuối cùng thành tựu quả báu Niết-bàn (nibbāna- sampatti), giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Vì vậy, Đức-Tăng-bảo là vô giá.

 

3.3- Đức-Tăng-Bảo là cao thượng

Đức-Tăng-bảo là chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, quý Ngài đã thực-hành đúng theo chánh-pháp, đã trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai, bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Vì vậy, Đức-Tăng-bảo là cao thượng.

3.4- Đức-Tăng-Bảo khó được nghe, khó được thấy

Đức-Tăng-bảo xuất hiện trên thế gian, khi có Đức- Phật-bảo và Đức-Pháp-bảo xuất hiện trên thế gian, mà Đức-Phật-bảo và Đức-Pháp-bảo xuất hiện trên thế gian là một điều khó được nghe, khó được thấy.

Vì vậy, Đức-Tăng-bảo cũng khó được nghe, khó

được thấy.

Tuy Đức-Phật Gotama đã tịch diệt Niết-bàn cách đây

2.562 năm rồi, nhưng Đức-Pháp-bảo và Đức-Tăng-bảo vẫn còn tồn tại trên thế gian cho đến 5.000 năm mãn tuổi thọ Phật-giáo.

Sau 5.000 năm, trong cõi người không còn ai nghe, thấy, biết đến Đức-Tăng-bảo gồm cả chư Thánh-Tăng và chư phàm-Tăng nữa.

3.5- Đức-Tăng-Bảo là nơi quy-y nương nhờ của hạng chúng-sinh có phước-duyên

Những người nào có phước-duyên đến quy-y nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, quy y nương nhờ nơi Đức-Pháp- bảo, những người ấy cũng quy-y nương nhờ nơi Đức- Tăng-bảo.

Những người đến quy-y nương nhờ nơi Đức-Tăng- bảo thì chắc chắn những người ấy đã từng có phước- duyên nơi Đức-Phật quá-khứ, hoặc chư Thánh thanh-văn

 

đệ-tử của Đức-Phật quá-khứ, đã từng thực-hành và tích lũy ở trong tâm các pháp-hạnh ba-la-mật trải qua nhiều kiếp trong quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại này.

Cho nên, kiếp hiện-tại này những người ấy mới có cơ hội tốt, có phước-duyên đến quy-y nương nhờ nơi Đức- Tăng-bảo.

Vì vậy, Đức-Tăng-bảo là nơi quy-y nương nhờ của hạng chúng-sinh có phước-duyên.

Đó là 5 đức-tính quý báu và cao thượng của Đức- Tăng-bảo.

Duyên lành nơi Tam-Bảo

Phàm mỗi chúng-sinh trong vòng tử sinh luân-hồi trong các cõi-giới từ vô thủy trải qua vô số kiếp không sao kể xiết cho đến kiếp hiện-tại, trong khoảng thời gian lâu dài ấy, đã có vô số Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian, chẳng lẽ chúng-sinh ấy không từng gieo duyên lành nơi Đức-Phật nào hoặc chư Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật nào trong quá khứ ấy hay sao???

Sở dĩ kiếp hiện-tại của một số người chưa có đức-tin nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng- bảo là vì vướng mắc nào đó, thiếu nhân-duyên nào đó, nên chưa có cơ hội đến nương nhờ nơi Tam-bảo.

Nếu vậy thì người bạn hiền, bạn thiện-trí nên cố gắng tận tâm tháo vướng mắc ấy, hỗ trợ nhân-duyên để cho người thân của mình có được cơ hội đến nương nhờ nơi Tam-bảo, đó là điều phước-thiện cao quý biết dường nào!

Xin dẫn chứng những trường-hợp như sau:

* Như trường hợp Đức-Bồ-tát Bà-la-môn Jotipāla

 

tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, sinh trưởng trong một gia đình quyền quý thuộc dòng dõi Bà-la-môn, trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian.

Vị Bà-la-môn Jotipāla phát sinh tính ngã mạn do dòng dõi Bà-la-môn, nên không chịu đến hầu đảnh lễ Đức- Phật Kassapa.

Đức-Bồ-tát Jotipāla, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, có một người bạn tốt là Ghaṭīkāra thuộc dòng dõi thấp hèn. Cậu Ghaṭīkāra là cận-sự-nam đã quy-y nơi Đức- Phật Kassapa, nơi Đức-Pháp-bảo, nơi Đức-Tăng-bảo, thường hay đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Kassapa nghe pháp. Cậu Ghaṭīkāra đã nhiều lần động viên khuyến khích Đức-Bồ-tát Jotipāla cùng nhau đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Kassapa rồi nghe pháp, nhưng do tính ngã mạn về dòng dõi, nên lần nào Đức-Bồ-tát Jotipāla cũng khước từ không chịu đi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Kassapa. Không nản lòng, cậu Ghaṭīkāra quyết tâm cố thuyết phục cho bằng được.

Một hôm, cậu Ghaṭīkāra mời Đức-Bồ-tát Jotipāla cùng đến tắm ở một bến sông gần nơi Đức-Phật Kassapa đang ngự cùng chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng. Tắm xong, cậu Ghaṭīkāra động viên Đức-Bồ-tát Jotipāla rằng:

  • Này bạn Jotipāla thân mến! Đức-Phật Kassapa mà tôi tôn kính nhất hiện đang ngự gần đây, mời bạn cùng tôi đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Kassapa.

Đức-Bồ-tát Jotipāla khước từ lời mời của cậu Ghaṭīkāra lần thứ nhất, lần thứ nhì, đến lần thứ ba, không còn cách nào khác, cậu Ghaṭīkāra bèn nắm đầu tóc của Đức-Bồ-tát Jotipāla dẫn đi. Đức-Bồ-tát Jotipāla vô cùng ngạc nhiên, bảo rằng:

  • Này Ghaṭīkāra! Ngươi thuộc dòng dõi thấp hèn hơn ta, tại sao ngươi dám nắm đầu tóc ta dẫn đi như vậy?

 

Tuy vậy, nhưng không thể nào làm gì khác được, nên Đức-Bồ-tát Jotipāla đành phải theo cậu Ghaṭīkāra đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Kassapa.

Đức-Bồ-tát Jotipāla ngồi chăm chú lắng nghe Đức- Phật Kassapa thuyết pháp, liền phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật Kassapa, rồi kính xin Đức-Phật Kassapa cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo pháp của Đức-Phật.

Sau khi trở thành tỳ-khưu không lâu, tỳ-khưu Jotipāla đã thông thuộc Tam-tạng Pāḷi, chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, chứng đắc ngũ thông và đặc biệt được Đức- Phật Kassapa thọ ký rằng:

“Trong thời vị-lai, cùng trong kiếp trái đất gọi là Bhaddakappa này, tỳ-khưu Jotipāla này sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, …”

Qua tích Đức-Bồ-tát Jotipāla, tiền-kiếp của của Đức- Phật Gotama, khiến chúng ta nên suy nghĩ:

“Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Jotipāla, tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama là quả của một quá trình tiếp diễn từ vô số kiếp trong quá-khứ, đã thực-hành 30 pháp- hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời-kỳ gồm có 20 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

Tiền-kiếp của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác Jotipāla đã từng có 23 Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thọ ký xác định thời gian còn lại sẽ trở thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Đến thời-kỳ Đức-Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian. Khi ấy, Đức-Bồ-tát Jotipāla, tiền-kiếp của Đức- Phật Gotama được sinh trưởng trong dòng dõi Bà-la-

 

môn cao quý. Do tính ngã-mạn bởi dòng dõi, nên Đức- Bồ-tát Jotipāla không chịu đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Kassapa, đến nỗi người bạn thân Ghaṭīkāra phải nắm lấy đầu tóc Đức-Bồ-tát Jotipāla dẫn đi, mới đành chịu đến hầu Đức-Phật Kassapa.

Sau khi nghe Đức-Phật Kassapa thuyết pháp, Đức- Bồ-tát Jotipāla phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật Kassapa, kính xin Đức-Phật Kassapa cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo pháp của Đức-Phật.

Về sau, Đức-Bồ-tát tỳ-khưu Jotipāla được Đức-Phật Kassapa thọ ký thứ 24 cuối cùng xác định thời gian còn lại, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama cùng trong kiếp trái đất gọi là Bhaddakappa này.”

Người bạn hiền, bạn thiện-trí

Người bạn hiền, bạn tốt (kalyāṇamitta) là người có tâm từ rộng lớn luôn luôn mong muốn sự lợi ích, sự tiến hóa trong mọi thiện-pháp, sự an-lạc lâu dài đến cho mọi người, mọi chúng-sinh. Cho nên, đối với số người nào chưa có đức-tin nơi Tam-bảo, người bạn hiền, bạn tốt ấy tìm cách giảng dạy giáo-pháp của Đức-Phật, để cho người ấy phát sinh đức-tin nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, dẫn dắt số người ấy xin thọ phép quy-y Tam-bảo, khuyến khích họ xuất gia trở thành sa-di, tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Ví như một người có hạt giống tốt, khi chưa đủ nhân duyên, thì hạt giống ấy chưa có thể nảy mầm được. Nếu có người giúp đỡ, hỗ trợ nhân-duyên, thì hạt giống tốt ấy có cơ hội nảy mầm, sinh trưởng, phát triển thành cây, trổ hoa, cho quả tốt.

 

* Như tích Hoàng-tử Nanda(1) xuất gia thọ tỳ-khưu

được tóm lược như sau:

Hay tin Thái-tử Siddhattha đã trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu Đức-Phật Gotama, Đức-vua Suddhodana (Đức Phụ-vương của Đức-Phật) truyền lệnh cho các quan cận thần đi kính thỉnh Đức- Phật ngự trở về kinh-thành Kapilavatthu vào ngày 16 tháng 4, sau khi đã trở thành Đức-Phật được 1 năm lẻ 1 ngày, gần 7 năm xa cách, kể từ khi xuất gia rời bỏ kinh- thành Kapilavatthu.

  • Ngày đầu tiên, Đức-Thế-Tôn ngự trở về kinh-thành Kapilavatthu cùng 20.000 chư Đại-đức-Tăng A-ra-hán.
  • Ngày thứ hai, Đức-Phật thuyết pháp tế độ Đức-vua Suddhodana. Sau khi lắng nghe chánh-pháp, Đức-vua chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, và tiếp theo chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhất-lai. chánh-cung Hoàng-hậu Mahā- pajāpatigotamī cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Đức-Phật tế độ hoàng-tử Nanda

Ngày thứ ba, Đức-Phật ngự đến cung điện Đức-vua Suddhodana cùng chư Thánh A-ra-hán. Hôm ấy, ngày lễ đăng quang truyền ngôi báu cho hoàng-tử Nanda lên

1 Hoàng-tử Nanda là Hoàng-đệ cùng Phụ-vương khác Mẫu-hậu với Thái- tử Siddhattha (Đức-Phật). Trong bộ Chú-giải Chi-Bộ-Kinh tích Ngài Đại-đức Nandatthera.

 

ngôi vua và lễ thành hôn với công-chúa Janapada- kalyāṇī.(1)

Sau khi thọ thực xong, Đức-Phật trao cái bát cho hoàng-tử Nanda, rồi Đức-Phật ngự về ngôi chùa Nigrodhā. Hoàng-tử Nanda ôm bát đi theo sau, nghe văng vẳng tiếng công-chúa Janapadakalyāṇī căn dặn:

“Hoàng-huynh hãy mau trở về.”

Khi đến ngôi chùa Nigrodhā, Đức-Phật truyền dạy

hoàng-tử Nanda rằng:

  • Này Nanda! Con muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu hay không?

Bởi vì hết lòng tôn kính Đức-Phật, nên hoàng-tử Nanda không dám từ chối, bèn bạch với Đức-Phật rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, dạ vâng, con muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu. Bạch Ngài

Đức-Phật truyền dạy chư tỳ-khưu-Tăng làm lễ thọ tỳ- khưu cho hoàng-tử Nanda.

Sau khi trở thành tỳ-khưu, tỳ-khưu Nanda không muốn thực-hành phạm-hạnh cao thượng, mà muốn hoàn tục trở về cung, bởi vì nhớ lời căn dặn của hoàng-muội Janapadakalyāṇī xinh đẹp tuyệt trần.

Biết rõ tâm trạng tỳ-khưu Nanda chán nản thực-hành phạm-hạnh cao thượng, nên Đức-Phật cho gọi tỳ-khưu Nanda đến và truyền dạy rằng:

  • Này Nanda! Con chán nản thực-hành phạm-hạnh cao thượng, mà muốn hoàn tục trở về cung, có thật vậy không?

Tỳ-khưu Nanda kính bạch sự thật rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sự thật như vậy. Bạch Ngài.

1 Công-chúa Janapadakalyāṇī chính là công-chúa Rūpanandā, là hoàng- muội của hoàng-tử Nanda.

 

Đức-Phật truyền hỏi rằng:

  • Này Nanda! Do nguyên nhân nào mà con chán nản thực-hành phạm-hạnh cao thượng, muốn hoàn tục trở về cung vậy?

Tỳ-khưu Nanda kính bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sở dĩ con chán nản thực- hành phạm-hạnh cao thượng mà con muốn hoàn tục trở về cung, là vì con nhớ lời căn dặn của hoàng-muội Janapadakalyāṇī xinh đẹp tuyệt trần. Bạch Ngài.

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn nắm tay tỳ-khưu Nanda, dùng phép-thần-thông du hành bay lên cõi trời Tam-thập- tam-thiên. Trên đường đi, Đức-Phật chỉ cho tỳ-khưu Nanda thấy một con khỉ già ngồi ủ rủ trên cây khô, rồi tiếp tục ngự đến cung trời Tam-thập-tam-thiên.

Tỳ-khưu Nanda nhìn thấy 500 thiên-nữ xinh đẹp hầu hạ Đức-vua trời Sakka, Đức-Thế-Tôn bèn hỏi tỳ-khưu Nanda rằng:

  • Này Nanda! Con nghĩ thế nào, công-chúa Jana- padakalyāṇī với 500 thiên-nữ này, ai xinh đẹp hơn?

Tỳ-khưu Nanda kính bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, công-chúa Janapadakalyānī như con khỉ già ngồi ủ rủ trên cây khô trên đường đi, còn 500 thiên-nữ này xinh đẹp tuyệt trần.
  • Này Nanda! Con thấy hài lòng 500 thiên-nữ này không?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con rất hài lòng 500 thiên- nữ này lắm. Bạch Ngài.
  • Này Nanda! Nếu con thấy hài lòng 500 thiên-nữ này thì con nên hoan hỷ thực-hành phạm-hạnh cao thượng, rồi Như-Lai sẽ giúp con được như ý.

 

Nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, tỳ-khưu Nanda vô cùng hoan hỷ hứa sẽ thực-hành phạm-hạnh cao thượng. Đức-Thế-Tôn ngự trở về ngôi chùa Jetavana cùng với tỳ-khưu Nanda.

Do không còn tưởng đến công-chúa Janapadakalyāṇī nữa, tỳ-khưu Nanda cố gắng tinh-tấn không ngừng thực- hành phạm-hạnh cao thượng, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Sau khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, Ngài Trưởng- lão Nanda đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn và xin từ bỏ ý muốn được 500 thiên-nữ ở cõi trời Tam-thập-tam-thiên.

Thật ra, Đức-Phật thấy rõ, biết rõ tiền-kiếp của hoàng-tử Nanda đã từng đến hầu đảnh lễ Đức-Phật Padumuttara, đã phát nguyện muốn trở thành bậc Thánh A-ra-hán có đức-hạnh đặc biệt xuất sắc nhất đó là đức- hạnh cẩn trọng 6 môn thanh-tịnh và cũng được Đức- Phật Padumuttara thọ ký xác định rằng:

“Trong thời vị-lai, ý nguyện ấy sẽ được thành tựu trong thời-kỳ giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.”

Những tiền-kiếp của hoàng-tử Nanda đã tạo 10 pháp- hạnh ba-la-mật trải qua nhiều đời nhiều kiếp, từ thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara cho đến thời-kỳ Đức-Phật Gotama khoảng cách thời gian đúng 100 ngàn đại-kiếp trái đất.

Kiếp hiện-tại là kiếp chót, hoàng-tử Nanda đã có đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, bậc Thánh Đại-thanh-văn đệ-tử của

 

Đức-Phật Gotama, có đức-hạnh đặc biệt xuất sắc nhất

đó là đức-hạnh cẩn trọng 6 môn thanh-tịnh.

Nhưng vì tỳ-khưu Nanda bị vướng mắc vào sắc đẹp tuyệt trần của hoàng-muội Janapadakalyāṇī, nên chán nản thực-hành phạm-hạnh cao thượng, muốn hoàn tục trở về cung điện.

Đức-Thế-Tôn là Đức Vô-Thượng Giáo-Hóa chúng- sinh, nên Đức-Phật đã khéo bày cách gỡ vướng mắc cho tỳ-khưu Nanda.

Nhờ vậy, tâm của tỳ-khưu Nanda không còn tưởng đến sắc đẹp của hoàng muội Janapadakalyāṇī nữa, mà cố gắng tinh-tấn thực-hành phạm-hạnh cao thượng, thực- hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Như vậy, tỳ-khưu Nanda đã có sẵn hạt giống tốt, còn Đức-Phật trợ duyên để cho hạt giống tốt ấy được có cơ hội nảy mầm, tăng trưởng trổ hoa cho quả.

Ngài Đại-Trưởng-Lão Sāriputta thuyết pháp tế độ

thân mẫu

* Trường hợp thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, bà có 7 người con xuất gia đều trở thành bậc Thánh A-ra-hán(1), nhưng bà còn có tà-kiến, chưa có đức-tin nơi Tam-bảo, bà tôn thờ Đại-Phạm-thiên, và một lý do khác, bà cũng bực mình vì 7 đứa con của bà đều bỏ nhà đi xuất gia trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

1 Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, 3 người em trai Ngài Trưởng-lão Cunda, Ngài Trưởng-lão Upasena, Ngài Trưởng-lão Revata, 3 người em gái Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Cālā, Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Upacālā, Ngài Đại-đức tỳ- khưu-ni Sīsūpacālā (trong Dha, Aṭṭha. Tích Khadiraniyarevatattheravatthu).

 

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta bậc Thánh Tối- thượng thanh-văn có trí-tuệ siêu-việt đệ nhất trong hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama, trải qua 44 năm.

Một hôm, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta xem xét thấy rõ chỉ còn 7 ngày nữa sẽ tịch diệt Niết-bàn, nên Ngài Đại-Trưởng-lão đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn xin phép tịch diệt Niết-bàn. Đức-Thế-Tôn truyền hỏi:

  • Này Sāriputta! Con sẽ tịch diệt Niết-bàn tại nơi nào?

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con sẽ tịch diệt Niết-bàn tại ngôi nhà nơi con sinh trưởng, làng Nālākāgāma xứ Magadha, để con sẽ tế độ thân mẫu của con. Tuy bà có 7 người con đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán, nhưng bà vẫn chưa có đức-tin nơi Tam-bảo.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta cùng 500 vị đệ-tử đảnh lễ xin phép từ giã Đức-Thế-Tôn. Ngài Đại-Trưởng- lão trở về lại ngôi nhà xưa, trong căn phòng nơi Ngài Đại-Trưởng-lão đã trưởng thành.

Trong đêm cuối cùng của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta có các vị vua trời từ cõi Tứ-đại-thiên-vương, cõi Tam-thập-tam-thiên, cõi Dạ-ma-thiên, cõi Đâu-suất đà-thiên, cõi Hóa-lạc-thiên, cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên trong 6 cõi trời dục-giới; tiếp đến chư Đại-phạm-thiên các cõi trời sắc-giới đều tuần tự đến chiêm bái đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta lần cuối cùng.

Bà thân-mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta nhìn thấy chư-thiên, chư Đại-phạm-thiên có hào quang sáng ngời, vị sau hơn vị trước, bà muốn biết những vị chư- thiên ấy là vị nào mà có lòng tôn kính con của bà đến như thế, nên bà đến phòng của Ngài Đại-Trưởng-lão

 

Sāriputta, hỏi Ngài Trưởng-lão Cunda (người con trai thứ của bà) rằng:

  • Này Cunda! Các vị chư-thiên nào mà có lòng tôn kính đến chiêm bái đảnh lễ sư huynh của con như vậy?

Ngài Trưởng-lão Cunda thưa rằng:

  • Thưa thân mẫu, 4 vị đầu tiên đó là Tứ Đại-thiên- vương.

Bà nghĩ thầm: “Tứ Đại-thiên-vương có lòng tôn kính đến chiêm bái, đảnh lễ con ta, con ta là bậc cao thượng như vậy sao! Vậy, Đức-Phật là Đức Thầy của con ta, chắc chắn cao thượng biết dường nào!”

Và bà hỏi tiếp:

  • Này Cunda! Còn các vị chư-thiên khác là vị nào vậy? Ngài Trưởng-lão Cunda thưa tiếp:
  • Thưa thân mẫu, tiếp theo, Đức-vua trời Sakka từ cõi

trời Tam-thập-tam-thiên, kế đến Đức-vua trời Sujāma cõi trời Dạ-ma-thiên, Đức-vua trời Santussita cõi trời Đâu-suất-đà-thiên, Đức-vua trời Sunimmita cõi trời Hóa-lạc-thiên, Đức-vua trời Paranimmita từ cõi trời Tha-hóa-tự-tại-thiên, và tiếp đến chư Đại-Phạm-thiên từ các tầng trời sắc giới,

Nghe Ngài Trưởng-lão Cunda thưa như vậy nên bà lại suy nghĩ rằng:

Vị Đại-Phạm-thiên mà ta tôn thờ, chư Đại-Phạm- thiên ấy lại có lòng tôn kính đến chiêm bái đảnh lễ con của ta, con ta là bậc cao thượng đến như vậy sao!

Vậy, Đức-Phật là Đức-Thầy của con ta chắc chắn cao thượng biết dường nào!”

Suy nghĩ vậy, bà phát sinh đại-thiện-tâm hỷ lạc chưa từng có, bà ân cần thăm hỏi bệnh tình của Ngài Đại-

 

Trưởng-lão Sāriputta và bày tỏ ý nghĩ của mình. Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta biết đúng lúc hợp thời, nên Ngài Đại-Trưởng-lão thuyết giảng về Ân-Đức-Phật để tế độ thân mẫu.

Sau khi lắng nghe Ân-Đức-Phật xong, bà liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến và hoài-nghi, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta nghĩ rằng:

“Nay ta đã đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của thân mẫu của ta rồi.”

Rạng đông đêm ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Qua câu chuyện về thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng- lão Sāriputta, bà chưa có đức-tin nơi Tam-bảo, vì bà tôn thờ vị Đại-Phạm-thiên mà bà cho là cao thượng nhất và bà cũng bực mình vì 7 đứa con của bà đều bỏ nhà xuất gia trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, v.v...

Đó là những nguyên nhân cản trở làm cho bà chưa có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, chứ không phải bà không có duyên lành nơi Tam-bảo.

Khi bà biết vị Đại-Phạm-thiên mà bà tôn thờ, nay chư Đại-Phạm-thiên ấy lại có lòng tôn kính, đến chiêm bái đảnh lễ con của bà, thì con của bà là bậc cao thượng hơn chư Đại-phạm-thiên ấy, nên bà suy nghĩ rằng:

“Đức-Phật là Đức Thầy của con bà. Vậy, Đức-Phật chắc chắn còn cao thượng biết dường nào!”

 

Vì vậy, bà liền phát sinh đức-tin nơi Đức-Phật, nên phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ với 7 người con của bà đã bỏ nhà đi xuất gia trong giáo-pháp của Đức- Phật Gotama.

Như vậy, nhờ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta Bậc Đại-trí-tuệ thấy rõ, biết rõ, hợp thời, đúng lúc, nên Ngài Đại-Trưởng-lão thuyết pháp về Ân-Đức-Phật để tế độ thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão từ bỏ tà-kiến chuyển sang chánh-kiến, từ phàm-nhân chuyển sang bậc Thánh-nhân, để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của thân mẫu.

Thật là một tấm gương sáng cao thượng cho người

đời sau noi theo Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Biết Đức-Phật, kính Đức-Phật

Trong thời Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, có số người chỉ nghe đến danh hiệu “Buddho: Đức-Phật” liền phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật. Như trường hợp của ông phú-hộ Anāthapiṇḍika, Đức-vua Mahākap- pinna, v.v...

Cũng có số người, khi nghe đến Đức-Phật thì phát sinh tâm sân không hài lòng, nổi cơn giận dữ bực tức, tìm đến gặp Đức-Phật, nói lời lỗ mãng, không cung- kính, hăm dọa Đức-Phật.

Như trường hợp ông Bà-la-môn Akkosaka(1) được tóm lược như sau:

* Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn đang ngự tại ngôi chùa Veḷuvana gần kinh-thành Rājagaha. Khi hay tin người anh là Bhāradvāja đã xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật, ông Bà-la-môn Akkosaka nổi

1 Samyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Akkosakasutta.

 

giận, bực tức tìm đến gặp Đức-Phật, nói lời lỗ mãng, không cung-kính, hăm dọa Đức-Phật.

Đức-Phật vẫn an nhiên tự tại, hoàn toàn không nhận lời lỗ mãng, hăm dọa của ông ta. Khi ấy, Đức-Phật truyền dạy rằng:

  • Này Bà-la-môn! Ông nói lời lỗ mãng, hăm dọa Như- Lai, nhưng Như-Lai không nói nói lời lỗ mãng, không hăm doạ trả lại ông; ông giận Như-Lai, nhưng Như-Lai không hề giận trả lại ông; ông cố tâm chọc tức Như-Lai, nhưng Như-Lai không chọc tức trả lại ông. Như-Lai hoàn toàn không nhận điều gì của ông cả.
  • Này Bà-la-môn! Người nào nói lời lỗ mãng trả lại người đã nói lời lỗ mãng với mình, người nào nổi giận trả lại người đã nổi giận mình, người nào cố tâm chọc tức trả lại người đã chọc tức mình, v.v… Như-Lai gọi người ấy là người cùng chịu khổ chung lẫn nhau. Còn Như-Lai không cùng chịu khổ chung với ông.
  • Này ông Bà-la-môn! Như vậy, những lời lỗ mãng, hăm doạ, …. chỉ thuộc về riêng một mình ông mà thôi.

Đức-Thế-Tôn thuyết dạy bài kệ rằng:

  • Này ông Bà-la-môn!

Người nào diệt tâm sân, không còn nóng giận nữa, Sống an nhiên tự tại, giải thoát khỏi khổ tâm,

Bởi chứng ngộ chân-lý, dập tắt mọi phiền-não, Tâm sân hận từ đâu, mà phát sinh lên được?

Người nào hay nổi giận, trả thù kẻ giận mình, Người ấy thấp hèn hơn, kẻ giận mình gấp bội.

Người không giận trả đũa, với kẻ đã giận mình,

Gọi người chiến thắng(1) người thường khó thắng.

1 Chiến thắng được phiền não của mình.

 

Người nào biết ai giận, có chánh-niệm giữ mình, Dập tắt mọi phiền-não, người ấy gọi là người Thực-hành pháp nhẫn-nại, giữ gìn sự lợi ích, Cho mình và cho người, cả hai đều có lợi.

Người giữ gìn lợi ích, cả cho mình lẫn người.

Những người không trí-tuệ, không biết rõ thiện-pháp. Hiểu lầm người ấy rằng: “Một hạng người khờ dại”.

Khi Đức-Thế-Tôn thuyết dạy xong, thì ông Bà-la- môn Akkosaka thành kính bạch rằng:

  • Kính bạch Đức Gotama, lời dạy của Ngài ràng quá!
  • Kính bạch Đức Gotama, lời dạy của Ngài ràng quá!

Sau khi tán dương, ca tụng Đức-Thế-Tôn xong, ông Bà-la-môn Akkosaka phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Thế-Tôn, rồi xin quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo và kính xin Đức-Thế-Tôn cho phép ông được xuất gia thọ sa-di, thọ tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Đức-Thế-Tôn cho phép ông bà-la-môn Akkosaka xuất gia trở thành tỳ-khưu theo như ý nguyện.

Sau khi trở thành tỳ-khưu không lâu, tỳ-khưu Akkosaka hoan hỷ sống một mình nơi thanh vắng, không dể duôi, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra- hán trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

* Trường hợp Aṅgulimāla(1) là kẻ cướp sát nhân, nhìn thấy Đức-Phật, Aṅgulimāla đã cầm gươm đuổi theo định giết Đức-Phật. Khi ấy, Đức-Phật vừa đi, vừa thuyết pháp giáo hóa y.

1 Tìm hiểu đầy đủ trong quyển “8 Sự Tích Phật Lực”, cùng soạn-giả.

 

Aṅgulimāla tỉnh ngộ, vất bỏ khí giới, rồi kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Đức-Phật cho phép Aṅgulimāla thọ tỳ-khưu theo cách gọi “Ehi Bhikkhu! ...”

Về sau không lâu, tỳ-khưu Aṅgulimāla thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết- bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

* Trường hợp Dạ xoa Āḷavaka(2): Y nghe tin Đức- Phật ngự đến ngồi trên bảo toạ của y, ngay tức khắc y trở về, y dùng đủ các phép mầu nguy hiểm để xua đuổi Đức-Phật ra khỏi lâu đài của y, nhưng y không có khả năng thực hiện được.

Cuối cùng, Dạ-xoa Āḷavaka đặt các câu hỏi để bắt bí Đức-Phật, nếu Đức-Phật không trả lời được, thì phải ra khỏi lâu đài của y.

Đức-Phật đã trả lời thông suốt, tế độ Dạ-xoa Āḷavaka chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến và hoài-nghi, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu có đức-tin trong sạch vững chắc nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức- Tăng-bảo.

Đức-Phật thấy rõ, biết rõ những chúng-sinh đã từng có phước-duyên nơi chư Phật trong quá khứ, đã từng tạo nhiều pháp hạnh ba-la-mật, có thể chứng đắc thành bậc Thánh-nhân.

 

Trong đời này, một số người có đủ các pháp-hạnh ba- la-mật có thể trở thành bậc Thánh-nhân ngay trong kiếp hiện-tại, nhưng vì gần gũi thân cận với bạn xấu, nên không có cơ hội tốt để trở thành bậc Thánh-nhân.

* Như tích Mahādhanaseṭṭhiputtavatthu(1) hai người con của hai gia đình phú hộ trong kinh-thành Bārāṇasī được tóm lược như sau:

Trong kinh-thành Bārāṇasī có hai gia đình phú hộ, gia đình phú hộ này có một người con trai, gia đình phú hộ kia có một người con gái. Khi hai đứa con trưởng thành, hai gia đình phú hộ tác hợp cho hai đứa con thành đôi vợ chồng.

Khi hai bên cha mẹ qua đời, tất cả của cải tài sản gom lại gồm có 1.600 triệu gọi là mahādhanaseṭṭhiputta: hai người con đại phú hộ.

Hai vợ chồng đại phú hộ ngày đêm ăn chơi, mướn các

đoàn ca vũ đến nhà đờn ca múa hát.

Về sau, gần gũi thân cận các bạn ác, người con trai phú hộ nghiện rượu, các bạn ác kéo nhau đến càng ngày càng đông, nên mỗi ngày đêm, tiêu xài phung phí tiền của càng nhiều, qua một thời gian nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, tất cả của cải tài sản đều khánh kiệt, cuối cùng phải bán ngôi nhà.

Đến lúc tuổi cao, hai vợ chồng già yếu dẫn nhau đi xin ăn để sống qua ngày.

Một hôm, hai vợ chồng già yếu dẫn nhau đến đứng gần cửa nhà ăn của chư Tăng, chờ nhận vật thực còn dư của sa-di, tỳ-khưu.

1 Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Jarāvagga, tích Mahādhanaseṭṭhiputtavatthu.

 

Nhìn thấy 2 người già yếu như vậy, Đức-Thế-Tôn mỉm cười. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch hỏi Đức-Thế-Tôn rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do nhân-duyên nào Đức- Thế-Tôn mỉm cười? Bạch Ngài.

Đức-Thế-Tôn dạy Ngài Trưởng-lão Ānanda rằng:

  • Này Ānanda! Người già yếu ấy, trước kia là con của phú hộ có của cải tài sản lớn, ông đã tiêu xài phung phí hết sạch, cuối cùng, bán ngôi nhà. Nay, không còn gì nữa, ông dắt vợ đi xin ăn trong kinh-thành này.

Đức-Thế-Tôn dạy rằng:

  • Nếu người con phú hộ ở tuổi thanh niên không tiêu xài của cải tài sản, biết kinh doanh thì sẽ trở thành phú hộ thứ nhất trong kinh-thành Bārāṇasī này,
  • Nếu cả hai vợ chồng phú hộ ở tuổi thiếu niên xuất gia trong Phật-giáo, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì người chồng có khả năng trở thành bậc Thánh A-ra-hán, còn người vợ có khả năng trở thành bậc Thánh Bất-lai.
  • Nếu người con phú hộ ở tuổi trung niên không tiêu xài của cải tài sản, biết kinh doanh thì sẽ trở thành phú hộ thứ nhì trong kinh-thành Bārāṇasī này,
  • Nếu cả hai vợ chồng phú hộ ở tuổi trung niên xuất gia trong Phật-giáo, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì người chồng có khả năng trở thành bậc Thánh Bất-lai, còn người vợ có khả năng trở thành bậc Thánh Nhất-lai.
  • Nếu người con phú hộ ở tuổi lão niên không tiêu xài của cải tài sản, biết kinh doanh thì sẽ trở thành phú hộ thứ ba trong kinh-thành Bārāṇasī này,
  • Nếu cả hai vợ chồng phú hộ ở tuổi lão niên xuất gia trong Phật-giáo, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thì người

 

chồng có khả năng trở thành bậc Thánh Nhất-lai, còn người vợ có khả năng trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Nhưng bây giờ hai vợ chồng phú hộ già yếu đã trải qua hết 3 thời rồi, của cải tài sản thế gian đều bị khánh kiệt, của báu siêu-tam-giới là Thánh-đạo, Thánh-quả trong Phật-giáo cũng không thể phát sinh, như con cò già rụng hết lông cánh, nằm thoi thóp trên vũng bùn khô.

Đức-Phật thuyết dạy câu kệ rằng:

Người ngu dốt không biết hành phạm-hạnh, Không được của báu lúc còn trẻ trung,

Như con cò già yếu nằm than thở, Trên vũng bùn khô hết sạch cá tôm.

Người ngu dốt không biết hành phạm-hạnh, Không được của báu lúc còn trẻ trung, Nằm hối tiếc của cải xưa đã hết,

Như mũi tên đã rời khỏi cây cung, Rơi xuống đất làm đồ ăn cho mối.

Qua tích hai người con của hai gia đình phú hộ có khả năng trở thành bậc Thánh-nhân trong kiếp hiện-tại, nhưng không gặp bạn hiền, bậc thiện-trí trợ duyên, không có cơ hội lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí trong Phật-giáo, nên không trở thành bậc Thánh-nhân.

Hỗ trợ cơ hội đến người khác

Đức-vua Asoka, một Đấng-Minh-Quân là một cận- sự-nam có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo và hết lòng hộ trì Phật-giáo. Đức-vua có ý định tấn phong thái-tử Mahinda lên ngôi Đức-Phó-vương. Nhưng Đức-vua đắn đo suy xét lại rằng: “Việc tấn phong thái-tử Mahinda lên ngôi Đức-Phó-vương với việc cho phép thái-tử Mahinda xuất gia trở thành tỳ-khưu. Trong 2 việc này, việc nào cao thượng hơn cả?”

 

Đức-vua Asoka đắn đo suy xét với trí-tuệ sáng suốt lựa chọn rồi quyết định rằng: “Ta nên cho phép thái-tử Mahinda xuất gia trở thành tỳ-khưu là cao thượng hơn cả, bởi vì, nếu thái-tử Mahinda chịu vâng lời xuất gia trở thành tỳ-khưu thì đương nhiên ta sẽ trở thành người thân quyến kế thừa của Phật-giáo (Dāyado sāsanassa).”

Sau khi đã quyết định, Đức-vua Asoka truyền dạy thái-tử Mahinda rằng:

  • Này Hoàng-nhi Mahinda yêu quý! Con có muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu hay không?

Thái-tử Mahinda vốn là người đã từng tạo đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la-mật từ nhiều kiếp trong quá-khứ, đến kiếp hiện-tại này là kiếp chót, nên khi nghe Đức-Phụ- vương hỏi như vậy, như hạt giống tốt hội đủ duyên lành, nên thái-tử Mahinda vô cùng hoan hỷ tâu rằng:

  • Tâu Đức-Phụ-vương, con muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu. Kính xin Đức-Phụ-vương cho phép con được xuất gia trở thành tỳ-khưu trong Phật-giáo.

Khi ấy, Công-chúa Saṃghamittā cũng đang đứng gần ở đó, Đức-vua liền quay sang và cũng truyền dạy công- chúa rằng:

  • Này Saṃghamittā con yêu quý! Con có muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni hay không?

Cũng như thái-tử Mahinda, công-chúa Saṃghamittā cũng là người đã từng tạo đầy đủ 10 pháp-hạnh ba-la- mật từ nhiều kiếp trong quá-khứ, đến kiếp hiện-tại này là kiếp chót của công-chúa, nên khi nghe Đức-Phụ-vương hỏi như vậy, công-chúa Saṃghamittā vô cùng hoan hỷ tâu rằng:

 

  • Tâu Đức-Phụ-vương, con cũng muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni. Kính xin Đức-Phụ-vương cho phép con được xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni trong Phật-giáo.

Thái-tử Mahinda tròn 20 tuổi, chư Đại-đức-Tăng cho phép làm lễ thọ tỳ-khưu, rồi sau đó trở thành bậc Thánh A-ra-hán, còn công-chúa Saṃghamittā mới lên 18 tuổi nên cho phép làm lễ xuất gia Sikkhamānā, rồi sau đó trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Về sau, Ngài Trưởng-lão Mahinda đã dẫn một phái đoàn chư Thánh-Tăng sang đảo quốc Srilankā truyền bá Phật-giáo và tỳ-khưu-ni Saṃghamittā cũng dẫn một phái đoàn tỳ-khưu-ni sang đảo quốc Srilankā để làm lễ xuất gia thọ tỳ-khưu-ni cho các công-chúa và những người nữ khác trên đảo quốc Srilankā.

Phật-giáo được thịnh hành trên đảo quốc Srilankā, có nhiều chư tỳ-khưu-Tăng và chư tỳ-khưu-ni-Tăng.

Trong đời này, những hạng người khả năng không cần sự tác-động khuyến khích, giúp đỡ của người khác, họ cũng có thể thành tựu được như ý nguyện của họ.

Và có những hạng người cần được tác-động, cần được động viên khuyến khích giúp đỡ của người khác, thậm chí còn phải được dẫn dắt dạy dỗ, thì họ mới có thể thành tựu được như ý nguyện của họ.

Đối với những hạng người này, việc giúp đỡ hỗ trợ cho họ có cơ hội tốt, trợ duyên tốt đó là điều rất cần thiết, để cho họ được thành tựu được như ý nguyện của họ, ví như hạt giống tốt gặp đầy đủ nhân-duyên hỗ trợ để hạt giống tốt có cơ hội nảy mầm và phát triển.

 

(Xong chương II Tam-bảo)

 

 

 

 

 

ĐOẠN-KẾT                                                                                                 1

 
ĐOẠN KẾT

 

Trong kinh Tam-Bảo (Ratanasutta), Đức-Phật dạy bài kệ rằng:

“Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā, Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ Na no samaṃ atthi Tathāgatena, Idampi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ Etena saccena suvatthi hotu.”

Châu báu vô giá nào trong cõi người, Cõi Long-cung, cõi dục-giới, sắc-giới Tất cả mọi châu báu vô giá ấy,

Không thể sánh bằng Đức-Phật cao thượng, Phật-Bảo này là châu báu vô thượng

Do năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong toàn chúng-sinh được an-lạc.

Trong bài kinh Pubbaṇhasutta có 3 bài kệ: bài kệ thứ nhất giống bài kệ trên, còn bài kệ thứ nhì:

“Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā, Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ Na no samaṃ atthi Tathāgatena, Idampi Dhamme ratanaṃ paṇītaṃ. Etena saccena suvatthi hotu.”

Châu báu vô giá nào trong cõi người, Cõi Long-cung, cõi dục-giới, sắc-giới Tất cả mọi châu báu vô giá ấy,

Không thể sánh bằng Đức-Pháp cao thượng, Pháp-Bảo này là châu báu vô thượng

Do năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong toàn chúng-sinh được an-lạc.

 

Và bài kệ thứ ba:

“Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā, Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ Na no samaṃ atthi Tathāgatena, Idampi Saṃghe ratanaṃ paṇītaṃ Etena saccena suvatthi hotu.”

Châu báu vô giá nào trong cõi người, Cõi Long-cung, cõi dục-giới, sắc-giới Tất cả mọi châu báu vô giá ấy,

Không thể sánh bằng Đức-Tăng cao thượng, Tăng-Bảo này là châu báu vô thượng.

Do năng lực của lời chân thật này,

Cầu mong toàn chúng-sinh được an-lạc.

Trong ba câu kệ trên ý nghĩa danh từ “Tathāgatena”

theo từng mỗi câu kệ như sau:

  • Bài kệ thứ nhất: Tathāgatena ý nghĩa Đức-Phật- bảo cao thượng hơn tất cả các loại châu báu vô giá trong cõi người, cõi Long-cung, cõi trời dục-giới và cõi trời sắc-giới.
  • Bài kệ thứ nhì: Tathāgatena có ý nghĩa là Đức- Pháp-bảo đó là pháp-học Phật-giáo và 9 pháp siêu-tam- giới cao thượng hơn tất cả các loại châu báu vô giá trong cõi người, cõi Long-cung, cõi trời dục-giới và cõi trời sắc-giới.
  • Bài kệ thứ ba: Tathāgatena có ý nghĩa là Đức-Tăng- bảo đó là chư Thánh-Tăng và phàm-Tăng cao thượng hơn tất cả các loại châu báu vô giá trong cõi người, cõi Long-cung, cõi trời dục-giới và cõi trời sắc-giới.

Như vậy, người tại gia nào có duyên lành, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, có trí-tuệ sáng suốt đến xin thọ

 

 
   

ĐOẠN-KẾT                                                                                                 3

 

phép quy-y nương nhờ nơi Tam-bảo: nương nhờ nơi Đức-Phật-bảo, nương nhờ nơi Đức-Pháp-bảo, nương nhờ nơi Đức-Tăng-bảo, thì người ấy sẽ trở thành cận-sự- nam (upāsaka) hoặc cận-sự-nữ (upāsikā), là 1 trong 4 hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, được gần gũi thân cận nơi Tam-bảo: nơi Đức-Phật-bảo, nơi Đức-Pháp- bảo, nơi Đức-Tăng-bảo.

Người cận-sự-nam, hoặc cận-sự-nữ ấy được sự lợi ích cao thượng, sự tiến hóa trong mọi thiện-pháp từ dục- giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện- pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp cao thượng tuỳ theo khả năng của mình, sự an-lạc cao thượng cả trong kiếp hiện-tại lẫn vô số kiếp vị-lai, cho đến kiếp chót chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, hết tuổi thọ sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

 

 

(Xong quyển I: Tam-Bảo)

 

Patthanā

Iminā puññakammena, sukhī bhavāma sabbadā. Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo, loke sattā sumaṅgalā.

Vietnam-raṭṭhikā sabbe ca, janā pappontu sāsane. Vuḍḍhiṃ viruḷhivepullaṃ, patthayāmi nirantaraṃ.

Lời cầu nguyện

Do nhờ phước-thiện thanh cao này, Cho chúng con thường được an-lạc.

Cầu mong chánh-pháp được trường tồn, Tất cả chúng-sinh được hạnh-phúc.

Dân tộc Việt Nam được phát triển, Tiến hóa hưng thịnh trong Phật-giáo. Bần sư cầu nguyện với tâm thành,

Hằng mong được thành tựu như nguyện. Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo lokasmiṃ

Ciraṃ tiṭṭhatu saddhammo Vietnamraṭṭhasmiṃ.

Cầu nguyện chánh-pháp được trường tồn trên thế gian, Cầu nguyện chánh-pháp được trường tồn trên Tổ-quốc Việt-Nam thân yêu.

 

PL. 2562 / DL. 2019

Rừng Núi Viên-Không Xã Tóc Tiên, Huyện Tân Thành Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

 

Tỳ-khưu Hộ-Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu)

(Aggamahāpaṇḍita)

 

PHẦN PHỤ LỤC

CÁCH PHÁT ÂM MẪU TỰ PĀḶI

Tiếng Pāḷi gồm có 41 mẫu tự, chia làm 2 loại:

  1. Nguyên âm gồm có 8 mẫu tự: a, ā, i, ī, u, ū, e, o.

* 8 nguyên âm này chia làm hai loại:

    1. 3 nguyên âm đọc giọng ngắn, thời gian 1 lần nháy mắt.

 

Nguyên âm Pāḷi

a

i

u

Cách phát âm

á

í

ú

    1. 5 nguyên âm đọc giọng dài gấp đôi, thời gian 2 lần nháy mắt:

Nguyên âm Pāḷi

ā

ī

ū

e

o

Cách phát âm

a-a

i-i

u-u

ê-ê

ô-ô

  1. Phụ âm gồm 33 phụ âm, chia thành nhóm như sau:

1

ka

kha

ga

gha

Phát âm cổ

khá

ghá

ngá

 

2

ca

cha

ja

jha

ña

Phát âm đóc họng

chá

schá

chá

schá

nhá

3

ṭa

ṭha

ḍa

ḍha

ṇa

Phát âm cong đầu lưỡi trên hàm ếch

thá

đá

thá

4

ta

tha

da

dha

na

Phát âm đặt đầu

lưỡi vào 2 đầu răng

thá

đá

thá

5

pa

pha

ba

bha

ma

Phát âm hai đầu môi

phá

phá

ya

ra

La

va

sa

ha

ḷa

giá

wóa

ân

                           

 

2                                            PHỤ LỤC

Thực ra, 33 phụ âm này được phiên âm cách phát âm

rất khó chuẩn. Nên học tập cách phát âm trực tiếp với thầy dạy.

Cách phát âm

41 mẫu tự Pāḷi chia làm 6 cách phát âm:

  1. Những nguyên âm và phụ âm phát âm ở cổ, có 8 âm:

a, ā, ka, kha, ga, gha, ṅ, ha.

  1. Những nguyên âm và phụ âm phát âm ở đóc họng, có 8 âm: i, ī, ca, cha, ja, jha, ña, ya.
  2. Những phụ âm phát âm bằng cách cong đầu lưỡi ở hàm ếch, khi phát âm đánh đầu lưỡi ra ngoài, có 7 phụ âm: ṭa, ṭha, ḍa, ḍha, ṇa, ra, ḷa.
  3. Những phụ âm phát âm phát âm bằng cách đặt đầu lưỡi ở hai đầu răng, khi phát âm đồng thời hở 2 đầu răng, có 7 phụ âm là: ta, tha, da, dha, na, la, sa.
  4. Những nguyên âm và phụ âm phát âm ở 2 đầu môi (miệng ngậm lại), khi phát âm đồng thời hở đầu môi, có 7 âm: u, ū, pa, pha, ba, bha, ma.
  5. Phụ âm (ṃ) m có dấu chấm ở bên dưới phát âm nơi lỗ mũi, khi phát âm 2 đầu môi ngậm lại. Phụ âm này thường theo sau 3 nguyên âm là: aṃ, iṃ, uṃ.

Những nguyên âm, phụ âm phát sinh 2 nơi:

    • Nguyên âm ê” phát âm nơi cổ và đóc họng.
    • Nguyên âm ô” phát âm nơi cổ và môi.
    • Phụ âm va” phát âm nơi răng và môi.

Cách đọc tiếng Pāḷi

Tiếng Pāḷi có một thứ tiếng, mà mỗi chữ có nhiều mẫu tự. Cách phát âm ghép đọc theo mỗi mẫu tự: có danh từ nguyên âm đứng đầu mỗi chữ; có danh từ phụ âm đứng đầu mỗi chữ.

 

 
   

PHỤ LỤC                                                     3

 

    • Khi nguyên âm đứng đầu riêng biệt, không ghép với phụ âm sau.

Ví dụ: a-kata (á-ká-tá): không làm.

ā-kāsa (a-ka-xa): hư không...

    • Khi nguyên âm đứng đầu ghép với phụ âm đứng sau.

Ví dụ: akka (ăc-cá): mặt trời.

icchā (íc-cha): mong muốn...

    • Khi phụ âm đơn đứng đầu ghép với nguyên âm sau.

Ví dụ: ka  kā  ki  kī  ku  kū  ke  ko

(cá)  (ca)  (kí)  (ki)  (cú) (cu)  (kê)  (cô)

Ví dụ: kaṭa (cá-tá): chiếc chiếu.

gata (gá-tá): đã đi...

    • Khi phụ âm ghép với nguyên âm trước.

Ví dụ: gacchati (gắt-chá-tí): đi.

cakkhu (chắc-khú): mắt...

Cách phát âm một danh từ Pāḷi có hai cách: Phụ âm đơn ghép với nguyên âm:

Ví dụ: Karoti (cá-rô-tí): làm, hành động.

Kāyasucarita (ca-giá-xú-chá-rí-tá): thân hành thiện.

Hai phụ âm ghép vào nhau, thì nguyên âm của phụ âm trước bị xóa, còn lại phụ âm ấy ghép vào nguyên âm của phụ âm trước.

Ví dụ: ka + ka = kka trong danh từ cakka (chắc-cá) bánh xe...

Nếu trường hợp còn lại phụ âm ấy mà không có nguyên âm trước, thì phụ âm ấy ghép chung vào phụ âm sau.

Ví dụ: da + ra = dra trong danh từ Indrya (in-drí-giá) chủ, căn...

Hai phụ âm ghép vào nhau phải đúng theo quy tắc mới thành danh từ Pāḷi và có ý nghĩa.

 

4

PHỤ LỤC

 

Phụ âm ghép

dụ

Cách phát âm

Ý nghĩa

ka + ka = kka

Cakka

Chắc-

Bánh xe

ka + kha = kkha

Dukkha

Đúc-khá

Khổ

ka + ya = kya

Sakya

Xắc-kgiá

Dòng họ Sakya

ka + ri = kri

Kriyā

Kri-giá

Hành động

ka + la = kla

Kilesa

Klê-

Phiền não

ka + va = kva

Kvattho?

Quắt-thô

lợi ích gì?

kha + ya = khya

Ākhyāta

A-khgia-tá

Động từ

kha + va = khva

Ahaṃkhvajja

Ahăng kh-wắt chá

Ngày hôm nay, tôi

ga + ga = gga

Magga

Mắc-

Đạo, đường

ga + gha = ggha

Aggha

Ắc-ghá

Giá cả

ga + ya = gya

Ārogya

A-rô-ggiá

Sức khỏe

ga + ra = gra

Graha

Grá-

Chê trách

ṅ + ka = ṅka

Paṅka

Panh-

Bùn lầy, dơ bẩn

ṅ + kha = ṅkha

Saṅkhata

Xăn-khá-tá

Được cấu tạo

 

Phụ âm ghép

dụ

Cách phát âm

Ý nghĩa

ṅ + ga = ṅga

Saṅgaha

Xăn-gá-há

Gom góp

ṅ + gha = ṅgha

Saṅgha

Xăn-ghá

Chư Tăng

ca + ca = cca

Sacca

Xắt-chá

Sự thật, chân

ca + cha = ccha

Gacchati

Gắt-chá-tí

Đi

ja + ja = jja

Ajja

Ắt-chá

Hôm nay

ja + jha = jjha

Upajjhāya

Ú-pắt-cha-giá

Thầy tế độ

ña + ña = ñña

Pañña

Panh-nha

Trí tuệ

ña + ca = ñca

Pañca

Panh-chá

Số 5

ña + cha = ñcha

Uñchati

Un-chá-ti

Đi kiếm ăn

ña + ja = ñja

Añjalī

Ăn-cha-li

Chắp tay cung kính

ña + jha = ñjha

Vañjhā

Văn-cha

Đàn sinh

ña + ha = ñha

Pañhā

Panh-ha

Câu hỏi

ṭa + ṭa = ṭṭa

Vaṭṭa

Voát-

Vòng, luân hồi

ṭa + ṭha = ṭṭha

Vuṭṭha

Wút-thá

Mưa ướt

ḍa + ḍa = ḍḍa

Āḍḍa

Ắt-đá

Sự phán xét

ḍa + ḍha = ḍḍha

Vuḍḍha

Wút-thá

Già, trưởng lão

PHỤ LỤC

5

 

 

Phụ âm ghép

dụ

Cách phát âm

Ý nghĩa

ṇa +ṭa = ṇṭa

Kaṇṭaka

Căn-tá-cá

Cái gai nhọn

ṇa + ṭha = ṇṭha

Gaṇṭhi

Găn-thí

Cái gút

ṇa + ḍa = ṇḍa

Paṇḍita

Panh-đí-tá

Bậc thiện trí

ṇa + ḍha = ṇḍha

Kaṇḍha

Căn-thá

Cổ

ṇa + ṇa = ṇṇa

Vaṇṇa

Voanh-

Sắc đẹp, màu sắc

ṇa + ha = ṇha

Gaṇhati

Găn-há-tí

Mang

ta + ta = tta

Attā

Ắt-ta

Ta, ngã

ta + tha = ttha

Attha

Ắt-tha

Sự lợi ích

ta + va = tva

Katvā

Cắt-toa

Đã làm rồi

ta + ya = tya

Cetyāni

Chê-tgia-ní

Các ngôi Bảo tháp

ta + ra = tra

Atra

Át-trá

Tại đây

da + da = dda

Upaddava

Ú-pắt-đá-voas

Tai nạn

da + dha = ddha

Buddha

Bút-thá

Đức Phật

da + ya = dya

Adya

Á-đgiá

Hôm nay

da + ra = dra

Indriya

In-dri-giá

Chủ, căn

da + va = dva

Dvāra

Dvoa-

Cửa, môn

6

PHỤ LỤC

 

 

Phụ âm ghép

dụ

Cách phát âm

Ý nghĩa

dha + ya = dhaya

Madhya

Ma-dhgiá

giữa

dha + va = dhva

Madhvāsapa

Ma-dhvoa-xá-pá

 

na + ta = nta

Anta

Ăn-

Cuối cùng

na +tva = ntva

Gantvā

Găn-tvoa

Đã đi rồi

na + tha = ntha

Santhara

Xăn-thá-rá

Tấm vải trải giường

na + da = nda

Canda

Chăn-đá

Mặt trăng

na + dra = ndra

Indriya

In-đri-giá

Chủ, căn

na + dha = ndha

Andha

Ăn-thá

quáng

na + na = nna

Anna

Ăn-na

Vật thực, cơm

na + ya = nya

Nyāsa

Ngià-

Cầm đồ, nợ

na + ha = nha

Nhāru

Nha-

Gân

pa + pa = ppa

Appa

Áp-

Ít

pa + pha = ppha

Puppha

Pụp-phá

Bông hoa

pa + ya = pya

Lipya

Li-pgiá

Viết chữ

pa + la = pla

Pariplava

Pá-rí-plá-voa

Hiện rõ ra

ba + ba = bba

Sabba

Xắp-

Tất cả

PHỤ LỤC

7

 

 

8

PHỤ LỤC

 

Phụ âm ghép

dụ

Cách phát âm

Ý nghĩa

ba + bha = bbha

Abbha

Ắp-

không

ba + ya = bya

Byāpada

Bgia-pá-đá

Lòng sân hận

ba + ra = bra

Brahanta

Bra-han-tá

Rộng lớn

ma + pa = mpa

Campā

Cham-pa

Xứ Cam

ma + pha = mpha

Samphassa

Xăm-phặt-xá

Tiếp xúc

ma + ba = mba

Ambaphala

Ăm-bá-phá-lá

Trái xoài

ma + bha = mbha

Gambhīri

Găm-phi-rá

Sâu sắc

ma + ma = mma

Dhamma

Thăm-

Pháp

ma + ya = mya

Myāyaṃ

Mgià-giăng

Cái này của tôi

ma + ha = mha

Amhākaṃ

Ăm-ha-kăng

Của chúng ta

ya + ya = yya

Seyya

Xê-giá

Cao thượng

ya + va = yva

Yvāhaṃ

Giavoa-hăng

Tôi nào

ya + ha = yha

Tuyha

Tuy-

Anh, Ngài

la + la = lla

Salla

Xan-

Mũi tên

la + ya = lya

Kalyāṇa

Can-gia-ná

Tốt, đẹp

va + ya = vya

Vyāpāda

Vgia-pa-đá

Sân hận

 

PHỤ LỤC

9

 

 

Phụ âm ghép

dụ

Cách phát âm

Ý nghĩa

va + ha = vha

Avhā

Á-vha

Tên

sa + ta = sta

Uttasta

Út-tátch-ta

Sợ hãi

sa + tra = stra

Bhastrā

Phátch-tra

Bao bằng da

sa + na = sna

Sneha

Xnê-

Keo sơn

sa + ya = sya

Nisya

Nít-xya

Bộ sách dịch nghĩa

sa + sa = ssa

Assa

Ắt-

Con ngựa

sa + ma = sma

Tasmā

Tátch-ma

Tại sao?

sa + va = sva

Svāhaṃ

Xvoa-hăng

Tôi này

ha + ma = hma

Brahmaṇa

Brah-má-ná

Balamôn

ha + va = hva

Bahvābādha

Bá-hvoa-ba-tha

Nhiều bệnh

ḷa + ha = ḷha

Āsāḷhamāsa

A-xan-ha-ma-xa

Tháng 6 âm lịch

 

10                                          PHỤ LỤC

Và vân vân... còn nhiều từ nữa.

Thật ra, tiếng Pāḷi phiên âm ra tiếng Việt vô cùng khó.

Bởi vì tiếng Pāḷi có 6 nơi phát âm, có 6 nhân phát âm, phát âm giọng yếu, giọng mạnh, giọng ngắn, giọng dài... mà tiếng Việt thì lại không có, do đó khó có thể phiên âm cho chuẩn được. Muốn đọc, phát âm cho chuẩn cần phải học tập cách phát âm trực tiếp với thầy dạy tiếng Pāḷi.

Sau đây là một vài ví dụ cách tập đọc:

Đảnh Lễ Đức-Thế-Tôn

Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa.

Cách đọc:

Namo: Ná-mô.

Tassa: Tắt-xá. Bhagavato: Phá-gá-vá-tô. Arahato: Á-rá-há-tô.

Sammāsambuddhassa: Xăm-ma-xăm-bút thắt-xa.

 

Phép Quy-Y Tam-Bảo

Buddhaṃ    saraṇaṃ    gacchāmi. Bút-thăng                    xá-rá-năng    gắt-cha-mí. Dhammaṃ    saraṇaṃ    gacchāmi. Thăm-măng               xá-rá-năng    gắt-cha-mí. Saṃghaṃ   saraṇaṃ   gacchāmi. Xăng-khăng              xá-rá-năng    gắt-cha-mí.

Dutiyampi    Buddhaṃ    saraṇaṃ    gacchāmi. Đú-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí. Dutiyampi                    Dhammaṃ saraṇaṃ     gacchāmi. Đú-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí. Dutiyampi                    Saṃghaṃ    saraṇaṃ   gacchāmi. Đú-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí.

 

 
   

PHỤ LỤC                                                   11

 

Tatiyampi    Buddhaṃ    saraṇaṃ    gacchāmi. Tá-tí-giăm-pí Bút-thăng xá-rá-năng gắt-cha-mí. Tatiyampi                   Dhammaṃ    saraṇaṃ    gacchāmi. Tá-tí-giăm-pí Thăm-măng xá-rá-năng gắt-cha-mí. Tatiyampi                   Saṃghaṃ   saraṇaṃ   gacchāmi. Tá-tí-giăm-pí Xăng-khăng xá-rá-năng gắt-cha-mí.

 

Thọ Trì Ngũ Giới:

Pāṇātipātā     veramaṇisikkhāpadaṃ     samādiyāmi. Pa-na-tí-pa-ta vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng        xá-ma-đí- gia-mí.

Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Á-đin-na-đa-na vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí- gia-mí.

Kāmesu     micchācārā     veramaṇisikkhāpadaṃ

Ca-mê-xú     mít-cha-cha-ra      vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng

samādiyāmi.

xá-ma-đí-gia-mí.

Musāvādā     veramaṇisikkhāpadaṃ     samādiyāmi. Mú-xa-voa-đa                vuê-rá-ma-ní-xíc-kha-pá-đăng    xá-ma-đí- gia-mí.

Surā meraya majjap pamādaṭṭhānā veramaṇi- Xú-ra mê-rá-giá mắt-chắp pá-ma-đát-tha-na vuê-rá-ma-ní- sikkhāpadaṃ  samādiyāmi.

xíc-kha-pá-đăng xá-ma-đí-gia-mí.

 

SÁCH THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

 

  • Vinayapiṭakapāḷi và Aṭṭhakathāpāḷi.
  • Suttantapiṭakapāḷi và Aṭṭhakathāpāḷi.
  • Abhidhammapiṭakapāḷi và Aṭṭhakathāpāḷi.
  • Abhidhammatthasaṅgaha của Ngài Đại-Trưởng- lão Anuruddha.
  • Bộ Visuddhimagga và bộ Visuddhimaggamahāṭīkā
  • Bộ Jinakālamālī pakaraṇa.
  • Toàn bộ Mahābuddhavaṃsa của Ngài Đại-Trưởng- lão Vicittasārābhivaṃsa (Visiṭṭhatipiṭakadhara, Mahātipiṭakakovida, Dhammabhaṇdāgārika).
  • Toàn bộ sách Ledi của Ngài Đại-Trưởng-lão Ledi Sayadaw.
  • Toàn bộ sách giáo khoa “Saddhammajotika” của Ngài Đại-Trưởng-lão Saddhammajotika.
  • Tài liệu trong các kỳ thi Tam-tạng của bộ Tôn-giáo Myanmar, v.v…

 

Thông Báo Tin Vui

Bộ sách Nền-Tảng-Phật-Giáo của soạn-giả Tỳ-Khưu Hộ- Pháp (Dhammarakkhita Bhikkhu) (Aggamahāpaṇḍita) là bộ sách gồm có 9 chương, chia ra làm 10 quyển được sắp xếp theo thứ tự từ quyển I đến quyển X. Quyển I: Tam-Bảo làm nền tảng cho quyển II: Quy-Y Tam-Bảo, v.v … cho đến quyển IX: Pháp- Hành Thiền-Định làm nền tảng cho quyển X: Pháp-Hành Thiền-Tuệ.

Bộ sách Nền-Tảng-Phật-Giáo này đã được tái bản sửa bổ sung, đã chuyển sang ebook, được đưa vào trang web “trungtamhotong.org”. Nếu quý độc-giả nào có nhu cầu tìm hiểu thì vào trang web “trungtamhotong.org”, vào mục “thư viện”, tìm đến soạn giả: Tỳ-Khưu Hộ-Pháp, sẽ thấy tên các file sách bằng pdf.

Quý độc-giả nào dùng hệ điều hành IOS thì click vào tên sách và chọn “Mở trong iBooks”, sách sẽ tự động tải về máy. Còn với hệ điều hành android thì quý độc-giả có thể tải phần mềm đọc file pdf như Adobe Acrobat Reader, sau khi tải về sách sẽ nằm trong phần mềm đó, chỉ cần mở phần mềm lên sẽ thấy file sách.

Trong mỗi file sách, ở trang thứ 3 (Món quà pháp), dưới góc bên phải có ô “Mục lục”, chỉ cần click vào đó sẽ nhảy đến trang “Mục lục”. Còn nếu muốn đọc sách theo thứ tự thì quý độc-giả chỉ cần lật từng trang sách như bình thường.

Mỗi quyển sách file ebook được trình bày có số trang hoàn toàn giống hệt như số trang quyển sách bên ngoài, cho nên, rất thuận lợi cho độc-giả đã từng đọc quyển sách nào rồi, mà quên tích nào hoặc pháp nào, v.v. … không biết ở trong trang sách nào, thì độc-giả chỉ cần đánh tên tích ấy hoặc tên pháp ấy trong ô tìm kiếm, sẽ tìm được một cách mau chóng ngay tức thì.

Xin chân thành cảm ơn quý độc giả.

 


CÙNG MỘT SOẠN GIẢ

 

Đã xuất bản:

  • TÌM HIỂU PHÁP-HÀNH THIỀN-TUỆ (Tái bản lần thứ nhất)
  • 8 SỰ TÍCH PHẬT LỰC
  • Hạnh Phúc An Lành: THIỆN ÁC
  • GƯƠNG BẬC XUẤT-GIA
  • TÌM HIỂU PHƯỚC BỐ-THÍ (Tái bản lần thứ nhất)
  • Hạnh Phúc An Lành: HIẾU NGHĨA
  • Hạnh Phúc An Lành: NHẪN NẠI
  • Hạnh Phúc An Lành: GIÁO-PHÁP
  • Hạnh Phúc An Lành: TÂM TỪ
  • PHÁP MÔN NIỆM ÂN-ĐỨC-PHẬT (Tái bản lần thứ nhất)
  • Thực-Hành Pháp-Hành Thiền-Tuệ: ĐỐI-TƯỢNG TỨ OAI-NGHI
  • CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT KHỔ
  • Ý NGHĨA ĐÊM RẰM THÁNG
  • BÀI KINH CHO NGƯỜI BỆNH
  • LỄ DÂNG Y KATHINA
  • ĐỨC-PHẬT VỚI CÂY ĐẠI-BỒ-ĐỀ
  • NGÔI BẢO THÁP GOTAMACETIYA
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo: 10 PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT BẬC THƯỢNG
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo: TRÍ -TUỆ SIÊU-VIỆT
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo: CẨM NANG QUY-Y TAM-BẢO
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển I: TAM-BẢO (Tái bản lần thứ ba)
  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển II: QUY-Y TAM-BẢO

(Tái bản lần thứ nhì)

  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển III: PHÁP-HÀNH-GIỚI

(Tái bản lần thứ ba)

  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển IV: NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA NGHIỆP

(Tái bản lần thứ nhất)

  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển V: PHƯỚC-THIỆN

(Tái bản lần thứ nhất)

  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VI: PHÁP HẠNH BA-LA- MẬT 1

(Tái bản lần thứ nhất)

 

  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VII: PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT 2

(Tái bản lần thứ nhất)

  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển VIII: PHÁP HẠNH BA-LA-MẬT 3

(Tái bản lần thứ nhất)

  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển IX: PHÁP-HÀNH THIỀN-ĐỊNH

(Tái bản lần thứ nhất)

  • Nền-Tảng-Phật-Giáo Quyển XI: PHÁP-HÀNH THIỀN-TUỆ

(Tái bản lần thứ nhất)

  • VI-DIỆU-PHÁP HIỆN THỰC TRONG CUỘC SỐNG

(Tái bản lần thứ nhất)

  • NGŨ-GIỚI LÀ THƯỜNG GIỚI CỦA MỌI NGƯỜI

(Tái bản lần thứ nhất)

 

NỀN-TẢNG-PHẬT-GIÁO

QUYỂN I

TAM-BẢO

TỲ-KHƯU HỘ-PHÁP

*********************

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

53 Tràng Thi - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội

ĐT: 024-3782 2845 – FAX: 024-3782 2841

Email: [email protected]

Chịu trách nhiệm xuất bản Giám đốc - Tổng biên tập TS. BÙI THANH HÀ

Biên tập

NGUYỄN THỊ HUỆ

 

Sửa bản in

TỲ-KHƯU HỘ-PHÁP

Trình bày & Vi tính

DHAMMANANDĀ Upāsikā

 

Địa chỉ liên lạc và phát hành

CHÙA TBỬU LONG

81/1, Đường Nguyễn Xiển, Long Bình, Quận 9, TP. Hồ Chí Minh

ĐT: +84 (0) 28 3889 7653 / DĐ: +84 (0) 778 608 925

 
   
 

 

Số lượng in: 1.000 bản, Khổ 13.5 x 20.5 cm,

In tại: Xí nghiệp In Nguyễn Minh Hoàng, 510 Trường Chinh, phường 13, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

Số ĐKXB: 468 - 2019/CXBIPH/01 - 15/TG

ISBN: 978-604-61-6144-8

QĐXB: 54/QĐ-NXBTG Ngày 21 tháng 2 năm 2019 In xong và nộp lưu chiểu quý II năm 2019.

Giá: 90.000 Đ

 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications