Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
NTPG.Q01.B04 Đức Pháp
Đức-Pháp dịch từ danh từ Pāḷi Dhamma, trong phần này nghĩa là Chánh-pháp (Saddhamma) mà Đức-Thế- Tôn đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, hoàn hảo phần giữa, hoàn hảo phần cuối, đầy đủ ý nghĩa, văn chương trong sáng thanh-tịnh. Chánh-pháp có 10 pháp là:
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:6016

Các tên gọi khác

Đức-Pháp dịch từ danh từ Pāḷi Dhamma, trong phần này nghĩa là Chánh-pháp (Saddhamma) mà Đức-Thế- Tôn đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, hoàn hảo phần giữa, hoàn hảo phần cuối, đầy đủ ý nghĩa, văn chương trong sáng thanh-tịnh. Chánh-pháp có 10 pháp là:

General Information

Danh sách : Liên quan
:

ĐỨC-PHÁP

(DHAMMA)

Đức-Pháp dịch từ danh từ Pāḷi Dhamma, trong phần này nghĩa là Chánh-pháp (Saddhamma) Đức-Thế- Tôn đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, hoàn hảo phần giữa, hoàn hảo phần cuối, đầy đủ ý nghĩa, văn chương trong sáng thanh-tịnh. Chánh-pháp có 10 pháp là:

  • Pháp-học Chánh-pháp (Pariyattidhamma).
  • 9 pháp siêu-tam-giới (Navalokuttaradhamma).

Pháp-Học Chánh-Pháp

Pháp-học Chánh-pháp là lời giáo huấn của Đức-Phật Gotama gồm có Tam-Tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

Chuyển-Pháp-Luân đầu tiên

Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian vào canh chót đêm rằm tháng tư, đồng thời Đức-Pháp cũng xuất hiện cùng một lúc ấy, còn Đức-Tăng chưa xuất hiện.

Vào ngày rằm tháng 6, sau khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian tròn đúng 2 tháng, lần đầu tiên Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Dhammacak- kappavattanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân tế độ nhóm 5 tỳ-khưu: Ngài Trưởng-lão Koṇḍañña trưởng nhóm, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji tại vườn phóng sinh nai tên gọi Isipatana gần kinh-thành Bārāṇasī.

Khi ấy, mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng vừa ló dạng hướng Đông, Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Dhammacakkappavattanasutta: Kinh Chuyển-Pháp- Luân này.

 

Bài Kinh Chuyển-Pháp-Luân (Dhammacakkappavattanasutta)(1)

Phần I: Ý nghĩa kệ khai Kinh Chuyển-Pháp-Luân

“Bhikkhūnaṃ pañcavaggīnaṃ ...” Vị Đại-Phạm-thiên Sa-ham-pa-ti,

Thỉnh cầu Đức-Phật, thuyết pháp độ sinh,

Đức-Phật đại bi nhận lời thỉnh cầu. Thuyết pháp giảng giải pháp tứ Thánh-đế,

Chánh-pháp cao thượng chứng ngộ Niết-bàn Tế độ chúng-sinh, nhóm năm tỳ-khưu

Tại khu rừng rậm, nơi phóng sinh nai Tên gọi là I-si-pa-ta-na,

Mong sự lợi ích cho toàn chúng-sinh,

Lắng nghe bài kinh Chuyển-Pháp-Luân này, Thành tựu kết quả cõi người, cõi trời,

Niết-bàn tịch tịnh an-lạc tuyệt đối.

Nay chúng tôi tụng kinh Chuyển-Pháp-Luân.

Phần II: Ý nghĩa bài Kinh Chuyển-Pháp-Luân

Lời Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch với Ngài Đại- Trưởng-lão Mahākassapa rằng:

  • “Evaṃ me sutaṃ…”
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa khả kính, con là Ānanda được nghe bài kinh Chuyển-Pháp- Luân từ Đức-Thế-Tôn như vầy:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại khu rừng phóng sinh nai, gọi là Isipatana, trước kia Chư Phật Độc-Giác thường ngự xuống. Tại đây, Đức-Thế-Tôn gọi nhóm 5 tỳ-

 
   
 

 

1 Bộ Saṃ, Mahāvagga, kinh Dhammacakkappavattanasutta.

 

khưu là Ngài Trưởng-lão Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji mà dạy rằng:

2 Pháp thấp hèn (Dve antā)

  • Này chư tỳ-khưu! Có 2 pháp cực đoan thuộc về hai biên kiến mà bậc xuất-gia không nên hành.

Hai pháp ấy như thế nào?

  • Một là việc thường thụ hưởng khoái lạc trong ngũ dục do tâm tham-ái hợp với thường-kiến, là pháp thấp hèn của hạng phàm-nhân trong đời, không phải là pháp- hành của bậc Thánh-nhân, không đem lại lợi ích an-lạc.
  • Hai là việc thường tự ép xác hành khổ mình do tâm sân và có đoạn-kiến, thuộc pháp-hành khổ-hạnh của ngoại đạo, không phải là pháp-hành của bậc Thánh- nhân, không đem lại lợi ích an-lạc.

Pháp-hành Trung-đạo (Majjhimapaṭipadā)

  • Này chư tỳ-khưu! Không thiên về hai biên kiến ấy, Như-Lai đã hành theo pháp-hành trung-đạo, nên đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ siêu-tam- giới, làm cho tuệ-nhãn phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ siêu- tam-giới phát sinh, để làm vắng lặng mọi phiền-não, làm cho trí-tuệ siêu-tam-giới phát sinh chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
  • Này chư tỳ-khưu! Thế nào gọi là pháp-hành trung- đạo mà Như-Lai đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ siêu-tam-giới, làm cho tuệ-nhãn phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh, để làm vắng lặng mọi phiền-não, làm cho trí-tuệ siêu-tam-giới phát sinh chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.
  • Này chư tỳ-khưu! Pháp-hành trung-đạo đó chính

 

Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.

  • Này chư tỳ-khưu! Nhờ pháp-hành trung-đạo là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng này, mà Như-Lai đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ siêu- tam-giới, làm cho tuệ-nhãn phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới phát sinh, đã làm vắng lặng mọi phiền- não, làm cho trí-tuệ siêu-tam-giới phát sinh chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn.

Tứ Thánh-Đế

  1. Khổ-Thánh-đế (Dukkha ariyasacca)
  • Này chư tỳ-khưu! Khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là:
  • Tái-sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ.
  • Phải gần gũi, thân cận với người không thương yêu là khổ.
  • Phải xa lìa người thương yêu là khổ.
  • Mong muốn đừng có sinh, đừng có già, đừng có bệnh,

đừng chết, không thể nào được như ý khổ.

  • Tóm lại, chấp-thủ trong ngũ-uẩn do tâm tham-ái và tà-kiến là khổ.
  1. Nhân sinh Khổ-Thánh-đế (Dukkhasamudaya ariyasacca)
  • Này chư tỳ-khưu! Nhân sinh khổ-Thánh-đế là chân- lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là tham-ái, là nhân dắt dẫn tái-sinh, hợp với tham muốn, hài lòng, say mê trong các đối-tượng, đắm say trong kiếp sống.

Nhân sinh khổ-Thánh-đế ấy :

 

  • Dục-ái (kāmataṇhā): Tham-ái trong 6 đối-tượng ái trong cõi dục-giới: sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái và pháp-ái.
  • Hữu-ái (bhavataṇhā): Tham-ái trong 6 đối-tượng ái hợp với thường-kiến, và tham-ái trong cõi sắc-giới và cõi vô-sắc-giới.
  • Phi-hữu-ái (vibhavataṇhā): Tham-ái trong 6 đối- tượng ái hợp với đoạn-kiến.
  1. Diệt Khổ Thánh-đế (Dukkhanirodha ariyasacca)
  • Này chư tỳ-khưu! Diệt khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, đó là Niết-bàn, là pháp diệt tận được mọi dục-vọng do tâm tham-ái ấy không còn dư sót bằng 4 Thánh-đạo-tuệ, xả ly, từ bỏ chấp-thủ trong ngũ-uẩn, giải thoát khổ, không còn luyến ái, không còn dính mắc.
  1. Pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế (Dukkhanirodhagaminī paṭipadā ariyasacca)
  • Này chư tỳ-khưu! Pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế là chân-lý mà bậc Thánh- nhân đã chứng ngộ, đó là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định.

Tam-Tuệ-Luân Trong Tứ Thánh-Đế 1- Tam-tuệ-luân trong Khổ-Thánh-đế

1.1- Trí-tuệ-học biết Khổ-Thánh-đế (Saccañāṇa)

  • Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn (cakkhuñāṇa) thấy rõ khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ (ñāṇa) thấy rõ thật-tánh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt (paññā) thấy rõ khổ sinh, khổ già… đã phát sinh, tuệ-minh (vijjā) thấy rõ, thấu-suốt hoàn toàn khổ-Thánh-

 

đế đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ (ālokañāṇa) diệt màn vô-minh che án khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như- Lai trong mọi pháp khổ-Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thật-tánh tất cả các pháp (sắc-pháp, danh-pháp) trong tam-giới, ngoại trừ tâm tham-ái ra, đều là khổ- Thánh-đế (dukkhaṃ ariyasaccaṃ).”

1.2- Trí-tuệ-hành phận sự biết Khổ-Thánh-đế (Kiccañāṇa)

  • Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng-suốt... đã phát sinh, tuệ-minh... đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thật-tánh các pháp (sắc-pháp, danh-pháp) khổ- Thánh-đế ấy là pháp nên biết rõ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññeyyaṃ).”

1.3- Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự biết Khổ- Thánh-đế (Katañāṇa)

  • Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt... đã phát sinh, tuệ-minh... đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thật-tánh tất cả các pháp (sắc-pháp, danh-pháp) khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên biết, thì đã biết rõ bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññātaṃ).”

 

  1. Tam-tuệ-luân trong nhân sinh Khổ-Thánh-đế 2.1- Trí-tuệ-học biết nhân sinh Khổ-Thánh-đế

(Saccañāṇa)

  • Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn thấy rõ tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ thật-tánh ba loại tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt thấy 108 loại tham-ái nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, tuệ-minh thấy rõ, thấu- suốt nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh, ánh-sáng trí- tuệ diệt màn vô-minh che án nhân sinh khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp nhân sinh khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như- Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thật-tánh ba loại tham-ái ấy là nhân sinh khổ- Thánh-đế (dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ).”

2.2- Trí-tuệ-hành phận sự diệt nhân sinh Khổ-Thánh-đế (Kiccañāṇa)

  • Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt... đã phát sinh, tuệ-minh... đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp nhân sinh khổ-Thánh- đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thật-tánh ba loại tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh- đế ấy là pháp nên diệt bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ pahātabbaṃ).”

2.3- Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự diệt nhân sinh Khổ-Thánh-đế (Katañāṇa)

  • Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt... đã phát sinh,

 

tuệ minh... đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp nhân sinh khổ-Thánh- đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thật-tánh ba loại tham-ái là nhân sinh khổ-Thánh- đế ấy là pháp nên diệt, thì đã diệt tận bằng 4 Thánh- đạo-tuệ rồi (dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ-pahīnaṃ).”

  1. Tam-tuệ-luân trong diệt Khổ-Thánh-đế 3.1- Trí-tuệ-học biết diệt Khổ-Thánh-đế

(Saccañāṇa)

  • Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn thấy rõ diệt khổ-Thánh- đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ diệt khổ-Thánh- đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt thấy rõ thật-tánh Niết- bàn đã phát sinh, tuệ-minh thấy rõ, thấu-suốt diệt khổ- Thánh-đế đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ diệt màn vô- minh che án diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp diệt khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thật-tánh  Niết-bàn  là  pháp  diệt  khổ-Thánh-đế

(dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ).”

3.2- Trí-tuệ-hành phận sự chứng ngộ diệt Khổ-Thánh-đế (Kiccañāṇa)

  • Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt... đã phát sinh, tuệ-minh... đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ... đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp diệt khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

 

“Thật-tánh Niết-bàn diệt khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên chứng ngộ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkha- nirodhaṃ ariyasaccaṃ sacchikātabbaṃ).”

3.3- Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự chứng ngộ diệt Khổ-Thánh-đế (Katañāṇa)

  • Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt... đã phát sinh, tuệ-minh... đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp diệt khổ-Thánh-đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thật-tánh Niết-bàn diệt khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ Niết-Bàn bằng 4 Thánh- đạo-tuệ rồi (dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ sacchikataṃ).”

  1. Tam-tuệ-luân trong pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế

4.1- Trí-tuệ-học biết pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế (Saccañāṇa)

  • Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn thấy rõ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt thấy rõ thật-tánh của chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đã phát sinh, tuệ-minh thấy rõ, thấu-suốt pháp-hành dẫn đến diệt khổ- Thánh-đế đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ diệt màn vô- minh che án pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

 

“Thật-tánh Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ).”

4.2- Trí-tuệ-hành phận sự tiến hành pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế (Kiccañāṇa)

  • Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt... đã phát sinh, tuệ-minh... đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh đến với Như-Lai trong mọi pháp-hành dẫn đến diệt-khổ- Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thật-tánh Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên tiến hành để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvetabbaṃ).”

4.3- Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự tiến hành pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế (Katañāṇa)

  • Này chư tỳ-khưu! Tuệ-nhãn… đã phát sinh, trí-tuệ- thiền-tuệ… đã phát sinh, trí-tuệ sáng suốt... đã phát sinh, tuệ-minh.  đã phát sinh, ánh-sáng trí-tuệ… đã phát sinh

đến với Như-Lai trong mọi pháp-hành dẫn đến diệt khổ- Thánh-đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như-Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:

“Thật-tánh Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế ấy là pháp nên tiến hành, thì đã được tiến hành chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvitaṃ).”

 

Vai trò quan trọng của tam-tuệ-luân

  • Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo Tam-tuệ-luân (trí-tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành), thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh-tịnh chưa phát sinh đến với Như-Lai.
  • Này chư tỳ-khưu! Khi ấy Như-Lai chưa dám truyền dạy rằng:

“Như-Lai chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác vô thượng trong toàn cõi-giới chúng-sinh: nhân- loại, Vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma vương và phạm-thiên cả thảy.”

  • Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo Tam-tuệ-luân, thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh-tịnh đã phát sinh đến với Như-Lai.
  • Này chư tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai dõng dạc khẳng

định truyền dạy rằng:

Như-Lai đã chứng đắc thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi-giới chúng-sinh: nhân-loại, Vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương và phạm-thiên cả thảy.”

Trí-tuệ quán triệt (Paccavekkhaṇañāṇa)

Trí-tuệ quán triệt đã phát sinh đến với Như-Lai, biết rõ rằng:

“A-ra-hán Thánh-quả-tuệ giải thoát của Như-Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót, sau kiếp này, chắc chắn không còn tái-sinh kiếp nào nữa.”

 

Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-Đế

Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp- Luân này xong, nhóm 5 tỳ-khưu phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức-Phật.

Trong khi Đức-Thế-Tôn thuyết bài kinh văn xuôi này xong, thì Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña đã phát sinh pháp-nhãn chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, tâm không còn bị ô nhiễm bởi phiền-não là tà- kiến, hoài-nghi nữa, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, nên Ngài biết rõ ràng chắc chắn rằng:

Tất cả các pháp nào trong tam-giới có trạng-thái- sinh, thì tất cả pháp ấy đều có trạng-thái-diệt.”

Toàn thể chư-thiên, phạm-thiên tán dương ca tụng

Khi Đức-Thế-Tôn thuyết giảng kinh Chuyển-Pháp- Luân vừa xong, chư-thiên trên địa cầu (bhummaṭṭha- devatā) đồng thanh tán dương ca tụng rằng:

“Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp- Luân vô thượng tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, chưa từng Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương, phạm-thiên hay bất cứ một ai trong đời này có thể thuyết giảng như vậy được.”

Đồng thời, chư-thiên ở cõi Tứ đại-thiên-vương được nghe lời tán dương ca tụng của chư-thiên địa cầu, cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:

“Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp- Luân vô-thượng tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, chưa từng Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương, phạm-thiên hay bất cứ

 

một ai trong đời này có thể thuyết giảng như vậy được.” Cũng như vậy, chư-thiên trong cõi Tam-thập-tam-

thiên, cõi Dạ-ma-thiên, cõi Đâu-suất-đà-thiên, cõi Hóa- lạc-thiên, cõi Tha-hóa-tự-tại-thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:

“Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp- Luân vô thượng, ...

Đồng thời, Phạm-thiên ở cõi trời sắc-giới được nghe lời tán dương ca tụng của chư-thiên trong cõi Tha-hóa- tự-tại-thiên, cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:

“Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp- Luân vô thượng tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần kinh-thành Bārāṇasī, chưa từng Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, ma-vương, phạm-thiên hay bất cứ một ai trong đời này có thể thuyết giảng như vậy được.”

Ngay khi ấy, ngay lúc ấy, ngay sát-na ấy, lời tán dương ca tụng lên đến cõi sắc-giới phạm-thiên cao nhất là “Sắc-cứu-cánh-thiên (Akaniṭṭhā)”, mười ngàn cõi- giới chúng-sinh này đều rung chuyển, rung động, ánh sáng hào quang của Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác tỏa rộng vô biên khắp cùng các cõi-giới, hơn hẳn oai lực chư-thiên, phạm-thiên cả thảy.

Ngài Trưởng-lão Koṇḍañña có tên Aññāsikoṇḍañña

Khi Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Nhập- lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama. Đức-Thế-Tôn hoan hỷ tự thốt lên cho toàn cõi-giới biết rằng:

“Aññāsi vata bho Koṇḍañño!

 

Aññāsi vata bho Koṇḍañño!”

Iti hidaṃ āyasmato Koṇḍaññassa “Aññāsikoṇdañño”.

  • Này chư vị! Quả thật Koṇḍañña đã chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế rồi!
  • Này chư vị! Quả thật Koṇḍañña đã chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế rồi!

Cho nên, Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña có tên là Aññāsikoṇḍañña (Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña đã chứng ngộ).

Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña thọ tỳ-khưu

Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña đã phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, đã chứng đạt đến chân-lý tứ Thánh-đế, đã biết rõ đúng theo chân-lý tứ Thánh-đế, đã thấu rõ, thông suốt chân-lý tứ Thánh-đế, nên đã diệt tận hoàn toàn mọi điều hoài-nghi nơi Đức-Phật, nơi Đức-Pháp, … không còn hoài-nghi nào nữa, với trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới của mình đã chứng ngộ đúng theo lời giáo-huấn của Đức-Thế-Tôn, nên không còn tin nơi người nào khác nữa. Ngài Đại- Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña thành kính đảnh lễ Đức- Thế-Tôn rồi bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn cao thượng, con xin quy-y nương nhờ nơi Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài cho phép con được thọ sa-di và tỳ-khưu.

Đức-Thế-Tôn có tâm từ đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón tay trỏ truyền dạy rằng:

“Ehi bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahma- cariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.”

  • Này Aññāsikoṇḍañña! Con hãy đến với Như-Lai.

 

Con trở thành tỳ-khưu theo ý nguyện. Chánh-pháp mà Như-Lai đã thuyết giảng hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh-tấn hành phạm-hạnh cao thượng để chứng đắc A-ra-hán Thánh- đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, để chấm dứt khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Đức-Thế-Tôn truyền dạy vừa dứt lời, Ngài Đại- Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña trở thành tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu phát sinh do quả của phước-thiện như thần-thông.

(Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña xuất gia trở thành tỳ-khưu theo cách gọi: Ehi bhikkhu)

(Xong bài kinh Chuyển-Pháp-Luân)

Khi lắng nghe Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Chuyển-Pháp-Luân này, trong nhóm 5 tỳ-khưu chỉ có Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên y theo Đức-Phật, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết- bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama,(1) cùng với 180 triệu chư- thiên, phạm-thiên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Đức-Phật, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết- bàn tùy theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm- pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi vị.

Sau khi đã trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, Ngài Đại- Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña được Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu theo cách Ehi bhikkhūpasampadā. Đức-

 
   
 

 

1 Tìm hiểu bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển VI, VII, VIII: Pháp-Hạnh Ba- La-Mật, cùng soạn-giả.

 

Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ về phía Ngài

Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña truyền dạy rằng:

“Ehi Bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahma- cariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.”

Thật kỳ diệu thay! Khi Đức-Phật vừa chấm dứt câu, ngay khi ấy, hình tướng cũ đạo-sĩ của Ngài Đại-Trưởng- lão Aññāsikoṇḍañña biến mất, thay vào tăng tướng mới, đạo mạo một tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ- khưu thành tựu do quả của phước-thiện như thần-thông. Vị tỳ-khưu có tăng tướng trang nghiêm, thân, khẩu thanh-tịnh như một vị tỳ-khưu có 60 hạ.

Tam-Bảo trọn vẹn xuất hiện trên thế gian

Đức-Phật Gotama thuyết giảng bài kinh Chuyển- Pháp-Luân lần đầu tiên vào ngày rằm tháng sáu. Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña trở thành bậc Thánh Nhập-lưu đầu tiên trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, và trở thành vị tỳ-khưu đầu tiên trong giáo- pháp của Đức-Phật Gotama. Ngay khi ấy, Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo trọn vẹn đầu tiên xuất hiện trên thế gian.

Còn lại 4 vị tỳ-khưu khác, Đức-Phật tiếp tục chỉ dạy.

* Sáng ngày 16 tháng 6, Đức-Phật không ngự đi khất thực, ở lại tại khu rừng Uruvelā, để chỉ dạy Ngài Vappa Ngài Bhaddiya, còn 3 vị tỳ-khưu: Ngài Đại-Trưởng- lão Aññāsikoṇḍañña, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji đi khất thực, đem về dâng vật thực đến Đức-Phật, phần vật thực còn lại phân chia đều cho 5 tỳ-khưu độ trong ngày.

Ngày 16 tháng 6, Ngài Vappa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu

 

được Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu cũng theo cách

Ehibhikkhūpasampadā.

  • Ngày 17 tháng 6, Đức-Phật chỉ dạy Ngài Bhaddiya Ngài Mahānāma, còn Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsi- koṇḍañña, Ngài Vappa và Ngài Assaji đi khất thực, đem về dâng vật thực đến Đức-Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho 5 tỳ-khưu.

Ngày 17 tháng 6, Ngài Bhaddiya chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu và được Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu theo cách Ehibhikkhūpasampadā.

  • Ngày 18 tháng 6, Đức-Phật chỉ dạy Ngài Mahānāma Ngài Assaji, còn Ngài Đại-Trưởng-lão Aññāsikoṇḍañña, Ngài Vappa và Ngài Bhaddiya đi khất thực, đem về dâng vật thực đến Đức-Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho 5 vị tỳ-khưu.

Ngày 18 tháng 6, Ngài Mahānāma chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập- lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu và được Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu theo cách Ehibhikkhūpasampadā.

  • Ngày 19 tháng 6, Đức-Phật chỉ dạy Ngài Assaji, còn 4 vị tỳ-khưu đi khất thực, đem về dâng vật thực đến Đức- Phật, phần còn lại chia đều đến 5 vị tỳ-khưu.

Ngày 19 tháng 6, Ngài Assaji chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu và được Đức-Phật cho phép thọ tỳ-khưu theo cách Ehibhikkhūpasampadā.

 

Như vậy nhóm 5 tỳ-khưu đều trở thành 5 bậc Thánh Nhập-lưu và cũng trở thành 5 tỳ-khưu trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.

Để nâng đỡ nhóm 5 tỳ-khưu Thánh Nhập-lưu lên bậc Thánh A-ra-hán,

  • Ngày 20 tháng 6, Đức-Phật thuyết giảng bài kinh

Anattalakkhaṇasutta: Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã.

Thật vậy, sau khi nghe Đức-Phật thuyết bài kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã xong, nhóm 5 tỳ-khưu đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhất-lai Thánh- đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, Bất-lai Thánh- đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, A-ra-hán Thánh- đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, mọi ác-pháp không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng trong giáo- pháp của Đức-Phật Gotama.

Như vậy, ngoài Đức-Phật ra, còn có 5 vị Thánh A-ra- hán thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian này.

Tìm hiểu bài Kinh Chuyển-Pháp-Luân Hai pháp cực đoan thuộc 2 biên kiến

  • Thường thụ hưởng an-lạc trong ngũ-dục: sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục, do tâm tham hợp với thường-kiến là cách sống của người tại gia.

Nhóm người có quan niệm sai lầm cho rằng: tâm sân thật là tai hại! Khổ tâm là do tâm sân. Muốn diệt tâm sân chỉ có đối-tượng ngũ-dục đáng hài lòng, để tâm tham phát sinh hài lòng trong mọi đối-tượng ngũ-dục ấy.

  • Thường tự mình ép xác hành-khổ-hạnh như nằm trên gai nhọn, ngâm mình trong nước lạnh, đốt lửa làm

 

nóng thân thể, v.v… với tâm sân do đoạn-kiến theo cách thực-hành pháp-hành khổ-hạnh của tu-sĩ ngoại đạo.

Nhóm người có quan niệm sai lầm cho rằng: tâm tham trong ngũ-dục thật là tai hại! Mọi sự say mê trong ngũ-dục do tâm tham. Muốn diệt tâm tham chỉ có tự mình ép xác thực-hành pháp-hành khổ-hạnh, để tâm sân không hài lòng phát sinh mà thôi.

Bậc xuất-gia không nên thực-hành 2 pháp cực đoan thuộc về 2 biên kiến, mà nên thực-hành theo pháp-hành trung-đạo (majjhimapaṭipadā) là pháp-hành dẫn đến diệt tâm tham tâm sân, đồng thời diệt tâm si.

5

Pháp-hành trung-đạo (Majjhimā paṭipadā) là pháp- hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh- tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh- tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định. Đó là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Tóm lược Tứ Thánh-đế

  • Trong bài kinh Chuyển-Pháp-Luân

Ariyasacca: Thánh-đế là sự-thật chân-lý mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ.

Ariyasacca: Thánh-đế có 4 pháp:

  1. Dukkha ariyasacca: Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ, sắc-uẩn chấp-thủ, thọ-uẩn chấp-thủ, tưởng- uẩn chấp-thủ, hành-uẩn chấp-thủ, thức-uẩn chấp-thủ thuộc về tam-giới, là đối-tượng của 4 pháp chấp-thủ đều là khổ-Thánh-đế.

 

  1. Dukkhasamudaya ariyasacca: Nhân sinh khổ- Thánh-đế đó là tham tâm-sở gọi là tham-ái, có ba loại tham-ái (taṇhā):
  • Kāmataṇhā: Dục-ái tham-ái trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) trong cõi dục-giới.
  • Bhavataṇhā: Hữu-ái tham-ái trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với thường-kiến và tham-ái trong thiền sắc-giới, thiền vô-sắc-giới, trong cõi sắc-giới, cõi vô-sắc-giới.
  • Vibhavataṇhā: Phi-hữu-ái tham-ái trong 6 đối- tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp- ái) hợp với đoạn-kiến.
  1. Dukkhanirodha ariyasacca: Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn, pháp diệt khổ-Thánh-đế.
  2. Dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasacca: Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư- duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh- tấn, chánh-niệm, chánh-định.
  • Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-tịnh-đạo giảng giải về 16 thật-tánh của tứ Thánh-đế: (1)
  1. Khổ-Thánh-đế (Dukkha-ariyasacca) đó là ngũ-uẩn chấp-thủ, hoặc sắc-pháp và danh-pháp tam-giới đó là 81 tam-giới-tâm (trừ 8 siêu-tam-giới-tâm) 51 tâm-sở (trừ tham tâm-sở), có 4 thật-tánh:
  • Thật-tánh khổ là luôn hành hạ.
  • Thật-tánh khổ là do nhân-duyên cấu tạo.
  • Thật-tánh khổ làm nóng nảy.

 
   
 

 

1 Bộ Visuddhimagga, phần Pariññādikiccakathā.

 

  • Thật-tánh khổ là luôn luôn biến đổi.
  1. Nhân sinh khổ-Thánh-đế (dukkhasamudaya ariya- sacca) đó là tham tâm-sở gọi là tham-ái, có 3 loại tham- ái (taṇhā) là nhân sinh khổ-Thánh-đế, có 4 thật-tánh là:
  • Thật-tánh làm nhân sinh khổ-Thánh-đế.
  • Thật-tánh khổ làm cho phát sinh khổ-Thánh-đế.
  • Thật-tánh ràng buộc trong khổ-Thánh-đế.
  • Thật-tánh dính mắc trong khổ-Thánh-đế.
  1. Diệt khổ-Thánh-đế (dukkhanirodha ariyasacca)

đó là Niết-bàn là pháp diệt khổ-Thánh-đế, có 4 thật-tánh:

  • Thật-tánh giải thoát khổ-Thánh-đế.
  • Thật-tánh không bị ràng buộc trong khổ-Thánh-đế.
  • Thật-tánh không bị nhân-duyên cấu tạo.
  • Thật-tánh không tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  1. Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế (Dukkha- nirodhagaminī paṭipadā ariyasacca) đó là pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư- duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh- tấn, chánh-niệm, chánh-định, có 4 thật-tánh là:
  • Thật-tánh pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn.
  • Thật-tánh là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
  • Thật-tánh là pháp-hành giải thoát khổ tử sinh luân- hồi trong tam-giới.
  • Thật-tánh là pháp-hành dẫn đầu làm phận sự:
  • Biết khổ-Thánh-đế.
  • Diệt nhân sinh khổ-Thánh-đế.
  • Chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế.

Tất cả 16 thật-tánh của tứ Thánh-đế này đồng thành- tựu cùng một lúc trong 4 Thánh-đạo-tâm.

 

Tam-tuệ-luân trong Tứ Thánh-đế

  1. Sacca ñāṇa: Trí-tuệ-học biết trong tứ Thánh-đế.
  2. Kicca ñāṇa: Trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế.
  3. Kata ñāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế.
  1. Tam-tuệ-luân trong Khổ-Thánh-đế

1.1- Trí-tuệ-học là trí-tuệ-học hiểu biết rõ khổ-Thánh-

đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ (dukkhaṃ ariyasaccaṃ).

1.2- Trí-tuệ-hành là trí-tuệ thực-hành phận sự của pháp-hành thiền-tuệ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ khổ-Thánh-đế pháp nên biết bằng trí-tuệ- thiền-tuệ tam-giới (dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññeyyaṃ).

1.3- Trí-tuệ-thành là trí-tuệ hoàn thành phận sự của trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý khổ- Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ biết rõ khổ- Thánh-đế pháp nên biết thì đã biết bằng 4 Thánh-đạo- tuệ rồi (dukkhaṃ ariyasaccaṃ pariññātaṃ).

  1. Tam-tuệ-luân trong nhân sinh Khổ-Thánh-đế

2.1- Trí-tuệ-học là trí-tuệ-học hiểu biết rõ nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là 3 loại tham-ái (dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ).

2.2- Trí-tuệ-hành là trí-tuệ thực-hành phận sự của pháp-hành thiền-tuệ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ nhân sinh khổ-Thánh-đế pháp nên diệt bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhasamudayaṃ ariya- saccaṃ pahātabbaṃ).

2.3- Trí-tuệ-thành là trí-tuệ hoàn thành phận sự của trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý nhân sinh khổ-Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ biết rõ nhân sinh khổ-Thánh-đế pháp nên diệt thì đã diệt tận

 

bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhasamudayaṃ ariya- saccaṃ pahīnaṃ).

  1. Tam-tuệ-luân trong diệt Khổ-Thánh-đế

3.1- Trí-tuệ-học là trí-tuệ-học hiểu rõ diệt khổ-Thánh-

đế đó là Niết-bàn (dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ).

3.2- Trí-tuệ-hành là trí-tuệ thực-hành pháp-hành thiền- tuệ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ diệt khổ- Thánh-đế pháp nên chứng ngộ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ sacchikātabbaṃ).

3.3- Trí-tuệ-thành là trí-tuệ hoàn thành phận sự của trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý diệt khổ-Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ biết rõ diệt khổ-Thánh-đế pháp nên chứng ngộ thì đã chứng ngộ bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ sacchikataṃ).

  1. Tam-tuệ-luân trong pháp-hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế

4.1- Trí-tuệ-học là trí-tuệ-học hiểu rõ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ).

4.2- Trí-tuệ-hành là trí-tuệ thực-hành pháp-hành thiền- tuệ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế pháp nên tiến-hành bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvetabbaṃ).

4.3- Trí-tuệ-thành là trí-tuệ hoàn thành phận sự của trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, chứng ngộ chân-lý pháp- hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo- tuệ biết rõ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế pháp nên tiến hành thì đã tiến hành bằng 4 Thánh-đạo-tuệ rồi (dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāvitaṃ).

 

Tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế gồm có 12 loại trí- tuệ đóng vai trò quan trọng làm phận sự chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế mà Đức-Phật Gotama đã thuyết giảng trong bài kinh Dhammacakkappavattanasutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân rằng:

  • Này chư tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân, (trí-tuệ học, trí-tuệ hành, trí-tuệ thành) (4x3) thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng thanh-tịnh đã phát sinh đến Như-Lai.
  • Này chư tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai dõng dạc khẳng định truyền dạy rằng: “Anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho” Như-Lai đã chứng đắc thành Đức- Phật Chánh-Đẳng-Giác vô-thượng trong toàn cõi-giới chúng-sinh: nhân-loại, vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, Ma-vương, phạm-thiên cả thảy.

 

Thực-Hành Pháp-Hành Thiền-Tuệ

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, rồi chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn. Hành-giả cần phải học và hành theo tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế.

  1. Sacca ñāṇa: Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế.
  2. Kicca ñāṇa: Trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế.
  3. Kata ñāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế.

Hành-giả cần phải học và hành theo tuần tự trong

tam-tuệ-luân như sau:

  1. 4 Trí-tuệ-học trong Tứ Thánh-đế

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trước tiên cần phải học pháp-học trong tứ Thánh-đế đó là học 4 trí-

 

tuệ-học trong tứ Thánh-đế cho hiểu biết rõ chi pháp của mỗi Thánh-đế như sau:

1.1- Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ

Ngũ-uẩn chấp-thủ nghĩa là ngũ-uẩn là đối-tượng của

4 pháp chấp-thủ trong đối-tượng:

  • Kāmupādāna: Chấp-thủ trong ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục) trong cõi dục-giới, có chi-pháp là tham tâm-sở đồng sinh với 8 tham-tâm.
  • Diṭṭhupādāna: Chấp-thủ trong tà-kiến (ngoài sīlab- batupādāna và attavādupādāna), có chi-pháp là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
  • Sīlabbatupādāna: Chấp-thủ trong pháp-thường-hành sai lầm, có chi-pháp là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.
  • Attavādupādāna: Chấp-thủ trong ngũ-uẩn cho là ta, có chi-pháp là tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến.

4 pháp chấp-thủ này trong tam-giới: dục-giới, sắc- giới, vô-sắc-giới.

Ngũ-uẩn chấp-thủ có 5 pháp đó là:

  1. Sắc-uẩn chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp là đối-tượng của pháp chấp-thủ.
  2. Thọ-uẩn chấp-thủ đó là thọ tâm-sở trong 81 tam- giới-tâm là đối-tượng của pháp chấp-thủ.
  3. Tưởng-uẩn chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở trong 81 tam-giới-tâm là đối-tượng của pháp chấp-thủ.
  4. Hành-uẩn chấp-thủ đó là 50 tâm-sở (trừ thọ tâm- sở và tưởng tâm-sở) trong 81 tam-giới-tâm là đối-tượng của pháp chấp-thủ.
  5. Thức-uẩn chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm là đối- tượng của pháp chấp-thủ.

 

Ngũ-uẩn chấp-thủ này thuộc khổ-Thánh-đế là pháp nên biết.

  • Chúng-sinh ở trong 11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc- giới đều có đủ ngũ-uẩn.
  • Chúng-sinh ở trong 4 cõi vô-sắc-giới chỉ có 4 danh- uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) mà thôi.
  • Chúng-sinh ở trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên chỉ có 1 uẩn là sắc-uẩn mà thôi.

Mỗi tâm phát sinh đều có đủ 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn).

Thật vậy, mỗi tâm phát sinh chắc chắn có số tâm-sở đồng sinh với tâm ấy.

  • Tâm ấy thuộc về thức-uẩn.
  • Thọ tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về thọ-uẩn.
  • Tưởng tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về

tưởng-uẩn.

  • Số tâm-sở còn lại đồng sinh với tâm ấy thuộc về

hành-uẩn.

  • Hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức- tâm thuộc về sắc-uẩn.
  • Đối với chúng-sinh trú trong 11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc-giới (trừ cõi Vô-tưởng-thiên), mỗi tâm phát sinh đều có đầy đủ ngũ-uẩn phát sinh.
  • Đối với chúng-sinh trú trong 4 cõi vô-sắc-giới, mỗi tâm phát sinh đều có đầy đủ tứ-uẩn phát sinh.
  • Đối với chúng-sinh trú trong 1 cõi sắc-giới Vô- tưởng-thiên chỉ có nhất-uẩn là sắc-uẩn.
  • Còn thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 8 siêu-tam-giới-tâm (4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh- quả-tâm) không phải là đối-tượng của 4 pháp chấp-thủ.

 

Như vậy, 28 sắc-pháp và 81 tam-giới-tâm và 51 tâm- sở (trừ tham tâm-sở) đều thuộc về khổ-Thánh-đế là pháp nên biết.

1.2- Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham tâm-sở gọi là tham-ái.

Tham-ái có 3 loại, 6 loại, 18 loại, 54 loại, 108 loại:

  • Tham-ái có 3 loại đó là:
  1. Kāmataṇhā: Dục-ái là tham-ái trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) trong cõi dục-giới.
  2. Bhavataṇhā: Hữu-ái tham-ái trong 6 đối-tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với thường-kiến, và tham-ái trong thiền sắc-giới, thiền vô-sắc-giới, trong cõi sắc-giới, cõi vô-sắc-giới.
  3. Vibhavataṇhā: Phi-hữu-ái là tham-ái trong 6 đối- tượng ái (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp- ái) hợp với đoạn-kiến.
  • Tham-ái có 6 loại đó là tham-ái trong 6 đối-tượng: 1- Sắc-ái (rūpataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng

sắc-dục.

  1. Thanh-ái (saddataṇhā) là tham-ái trong đối-tượng thanh-dục.
  2. Hương-ái (gandhataṇhā) tham-ái trong đối-tượng hương-dục.
  3. Vị-ái (rasataṇhā) tham-ái trong đối-tượng vị-dục.
  4. Xúc-ái (phoṭṭhabbataṇhā) là tham-ái trong đối- tượng xúc-dục.
  5. Pháp-ái (dhammataṇhā) tham-ái trong đối-tượng pháp-dục.
  • Tham-ái có 18 loại đó là 3 loại tham-ái nhân với 6

đối-tượng ái thành 18 loại tham-ái.

 

  • Tham-ái có 54 loại đó là 18 loại tham-ái nhân với 3 thời (quá-khứ, hiện-tại, vị-lai) thành 54 loại tham-ái.
  • Tham-ái có 108 loại đó là 54 loại tham-ái nhân với 2 (bên trong của mình và bên ngoài mình của người khác, đối-tượng khác) thành 108 loại tham-ái.

Các loại tham-ái thuộc về nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt.

1.3 - Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn, diệt nhân sinh khổ-Thánh-đế.

Niết-bàn có 2 loại đó là:

  1. Hữu-dư Niết-bàn (Sa upādisesanibbāna) Niết- bàn đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, còn gọi là kilesaparinibbāna: tất cả mọi phiền-não Niết-bàn, nhưng ngũ-uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.
  2. Vô-dư Niết-bàn (Anupādisesanibbāna) Niết-bàn đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đến lúc hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, còn gọi là khandha- parinibbāna: ngũ-uẩn Niết-bàn nghĩa là ngũ-uẩn diệt rồi không còn ngũ-uẩn nào tái-sinh kiếp sau nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Niết-bàn có ba loại theo đối-tượng thiền-tuệ đó là:

  1. Vô-hiện-tượng Niết-bàn (Animittanibbāna) Niết- bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô- thường (aniccalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ trạng-thái vô-ngã, do năng lực tín-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tấn-pháp-chủ, niệm-

 

pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của giới, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-hiện- tượng Niết-bàn (animittanibbāna): Niết-bàn không có hiện-tượng các pháp-hữu-vi.

  1. Vô-ái Niết-bàn (Appaṇihitanibbāna) Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí- tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái khổ (dukkhalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái vô-thường trạng-thái vô-ngã, do năng lực định-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của định, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-ái Niết-bàn (appaṇihitanibbāna): Niết-bàn không có tham-ái nương nhờ.
  2. Chân-không Niết-bàn (Suññatanibbāna) Niết- bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô- ngã (anattalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ trạng-thái vô-thường, do năng lực tuệ-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ), hoặc do năng lực của tuệ, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là chân-không Niết-bàn (suññatanibbāna): Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.

Những đối-tượng Niết-bàn ấy thuộc về diệt khổ- Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ.

1.4- Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết- bàn, diệt khổ-Thánh-đế.

 

Bát-chánh-đạo có 8 chánh:

  1. Chánh-kiến (Sammādiṭṭhi): Trí-tuệ chân-chính là trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.
  2. Chánh-tư-duy (Sammāsaṅkappa): Tư-duy chân- chính là:
  • Tư-duy thoát ra khỏi ngũ dục,
  • Tư-duy không làm khổ mình khổ người,
  • Tư-duy không làm hại mình hại người.
  1. Chánh-ngữ (Sammāvācā): Lời nói chân-chính là:
  • Không nói-dối, mà nói lời chân thật,
  • Không nói lời chia rẽ, mà nói lời hoà hợp,
  • Không nói lời thô tục, mà nói lời nhã nhặn,
  • Không nói lời vô ích, mà nói lời hữu ích.
  1. Chánh-nghiệp (Sammākammanta): Nghề nghiệp chân-chính là:
  • Không sát-sinh,
  • Không trộm-cắp,
  • Không tà-dâm.
  1. Chánh-mạng (Sammā-ājīva): Nuôi mạng chân- chính là tránh xa cách sống tà-mạng do thân hành ác và khẩu hành ác.
  2. Chánh-tinh-tấn (Sammāvāyāma): Tinh-tấn chân- chính là:
  • Tinh-tấn ngăn ác pháp chưa sinh, không phát sinh.
  • Tinh-tấn diệt ác pháp đã phát sinh.
  • Tinh-tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh.
  • Tinh-tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.
  1. Chánh-niệm (Sammāsati) là niệm chân-chính có 4 pháp là pháp-hành tứ-niệm-xứ:
  • Thân niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

 

  • Thọ niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
  • Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
  • Pháp niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.
  1. Chánh-định (Sammāsamādhi): Định chân-chính là định-tâm trong các bậc thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.

Bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh chỉ đồng sinh trong 8 hoặc 40 tâm siêu-tam-giới Niết-bàn là đối-tượng mà thôi, bởi vì trong bát-chánh-đạo ba chánh: chánh- ngữ, chánh-nghiệp và chánh-mạng ba chế-ngự tâm-sở thuộc loại niyata-ekatocetasika: ba tâm-sở cố định chỉ đồng sinh trong 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm có Niết- bàn là đối-tượng mà thôi.

Tuy nhiên, bát-chánh-đạo có 8 chánh đó là 8 tâm-sở:

  • Chánh-kiến đó trí-tuệ tâm-sở.
  • Chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở.
  • Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở.
  • Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở.
  • Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở.
  • Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở.
  • Chánh-niệm đó là niệm tâm-sở.
  • Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở.

Tám tâm-sở này không thể đồng sinh với dục-giới-tâm, sắc-giới-tâm, vô-sắc-giới-tâm, bởi vì trong bát chánh đạo 3 chánh: chánh-ngữ, chánh-nghiệp chánh-mạng 3 chế-ngự tâm-sở này thuộc về loại aniyata-yogīcetasika: bất-định tâm-sở gọi là nānākadāci: mỗi tâm-sở này sinh riêng rẽ không nhất định trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm, bởi vì mỗi tâm và tâm-sở này có mỗi đối-tượng khác nhau.

 

Phân biệt bát-chánh-đạo tam-giới siêu-tam-giới

Bát-chánh-đạo có 8 chánh mà mỗi chánh có nhiều loại như sau:

  1. Chánh-kiến (Sammādiṭṭhi) là trí-tuệ chân-chính thấy đúng, biết đúng, có 5 loại:

1.1- Kammassakatā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến sở-nghiệp trí-tuệ thấy đúng, biết đúng thiện-nghiệp ác-nghiệp ta đã tạo rồi là của riêng ta, và ta là người thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.

1.2- Vipassanā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến thiền-tuệ trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới.

1.3- Magga sammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm có Niết-bàn là đối-tượng.

1.4- Phala sammādiṭṭhi: Chánh-kiến Thánh-quả-tuệ trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đồng sinh với 4 Thánh- quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng.

1.5- Paccavekkhaṇā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến quán- triệt là trí-tuệ quán-triệt Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết- bàn, phiền-não nào đã diệt tận được rồi, phiền-não nào còn lại chưa diệt được.

Trong 5 loại chánh-kiến này:

Chánh-kiến sở-nghiệp, chánh-kiến thiền-tuệ, chánh- kiến quán-triệt thuộc về tam-giới.

Chánh-kiến Thánh-đạo-tuệ, chánh-kiến Thánh-quả- tuệ có Niết-bàn là đối-tượng thì thuộc về siêu-tam-giới.

 

  • Thật ra, chánh-kiến đó trí-tuệ tâm-sở (paññindriya cetasika) đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, 4 đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc- giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.
  • Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm

ấy thì chánh-kiến thuộc về tam-giới.

  • Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo- tâm 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-kiến thuộc về siêu- tam-giới.
  1. Chánh-tư-duy (Sammāsaṅkappa) là tư-duy chân- chính, có ba loại:
    1. Tư-duy thoát ra khỏi ngũ dục.
    2. Tư-duy không làm khổ mình, khổ người.
    3. Tư-duy không làm hại mình, hại người.

Thật ra, chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở (vitakka cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại- duy-tác-tâm, đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, đệ nhất thiền sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

  • Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới- tâm ấy thì chánh-tư-duy thuộc về tam-giới.
  • Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-tư-duy thuộc về siêu-tam-giới.
  1. Chánh-ngữ (Sammāvācā) là lời nói chân-chính, có ba loại:

3.1- Kathā sammāvācā: Chánh-ngữ lời nói là nói hay, nói thật, nói lời chân-chính đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

 

3.2- Cetanā sammāvācā: Chánh-ngữ tác-ý là tác ý

đại-thiện tâm tránh xa 4 tà-ngữ:

  • Tránh xa lời nói dối, mà nói lời chân thật.
  • Tránh xa lời nói chia rẽ, mà nói lời hòa hợp.
  • Tránh xa lời nói thô tục, mà nói lời nhã nhặn,
  • Tránh xa lời nói vô ích, mà nói lời hữu ích.

3.3- Virati sammāvācā: Chánh-ngữ chế-ngự chế- ngự tâm-sở tránh xa tà-ngữ, khi đang thực-hành pháp- hành thiền-tuệ.

Trong ba loại chánh-ngữ này:

Chánh-ngữ lời-nói, chánh-ngữ tác-ý thuộc về tam-giới.

Chánh-ngữ chế-ngự đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng thuộc về siêu-tam-giới.

Thật ra, chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở (sammāvācā cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

  • Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với 8 đại- thiện-tâm ấy thì chánh-ngữ thuộc về tam-giới.
  • Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-ngữ thuộc về siêu-tam-giới.
  1. Chánh-nghiệp (Sammākammanta) là nghề nghiệp chân-chính, có ba loại:

4.1- Kiriyā sammākammanta: Chánh-nghiệp hành- động là hành động thiện-nghiệp đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

4.2- Cetanā sammākammanta: Chánh-nghiệp tác-ý là tác-ý thiện-tâm tránh xa ba tà-nghiệp:

 

  • Tránh xa sự sát-sinh.
  • Tránh xa sự trộm-cắp.
  • Tránh xa sự tà-dâm.

4.3- Virati sammākammanta: Chánh-nghiệp chế-ngự chế-ngự tâm-sở tránh xa tà-nghiệp, khi đang thực- hành pháp-hành thiền-tuệ.

Trong ba loại chánh-nghiệp này, chánh-nghiệp hành-

động, chánh-nghiệp tác-ý thuộc về tam-giới.

Chánh-nghiệp chế-ngự đồng sinh với 4 Thánh-đạo- tâm và 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng thuộc về siêu-tam-giới.

Thật ra, chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở (sammākammanta cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện- tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

  • Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với 8 đại- thiện-tâm ấy thì chánh-nghiệp thuộc về tam-giới.
  • Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-nghiệp thuộc về siêu-tam-giới.
  1. Chánh-mạng (Sammā-ājīva) là nuôi mạng chân- chính, có hai loại:

5.1- Vīriyasammā-ājīva: Chánh-mạng tinh-tấn là tinh- tấn nuôi mạng chân-chính, từ bỏ cách sống tà-mạng do thân hành ác, do khẩu nói ác.

5.2- Viratisammā-ājīva: Chánh-mạng chế-ngự chế- ngự tâm-sở tránh xa cách sống tà mạng, khi đang thực- hành pháp-hành thiền-tuệ.

Trong hai loại chánh-mạng này:

Chánh-mạng tinh-tấn thuộc về tam-giới.

Chánh-mạng chế-ngự đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm

 

và 4 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng thì thuộc về siêu-tam-giới.

Thật ra, chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở (sammā-ājīva cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

  • Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 8 đại- thiện-tâm ấy thì chánh-mạng thuộc về tam-giới.
  • Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-mạng thuộc về siêu-tam-giới.
  1. Chánh-tinh-tấn (Sammāvāyāma) là tinh-tấn chân- chính, có 4 pháp:
    1. Tinh-tấn ngăn ác pháp chưa sinh, không phát sinh.
    2. Tinh-tấn diệt ác pháp đã phát sinh.
    3. Tinh-tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh.
    4. Tinh-tấn làm cho tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.

Thật ra, chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở (vīriya cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác- tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô- sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

  • Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm

ấy thì chánh-tinh-tấn thuộc về tam-giới.

  • Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-tinh-tấn thuộc về siêu-tam-giới.
  1. Chánh-niệm (Sammāsati) là niệm chân-chính, có bốn pháp là pháp-hành tứ niệm-xứ:

7.1- Thân niệm-xứ: Thân đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

 

7.2- Thọ niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

7.3- Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

7.4- Pháp niệm-xứ: Pháp đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ tỉnh-giác.

Thật ra, chánh-niệm đó là niệm tâm-sở (saticetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc- giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm

và 4 Thánh-quả-tâm.

  • Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-niệm thuộc về tam-giới.
  • Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-niệm thuộc về siêu-tam-giới.
  1. Chánh-định (Sammāsamādhi) là định chân-chính trong 5 bậc thiền siêu-tam-giới có Niết-bàn là đối-tượng.
  1. Đệ nhất thiền siêu-tam-giới Niết-bàn đối-tượng.
  2. Đệ nhị thiền siêu-tam-giới Niết-bàn đối-tượng.
  3. Đệ tam thiền siêu-tam-giới Niết-bàn đối-tượng.
  4. Đệ tứ thiền siêu-tam-giới Niết-bàn đối-tượng.
  5. Đệ ngũ thiền siêu-tam-giới Niết-bàn đối-tượng.

Thật ra, chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác- tâm, 5 sắc-giới thiện-tâm, 5 sắc-giới duy-tác-tâm, 4 vô- sắc-giới thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới duy-tác-tâm, 4 Thánh- đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm.

  • Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới- tâm ấy thì chánh-định thuộc về tam-giới.
  • Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-

 

tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-định thuộc về siêu- tam-giới.

4 loại trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế thuộc về pháp- học Phật-giáo (pariyattisāsana).

2- 4 Trí-tuệ-hành phận sự trong Tứ Thánh-đế

Sau khi đã học phần pháp-học tứ Thánh-đế đó là 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế xong, hành-giả luân chuyển đến phần thực-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đó là 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế.

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, cần phải biết trí-tuệ-hành phận sự trong mỗi Thánh-đế thấy rõ, biết rõ mỗi Thánh-đế có mỗi phận sự riêng biệt như sau:

2.1- Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ hay sắc- pháp, danh-pháp trong tam-giới, là pháp mà trí-tuệ- hành có phận sự nên biết sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là khổ-đế bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên diệt, nên chứng ngộ, nên tiến hành).

2.2- Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là ba loại tham-ái, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên diệt tham-ái (1) từng thời (tadaṅgappahāna) bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam- giới (không phải phận sự nên biết, nên chứng ngộ, nên tiến hành).

1 Pahāna: Diệt tham-ái có 5 cách:

  1. Vikkhambhanappahāna: Diệt tham-ái bằng cách chế ngự do năng lực thiền-định.
  2. Tadaṅgappahāna: Diệt tham-ái từng thời do năng lực trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.
  3. Samucchedappahāna: Diệt tận tham-ái do năng lực của Thánh-đạo-tuệ.
  4. Paṭippassadhippahāna: An tịnh tham-ái đã bị diệt do năng lực của Thánh-quả-tuệ.
  5. Nissaraṇappahāna: Thoát khỏi tham-ái đã bị diệt do đối-tượng Niết-bàn.

 

2.3- Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên chứng ngộ Niết-bàn (1) từng thời bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên biết, nên diệt, nên tiến hành).

2.4- Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là pháp-hành bát-chánh-đạo, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên tiến hành pháp-hành bát-chánh-đạo bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới (không phải phận sự nên biết, nên diệt, nên chứng ngộ).

Trong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế này, trí-tuệ-hành có phận sự nên biết sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là khổ-đế là chính, còn ba trí-tuệ-hành phận sự của ba đế kia là phụ.

Thật ra, 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới làm đối-tượng, phát sinh đồng thời không trước, không sau.

Nếu khi trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới nào là khổ-đế, là pháp nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ.

  • Cũng đồng thời tham-ái, nhân sinh khổ-đế bị diệt, không thể nương nhờ nơi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới ấy để phát sinh
  • Cũng đồng thời chứng ngộ sự diệt tham-ái, nhân sinh khổ nơi sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới ấy.

1 Nirodho Nibbāna: Niết-bàn có nghĩa là diệt có 5 loại:

  1. Vikkhambhana nibbāna: Diệt tham-ái bằng cách chế ngự do năng lực thiền-định.
  2. Tadaṅga nibbāna: Diệt tham-ái từng thời do năng lực trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.
  3. Samuccheda nibbāna: Diệt tận tham-ái do năng lực của Thánh-đạo-tuệ.
  4. Paṭippassadhi nibbāna: An tịnh tham-ái đã bị diệt do năng lực của Thánh-quả-tuệ.
  5. Nissaraṇanibbāna: Thoát khỏi tham-ái đã bị diệt do đối-tượng Niết-bàn.

 

* Cũng đồng thời đang tiến hành pháp-hành chánh- đạo chánh-niệm, chánh-kiến, chánh-tinh-tấn, có trí- tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp tam- giới ấy là khổ-đế là pháp nên biết, tham-ái là pháp nên diệt, diệt-đế là pháp nên chứng ngộ, chính pháp-hành chánh-đạo là pháp nên tiến hành.

Như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế

phát sinh đồng thời không trước, không sau.

4 loại trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế thuộc về pháp-hành Phật-giáo (paṭipattisāsana).

3- 4 Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong Tứ Thánh-đế

Khi hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đã thực- hành 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế, đến khi hoàn thành mọi phận sự trong tứ Thánh-đế thì được luân chuyển đến 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế.

4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh- đế là quả của 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới chuyển đến trí-tuệ- thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là chứng đắc 4 Thánh-đạo- tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới (không còn đối- tượng sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới nữa).

Khi ấy, khổ-Thánh-đế, đó là ngũ-uẩn chấp-thủ, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên biết bằng trí-tuệ- thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã biết xong bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ.

  • Cũng đồng thời nhân sinh khổ-Thánh-đế, đó là tham-ái, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên diệt từng thời bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-

 

thành đã diệt tận được mọi tham-ái xong bằng trí-tuệ- thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ.

  • Cũng đồng thời diệt khổ-Thánh-đế, đó là Niết-bàn, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên chứng ngộ bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã chứng ngộ xong bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ.
  • Cũng đồng thời pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh- đế, đó là pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định, là pháp mà trí-tuệ-hành có phận sự nên tiến hành bằng trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, thì trí-tuệ-thành đã tiến hành xong bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ:
  • Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì đã biết xong.
  • Nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì đã diệt tận mọi tham-ái xong.
  • Diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ Niết-bàn xong.
  • Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì đã tiến hành xong.

4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự của tứ Thánh- đế đã hoàn thành xong 4 phận sự trong tứ Thánh-đế đồng thời cùng một lúc không trước, không sau.

Trong 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế thì trí-tuệ-thành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đã hoàn thành xong phận sự tiến hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh là chính yếu, còn 3 trí-tuệ- thành kia là phụ cũng hoàn thành xong phận sự trong

 

mỗi Thánh-đế, cùng một lúc không trước không sau với trí-tuệ-thành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.

4 loại trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự của tứ Thánh-đế đã hoàn thành xong mọi phận sự tứ Thánh-đế, thuộc về pháp-thành Phật-giáo (paṭivedhasāsana), đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn gọi là nava- lokuttaradhamma: 9 pháp siêu-tam-giới.

Quan hệ nhân quả của tam-tuệ-luân

* Từ quả đến nhân, từ nhân đến quả

4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh- đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, đó là quả đã hoàn thành xong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế.

4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đã được thực-hành đúng theo mỗi phận sự của mỗi Thánh-đế, đó là quả của 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế đã hiểu biết rõ mỗi chi-pháp của mỗi Thánh-đế.

Như vậy, 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế hiểu biết rõ đúng các chi-pháp của mỗi Thánh-đế làm nền tảng cơ bản, là nhân phát sinh ra quả 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đúng theo mỗi phận sự của mỗi Thánh-đế.

4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế đã hoàn thành là nhân phát sinh ra quả là 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc từ Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn; Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn; Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn; A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

 

Trí-tuệ quán triệt thấy rõ, biết rõ phạm-hạnh đã hoàn thành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn phải tái- sinh kiếp nào khác nữa, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Như trong đoạn kinh Chuyển-Pháp-Luân, Đức-Thế- Tôn khẳng định:

Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi, “akuppā me vimutti, ayam’antimājāti, natthi dāni punabbhavo.”

Trí-tuệ quán triệt đã phát sinh đến Như-Lai, biết rõ rằng: “A-ra-hán Thánh-quả-tuệ giải thoát của Như-Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót, sau kiếp hiện-tại này, không còn phải tái-sinh kiếp nào nữa.”

 

Bảng tóm tắt tam-tuệ-luân trong Tứ Thánh-đế

 

 

Tam- Tuệ- Luân

Tứ Thánh-đế

Khổ- Thánh-

đế

Nhân sinh khổ-

Thánh-đế

Diệt khổ- Thánh-đế

Pháp-hành diệt khổ-

Thánh-đế

Trí-tuệ-

học

Sắc-pháp

Danh-pháp

Tham-ái

Niết-bàn

Bát-

chánh-đạo

Trí-tuệ- hành

Nên biết

Nên diệt

Nên chứng ngộ

Nên tiến- hành

Trí-tuệ-

thành

Đã biết

Đã diệt

Đã chứng

ngộ

Đã tiến-

hành

 

 

Tứ Thánh-đế

Tam-Tuệ-Luân

Trí-tuệ-học

Trí-tuệ-hành

Trí-tuệ-thành

Khổ-

Thánh-đế

Sắc-pháp

danh-pháp

Nên biết

Đã biết

 

 

Nhân sinh khổ-Thánh- đế

Tham-ái

Nên diệt

Đã diệt

Diệt khổ-

Thánh-đế

Niết-bàn

Nên chứng

ngộ

Đã chứng

ngộ

Pháp-hành diệt khổ- Thánh-đế

Bát-Chánh-

Đạo

Nên tiến- hành

 

Đã tiến-hành

 

Tam-tuệ-luân của 4 bậc Thánh-nhân

Mỗi bậc Thánh-nhân đều trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế, mỗi tuệ luân có năng lực trí-tuệ khác nhau đối với từng bậc Thánh-nhân.

  • Bậc Thánh Nhập-lưu trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế lần thứ nhất, Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ diệt tận được 2 loại tham-ái là vibhavataṇhā: tham-ái hợp với đoạn-kiến và bhavataṇhā: tham-ái hợp với thường-kiến trong 4 tham tâm hợp tà-kiến (còn 4 tham tâm không hợp tà-kiến thì chưa diệt được).
  • Bậc Thánh Nhất-lai trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế lần thứ nhì, Nhất-lai Thánh-đạo-tuệ đã diệt tận được 1 loại tham-ái là kāmataṇhā: tham-ái trong 5 đối- tượng ái loại thô cõi dục-giới trong 4 tham tâm không hợp tà-kiến (còn 5 đối-tượng ái loại vi-tế, thì chưa diệt được).
  • Bậc Thánh Bất-lai trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế lần thứ ba, Bất-lai Thánh-đạo-tuệ đã diệt tận được 1 loại tham-ái là kāmataṇhā: tham-ái trong 5 đối- tượng ái loại vi-tế cõi dục-giới trong 4 tham tâm không

 

hợp tà-kiến (còn tham-ái trong cõi sắc-giới, cõi vô-sắc- giới thì chưa diệt được).

  • Bậc Thánh A-ra-hán trải qua tam-tuệ-luân trong tứ Thánh-đế lần thứ tư, A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ đã diệt tận được bhavataṇhā: tham-ái trong thiền sắc-giới, thiền vô- sắc-giới, cõi trời sắc-giới phạm-thiên, cõi trời vô-sắc- giới phạm-thiên trong 4 tham tâm không hợp tà-kiến không còn dư sót.

Như vậy, bậc Thánh A-ra-hán diệt tận được hoàn toàn mọi tham-ái không còn dư sót.

Tính chất 4 phận sự trong Tứ Thánh-đế

4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế 4 trí-tuệ- thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế có tính chất liên quan đồng thời, không phận sự nào trước, không phận sự nào sau.

Bộ Visuddhimagga: Thanh-tịnh-đạo có ví dụ rằng:

Khi đốt một cây đèn dầu trong đêm tối có 4 sự việc xảy ra đồng thời, không trước, không sau:

  • Ánh sáng tỏa ra.
  • Bóng tối bị biến mất.
  • Tim đèn bị cháy mòn.
  • Dầu bị hao dần.

Cũng giống như trường-hợp 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế và 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế có tính chất đồng thời, không trước, không sau.

Trong kinh Gavampatisutta(1) có đoạn Ngài Trưởng- lão Gavampati thưa với chư tỳ-khưu rằng:

1 Bộ Samyuttanikāya, Mahāvagga, kinh Gavampatisutta.

 

  • Này chư pháp hữu! Tôi được nghe từ nơi Đức-Thế- Tôn dạy rằng:
  • Vị tỳ-khưu nào chứng ngộ khổ-Thánh-đế thì vị tỳ- khưu ấy cũng chứng ngộ nhân sinh khổ-Thánh-đế, diệt khổ-Thánh-đế, pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.
  • Vị tỳ-khưu nào chứng ngộ nhân sinh khổ-Thánh-đế, thì vị tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ khổ-Thánh-đế, diệt khổ-Thánh-đế, pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.
  • Vị tỳ-khưu nào chứng ngộ diệt khổ-Thánh-đế, vị tỳ- khưu ấy cũng chứng ngộ khổ-Thánh-đế, nhân sinh khổ- Thánh-đế, pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế.
  • Vị tỳ-khưu nào chứng ngộ pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế thì vị tỳ-khưu ấy cũng chứng ngộ khổ- Thánh-đế, nhân sinh khổ-Thánh-đế, diệt khổ-Thánh-đế.

Như vậy, tứ Thánh-đế có sự liên quan về phận sự với nhau đồng thời không trước không sau.

 

Phần Giải Thích

 

Bốn Trí-tuệ-hành phận sự trong Tứ Thánh-đế

Trong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế này, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-hành phận sự trong khổ-đế chính, còn 3 trí-tuệ-hành phận sự trong 3 đế còn lại cũng thành tựu đồng thời không trước, không sau.

Thật vậy, khi hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ khi phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp nào, hoặc danh-pháp tam-giới nào khổ-đế thì đồng thời tham-ái, nhân sinh khổ-đế không sinh trong sắc- pháp ấy, hoặc danh-pháp tam-giới ấy, đồng thời chứng

 

ngộ sự diệt của tham-ái, nhân sinh khổ-đế nơi sắc-pháp

ấy, hoặc danh-pháp tam-giới ấy.

Trong khi đang thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có chánh-niệm, chánh-kiến, chánh-tinh-tấn, … khi phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ khổ-đế là pháp nên biết, nhân sinh khổ-đế là pháp nên diệt, diệt khổ-đế là pháp nên chứng ngộ, thì chính pháp-hành dẫn đến diệt khổ-đế đang được tiến-hành.

Như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế sắc-pháp, danh-pháp tam-giới đồng thời không trước không sau.

Bốn Trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự Tứ Thánh-đế

Trong 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế này, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, có trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế có đối-tượng Niết-bàn là chính, còn 3 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong 3 Thánh-đế còn lại cũng hoàn thành xong phận sự trong 3 Thánh-đế đồng thời không trước không sau.

Thật vậy, khi hành-giả có trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam- giới đó là 4 Thánh-đạo-tuệ đã hoàn thành xong phận sự tiến-hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế thì:

  • Đồng thời 4 Thánh-đạo-tuệ cũng đã hoàn thành xong phận sự biết khổ-Thánh-đế.
  • Đồng thời 4 Thánh-đạo-tuệ cũng đã hoàn thành xong phận sự diệt tận được mọi tham-ái, nhân sinh khổ- Thánh-đế.
  • Đồng thời 4 Thánh-đạo-tuệ và 4 Thánh-quả-tuệ đã hoàn thành xong chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế.

 

  • Đồng thời pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh- nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh- định đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, đã hoàn thành xong phận sự tiến-hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh- đế đó là:
  • Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì đã biết xong.
  • Nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì đã diệt tận xong.
  • Diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ Niết-bàn xong.
  • Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì đã được tiến hành xong.

4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh- đế này đã hoàn thành xong 4 phận sự trong tứ Thánh-đế đồng thời không trước không sau.

Vai trò 4 trí-tuệ-hành và 4 trí-tuệ-thành

Trong 4 trí-tuệ-hành phận sự trong tứ Thánh-đế ở giai đoạn đầu, trí-tuệ-hành phận sự biết khổ-Thánh-đế đóng vai trò chính yếu, đó là trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp tam-giới là khổ đế, là pháp nên biết, thì trí-tuệ-hành phận sự của mỗi Thánh-đế còn lại, cũng được thành tựu phận sự đồng thời không trước không sau.

Trong 4 trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự trong tứ Thánh-đế ở giai đoạn cuối, trí-tuệ-thành hoàn thành phận sự đã tiến-hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ- Thánh-đế đóng vai trò chính yếu, đó là Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh- quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, hoàn

 

thành xong phận sự đã tiến-hành pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, đã chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, thì trí- tuệ-thành hoàn thành phận sự trong 3 Thánh-đế còn lại cũng được thành tựu phận sự đồng thời không trước không sau.

Tứ Thánh-đế trong giáo-pháp của Đức-Phật

Tứ Thánh-đế là chân-lý của chư bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ, tứ Thánh-đế là nền tảng căn bản, là pháp cốt lõi trọng yếu trong giáo-pháp của chư Phật quá-khứ, Đức- Phật hiện-tại và chư Phật vị-lai.

Tứ Thánh-đế đó là:

  1. Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ, hay sắc- pháp, danh-pháp trong tam-giới.

Trong giáo-pháp của Đức-Phật, tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới (cõi dục-giới, cõi sắc- giới, cõi vô-sắc-giới) đúng theo chân-lý chỉ là khổ-đế (dukkhasacca) mà thôi, không có lạc đế.

Tuy có thọ-lạc (sukhavedanā) nhưng thọ-lạc gọi là vipariṇāmadukkha: biến-chất-khổ, bởi vì thọ-lạc cũng sinh rồi diệt vô-thường nên cũng chỉ là khổ-đế mà thôi.

Trong tam-giới, tất cả các pháp-hữu-vi: sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới đều sinh rồi diệt nên có 4 trạng-thái là trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh.

Vậy, do nguyên-nhân nào cho là lạc trong đời này?

Thật-tánh của tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp trong tam-giới đều có 4 trạng-thái: trạng-thái vô-thường,

 

trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh, nhưng do 3 pháp-điên-đảo (vipallāsa) tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo cho là thường, lạc, ngã, tịnh.

Pháp-điên-đảo (vipallāsa) có 3 loại:

  • Cittavipallāsa: Tâm-điên-đảo là biết sai, chấp lầm trong các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh.
  • Saññāvipallāsa: Tưởng-điên-đảo là tưởng sai, chấp lầm trong các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh.
  • Diṭṭhivipallāsa: Tà-kiến-điên-đảo là thấy sai, chấp lầm trong các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới cho là thường, lạc, ngã, tịnh.
  • Thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới đều có trạng-thái vô-thường, nhưng do tâm- điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo cho thường.
  • Thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới đều có trạng-thái khổ, nhưng do tâm-điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo cho là lạc.
  • Thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới đều có trạng-thái vô-ngã, nhưng do tâm-điên- đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo cho là ngã.
  • Thật-tánh của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới đều có trạng-thái bất-tịnh, nhưng do tâm-điên- đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo cho là tịnh.

Như vậy, pháp-điên-đảo có 3 x 4 gồm có 12 loại.

Sự thật chân-lý của các sắc-pháp, các danh-pháp trong tam-giới chỉ là khổ-đế mà thôi, nhưng do tâm-

 

điên-đảo, tưởng-điên-đảo, tà-kiến-điên-đảo đảo ngược lại thật-tánh cho là lạc.

Vậy, lạc không phải là sự thật chân-lý, mà thuộc về

lạc-điên-đảo (sukhavipallāsa).

Như Đại-đức tỳ-khưu-ni Vajirā dạy rằng:

“Chỉ có khổ-đế sinh, khổ-đế trụ, khổ-đế diệt.

Ngoài khổ-đế ra, không có gì sinh, không có gì trụ, không có gì diệt…”(1)

Cho nên, ngũ-uẩn chấp-thủ, hay sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới đều chỉ là khổ-đế mà thôi.

  1. Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham-ái
  • Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp hiện-tại
  • Nếu tâm tham phát sinh mà không được thỏa mãn như ý thì tâm sân phát sinh, không vừa lòng, làm cho khổ tâm.
  • Nếu tâm tham phát sinh mà được thỏa mãn như ý thì phát sinh tâm tham chấp-thủ, cho là của ta, cũng làm nhân phát sinh tâm sầu não, lo sợ cũng làm khổ tâm.

Như Đức-Phật dạy trong Pháp-cú kệ rằng:

Taṇhāya jāyatī soko, taṇhāya jāyatī bhayaṃ. Taṇhāya vippamuttassa, natthi soko kuto bhayaṃ?(1)

Sự sầu não phát sinh do tham-ái, Sự lo sợ phát sinh do tham-ái,

Bậc Thánh A-ra-hán diệt tận tham-ái, Không sầu não, từ đâu có lo sợ?

1 Bộ Samyuttanikāya, Sagathavagga, kinh Vajirāsutta.

1 Bộ Dhammapadagāthā câu kệ thứ 216.

 

  • Tham-ái là nhân sinh khổ trong kiếp-sau

Bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái không còn dư sót, đến khi hết tuổi thọ, đồng thời tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Ngoài bậc Thánh A-ra-hán ra, còn lại tất cả mọi chúng-sinh: nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên và gồm cả 3 bậc Thánh-nhân là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai vẫn còn tham-ái, nên vẫn còn phải khổ tái-sinh trong kiếp sau.

Chúng-sinh có ngũ-uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 11 cõi dục-giới và trong 15 cõi sắc-giới, hay chúng-sinh có tứ-uẩn (thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) trong 4 cõi vô-sắc-giới, hay chúng-sinh chỉ có nhất-uẩn (sắc-uẩn) trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên, cũng đều có khổ-đế, nhưng chỉ khác nhau là khổ nhiều, hoặc khổ ít mà thôi.

  • Bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới, mà chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa, rồi chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  • Bậc Thánh Nhất-lai chỉ còn tái-sinh kiếp sau 1 kiếp nữa mà thôi, rồi chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra- hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.
  • Bậc Thánh Bất-lai chắc chắn không tái-sinh kiếp sau trở lại cõi dục-giới, mà chỉ tái-sinh kiếp sau trên cõi trời sắc-giới, rồi chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A- ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tại cõi trời ấy.

Vì vậy, tham-ái nhân sinh khổ-đế.

 

  1. Diệt khổ-Thánh-đế, đó là Niết-bàn, là pháp diệt tận được tham-ái, nhân sinh khổ-Thánh-đế.

Niết-bàn có hai loại đó là:

  1. Hữu-dư Niết-bàn (Sa upādisesanibbāna) Niết- bàn đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, còn gọi là kilesaparinibbāna: mọi phiền-não Niết-bàn, nhưng ngũ- uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.
  2. Vô-dư Niết-bàn (Anupādisesanibbāna) Niết-bàn đối với bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đến lúc hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, còn gọi là khandha- parinibbāna: ngũ-uẩn Niết-bàn nghĩa là ngũ-uẩn diệt rồi không còn ngũ-uẩn nào tái-sinh kiếp sau nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Niết-bàn có ba loại theo đối-tượng thiền-tuệ đó là:

  1. Vô-hiện-tượng Niết-bàn (Animittanibbāna) Niết- bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường (aniccalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ trạng-thái vô-ngã, do năng lực tín-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tấn-pháp-chủ, niệm- pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của giới, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-hiện- tượng Niết-bàn (animittanibbāna) Niết-bàn không có hiện-tượng các pháp-hữu-vi.
  2. Vô-ái Niết-bàn (Appaṇihitanibbāna) Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái

 

khổ (dukkhalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái vô-thường trạng-thái vô-ngã, do năng lực định-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của định, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-ái Niết-bàn (appaṇihitanibbāna) Niết-bàn không có tham-ái nương nhờ.

  1. Chân-không Niết-bàn (Suññatanibbāna) Niết- bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ biết rõ trạng-thái vô- ngã (anattalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ trạng-thái vô-thường, do năng lực tuệ-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ), hoặc do năng-lực của tuệ, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là chân-không Niết-bàn (suññatanibbāna) Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.

Vì vậy, Niết-bàn là pháp diệt khổ-Thánh-đế.

  1. Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, đó là pháp-hành bát-chánh-đạo, là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt Khổ-Thánh-đế.

Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới. Khi ấy, 4 Thánh-đạo-tâm hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư- duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh- tấn, chánh-niệm, chánh-định đồng sinh với 4 Thánh- đạo-tâm đã hoàn thành xong 4 phận sự:

  • Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì 4 Thánh-đạo-tuệ đã biết xong.

 

  • Nhân sinh khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì 4 Thánh-đạo-tuệ đã diệt tận mọi tham-ái xong.
  • Diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì 4 Thánh-đạo-tuệ đã chứng ngộ Niết-bàn xong.
  • Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì 4 Thánh-đạo-tâm có pháp-hành bát-chánh- đạo hợp đủ 8 chánh đã tiến hành xong.

Vì vậy, pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn

đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế.

Tứ Thánh-đế là nền tảng, là cốt lõi chính yếu trong giáo-pháp của Chư Phật. Vì vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ ban đầu dù có những đối-tượng thiền-tuệ khác nhau như thân, thọ, tâm, pháp, ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu), sắc-pháp, danh-pháp tam- giới, v.v… đến giai đoạn cuối cùng cũng đều đạt đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, mới chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn.

Nhân quả liên quan của Tứ Thánh-đế

Chân-lý tứ Thánh-đế có nhân quả liên quan với nhau như sau:

  • Khổ-Thánh-đế đó là ngũ-uẩn chấp-thủ, hay sắc- pháp, danh-pháp trong tam-giới (dục-giới, sắc-giới, vô- sắc-giới), là quả của nhân sinh khổ-Thánh-đế.
  • Nhân sinh khổ-Thánh-đế đó là tham-ái nhân-

dẫn dắt tái-sinh kiếp sau (taṇhā ponobbhavikā).

  • Diệt khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn không thuộc về quả của một nhân nào, bởi vì Niết-bàn pháp-vô-vi (asaṅkhatadhamma) là pháp hoàn toàn không do một nhân duyên nào cấu tạo.

 

  • Pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế đó là pháp- hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế.

Như vậy, pháp-hành bát-chánh-đạo là nhân đạt đến Niết-bàn (diệt khổ-Thánh-đế) không phải là nhân sinh Niết-bàn, và diệt khổ-Thánh-đế (Niết-bàn) cũng không phải là quả của pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế, mà chỉ là đối-tượng siêu-tam-giới của pháp-hành bát-chánh-đạo (đồng sinh với 4 Thánh-đạo- tâm) dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế mà thôi.

Ví dụ nôm na: Con đường dẫn đến kinh-đô.

  • Con đường ví như pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp-hành dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế (Niết-bàn).
  • Kinh-đô ví như Niết-bàn là pháp diệt khổ-Thánh-đế.

Con đường dẫn đến kinh-đô, chứ không phải là nhân sinh kinh-đô.

Cũng như vậy, pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến diệt khổ-Thánh-đế (Niết-bàn) không phải nhân sinh Niết-bàn (diệt khổ-Thánh-đế), mà chỉ là nhân đạt đến Niết-bàn, diệt khổ-Thánh-đế mà thôi.

 

Pháp-Hành Trong Phật-Giáo

Trong Phật-giáo có 2 pháp-hành:

  • Pháp-hành thiền-định.
  • Pháp-hành thiền-tuệ.

Phương pháp thực-hành mỗi pháp-hành và kết quả của mỗi pháp-hành(1) hoàn toàn khác biệt với nhau.

1 Xem bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định, quyển X: Pháp-Hành Thiền-Tuệ, cùng soạn-giả

 

  • Hành-giả nào là hạng người tam-nhân thực-hành pháp-hành thiền-định, có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm thì trong kiếp hiện-tại, hành-giả nhập bậc thiền (jhānasamāpatti) hưởng sự an-lạc trong thiền ấy.

Sau khi hành-giả ấy chết, chắc chắn sắc-giới thiện- nghiệp, hoặc vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền thiện-tâm bậc cao có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau lên tầng trời sắc-giới phạm-thiên, hoặc tầng trời vô- sắc-giới phạm-thiên, được tái-sinh kiếp sau trên tầng trời nào hoàn toàn tùy thuộc vào bậc thiền quả-tâm bậc cao sở đắc của hành-giả, hưởng sự an-lạc trong tầng trời ấy cho đến hết tuổi thọ, rồi lại tái-sinh kiếp sau tùy theo thiện-nghiệp của hành-giả.

Như vậy, pháp-hành thiền-định vẫn còn tử sinh luân- hồi trong tam-giới, pháp-hành thiền-định này có trong Phật-giáo và có ngoài Phật-giáo.

  • Hành giả là hạng người tam-nhân thực-hành pháp- hành thiền-tuệ, có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc như sau:
  • Hành-giả chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được 2 loại phiền-não là tà-kiến và hoài-nghi, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Bậc Thánh Nhập-lưu sau khi chết, vĩnh viễn không còn tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới, mà chỉ còn tái- sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa. Đến kiếp thứ 7, chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra- hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

  • Hành-giả chứng đắc đến Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-

 

lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền- não là sân loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.

Bậc Thánh Nhất-lai sau khi chết, chỉ còn tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-giới 1 kiếp nữa mà thôi, rồi chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết- bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

  • Hành-giả chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 1 loại phiền não là sân loại vi-tế, trở thành bậc Thánh Bất-lai.

Bậc Thánh Bất-lai sau khi chết, chắc chắn không tái- sinh kiếp sau trở lại cõi dục-giới, mà chỉ tái-sinh kiếp sau trên cõi trời sắc-giới, rồi chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tại cõi trời ấy.

  • Hành-giả chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A- ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham, si, ngã-mạn, buồn-chán, phóng-tâm, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê- sợ tội-lỗi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra- hán cao thượng.

Bậc Thánh A-ra-hán ngay kiếp hiện-tại sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Pháp-hành thiền-tuệ chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo. Đối với chư vị Bồ- tát là bậc thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật đã từng tạo và tích lũy các pháp-hạnh ba-la-mật của mình đầy đủ từ vô số tiền-kiếp trong quá-khứ.

Nay kiếp hiện-tại, hành-giả là hạng người tam-nhân thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo,

 

Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân bậc nào trong Phật-giáo, hoàn toàn tùy thuộc vào năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp- chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi hành-giả ấy.

Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã (Anattalakkhaṇasutta)

Ngày rằm tháng 6 (âm-lịch), Đức-Phật Gotama thuyết pháp lần đầu tiên bài kinh Dhammacakkappavattana- sutta: Kinh Chuyển-Pháp-Luân, để tế độ nhóm 5 vị tỳ- khưu, Ngài Đại-Trưởng-lão Koṇḍañña trở thành bậc Thánh Nhập-lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức-Phật Gotama. Tiếp theo sau, mỗi ngày một vị trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, đến ngày 19 tháng 6, nhóm 5 vị tỳ- khưu đều trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Đến ngày 20 tháng 6, Đức-Phật Gotama thuyết bài kinh Anattalakkhaṇasutta: Kinh Trạng-thái-vô-ngã, để tế độ nhóm 5 vị tỳ-khưu trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Phần I: Ý nghĩa kệ khai Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã

Dhammacakkaṃ pavattetvā...

Khu rừng yên tịnh nơi phóng sinh nai Tên gọi là I-si-pa-ta-na

Gần kinh thành Ba-ra-na-xi ấy,

Ngày rằm tháng sáu, trăng tròn sáng tỏ,

Đức-Phật thuyết bài kinh Chuyển-pháp-luân, Ngài Koṇḍañña trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, Tuần tự theo mỗi ngày, thêm một vị.

Nhóm năm tỳ-khưu thành Thánh Nhập-lưu,

Đến ngày 20 tuần trăng hạ huyền

Đức-Phật thuyết kinh Trạng-thái-vô-ngã. Tế độ tỳ-khưu trở thành A-ra-hán.

 

Này chư thiện-trí! Xin hãy lắng nghe Chúng tôi tụng kinh Trạng-thái-vô-ngã.

 

Phần II: Ý nghĩa bài Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã (Anattalakkhaṇasutta) (1)

Lời của Ngài Trưởng-lão Ānanda bạch với Ngài Đại- Trưởng-lão Mahākassapa rằng:

  • Evaṃ me sutaṃ...
  • Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa khả kính! Con là Ānanda, được nghe bài kinh Trạng-thái- vô-ngã từ Đức-Thế-Tôn như vầy:

Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana (trước kia chư Phật Độc-Giác thường ngự xuống). Tại nơi đây, Đức-Thế-Tôn bèn gọi nhóm 5 tỳ-khưu rằng:

  • Này chư tỳ-khưu!

Chư tỳ-khưu đáp lời Đức-Thế-Tôn:

  • Dạ, Kính bạch Đức-Thế-Tôn.

Đức-Thế-Tôn thuyết giảng kinh Trạng-thái-vô-ngã như sau:

Ngũ-uẩn là vô-ngã

  1. Sắc-uẩn là vô-ngã
  • Này chư tỳ-khưu! Sắc-uẩn này là vô-ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ta).
  • Này chư tỳ-khưu! Thật vậy, nếu sắc-uẩn này là ta (ngã) thì sắc-uẩn này không bị biến đổi, không bị bệnh hoạn, các con có thể mong muốn sắc-uẩn này rằng:

1 Bộ Samyuttanikāya, Khandhavagga, kinh Anattalakkhaṇasutta.

 

“Sắc-uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này. Sắc-uẩn của tôi đừng có bệnh hoạn, xấu xí như thế kia.”

  • Này chư tỳ-khưu! Sự thật, bởi vì sắc-uẩn này là vô- ngã, do đó, sắc-uẩn này bị biến đổi, bị bệnh hoạn.

Vì vậy, các con không thể mong muốn trong sắc-uẩn này rằng:

“Sắc-uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này. Sắc-uẩn của tôi đừng có bệnh hoạn, xấu xí như thế kia.”

(Sắc-uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân-duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của mình.)

  1. Thọ-uẩn là vô-ngã
  • Này chư tỳ-khưu! Thọ-uẩn này là vô-ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ta).
  • Này chư tỳ-khưu! Thật vậy, nếu thọ-uẩn này là ta (ngã) thì thọ-uẩn này không bị biến đổi, không bị bệnh thân, không bị bệnh tâm, các con có thể mong muốn trong thọ-uẩn này rằng:

“Thọ-uẩn của tôi được an-lạc như thế này. Thọ-uẩn của tôi đừng khổ đau như thế kia.”

  • Này chư tỳ-khưu! Sự thật, bởi vì thọ-uẩn này là vô- ngã, do đó thọ-uẩn này bị biến đổi, bị bệnh thân, bị bệnh tâm.

Vì vậy, các con không thể mong muốn trong thọ-uẩn này rằng:

“Thọ-uẩn của tôi được an-lạc như thế này. Thọ-uẩn của tôi đừng khổ đau như thế kia.”

(Thọ-uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân-duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của ta.)

 

  1. Tưởng-uẩn là vô-ngã
  • Này chư tỳ-khưu! Tưởng-uẩn này là vô-ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ta).
  • Này chư tỳ-khưu! Thật vậy, nếu tưởng-uẩn này là ta (ngã), thì tưởng-uẩn này không bị biến đổi, không bị bệnh tâm, các con có thể mong muốn trong tưởng-uẩn này rằng:

“Tưởng-uẩn của tôi tưởng nhớ điều tốt, điều thiện như thế này.

Tưởng-uẩn của tôi đừng tưởng nhớ điều xấu, điều ác như thế kia.”

  • Này chư tỳ-khưu! Sự thật, bởi vì tưởng-uẩn này là vô- ngã, do đó, tưởng-uẩn này bị biến đổi, bị bệnh tâm. vậy, các con không thể mong muốn trong tưởng-uẩn này rằng:

“Tưởng-uẩn của tôi tưởng nhớ điều tốt, điều thiện như thế này.

Tưởng-uẩn của tôi đừng tưởng nhớ điều xấu, điều ác như thế kia.”

(Tưởng-uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân-duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của ta.)

  1. Hành-uẩn là vô-ngã
  • Này chư tỳ-khưu! Hành-uẩn này là vô-ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ta).
  • Này chư tỳ-khưu! Thật vậy, nếu hành-uẩn này là ta (ngã), thì hành-uẩn này không bị biến đổi, không bị bệnh tâm, các con có thể mong muốn trong hành-uẩn này rằng:

“Hành-uẩn của tôi hành thiện-nghiệp như thế này. Hành-uẩn của tôi đừng hành ác-nghiệp như thế kia.”

  • Này chư tỳ-khưu! Sự thật, bởi vì hành-uẩn này là vô- ngã, do đó, hành-uẩn này bị biến đổi, bị bệnh tâm.

 

Vì vậy, các con không thể mong muốn trong hành-uẩn này rằng:

“Hành-uẩn của tôi hành thiện-nghiệp như thế này. Hành-uẩn của tôi đừng hành ác-nghiệp như thế kia.”

(Hành-uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của ta.)

  1. Thức-uẩn là vô-ngã
  • Này chư tỳ-khưu! Thức-uẩn này là vô-ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ta).
  • Này chư tỳ-khưu! Thật vậy, nếu thức-uẩn này là ta (ngã), thì thức-uẩn này không bị biến đổi, không bị bệnh tâm, các con có thể mong muốn trong thức-uẩn này rằng:

“Thức-uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này. Thức-uẩn của tôi đừng biết điều xấu, điều ác như thế kia”

  • Này chư tỳ-khưu! Sự thật, bởi vì thức-uẩn này là vô- ngã, do đó, thức-uẩn này bị biến đổi, bị bệnh tâm. Vì vậy, các con không thể mong muốn trong thức-uẩn này rằng:

“Thức-uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này. Thức-uẩn của tôi đừng biết điều xấu, điều ác như thế kia”

(Thức-uẩn như thế nào hoàn toàn tùy thuộc vào nhân- duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của ta.)

Ngũ-uẩn có 3 trạng-thái-chung

  1. Sắc-uẩn có 3 trạng-thái-chung
  • Này chư tỳ-khưu! Các con nhận thức thế nào về điều này? Sắc-uẩn này là thường hay vô-thường?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sắc-uẩn này sinh rồi diệt là vô-thường.
  • Này chư tỳ-khưu! Sắc-uẩn nào là vô-thường. Vậy, sắc-uẩn ấy là khổ hay lạc?

 

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sắc-uẩn nào sinh rồi diệt luôn luôn biến đổi, vô-thường, nên sắc-uẩn ấy là khổ.
  • Này chư tỳ-khưu! Sắc-uẩn nào là vô-thường, khổ, có trạng-thái thường biến đổi.

Vậy, các con có nên theo chấp-thủ với tâm tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến nơi sắc-uẩn ấy rằng:

“Sắc-uẩn ấy là của ta (do tâm tham-ái), sắc-uẩn ấy là ta (do tâm ngã-mạn), sắc-uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà-kiến) hay không?”

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, quả thật không nên theo chấp-thủ sắc-uẩn ấy như vậy. Bạch Ngài.
  1. Thọ-uẩn có 3 trạng-thái-chung
  • Này chư tỳ-khưu! Các con nhận thức thế nào về điều này? Thọ-uẩn này là thường hay vô-thường?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thọ-uẩn này sinh rồi diệt là vô-thường.
  • Này chư tỳ-khưu! Thọ-uẩn nào là vô-thường. Vậy, thọ-uẩn ấy là khổ hay lạc?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thọ-uẩn nào sinh rồi diệt luôn luôn biến đổi, vô-thường, nên thọ-uẩn ấy là khổ.
  • Này chư tỳ-khưu! Thọ-uẩn nào là vô-thường, khổ, có trạng-thái thường biến đổi.

Vậy, các con có nên theo chấp-thủ với tâm tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến nơi thọ-uẩn ấy rằng:

“Thọ-uẩn ấy là của ta (do tâm tham-ái), thọ-uẩn ấy là ta (do tâm ngã-mạn), thọ-uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà-kiến) hay không?”

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, quả thật không nên theo chấp-thủ thọ-uẩn ấy như vậy. Bạch Ngài.

 

  1. Tưởng-uẩn có 3 trạng-thái-chung
  • Này chư tỳ-khưu! Các con nhận thức thế nào về điều này? Tưởng-uẩn này là thường hay vô-thường?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tưởng-uẩn này sinh rồi diệt là vô-thường.
  • Này chư tỳ-khưu! Tưởng-uẩn nào là vô-thường. Vậy, tưởng-uẩn ấy là khổ hay lạc?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, tưởng-uẩn nào sinh rồi diệt luôn luôn biến đổi, vô-thường, nên tưởng-uẩn ấy là khổ.
  • Này chư tỳ-khưu! Tưởng-uẩn nào là vô-thường, khổ, có trạng-thái thường biến đổi.

Vậy, các con có nên theo chấp-thủ với tâm tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến nơi tưởng-uẩn ấy rằng:

“Tưởng-uẩn ấy là của ta (do tâm tham-ái), tưởng-uẩn ấy là ta (do tâm ngã-mạn), tưởng-uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà-kiến) hay không?”

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, quả thật không nên theo chấp-thủ tưởng-uẩn ấy như vậy. Bạch Ngài.
  1. Hành-uẩn có 3 trạng-thái-chung
  • Này chư tỳ-khưu! Các con nhận thức thế nào về điều này? Hành-uẩn này là thường hay vô-thường?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, hành-uẩn này sinh rồi diệt là vô-thường.
  • Này chư tỳ-khưu! Hành-uẩn nào là vô-thường. Vậy, hành-uẩn ấy là khổ hay lạc?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, hành-uẩn nào sinh rồi diệt luôn luôn biến đổi, vô-thường, nên hành-uẩn ấy là khổ.
  • Này chư tỳ-khưu! Hành-uẩn nào là vô-thường, khổ, có trạng-thái thường biến đổi.

 

Vậy, các con có nên theo chấp-thủ với tâm tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến nơi hành-uẩn ấy rằng:

“Hành-uẩn ấy là của ta (do tâm tham-ái), hành-uẩn ấy là ta (do tâm ngã-mạn), hành-uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà-kiến) hay không?”

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, quả thật không nên theo chấp-thủ hành-uẩn ấy như vậy. Bạch Ngài.
  1. Thức-uẩn có 3 trạng-thái-chung
  • Này chư tỳ-khưu! Các con nhận thức thế nào về điều này? Thức-uẩn này là thường hay vô-thường?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thức-uẩn này sinh rồi diệt là vô-thường.
  • Này chư tỳ-khưu! Thức-uẩn nào là vô-thường. Vậy, thức-uẩn ấy là khổ hay lạc?
  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, thức-uẩn nào sinh rồi diệt luôn luôn biến đổi, vô-thường, nên thức-uẩn ấy là khổ.
  • Này chư tỳ-khưu! Thức-uẩn nào là vô-thường, khổ, có trạng-thái thường biến đổi.

Vậy, các con có nên theo chấp-thủ với tâm tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến nơi thức-uẩn ấy rằng:

“Thức-uẩn ấy là của ta (do tâm tham-ái), thức-uẩn ấy là ta (do tâm ngã-mạn), thức-uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà-kiến) hay không?”

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, quả thật không nên theo chấp-thủ thức-uẩn ấy như vậy. Bạch Ngài.

Trí-tuệ-thiền-tuệ không chấp-thủ ngũ-uẩn

  1. Trí-tuệ-thiền-tuệ không chấp-thủ nơi sắc-uẩn
  • Này chư tỳ-khưu! Vì vậy, những sắc-uẩn nào đã sinh

 

trong thời quá-khứ, sẽ sinh trong thời vị-lai, đang sinh trong thời hiện-tại, hoặc sắc-uẩn bên trong của mình, hoặc sắc-uẩn bên ngoài mình (của người khác), hoặc sắc-uẩn thô, hoặc sắc-uẩn vi-tế, hoặc sắc-uẩn thấp hèn, hoặc sắc-uẩn cao quý, hoặc sắc-uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc sắc-uẩn nào sinh ở nơi gần.

Vậy, các con nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật-tánh của tất cả sắc-uẩn ấy rằng:

“Sắc-uẩn ấy không phải là của ta, sắc-uẩn ấy không phải là ta, sắc-uẩn ấy không phải là tự ngã của ta.”

  1. Trí-tuệ-thiền-tuệ không chấp-thủ nơi thọ-uẩn
  • Này chư tỳ-khưu! Vì vậy, những thọ-uẩn nào đã sinh trong thời quá-khứ, sẽ sinh trong thời vị-lai, đang sinh trong thời hiện-tại, hoặc thọ-uẩn bên trong của mình, hoặc thọ-uẩn bên ngoài mình (của người khác), hoặc thọ-uẩn thô, hoặc thọ-uẩn vi-tế, hoặc thọ-uẩn thấp hèn, hoặc thọ-uẩn cao quý, hoặc thọ-uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc thọ-uẩn nào sinh ở nơi gần.

Vậy, các con nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật-tánh của tất cả thọ-uẩn ấy rằng:

“Thọ-uẩn ấy không phải là của ta, thọ-uẩn ấy không phải là ta, thọ-uẩn ấy không phải là tự ngã của ta.”

  1. Trí-tuệ-thiền-tuệ không chấp-thủ nơi tưởng-uẩn
  • Này chư tỳ-khưu! Vì vậy, những tưởng-uẩn nào đã sinh trong thời quá-khứ, sẽ sinh trong thời vị-lai, đang sinh trong thời hiện-tại, hoặc tưởng-uẩn bên trong của mình, hoặc tưởng-uẩn bên ngoài mình (của người khác), hoặc tưởng-uẩn thô, hoặc tưởng-uẩn vi-tế, hoặc tưởng- uẩn thấp hèn, hoặc tưởng-uẩn cao quý, hoặc tưởng-uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc tưởng-uẩn nào sinh ở nơi gần.

 

Vậy, các con nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật-tánh của tất cả tưởng-uẩn ấy rằng:

“Tưởng-uẩn ấy không phải là của ta, tưởng-uẩn ấy không phải là ta, tưởng-uẩn ấy không phải là tự ngã của ta.”

  1. Trí-tuệ-thiền-tuệ không chấp-thủ nơi hành-uẩn
  • Này chư tỳ-khưu! Vì vậy, những hành-uẩn nào đã sinh trong thời quá-khứ, sẽ sinh trong thời vị-lai, đang sinh trong thời hiện-tại, hoặc hành-uẩn bên trong của mình, hoặc hành-uẩn bên ngoài mình (của người khác), hoặc hành-uẩn thô, hoặc hành-uẩn vi-tế, hoặc hành-uẩn thấp hèn, hoặc hành-uẩn cao quý, hoặc hành-uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc hành-uẩn nào sinh ở nơi gần.

Vậy, các con nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật-tánh của tất cả hành-uẩn ấy rằng:

“Hành-uẩn ấy không phải của ta, hành-uẩn ấy không phải là ta, hành-uẩn ấy không phải là tự ngã của ta.”

  1. Trí-tuệ-thiền-tuệ không chấp-thủ nơi thức-uẩn.
  • Này chư tỳ-khưu! Vì vậy, những thức-uẩn nào đã sinh trong thời quá-khứ, sẽ sinh trong thời vị-lai, đang sinh trong thời hiện-tại, hoặc thức-uẩn bên trong của mình, hoặc thức-uẩn bên ngoài mình (của người khác), hoặc thức-uẩn thô, hoặc thức-uẩn vi-tế, hoặc thức-uẩn thấp hèn, hoặc thức-uẩn cao quý, hoặc thức-uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc thức-uẩn nào sinh ở nơi gần.

Vậy, các con nên biết bằng trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật-tánh của tất cả thức-uẩn ấy rằng:

“Thức-uẩn ấy không phải là của ta, thức-uẩn ấy không phải là ta, thức-uẩn ấy không phải là tự ngã của ta.”

 

  1. Trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán trong ngũ-uẩn
  • Này chư tỳ-khưu! Thật-tánh của ngũ-uẩn như vậy, bậc Thánh Thanh-văn có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ ngũ-uẩn đúng theo thật-tánh, nên phát sinh trí-tuệ- thiền-tuệ nhàm chán trong sắc-uẩn, nhàm chán trong thọ-uẩn, nhàm chán trong tưởng-uẩn, nhàm chán trong hành-uẩn, nhàm chán trong thức-uẩn.

Khi trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán trong ngũ-uẩn, nên tâm xả ly tham-ái, do tâm xả ly tham-ái, nên chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo giải thoát khỏi mọi tham-ái, mọi phiền-não. Trí-tuệ-quán-triệt biết rõ rằng:

“A-ra-hán Thánh-quả đã giải-thoát hoàn toàn mọi phiền-não trầm-luân. Không còn phải thực-hành pháp- hành bát-chánh-đạo nữa, mọi phận sự trong tứ Thánh- đế đã hoàn thành xong, phạm hạnh cao thượng đã hoàn thiện xong. Kiếp này là kiếp chót, không còn tái-sinh kiếp nào nữa.”

Nhóm 5 Tỳ-khưu trở thành bậc Thánh A-ra-hán

Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh trạng-thái vô- ngã này xong, nhóm 5 tỳ-khưu phát sinh đại-duy-tác-tâm vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn.

Trong khi Đức-Thế-Tôn thuyết giảng bài kinh này, nhóm 5 tỳ-khưu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc đến A-ra- hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não trầm-luân, không còn chấp-thủ trong ngũ-uẩn này nữa (trở thành bậc Thánh A-ra-hán).

(Xong bài kinh Trạng-thái-vô-ngã)

 

Giải thích danh từ trong bài Kinh Trạng-Thái-Vô-Ngã Ý nghĩa danh từ Anattā

Định nghĩa danh từ anattā:

Na attā anattā, natthi attā etassa khandha- pañcakassā’ti vā anattā.

Tất cả các pháp không phải ta, không phải của ta là pháp-vô-ngã; hay ngũ-uẩn ấy không phải ta, không phải của ta cũng là pháp-vô-ngã.

Ý nghĩa Anattā: Vô-ngã ở đây là phủ định attā: ngã, ngã-sở, ta và của ta.

Trong bộ Ṭīkā(1) giải thích danh từ Anattā: Vô-ngã có 4 ý nghĩa sau:

  1. Avasavattanaṭṭha: Vô-ngã có nghĩa là không chiều theo ý muốn của một ai.
  2. Asāmikaṭṭha: Vô-ngã có nghĩa là vô chủ, không có ai làm chủ.
  3. Suññataṭṭha: Vô-ngã có nghĩa là không, không phải ta, không phải của ta.
  4. Attapaṭikkhepaṭṭha: Vô-ngã có nghĩa là phủ nhận cái ngã, cái ta, cái đại ngã.

Trong bài kinh Anattalakkhaṇasutta: Kinh trạng-thái- vô-ngã, danh từ Anattā attā có ý nghĩa hoàn toàn ngược lại nhau.

  • Anattā: Vô-ngã: Ngũ-uẩn này là vô-ngã, không chiều theo ý muốn của ai.
  • Attā: Ngã: Ta muốn ngũ-uẩn được như thế này, không muốn ngũ-uẩn như thế kia v.v… chiều theo ý

1 Bộ Sāratthadīpanīṭīkā, kinh Anattalakkhaṇasuttavaṇṇanā.

 

muốn của ta, nhưng thật-tánh của ngũ-uẩn này là vô- ngã, nên không chiều theo ý muốn của ai.

Attā nghĩa là ta, ngã.

  • Do tà-kiến theo chấp sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn cho là ta (ngã), tự ngã.
  • Do ngã-mạn chấp ta.
  • Do tham-ái chấp của ta.

Tuy nhiên, attā còn có ý nghĩa khác.

Ý nghĩa danh từ Attā

  • Theo trong bộ tự điển Pāḷi Abhidhānappadīpikā: Tự điển từ ngữ Pāḷi câu kệ 861 danh từ attā có ý nghĩa rằng:

“Citte kāye sabhāve ca, so attā paramattani.”

Danh từ attā có 4 ý nghĩa là tâm, thân, thật-tánh- pháp và ngã tối-thượng (đại-ngã).”

Giải thích:

  1. Attā có ý nghĩa là citta: tâm.

dụ:

  • Attasammāpaṇidhi: Đặt để tâm đúng trong thiện- pháp, tâm mong muốn chân-chính.
  • Attamicchāpaṇidhi: Đặt để tâm sai lầm trong ác- pháp, tâm mong muốn sai lầm.
  • “Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.”(1)

Cầu mong tất cả chúng-sinh tâm thường được an-lạc.

*“Attā hi kira duddamo.”(2)

Thật vậy, dạy được tâm mình là khó lắm! “Attānaṃ damayanti paṇḍitā.(1)

1 Bộ Khu. Suttanipāta, trong kinh Mettasutta.

2 Khu Bộ Dhammapadagāthā, câu kệ thứ 159

 

“Chư bậc thiện-trí rèn luyện, dạy tâm”…

Attā ở đây có ý nghĩa là tâm.

  1. Attā có ý nghĩa là kāya: thân thể.

Ví dụ: Đức-Phật ban hành những giới của tỳ-khưu-ni, trong đó có giới như:

*“Yā pana bhikkhunī attānaṃ vadhitvā vadhitvā rodheyya pācittiyaṃ.”(2)

“Tỳ-khưu-ni nào tự đấm vào thân của mình rồi khóc, tỳ-khưu-ni ấy phạm āpatti pācittiya (ứng-đối-trị).”

*“Attā hi attano natthi, kuto puttā kuto dhanaṃ?”(3) “Chính thân này, còn không phải của ta.

Con của ta, của cải của ta từ đâu có được?...”

Attā ở đây có ý nghĩa là thân thể.

  1. Attā có ý nghĩa là sabhāva: thật-tánh-pháp.

dụ:

*“Attā hi attano nātho, ko hi nātho paro siyā.”(4) “Chính thiện-pháp là nơi nương nhờ chân-chính của

ta, ngoài thiện-pháp ra, có ai là nơi nương nhờ của ta?

*“Attadīpā bhikkhave! viharatha attasaraṇā anaññasaraṇā, dhammadīpā dhammasaraṇā anañña- saraṇā.”(5)

“Này chư tỳ-khưu! Các con sống, chính thiện-pháp là hòn đảo, chính thiện-pháp là nơi nương nhờ, không nên nương nhờ nơi nào khác; chánh-pháp là hòn đảo, chánh-

1 Khu. Bộ Dhammapadagāthā, gāthā số 80.

2 Tạng Luật, phần Bhikkhunīpātimokkha.

3 Khu. Bộ Dhammapadagāthā, gāthā số 62.

4 Khu. Bộ Dhammapadagāthā, gāthā số 160.

5 Bộ Samyuttanikāya, phần Khandhavagga, kinh Attadīpasutta.

 

pháp là nơi nương nhờ, không nên nương nhờ nơi nào khác …”

Attā: Ta ở đây có nghĩa là thật-tánh-pháp đó là tam- giới thiện-pháp, siêu-tam-giới thiện-pháp, là nơi nương nhờ chân-chính của ta.

  1. Attā có ý nghĩa là parama attā: ngã tối-thượng,

đại-ngã, theo tà-kiến của ngoại đạo.

Nhóm ngoại đạo có tà-kiến cho rằng:

“Tất cả vạn vật, vũ trụ này do parama attā tạo ra, gọi là ngã tối thượng, Đấng tạo-hóa.”

Parama attā: Ngã tối-thượng, đại-ngã theo tà-kiến của nhóm ngoại đạo này, trái nghĩa với anattā: vô-ngã trong giáo-pháp của Đức-Phật.

Như vậy, trong 4 ý nghĩa của attā, có 3 ý nghĩa là tâm, thân, thật-tánh-pháp thuộc về chánh-kiến. Còn Parama attā: Ngã tối-thượng, Đại-ngã theo quan niệm của nhóm ngoại đạo thuộc về tà-kiến.

Attādiṭṭhi: Tà-kiến chấp ngã, hoặc Attānudiṭṭhi: Tà- kiến theo chấp ngã tà-kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm từ sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn cho là ta, hoặc tà-kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc-pháp cho là ta ngã, hoặc từ danh-pháp cho là ta ngã, cũng ở trong ý nghĩa tà-kiến này.

Ngoài parama attā thuộc về tà-kiến ra, còn attā có 3 ý nghĩa khác thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramattha- dhamma) là pháp có thật-tánh rõ ràng, có chi-pháp riêng biệt thuộc về chánh-kiến.

Trong bộ tự điển Pāḷi Abhidhānappadīpikā: Tự điển từ ngữ Pāḷi chương 3: Sāmaññakaṇda, phần 9: Anekatthavagga:

 

* Một chữ Pāḷi có nhiều nghĩa.

Ví dụ: Câu kệ thứ 861: Attā có 4 ý nghĩa, câu kệ 784: dhamma có 14 ý nghĩa, v.v…

Chương 1: Saggakaṇda:

* Một ý nghĩa có nhiều chữ Pāḷi.

Ví dụ: Câu kệ thứ nhất đến thứ 5: Ý nghĩa Đức-Phật

có 32 danh từ Pāḷi đều có nghĩa là Đức-Phật.

Câu kệ thứ 6 đến thứ 9: Ý nghĩa Niết-bàn có 46 danh từ Pāḷi đều có nghĩa là Niết-bàn, v.v…

Cho nên, các hàng thanh-văn đệ-tử học Phật-ngôn Pāḷi (Buddhavacanapāḷi), học Tam-tạng Pāḷi (tipiṭaka- pāḷi) Chú-giải Pāḷi (aṭṭhakathāpāḷi), cần phải học quyển tự điển Pāḷi “Abhidhānappadīpikā” gồm có 1.203 câu kệ, để tránh khỏi nhầm lẫn chữ Pāḷi với ý nghĩa, và ý nghĩa với chữ Pāḷi, bởi vì một chữ Pāḷi có nhiều ý nghĩa, một ý nghĩa có nhiều chữ Pāḷi.

  • Attadiṭṭhi có nghĩa là tà-kiến thấy sai, chấp lầm trong ngũ-uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn bên trong của mình cho là ta, là ngã tà-kiến thấy sai, chấp lầm ngũ-uẩn bên ngoài mình (của người khác, vật khác) cho là chúng-sinh, là người, là đàn ông, đàn bà, con voi, con ngựa, v.v... Đó là tà-kiến chấp-ngã (attadiṭṭhi) hoặc tà-kiến theo chấp-ngã (attānudiṭṭhi) thông thường đối với các hạng phàm-nhân.

Chúng-sinh trong tam-giới

Tất cả chúng-sinh trong tam-giới có ba loại:

  1. Chúng-sinh có ngũ-uẩn (sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) trong 11 cõi dục-giới, 15 cõi sắc-giới phạm-thiên (trừ cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên).

 

  1. Chúng-sinh có tứ-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành- uẩn và thức-uẩn) trong 4 cõi vô-sắc-giới phạm-thiên.
  2. Chúng-sinh có nhất-uẩn (sắc-uẩn) trong cõi sắc- giới Vô-tưởng-thiên.

Ngũ-uẩn (Pañcakkhandha)

Uẩn (khandha) có nghĩa là “phần, nhóm” gồm những phần có trạng-thái tương tự nhau, liên kết vào một phần, một nhóm.

Ví dụ: Con người có ngũ-uẩn.

  1. Sắc-uẩn đó là 28 sắc-pháp thuộc về phần thân.
  2. Thọ-uẩn đó là thọ tâm-sở.
  3. Tưởng-uẩn đó là tưởng tâm-sở.
  4. Hành-uẩn đó là 50 tâm-sở nói chung (trừ thọ tâm- sở và tưởng tâm-sở).
  5. Thức-uẩn đó là 89 hay 121 tâm nói chung. Mỗi tâm là 1 thức-uẩn.

Thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn gồm 4 danh- uẩn này thuộc về phần tâm.

Phần Giải Thích

  1. Sắc-uẩn (Rūpakkhandha) gồm có 28 sắc-pháp, chia thành hai loại:
  • Mahābhūtarūpa: Sắc-tứ-đại có 4 sắc-pháp lớn là:
  1. Địa-đại (Pathavī): Chất đất có trạng-thái cứng hoặc mềm.
  2. Thủy-đại (Āpo): Chất nước có trạng-thái lỏng hoặc

đông đặc.

  1. Hỏa-đại (Tejo): Chất lửa trạng-thái nóng hoặc lạnh.
  2. Phong-đại (Vāyo): Chất gió có trạng-thái lưu động, phồng hoặc xẹp.

 

  • Upādāyarūpa: Sắc-pháp phụ thuộc gồm có 24 sắc- pháp, luôn luôn phụ thuộc vào 4 sắc tứ-đại:
  • 5 tịnh-sắc (pasādarūpa): nhãn tịnh-sắc, nhĩ tịnh-sắc, tỷ tịnh-sắc, thiệt tịnh-sắc, thân tịnh-sắc.
  • 7 hoặc 4 sắc đối-tượng (visayarūpa): đối-tượng sắc, đối-tượng thanh, đối-tượng hương, đối-tượng vị, đối- tượng xúc(1).
  • 2 sắc tính (bhāvarūpa): sắc nam-tính, sắc nữ-tính.
  • 1 hadayarūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm.
  • 1 sắc-mạng-chủ (jīvitarūpa).
  • 1 sắc-vật-thực (āhārarūpa).
  • 1 sắc-chân-không (paricchedarūpa).
  • 2 sắc-cử-động (viññattirūpa): sắc thân cử động, sắc khẩu cử động.
  • 3 sắc-chuyển-biến (vikārarūpa): sắc nhẹ nhàng, sắc mềm mại, sắc uyển chuyển.
  • 4 sắc-trạng-thái (lakkhaṇarūpa): sắc sinh, sắc liên tục, sắc già dặn, sắc vô-thường.

Đó là 28 sắc-pháp bên trong thân, thuộc về sắc-uẩn.

Một người bình thường, không bị khuyết tật, thân thể có đầy đủ 27 sắc-pháp.

  • Nếu là người nam thì trừ sắc nữ-tính.
  • Nếu là người nữ thì trừ sắc nam-tính.
  • Nếu người bị đui mù, câm điếc, thì người ấy có số lượng sắc-pháp giảm xuống theo bệnh tật.
  1. Thọ-uẩn (Vedanakkhandha) đó là thọ tâm-sở có trạng-thái cảm thọ trong đối-tượng.
  • Thọ tâm-sở có ba loại thọ theo đối-tượng.

1 Xúc gồm có 3 sắc-pháp: Đất, lửa, gió trong phần tứ đại, nên phần chi- pháp không tính trong phần sắc-pháp phụ thuộc.

 

  • Thọ khổ (dukkhavedanā) có trạng-thái khổ khó chịu.
  • Thọ lạc (sukhavedanā) có trạng-thái lạc dễ chịu.
  • Thọ xả (upekkhāvedanā) có trạng-thái không khổ, không lạc.
  • Thọ tâm-sở có 5 loại theo thân, tâm làm chủ:
  • Thọ khổ (dukkhavedanā) đồng sinh với thân-thức- tâm (khổ thân).
  • Thọ lạc (sukhavedanā) đồng sinh với thân-thức-tâm (thân an-lạc).
  • Thọ hỷ (somanassavedanā) đồng sinh với ý-thức- tâm (tâm an-lạc).
  • Thọ ưu (domanassavedanā) đồng sinh với sân-tâm (khổ tâm).
  • Thọ xả (upekkhāvedanā) đồng sinh với ý-thức-tâm (tâm không khổ, không lạc).

Mỗi thọ tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về thọ-uẩn

  1. Tưởng-uẩn (saññakkhandha) đó là tưởng tâm-sở

có trạng-thái tưởng nhớ trong 6 đối-tượng.

  • Sắc tưởng (rūpasaññā) tưởng nhớ các đối-tượng sắc.
  • Thanh tưởng (saddasaññā) tưởng nhớ các đối-tượng âm thanh.
  • Hương tưởng (gandhasaññā) tưởng nhớ các đối- tượng hương.
  • Vị tưởng (rasasaññā) ghi nhớ các đối-tượng vị.
  • Xúc tưởng (phoṭṭhabbasaññā) tưởng nhớ các đối- tượng xúc.
  • Pháp tưởng (dhammasaññā) tưởng nhớ các đối- tượng pháp.

Mỗi tưởng tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về

tưởng-uẩn.

 

  1. Hành-uẩn (saṅkhārakkhandha) đó là 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) có trạng-thái cấu tạo, tạo tác các pháp.
  • Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với bất- thiện-tâm tạo nên bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) do thân, khẩu, ý.
  • Tác-ý tâm-sở (cetanācetasika) đồng sinh với thiện- tâm tạo nên thiện-nghiệp, do thân, khẩu, ý.

Số tâm-sở ấy đồng sinh với tâm ít hoặc nhiều tuỳ theo năng lực của mỗi tâm.

Ngoại trừ thọ tâm-sở tưởng tâm-sở ra, các tâm-sở

còn lại thuộc về hành-uẩn.

  1. Thức-uẩn (viññāṇakkhandha) gồm có 89 hoặc 121 tâm có trạng-thái biết đối-tượng.

Đối-tượng có 6 loại, nên tâm chia ra làm 6 loại tâm:

  • Nhãn-thức-tâm (cakkhuviññāṇa) có 2 tâm làm phận sự nhìn thấy các đối-tượng sắc.
  • Nhĩ-thức-tâm (sotaviññāṇa) có 2 tâm làm phận sự nghe các đối-tượng âm thanh.
  • Tỷ-thức-tâm (ghānaviññāṇa) có 2 tâm làm phận sự ngửi các đối-tượng hương.
  • Thiệt-thức-tâm (jivhāviññāṇa) có 2 tâm làm phận sự nếm các đối-tượng vị.
  • Thân-thức-tâm (kāyaviññāṇa) có 2 tâm làm phận sự xúc giác các đối-tượng xúc.
  • Ý-thức-tâm (manoviññāṇa) có 79 tâm có nhiều phận sự như biết các đối-tượng pháp: tâm, tâm-sở, sắc-pháp, các ngôn ngữ chế định, các môn học, ... và cả đối-tượng Niết-bàn tùy theo năng lực của mỗi tâm.

Mỗi tâm thuộc về mỗi thức-uẩn.

 

Thật ra, mỗi tâm phát sinh đều có một số tâm-sở đồng sinh ít hoặc nhiều tùy theo năng lực phận sự của tâm ấy.

Các tâm-sở này đồng sinh với tâm, đồng diệt với tâm, đồng đối-tượng với tâm, đồng nơi phát sinh với tâm. Cho nên, khi mỗi tâm sinh rồi diệt nghĩa là 4 danh-uẩn đồng sinh, rồi 4 danh-uẩn đồng diệt.

Chúng-sinh có ngũ-uẩn, khi 6 loại tâm phát sinh do nương nhờ nơi 6 nơi sinh (vatthurūpa) như sau:

  • Nhãn-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do nương nhờ

nhãn-tịnh-sắc (cakkhuvatthu).

  • Nhĩ-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do nương nhờ nhĩ- tịnh-sắc (sotavatthu).
  • Tỷ-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do nương nhờ tỷ- tịnh-sắc (ghāṇavatthu).
  • Thiệt-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do nương nhờ

thiệt-tịnh-sắc (jivhāvatthu).

  • Thân-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do nương nhờ

thân-tịnh-sắc (kāyavatthu).

  • Ý-thức-tâm gồm có 75 tâm (trừ 4 vô-sắc-giới quả- tâm không nương nhờ vatthurūpa) phát sinh do nương nhờ hadayavatthurūpa.

Như vậy, mỗi tâm phát sinh có đủ ngũ-uẩn phát sinh.

  • Vatthurūpa là nơi nương nhờ của tâm phát sinh thuộc về sắc-uẩn.
  • Tâm ấy thuộc về thức-uẩn.
  • Thọ tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về thọ-uẩn.
  • Tưởng tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về tưởng-uẩn.
  • Tâm-sở còn lại (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở)

đồng sinh với tâm ấy thuộc về hành-uẩn.

  • Mỗi tâm có 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành- uẩn, thức-uẩn) vốn dĩ có trạng-thái sinh rồi diệt, diệt rồi

 

sinh liên tục trong mỗi lộ-trình-tâm do hội đủ nhân- duyên hỗ trợ, từ vô thủy trải qua vô số kiếp, từ kiếp này sang kiếp kia cho đến kiếp hiện-tại.

  • Thân sắc-uẩn vốn dĩ cũng có trạng-thái sinh rồi diệt, diệt rồi sinh liên tục, nhưng bị hạn chế trong mỗi kiếp chúng-sinh, do quả của nghiệp ấy và tuổi thọ của mỗi chúng-sinh.

Mỗi chúng-sinh đang sống hiện hữu thì tâm và thân nương nhờ lẫn nhau, khi tâm rời khỏi thân đồng thời sắc-mạng-chủ (rūpajīvitindriya) trong thân bị cắt đứt, chấm dứt một kiếp gọi là chết, thân trở thành tử thi.

Ngoại trừ bậc Thánh A-ra-hán ra, còn lại tất cả mọi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng sau khi chết, nghiệp của người ấy cho quả tái-sinh kiếp sau.

Tái-sinh-tâm quả-tâm có 4 danh-uẩn (thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn) làm phận sự tái-sinh kiếp sau đồng sinh với hadayavatthurūpa: sắc-pháp là nơi sinh của ý-thức-tâm gọi là sắc-uẩn như vậy đủ ngũ- uẩn đầu tiên kiếp hiện-tại, đối với chúng-sinh trong cõi có ngũ-uẩn.

Như vậy, trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài của mỗi chúng-sinh chỉ có liên quan về phần tâm có phận sự lưu trữ, tích lũy tất cả mọi thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp sinh rồi diệt liên tục từ kiếp này sang kiếp kia mà thôi, còn phần thân là quả của nghiệp bị cắt đứt, chấm dứt mỗi kiếp, hoàn toàn không liên quan đến kiếp nào cả.

Đức-Phật dạy ngũ-uẩn này pháp-vô-ngã với ý nghĩa:

“Anattā asārakaṭṭhena: Pháp-vô-ngã với ý nghĩa là vô dụng, không có cốt lõi vững chắc, không có tính chất bền vững lâu dài.”

 

“Avasavattanaṭṭhena anattā: Pháp-vô-ngã (anattā) với ý nghĩa không chiều theo ý muốn của ai…”

Những ví dụ về ngũ-uẩn

Trong kinh Pheṇapiṇḍūpamasutta(1) Đức-Phật thuyết dạy những ví dụ về mỗi uẩn có ý nghĩa, được tóm lược như sau:

  1. Sắc-uẩn ví như bọt nước (pheṇapiṇḍūpamarūpaṃ)

Sắc-uẩn (thân) đó là 28 sắc-pháp ví như là bọt nước.

Trong mùa mưa lụt lớn, trên dòng sông nước chảy kết tụ những bọt nước thành đống bọt nước nhỏ lớn. Đống bọt nước này dù nhỏ, dù lớn cũng không thể sử dụng làm vật gì để đem lại sự lợi ích lâu dài.

Nếu đống bọt nước này trôi đi chưa bị tan rã giữa đường, thì khi trôi ra đến biển chắc chắn phải bị tan rã, trở nên vô dụng.

Cũng như vậy, sắc-uẩn (thân) này đó là 28 sắc-pháp sinh rồi diệt có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, trạng-thái bất-tịnh, thường có mọi thứ bệnh hoạn ốm đau. Sắc-uẩn (thân) này khi tái-sinh đầu thai ban đầu nhỏ xíu, theo thời gian, to lớn dần như thân hình của con voi, con cá mập, ... rồi cuối cùng cũng bị tan rã, trở thành vô dụng.

Cho nên, Đức-Phật sắc-uẩn (thân) này như bọt nước.

  1. Thọ-uẩn ví như bong bóng nước

(vedanāpubbuḷūpaṃ)

Thọ-uẩn, đó là thọ tâm-sở ví như bong bóng nước.

1 Bộ Saṃ, Khandhavagga, kinh Pheṇapiṇḍūpamasutta.

 

Trời mưa lớn, mưa nặng hạt rơi xuống hồ, vũng nước, nổi lên những bong bóng nước. Những bong bóng nước này nổi lên liền vỡ ngay, không thể sử dụng đem lại sự lợi ích, trở thành vô dụng.

Cũng như vậy, thọ-uẩn này đó là thọ khổ, thọ lạc, thọ xả, ... sinh rồi diệt mau lẹ, không tồn tại lâu dài, chỉ có khổ mà thôi, trở thành vô dụng.

Cho nên, Đức-Phật thọ-uẩn này như bong bóng nước.

  1. Tưởng-uẩn ví như ảo ảnh (maricikūpamā saññā) Tưởng-uẩn, đó là tưởng tâm-sở ví như ảo ảnh.

Trong mùa hè nóng bức, khách lữ hành nóng nực

khát nước đi trên đường, nhìn về phía trước trời nắng chập chờn gợn sóng giống như đằng trước có nước sông.

Khi đi đến, gợn sóng kia di chuyển đến phía trước, luôn luôn có một khoảng cách. Đó là ảo ảnh không có thật chỉ là vô dụng.

Cũng như vậy, tưởng-uẩn này tưởng nhớ, ghi nhớ những đối-tượng không còn thật nữa. Ví như khi khát nước, tưởng nhớ đến nước, nhưng không giúp làm cho đỡ cơn khát được, trở thành vô dụng.

Cho nên, Đức-Phật ví tưởng-uẩn này như ảo ảnh.

  1. Hành-uẩn như cây chuối (saṅkhārā kadalūpamā)

Hành-uẩn, đó là 50 tâm-sở (trừ thọ tâm-sở và tưởng tâm-sở) ví như cây chuối.

Một người cần cây có lõi, đi vào rừng nhìn thấy cây chuối lớn trơn tru, người ấy chặt cây chuối đem về nhà.

Khi bóc bẹ chuối từ ngoài vào trong ruột, không tìm thấy lõi cây, chỉ là vô dụng mà thôi.

 

Cũng như vậy, hành-uẩn này tạo tác các pháp-hữu-vi, mà các pháp-hữu-vi, sắc-pháp, danh-pháp sinh rồi diệt, có trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, không phải ta, không phải của ta, chỉ là vô dụng mà thôi.

Cho nên, Đức-Phật ví hành-uẩn này như cây chuối.

  1. Thức-uẩn ví như ảo thuật (mayūpamaṃ viññāṇaṃ) Thức-uẩn, đó là 89 hoặc 121 tâm, ví như trò ảo thuật.

Các nhà ảo thuật biểu diễn các trò ảo thuật rất nhanh

tay, để đánh lừa khán giả một cách tinh xảo.

Cũng như vậy, đối với hàng phàm-nhân, thức-uẩn biết mọi đối-tượng cho là ta biết, nhưng biết sai lầm điên đảo.

Các pháp-hữu-vi là vô-thường, biết là thường; các pháp-hữu-vi là khổ, biết là lạc; các pháp-hữu-vi là vô- ngã, biết là ngã (ta); các pháp-hữu-vi là bất tịnh, biết là tịnh, xinh đẹp,…

Nhưng thật ra, các pháp-hữu-vi là vô-thường, khổ, vô- ngã, bất-tịnh. Thế mà thức-uẩn của các hàng phàm-nhân biết ngược lại rằng:

“Các pháp-hữu-vi là thường, lạc, ngã, tịnh.”

Cho nên, Đức-Phật ví thức-uẩn này như trò ảo thuật.

 

Pháp-Vô-Ngã (Anattā)

Pháp-vô-ngã không chỉ là ngũ-uẩn, mà còn các pháp- hữu-vi và pháp-vô-vi cũng đều là pháp-vô-ngã nữa.

Đức-Phật dạy: “Sabbe dhammā anattā: Tất cả các pháp-hữu-vi, pháp-vô-vi đều là pháp-vô-ngã.”

Pháp-hữu-vi (saṅkhatadhamma) đó là ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự-tánh (dhātu), … sắc-pháp, danh-pháp trong tam-

 

giới là pháp bị cấu tạo do bởi 4 nhân-duyên: nghiệp, (kamma), tâm (citta), thời-tiết (utu), vật-thực (āhāra), nên gọi là pháp-hữu-vi đều là pháp-vô-ngã.

Pháp-vô-vi (asaṅkhatadhamma) đó là Niết-bàn, là pháp không bị cấu tạo do bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời-tiết, vật-thực, và các chế-định-pháp (paññatti- dhamma) cũng là pháp-vô-ngã, bởi vì các pháp này không có ai là chủ, không chiều theo ý muốn của ai.

Như Đức-Phật dạy trong Tạng-Luật, bộ Parivārapāḷi:

“Aniccā sabbe saṅkhārā, dukkhānattā ca saṅkhatā. Nibbānañceva paññatti, anattā iti vinicchayā.”(1) Tất cả các pháp-hữu-vi,

Là sắc-pháp và danh-pháp,

đều có đủ ba trạng-thái, vô-thường, khổ, vô-ngã.

Niết-bàn và chế-định-pháp, cũng thuộc về pháp-vô-ngã.

Pháp-Vô-Ngã là những pháp nào?

Sắc-uẩn pháp-vô-ngã, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành- uẩn, thức-uẩn đều là pháp-vô-ngã, hay tất cả mọi sắc- pháp, mọi danh-pháp pháp-vô-ngã, bởi vì các pháp này không chiều theo ý muốn của ai, không có ai là chủ, không phải là ta và không phải của ta. Cho nên, các pháp ấy đều là pháp-vô-ngã.

Sự thật, pháp-vô-ngã chỉ có trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama mà thôi. Ngoài Phật-giáo ra, không ai biết về pháp-vô-ngã.

Cái ta, cái ngã có thật hay không?

1 Vinayapiṭaka, bộ Parivāra, phần Samuṭṭhānasīsasaṅkhepa.

 

Đức-Phật dạy: Tất cả các pháp-hữu-vi, pháp-vô-vi

đều là pháp-vô-ngã.

Như vậy, sự thật cái ta, cái ngã không có thật. Vậy, do đâu mà có cái ta, cái ngã?

Cái ta, cái ngã vốn không có thật. Sở dĩ có cái ta, cái ngã là vì tà-kiến (diṭṭhi) thấy sai, chấp lầm từ sắc-pháp cho là ta, từ danh-pháp cho là ta.

Thật ra, đúng theo thật-tánh của chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) thì chỉ có 4 pháp là tâm, tâm-sở, sắc-pháp, Niết-bàn mà thôi.

Sắc-pháp đó là 28 sắc-pháp, danh-pháp đó là 89 hoặc 121 tâm và 52 tâm-sở, Niết-bàn cũng thuộc về danh-pháp, nhưng do tà-kiến (diṭṭhi) thấy sai, chấp lầm nơi sắc-pháp cho là ta, nơi danh-pháp cho là ta như sau:

Tà-kiến đó là tà-kiến tâm-sở (diṭṭhicetasika) đồng sinh với 4 tham-tâm hợp với tà-kiến thấy sai chấp lầm trong đối-tượng sắc-pháp, danh-pháp cho là ta, là ngã.

  • Tà-kiến thấy sai, chấp làm nơi sắc-pháp
  • Khi thân đi hay sắc đi, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi thân đi hay sắc đi ấy cho là ta đi.
  • Khi thân đứng hay sắc đứng, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi thân đứng hay sắc đứng ấy cho là ta đứng.
  • Khi thân ngồi hay sắc ngồi, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi thân ngồi hay sắc ngồi ấy cho là ta ngồi.
  • Khi thân nằm hay sắc nằm, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi thân nằm hay sắc nằm ấy cho là ta nằm.
  • Hoặc khi thân cử động, các oai nghi phụ hay sắc cử động, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi thân cử động ấy hay sắc cử động ấy cho là ta cử động, v.v…

 

  • Tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi danh-pháp
  • Khi nhãn-thức-tâm nhìn thấy đối-tượng sắc, hình dáng, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi nhãn-thức- tâm thấy cho là ta thấy.
  • Khi nhĩ-thức-tâm nghe các đối-tượng âm thanh, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi nhĩ-thức-tâm nghe ấy cho là ta nghe.
  • Khi tỷ-thức-tâm ngửi các đối-tượng hương, thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi tỷ-thức-tâm ngửi ấy cho là ta ngửi.
  • Khi thiệt-thức-tâm nếm các đối-tượng vị, thì tâm tà- kiến thấy sai, chấp lầm nơi thiệt-thức-tâm nếm ấy cho là ta nếm.
  • Khi thân-thức-tâm xúc giác cứng mềm, nóng lạnh… thì tâm tà-kiến thấy sai, chấp lầm nơi thân-thức-tâm xúc- giác ấy cho là ta xúc-giác.
  • Khi ý-thức-tâm biết các đối-tượng pháp, thì tâm tà- kiến thấy sai, chấp lầm nơi ý-thức-tâm biết, tâm suy nghĩ ấy cho là ta biết, ta suy nghĩ, v.v…

Như vậy, cái ta, cái ngã không có thật, mà chỉ có tâm tà-kiến là có thật mà thôi.

Cho nên, không có pháp-hành diệt ngã, chỉ có pháp-hành diệt tâm tà-kiến chấp ngã mà thôi.

Pháp-hành diệt tâm tà-kiến chấp ngã như thế nào?

Hành-giả phàm-nhân là hạng người tam-nhân thực- hành pháp-hành thiền-tuệ, có khả năng dẫn đến trí-tuệ- thiền-tuệ phát sinh theo tuần tự trải qua 16 trí-tuệ-thiền- tuệ từ trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới.

 

Bắt đầu từ trí-tuệ thứ nhất gọi là nāmarūpa- paricchedañāṇa: trí-tuệ phân-tích thấy rõ, biết rõ thật- tánh của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp hiện-tại ấy là pháp-vô-ngã (anattā) đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), cho đến trí-tuệ-thiền-tuệ siêu- tam-giới thứ 14 gọi là Sotāpattimaggañāṇa: Nhập-lưu Thánh-đạo-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, nên diệt tận được hai loại phiền-não là tà-kiến chấp-ngã trong ngũ-uẩn (sakkāyadiṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā) không còn dư sót, liền tiếp theo trí-tuệ-thiền-tuệ siêu- tam-giới thứ 15 gọi là Sotāpattiphalañāṇa: Nhập-lưu Thánh-quả-tuệ trong cùng Nhập-lưu Thánh-đạo lộ- trình-tâm, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

Và tiếp theo trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 16 cuối cùng gọi là paccavekkhaṇañāṇa: trí-tuệ quán-triệt Nhập-lưu Thánh- đạo, Nhập-lưu Thánh-quả đã chứng đắc, Niết-bàn đã chứng ngộ; trí-tuệ quán-triệt phiền-não nào đã diệt tận được và phiền-não nào còn lại chưa diệt tận được.

Bậc Thánh Nhập-lưu vĩnh viễn không còn tà-kiến theo chấp ngã trong ngũ-uẩn, trong kiếp hiện-tại, cho đến kiếp vị-lai nhiều nhất 7 kiếp nữa.

Đến kiếp thứ 7, bậc Thánh Nhập-lưu chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Chấp ngã có ba loại

  1. Tà-kiến theo chấp ngã.
  2. Tham-ái theo chấp ngã.
  3. Ngã-mạn theo chấp ngã.

 

  1. Tà-kiến theo chấp ngã tà-kiến theo chấp ngã nơi sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn, hay chấp ngã nơi sắc-pháp, nơi danh-pháp cho là tự ngã của ta do năng lực của tà-kiến (eso me attā).

Bậc Thánh Nhập-lưu đã diệt tận được tà-kiến theo chấp ngã này vĩnh viễn không còn nữa, nhưng chỉ còn tham-ái theo chấp ngã ngã-mạn theo chấp ngã thôi.

  1. Tham-ái theo chấp ngã tham-ái theo chấp ngã nơi sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn, hay sắc-pháp, danh-pháp cho là của ta do năng lực của tham-ái (etaṃ mama).

Bậc Thánh Nhất-lai đã diệt tận được tham-ái theo chấp ngã phần thô trong cõi dục-giới, còn phần vi-tế thì chưa diệt được.

Bậc Thánh Bất-lai đã diệt tận được tham-ái theo chấp ngã phần vi-tế trong cõi dục-giới, còn tham-ái phần vi-tế trong 5 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô- sắc-giới trong cõi trời sắc-giới phạm-thiên, cõi trời vô- sắc-giới phạm-thiên thì chưa diệt được.

  1. Ngã-mạn theo chấp ngã ngã-mạn theo chấp ngã nơi sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn, hay sắc-pháp, danh-pháp cho là ta do năng lực của ngã- mạn (eso hamasmi).

Bậc Thánh A-ra-hán đã diệt tận được tham-ái theo chấp ngã phần vi-tế trong cõi trời sắc-giới và ngã-mạn theo chấp ngã này không còn dư sót nữa.

Cho nên, bậc Thánh A-ra-hán ngay kiếp hiện-tại sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

 

Chấp ngã - Không chấp ngã

Tất cả chúng-sinh nói chung, con người nói riêng, hễ còn là phàm-nhân, chưa phải Thánh-nhân thì vẫn còn chấp ngã do các phiền-não, nhất là tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn.

  • Hạng thiểu-trí phàm-nhân (andhaputhujjana) trong đời không đến gần gũi, thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo, không lắng nghe chánh-pháp, không thực- hành pháp-hành thiền-tuệ, không hiểu biết thật-tánh của ngũ-uẩn sắc-pháp, danh-pháp, nên tà-kiến, tham-ái, ngã-mạn theo chấp ngã nơi ngũ-uẩn rằng:
  • Tà-kiến theo chấp ngã trong ngũ-uẩn ấy cho là tự ngã của ta (eso me attā).
  • Tham-ái theo chấp ngã trong ngũ-uẩn ấy cho là của ta (etaṃ mama).
  • Ngã-mạn theo chấp ngã trong ngũ-uẩn ấy cho là ta (eso hamasmi).

Hạng thiểu trí phàm-nhân ấy tự làm khổ mình, làm khổ người, tự làm khổ mình lẫn làm khổ người trong kiếp hiện-tại lẫn vô số kiếp vị-lai.

  • Hạng thiện-trí phàm-nhân (kalyāṇaputhujjana) trong đời thường đến gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo, thường lắng nghe chánh-pháp, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp; trí- tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc

 

Thánh A-ra-hán, nên không còn tà-kiến, tham-ái, ngã- mạn theo chấp ngã nơi ngũ-uẩn nữa.

  • Không còn tà-kiến theo chấp ngã trong ngũ-uẩn ấy cho là tự ngã của ta (na meso attā).
  • Không còn tham-ái theo chấp ngã trong ngũ-uẩn ấy cho là của ta (netaṃ mama).
  • Không còn ngã-mạn theo chấp ngã trong ngũ-uẩn

ấy cho là ta (neso hamasmi).

Cho nên, bậc Thánh A-ra-hán không còn tự làm khổ mình, không làm khổ người, không tự làm khổ mình lẫn người trong kiếp hiện-tại.

Thật ra, tà-kiến theo chấp ngã, tham-ái theo chấp ngã, ngã-mạn theo chấp ngã này chỉ làm trở ngại cho hành- giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ không thể dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thể chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn mà thôi.

  • Tà-kiến theo chấp ngã, tham-ái theo chấp ngã, ngã- mạn theo chấp ngã này không làm trở ngại cho bậc thiện- trí phàm-nhân tạo 10 loại phước-thiện (puññakriyā- vatthu), tạo 10 đại-thiện-nghiệp như sau:

\Phước-thiện có 10 pháp:

  1. Phước-thiện bố-thí (dānakusala).
  2. Phước-thiện giữ-giới (sīlakusala).
  3. Phước-thiện hành-thiền (bhāvanākusala).
  4. Phước-thiện cung-kính (apacāyanakusala).
  5. Phước-thiện hỗ-trợ (veyyāvaccakusala).
  6. Phước-thiện hồi-hướng (pattidānakusala).
  7. Phước-thiện hoan-hỷ (pattānumodanākusala).
  8. Phước-thiện nghe-pháp (dhammassavanākusala).
  9. Phước-thiện thuyết-pháp (dhammadesanākusala).
  10. Phước-thiện chánh-kiến (diṭṭhijukammakusala).

 

Thiện nghiệp có 10 loại theo 3 môn:

  • Thân thiện-nghiệp có 3 loại:
    1. Thân không sát-sinh,
    2. Thân không trộm-cắp,
    3. Thân không tà-dâm.
      • Khẩu thiện-nghiệp có 4 loại:
  1. Khẩu không nói-dối,
  2. Khẩu không nói lời chia rẽ,
  3. Khẩu không nói lời thô tục,
  4. Khẩu không nói lời vô ích.
      • Ý thiện-nghiệp có 3 loại:
        1. Ý không tham lam tài sản của người khác,
        2. Ý không thù hận người khác,
        3. Ý có chánh-kiến.

Sau khi bậc thiện-trí phàm-nhân chết, dục-giới thiện- nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện dục- giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới.

      • Tà-kiến theo chấp ngã, tham-ái theo chấp ngã, ngã- mạn theo chấp ngã này cũng không làm trở ngại cho hành-giả là hạng người tam-nhân thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện- tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm.

 

 

PHẬT-GIÁO

(BUDDHASĀSANA)

Phật-giáo là lời giáo huấn của Đức-Phật, từ khi trở thành Đức-Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu là Đức- Phật Gotama vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch) tại cội Đại-Bồ-đề trong khu rừng Uruvelā, khi Đức-Phật Gotama tròn đúng 35 tuổi, cho đến ngày rằm tháng tư (âm-lịch) trước khi Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn tại khu rừng Kusinārā, Đức-Phật tròn đúng 80 tuổi.

Đức-Phật Gotama thuyết-pháp tế độ chúng-sinh suốt 45 năm. Tất cả lời giáo huấn của Đức-Phật gọi là Phật- giáo. Phật-giáo có 3 phần chính:

  1. Pháp-học Phật-giáo (Pariyattisāsana).
  2. Pháp-hành Phật-giáo (Paṭipattisāsana).
  3. Pháp-thành Phật-giáo (Paṭivedhasāsana).

Các hàng thanh-văn đệ-tử học pháp-học Phật-giáo hiểu biết đúng đắn làm nền tảng căn bản cho pháp-hành Phật-giáo, khi hành-giả thực-hành pháp-hành Phật- giáo đúng đắn dẫn đến chứng đắc pháp-thành Phật-giáo đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, gọi là 9 pháp-siêu-tam-giới (navalokuttaradhamma).

Pháp-Học Phật-Giáo (Pariyattisāsana)

Pháp-học Phật-giáo là gì?

Trong Chú-giải Chi-bộ-kinh định nghĩa:

“Pariyattī’ti tepiṭakaṃ Buddhavacanaṃ sāṭṭhakathā Pāḷi.” (1)

1 Chú-giải Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipātaṭṭhakathāvaṇṇanā. Pháp- học Phật-giáo bằng ngôn ngữ Pāḷi, không phải là ngôn ngữ Sanskrit.

 

Pháp-học Phật-giáo là Phật-ngôn Tam-tạng Pāḷi cùng Chú-giải Pāḷi.

Tiếng Pāḷi là ngôn ngữ chung của Chư Phật trong quá khứ, Đức-Phật hiện-tại và Chư Phật vị-lai.

Pāḷibhāsā vốn là ngôn ngữ của người dân Magadha mà Đức-Phật sử dụng làm ngôn ngữ thuyết-pháp tế độ chúng-sinh, để hiểu biết pháp-học chánh-pháp (pariyatti saddhamma), rồi thực-hành pháp-hành chánh-pháp (paṭipatti saddhamma) dẫn đến chứng đắc pháp-thành chánh-pháp (paṭivedha saddhamma) đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Cho nên, ngôn ngữ này gọi là ngôn ngữ Pāḷibhāsā.

Pháp-học Phật-giáo gồm tất cả những lời giáo huấn, những điều chế định của Đức-Phật trong suốt 45 năm kể từ khi trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama cho đến trước khi Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn, được ghi chép đầy đủ trọn vẹn trong Tam-tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi).

Trong Tam-tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) không chỉ có những lời giáo huấn của Đức-Phật, mà còn có những lời của các hàng thanh-văn đệ-tử, chư-thiên, chư phạm- thiên, … được Đức-Phật nhắc lại hoặc xác nhận cũng xem như là Phật-giáo.

Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi) là lời giảng giải những pháp khó hiểu trong Tam-tạng Pāḷi, khi thì Đức- Phật giảng giải rải rác gọi là pakiṇṇakadesanā: Đức- Phật thuyết giảng, giải thích rõ mỗi điều riêng rẽ trong Tam-tạng Pāḷi, khi thì chư Thánh A-ra-hán giảng giải.

 

Những lời giảng giải ấy được gom lại gọi là bộ Chú- giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi). Tam-tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) và Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi) thuộc về Pháp-học Phật-giáo.

Pháp-học là nền tảng căn bản của Phật-giáo, nếu không có pháp-học Phật-giáo thì chắc chắn không có pháp-hành Phật-giáo pháp-thành Phật-giáo, không có giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Nếu có pháp-học Phật-giáo đúng đắn thì dẫn đến phần thực-hành pháp-hành Phật-giáo đúng đắn.

Nếu có thực-hành pháp-hành Phật-giáo đúng đắn thì có quả là pháp-thành Phật-giáo, đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Pháp vị-giải-thoát (Vimuttirasa)

Phật-giáo có một vị duy nhất là vị giải thoát như Đức- Phật đã dạy:

Seyyathāpi Pahārāda, mahāsamuddo ekaraso loṇaraso. Evamevaṃ kho Pahārāda, yaṃ dhamma- vinayo ekaraso vimuttiraso.

Ayampi Pahārāda, yaṃ dhammavinayo ekaraso vimuttiraso ...(1)

  • Này Pahārāda! Đại-dương chỉ có một vị duy nhất là “vị mặn”.
  • Này Pahārāda! Cũng như vậy, pháp và luật này chỉ có một vị duy nhất là “vị-giải-thoát”.
  • Này Pahārāda! Pháp và luật này chỉ có một vị duy nhất là vị-giải-thoát”.

1 Aṅguttaranikāya, Aṭṭhakanipāta, kinh Pahārādasutta.

 

Phân loại toàn giáo-pháp của Đức-Phật Phật-ngôn (Buddhavacana)

Toàn giáo pháp của Đức-Phật, Phật-ngôn chia ra làm ba thời-kỳ:

  • Phật-ngôn đầu tiên (Paṭhama Buddhavacana).
  • Phật-ngôn thời-kỳ giữa (Majjhima Buddhavacana).
  • Phật-ngôn cuối cùng (Pacchima Buddhavacana).
  • Phật-ngôn đầu tiên là gì?

Đức-Bồ-tát Siddhattha khi trở thành Đức-Phật- Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, tại cội Đại-Bồ-đề trong khu rừng Uruvelā, vào ngày rằm tháng tư (âm-lịch), Đức-Phật Gotama tròn 35 tuổi. Đức- Phật an hưởng vị-giải-thoát suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày.

Khi ấy, Đức-Thế-Tôn tự thuyết 2 bài kệ ở trong tâm:

  1. Anekajātisaṃsāraṃ, sandhāvissaṃ anibbisaṃ. Gahakāraṃ gavesanto, dukkhājāti punappunaṃ.
  2. Gahakāraka! diṭṭho’si, puna gehaṃ na kāhasi. Sabbā te phāsukā bhaggā, gahakūṭaṃ visaṅkhataṃ. Visaṅkhāragataṃ cittaṃ, taṇhānaṃ khayamajjhagā.(1)
  1. Này tham-ái! Người thợ xây nhà “thân”, Như-Lai cố tìm ngươi mà chưa gặp.

Nên tử sinh luân-hồi vô số kiếp, Tái-sinh mãi trong tam-giới là khổ.

  1. Này tham-ái! Người thợ xây nhà “thân”, Bây giờ Như-Lai đã gặp ngươi rồi!

Tất cả sườn nhà, “phiền-não” của ngươi, Như-Lai đã hủy hoại sạch cả rồi.

1 Dhammapadagāthā số 153, 154.

 

Đỉnh nhà “vô minh” cũng bị tiêu diệt, Ngươi không còn xây nhà Như-Lai nữa. Tâm Như-Lai đã chứng ngộ Niết-bàn, Diệt tận tất cả mọi tham-ái,(1)

Như-Lai đã chứng đắc A-ra-hán.

Hai bài kệ này, Đức-Phật Gotama tự thuyết ở trong tâm tại cội Đại-Bồ-đề là Phật-ngôn đầu tiên của Đức- Phật (Paṭhama Buddhavacana).

  • Phật-ngôn cuối cùng là gì?

Đức-Phật Gotama du hành thuyết pháp tế độ cho chúng-sinh có duyên lành nên tế độ, khắp mọi nơi, từ cõi người đến cõi trời dục-giới, cõi trời sắc-giới (không có cõi trời vô-sắc-giới, bởi vì chư phạm-thiên cõi này không có sắc-uẩn nên không có lỗ tai để lắng nghe chánh-pháp), suốt 45 năm ròng rã ngày đêm.

Đến ngày rằm tháng tư (âm lịch) Đức-Phật Gotama ngự đến khu rừng Kusinārā, tịch diệt Niết-bàn. Đức- Phật Gotama tròn 80 tuổi.

Trước giờ tịch diệt Niết-bàn, vào canh chót, Đức-Phật Gotama nhắc nhở khuyên dạy các hàng đệ tử đứng đầu là tỳ-khưu rằng:

“Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo. Vayadhammā saṅkhārā, appamādena sampādetha.”(2)

  • Này chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự- nữ!

Bây giờ Như-Lai nhắc nhở khuyên dạy các con lần cuối cùng rằng:

“Tất cả các pháp-hữu-vi có trạng-thái diệt là thường, các con hãy nên cố gắng tinh-tấn hoàn thành mọi phận

1 Tham-ái có tất cả 108 loại.

2 Dīghanikāya, Mahāvagga, kinh Mahāparinibbānasutta.

 

sự tứ Thánh-đế, bằng pháp không dể duôi (chánh-niệm), thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ.”

Đó là Phật-ngôn cuối cùng của Đức-Phật (Pacchima Buddhavacana).

Thật vậy, Đức-Phật khuyên dạy chấm dứt câu chót: “appamādena sampādetha.” từ đó, Ngài không còn dạy một lời nào nữa.

Đức-Phật nhập các bậc thiền sắc-giới và các bậc thiền vô-sắc-giới thuận và nghịch, rồi cuối cùng Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn tại khu rừng Kusinārā, gọi là Ngũ-uẩn Niết-bàn (khandhaparinibbāna) diệt ngũ-uẩn rồi, không còn tái-sinh kiếp nào nữa, hoàn toàn giải thoát khỏi khổ sinh là giải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

  • Phật-ngôn thời-kỳ giữa là gì?

Ngoại trừ hai câu kệ Phật-ngôn đầu tiên và câu kệ Phật-ngôn cuối cùng của Đức-Phật ra, còn lại tất cả những lời giáo huấn, điều răn dạy của Đức-Phật trong suốt 45 năm là Phật-ngôn thời-kỳ giữa của Đức-Phật (Majjhima Buddhavacana)

Pháp và Luật (Dhammavinaya)

Toàn giáo-pháp của Đức-Phật phân ra làm hai loại:

  • Pháp (Dhamma) gồm có Tạng Kinh Pāḷi và Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi.
  • Luật (Vinaya) là Tạng Luật Pāḷi.

Trong bài kinh Mahāparinibbānasutta: Đại-Niết-bàn, trước khi tịch diệt Niết-bàn, Đức-Phật dạy Ngài Trưởng- lão Ānanda rằng:

 

“Yo vo Ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññato, so vo mamaccayena satthā.”(1)

  • Này Ānanda! Pháp mà Như-Lai đã thuyết, Luật mà Như-Lai đã chế định, sau khi Như-Lai đã tịch diệt Niết- bàn rồi, Pháp và Luật ấy là Đức Tôn-Sư của các con.

Theo Chú-giải kinh Đại-Niết-bàn ấy giảng giải rằng:

  • Dhamma: Pháp có nghĩa là Tạng Kinh Pāḷi

Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi.

  • Vinaya: Luật có nghĩa là Tạng Luật Pāḷi.

Tīṇi piṭakāni pañca nikāyā navaṅgāni caturasīti dhammakkhandhasahassāni.

Tất cả Pháp và Luật phân chia thành Tam-Tạng Pāḷi, Ngũ-bộ Pāḷi, cửu-phần Pāḷi, 84.000 Pháp-môn Pāḷi.

  • Tạng Luật Pāḷi   : gồm có 21.000 pháp-môn.
  • Tạng Kinh Pāḷi   : gồm có 21.000 pháp-môn.
  • Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi: gồm có 42.000 pháp-môn.

Đức-Phật còn giảng giải rằng:

“Iti imāni caturāsiti dhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbāyāmi. Ahañca kho dāni ekova ovadāmi anusāsāmi, mayi parinibbute imāni caturāsiti dhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti amusāsissanti.”(1)

(Như vậy, 84.000 Pháp-môn này tồn tại, chỉ có một mình Như-Lai tịch diệt Niết-bàn. Thật vậy, bây giờ chỉ có một mình Như-Lai giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con. Sau khi Như-Lai tịch diệt Niết-bàn rồi, thì

84.000 pháp môn ấy là “Đức Tôn Sưsẽ giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con.)

1 Dīghanikāya, Mahāvagga, kinh Mahāparinibbānasutta.

1 Bộ Mahāvaggaṭṭhakathā, kinh Mahāparinibbānasuttavaṇṇanā.

 

Trên đây là đoạn Chú-giải mà chính Đức-Phật đã giảng giải, chỉ dạy cho các hàng thanh-văn đệ-tử nên hiểu biết rõ rằng:

“Sau khi Đức-Phật đã tịch diệt Niết-bàn rồi, không phải không còn Đức Tôn-Sư, mà khi ấy, 84.000 pháp- môn chính là Đức Tôn-Sư sẽ giáo huấn, sẽ theo dạy dỗ các hàng thanh-văn đệ-tử.”

Tam-Tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi)

Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia theo tạng thì có ba tạng:

  1. Tạng Luật Pāḷi (Vinayapiṭakapāḷi).
  2. Tạng Kinh Pāḷi (Suttantapiṭakapāḷi).
  3. Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭakapāḷi).
  1. Tạng Luật Pāḷi (Vinayapiṭakapāḷi)

Tạng Luật Pāḷi gồm những lời răn dạy của Đức-Phật. Đức-Phật đã ban hành những điều-giới tỳ-khưu, tỳ- khưu-ni, những pháp-hành tăng-sự, những điều cho phép và những điều không cho phép, những việc nên làm và những việc không nên làm, v.v...

Tạng Luật Pāḷi có 5 bộ:

I.1- Bộ Pārājikapāḷi gồm có những điều-giới:

  • 4 điều-giới Pārājika
  • 13 điều-giới Saṃghādisesa
  • 2 điều-giới Aniyata
  • 30 điều-giới Nissaggiya pācittiya,

I.2- Bộ Pācittiyapāḷi gồm có những điều-giới:

  • 92 điều-giới Suddha pācittiya
  • 4 điều-giới Pāṭīdesanīya
  • 75 điều-giới Sekhiya.

 

  • 7 điều Adhikaraṇasamatha
  • Những điều-giới của tỳ-khưu ni. I.3- BMahāvaggapāḷi (Tạng Luật)

Trong bộ luật Mahāvagga Pāḷi này, Đức-Phật thuyết

giảng về chuyện chứng đắc thành Đức-Phật Chánh- Đẳng-Giác, thuyết pháp kinh Chuyển-Pháp-Luân đầu tiên tế độ nhóm 5 tỳ-khưu, Đức-Phật ban hành phép xuất-gia thọ sadi, tỳ-khưu, v.v...

I.4- Bộ Cūḷavaggapāḷi

Trong bộ luật Cūḷavagga Pāḷi này, Đức-Phật ban hành nhiều pháp-hành tăng-sự đến chư tỳ-khưu. Bộ này, lần đầu tiên Đức-Phật cho phép bà Mahāpajāpatigotamī xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni trong giáo-pháp của Đức-Phật, cùng với 500 cận-sự-nữ dòng Sakya cùng xuất gia thọ tỳ-khưu-ni, v.v...

I.5- Bộ Parivārapāḷi

Trong bộ luật Parivāra Pāḷi này, Đức-Phật ban hành nhiều điều liên quan đến giới và nhiều vấn đề khác, ...

Đó là 5 bộ trong Tạng Luật Pāḷi mà chỉ có Đức-Phật duy nhất chế định và ban hành đến chư tỳ-khưu, tỳ-khưu ni, … mà thôi. Còn các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử không có khả năng chế định ra điều-giới và các pháp- hành tăng-sự, ... Các điều-giới, các pháp-hành tăng-sự mà Đức-Phật đã chế định và đã ban hành rồi, các hàng thanh-văn đệ-tử cần phải nên nghiêm chỉnh hành theo mà không được phép sửa đổi, thêm hoặc bớt điều nào cả.

Tạng Luật Pāḷi có ba đặc tính đặc biệt

    1. Đức-Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh (aṇādesanā).
    2. Đức-Phật giáo-huấn tùy theo lỗi (yathāparādhasāsana).

 

3 - Đức-Phật răn dạy tỳ-khưu giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu (saṃvarāsaṃvarakāthā).

  1. Đức-Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh như thế nào?

Đức-Phật đã chế định ra điều-giới, các pháp-hành tăng-sự, điều cho phép và không cho phép, việc nên làm và không nên làm, ... đến chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni.

Chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni phải nghiêm chỉnh hành theo những điều mà Đức-Phật đã chế định, không được thêm vào hoặc bớt ra. Nếu vị nào cố ý sai phạm điều nào thì vị ấy phải chịu tội nặng hay nhẹ, tùy theo mỗi điều- giới ấy.

Đức-Phật là Bậc độc nhất chế định và ban hành Tạng- luật, còn các hàng Thánh thanh-văn đệ-tử không được phép chế định một điều nào cả.

  1. Đức-Phật giáo huấn tùy theo lỗi như thế nào?

Khi nào tỳ-khưu hoặc tỳ-khưu ni bị phạm lỗi lần đầu tiên, bị người đời hoặc chư-thiên chê trách, làm tổn thương đến uy tín của chư tỳ-khưu-tăng. Khi ấy, Đức- Phật mới chế định điều-giới, ban hành đến chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, để đem lại 10 điều lợi ích như sau:

2.1- Saṃghasuṭṭhutāya: Để đem lại sự tốt lành cho tỳ- khưu-Tăng, tỳ-khưu-ni-Tăng.

2.2- Saṃghaphāsutāya: Để đem lại sự an lành cho tỳ- khưu-Tăng, tỳ-khưu-ni-Tăng.

2.3- Dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāya: Để khiển trách tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni phá giới, khó dạy không biết hổ-thẹn tội-lỗi và không biết ghê-sợ tội-lỗi.

2.4- Pesalānaṃ bhikkhūnaṃ phāsuviharāya: Để đem lại sự an lành đến những tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni biết kính yêu giới.

 

2.5- Diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya: Để

ngăn ngừa những tai họa xảy ra trong kiếp hiện-tại.

2.6- Samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāya: Để tránh khỏi tai họa tái-sinh trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh) trong kiếp vị-lai.

2.7- Appasannānaṃ pasādāya: Để làm cho phát sinh

đức-tin đến những người chưa có đức-tin nơi Tam-Bảo.

2.8- Pasannānaṃ bhiyyo bhavāya: Để làm tăng trưởng thêm đức-tin cho những người đã đức-tin nơi Tam-Bảo. 2.9- Saddhammaṭṭhitiyā: Để làm cho chánh-pháp “pháp-học chánh-pháp, pháp-hành chánh-pháp, pháp-

thành chánh-pháp” được trường tồn lâu dài.

2.10- Vinayānuggahāya: Để giữ gìn hộ trì giới luật

được nghiêm minh.

Sau khi có tỳ-khưu hoặc tỳ-khưu ni phạm lỗi đầu tiên, thì Đức-Phật mới chế định ra điều-giới. Cho nên, những tỳ-khưu nào, tỳ-khưu-ni nào phạm lỗi đầu tiên, tỳ-khưu ấy, tỳ-khưu-ni ấy không phải phạm điều-giới ấy.

Đức-Phật chế định điều-giới nặng hoặc nhẹ, tùy theo lỗi nặng hoặc nhẹ. Sau khi Đức-Phật đã chế định điều- giới nào rồi, ban hành đến tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, nếu tỳ- khưu nào, tỳ-khưu-ni nào cố ý phạm điều-giới ấy thì tỳ- khưu ấy, tỳ-khưu-ni ấy đã phạm điều-giới ấy.

  1. Đức-Phật răn dạy tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu như thế nào?

Đức-Phật ban hành điều-giới đến tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cốt để răn dạy tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni biết giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu, tránh xa mọi hành ác do thân và khẩu.

Tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni giữ gìn điều-giới được trong sạch, có thể diệt được phiền-não loại thô (vitikkama-

 

kilesa), để làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định, pháp- hành thiền-tuệ được phát triển.

Đó là những đặc tính đặc biệt của Tạng Luật Pāḷi.

Tỳ-Khưu-Giới

Đức-Phật chế định, ban hành điều-giới của tỳ-khưu trong Bhikkhupātimokkhasīla có 227 điều-giới như sau:

  1. Pārājika: Giới bại hoại có 4 điều-giới.
  2. Saṃghādisesa: Giới hành phạt có 13 điều-giới.
  3. Aniyata: Giới bất định có 2 điều-giới.
  4. Nissaggiya pācittiya: Xả rồi sám hối có 30 điều-giới nghĩa là tỳ-khưu phải xả bỏ vật bị phạm giới trước, sau đó mới xin sám hối (pācittiya āpatti).
  5. Suddha pācittiya: Giới sám hối lỗi có 92 điều-giới.
  6. Pāṭidesanīya: Giới sám hối riêng rẽ có 4 điều-giới.
  7. Sekhiya: Giới hành có 75 điều-giới.
  8. Adhikaraṇasamatha: Pháp giảng hòa có 7 pháp.

Tuy nhiên, trong Tạng Luật Pāḷi gom tất cả mọi điều- giới của tỳ-khưu đầy đủ có 91.805.036.000 điều-giới.

Như trong bộ Visuddhimagga dạy:

“Navakoṭisahassāni, asitisatakoṭiyo. Paññāsasatasahassāni, chattiṃsa ca punāpare. Ete saṃvaravinayā, Sambuddhena pakāsitā

Peyyālamukhena niddiṭṭhā, sikkhā vinayasaṃvare.”(1)

Đức-Phật đã chế định những điều-giới trong Tạng Luật Pāḷi theo cách tính rộng thì gồm có 91.805.036.000 điều-giới, giữ gìn cẩn trọng thân và khẩu tránh xa mọi hành-ác.

1 Bộ Visuddhimagga, phần Sīlaniddesa.

 

Tỳ-Khưu-Ni Giới

Đức-Phật chế định ban hành điều-giới của tỳ-khưu-ni

Bhikkhunipātimokkhasīla gồm có 311 điều-giới như sau:

  1. Pārājika có 8 điều-giới.
  2. Saṃghādisesa có 17 điều-giới.
  3. Nissaggiya pācittiya có 30 điều-giới.
  4. Suddha pācittiya có 166 điều-giới.
  5. Pāṭidesanīya có 8 điều-giới.
  6. Sekhiya có 75 điều-giới.
  7. Adhikaraṇasamatha có 7 pháp.

Tên điều-giới      Tỳ-khưu-giới

  1. Điều-giới Pārājika                           4 điều-giới
  2. Điều-giới Saṃghādisesa                 13 điều-giới
  3. Điều-giới Aniyata                             2 điều-giới
  4. Điều-giới Nissaggiya pācittiya        30 điều-giới
  5. Điều-giới Suddha pācittiya              92 điều-giới
  6. Điều-giới Pāṭidesanīya                     4 điều-giới
  7. Điều-giới Sekhiya                           75 điều-giới
  8. Điều-giới Adhikaraṇasamatha       7 điều-giới

227 điều-giới

Tên điều-giới      Tỳ-khưu-ni giới

  1. Điều-giới Pārājika                           8 điều-giới
  2. Điều-giới Saṃghādisesa                 17 điều-giới
  3. Điều-giới Nissaggiya pācittiya        30 điều-giới
  4. Điều-giới Suddha pācittiya            166 điều-giới
  5. Điều-giới Pāṭidesanīya                     8 điều-giới
  6. Điều-giới Sekhiya                           75 điều-giới
  7. Điều-giới Adhikaraṇasamatha       7 điều-giới

311 điều-giới

 

Phạm giới Āpatti

Tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni phạm giới Āpatti có 7 loại

  1. Pārājika āpatti: Phạm giới bại hoại. Mất phẩm hạnh tỳ-khưu, tỳ-khưu ni.
  2. Saṃghādisesa āpatti: Phạm giới hành phạt. Xin chư Tăng hình phạt.
  3. Thullaccaya āpatti: Phạm giới nặng. Lỗi kém thua hai giới trên.
  4. Pācittiya āpatti: Phạm giới sám hối lỗi.
  5. Pāṭidesanīya āpatti: Phạm giới sám hối riêng rẽ.
  6. Dukkaṭa āpatti: Phạm giới hành bậy.
  7. Dubbhāsita āpatti: Phạm giới nói bậy.

Phạm giới āpatti có 7 loại chia làm 2 loại chính:

  1. Phạm giới āpatti nặng có hai loại
    • Pārājika āpatti: Nếu tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nào phạm một trong những điều-giới nặng này thì tỳ-khưu, tỳ- khưu-ni ấy bị mất phẩm-hạnh tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, họ phải hoàn tục trở lại người tại gia (hoặc xuống trở thành sa-di suốt đời).
    • Saṃghādisesa āpatti: Nếu tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nào phạm một trong những điều-giới nặng này thì tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni ấy tuy còn phẩm-hạnh tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, nhưng vị ấy phải biết xin chịu hành phạt theo luật của Đức-Phật ban hành: hành parivāsakamma, hành mānatta- kamma và hành abbhānakamma, để cho giới của mình được trở lại trong sạch
  2. Phạm giới āpatti nhẹ có 5 loại

Thullaccaya   āpatti,   pācittiya  āpatti,   pāṭidesanīya

āpatti, dukkaṭa āpatti, dubbhāsita āpatti. Nếu tỳ-khưu,

 

tỳ-khưu-ni nào phạm một trong 5 loại giới này thì tỳ- khưu, tỳ-khưu-ni ấy có thể xin sám hối với một vị tỳ-khưu khác, để cho giới của mình được trở lại trong sạch.

Quả báu của sự giữ gìn giới

Trong Tạng Luật Pāḷi bộ Parivāra Pāḷi, Đức-Phật thuyết dạy tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni giữ gìn giới của mình cho được trong sạch trọn vẹn, có được quả báu theo nhân quả tuần tự như sau:

  1. Giữ gìn giới trong sạch trọn vẹn đem lại lợi ích là giữ gìn cẩn trọng 6 môn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) được thanh-tịnh.
  2. Có giữ gìn cẩn trọng 6 môn được thanh-tịnh đem lại lợi ích là tâm không nóng nảy, tâm mát mẻ.
  3. Tâm mát mẻ đem lại lợi ích là có tâm hài lòng hoan hỷ.
  4. Tâm hài lòng hoan hỷ đem lại lợi ích là pháp-hỷ.
  5. Pháp-hỷ đem lại lợi ích là pháp an-tịnh.
  6. Pháp an-tịnh đem lại lợi ích là pháp an-lạc.
  7. Pháp an-lạc đem lại lợi ích là pháp thiền-định.
  8. Pháp thiền-định đem lại lợi ích là trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của ngũ-uẩn.
  9. Trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của ngũ- uẩn đem lại lợi ích trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán ngũ-uẩn. 10- Trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán ngũ-uẩn đem lại lợi

ích diệt tận được tham-ái bằng 4 Thánh-đạo-tuệ.

  1. Diệt tận được tham-ái đem lại lợi ích là giải thoát khổ bằng 4 Thánh-quả-tuệ.
  2. Giải thoát khổ bằng 4 Thánh-quả-tuệ đem lại lợi ích cho trí-tuệ quán-triệt biết rõ giải thoát khổ rồi.
  3. Trí-tuệ quán-triệt biết rõ giải thoát khổ rồi đem

 

lại lợi ích là tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Hành-giả giữ gìn giới được trong sạch trọn vẹn làm nền tảng đem lại nhiều lợi ích cho mọi thiện-pháp, cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, cho đến lợi ích cao thượng là chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Quả báu của việc học Tạng Luật Pāḷi

Trong Tạng Luật Pāḷi bộ Parivāra Pāḷi, Ngài Trưởng- lão Upāli bạch hỏi Đức-Thế-Tôn về quả báu của việc học Tạng Luật Pāḷi. Đức-Phật dạy rằng:

- Này Upāli! Tỳ-khưu học Tạng Luật Pāḷi có được 5 quả báu là:

  1. Chính mình biết giữ gìn giới luật được trong sạch.
  2. Mình là nơi nương nhờ của những người khác, họ đến học hỏi để hiểu rõ giới luật.
  3. Người có thiện-tâm dũng cảm trong các hội chúng.
  4. Người thắng kẻ thù bên trong là phiền-não và kẻ thù bên ngoài bằng chánh-pháp.
  5. Người hành theo chánh-pháp để duy trì chánh-pháp

được trường tồn.

Đó là 5 quả báu của việc học rành rẽ Tạng Luật Pāḷi.

 

  1. Tạng Kinh Pāḷi (Suttantapiṭakapāḷi)

Tạng Kinh Pāḷi là tạng gồm có nhiều bài kinh, bài kệ mà Đức-Phật đã thuyết giảng, cũng có một số bài kinh, bài kệ có lời của chư Thánh A-ra-hán, chư-thiên, chư phạm-thiên, Đức-vua, Sa-môn, Bà-la-môn, … trong các

 

bài kinh ấy. Những bài kinh, bài kệ ấy được Đức-Phật nhắc lại hoặc xác nhận thì xem như lời dạy của Đức-Phật.

Tạng Kinh Pāḷi gồm có 5 bộ lớn:

II.1- Trường-Bộ-kinh Pāḷi (Dīghanikāyapāḷi): gồm có những bài kinh dài.

II.2- Trung-Bộ-kinh Pāḷi (Majjhimanikāyapāḷi): gồm có những bài kinh loại trung.

II.3- Đồng-Loại Bộ-kinh Pāḷi (Samyuttanikāyapāḷi):

gồm những bài kinh có điểm giống gom thành nhóm.

II.4- Chi-Bộ-kinh Pāḷi (Aṅguttaranikāyapāḷi): gồm những bài kinh có chi-pháp rõ ràng.

II.5- Tiểu-Bộ-kinh Pāḷi (Khuddakanikāyapāḷi): gồm những bài kinh, bài kệ không có trong 4 bộ trên, được gom vào Tiểu-Bộ-kinh này.

Tạng Kinh Pāḷi có ba đặc tính đặc biệt

    1. Đức-Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp (vohāradesanā).
    2. Đức-Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng-sinh (yathānulomasāsana).
    3. Đức-Phật thuyết dạy chúng-sinh diệt được tà-kiến (diṭṭhiviniveṭhanakathā).
  1. Đức-Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp như thế nào?

Đức-Phật thuyết pháp bằng cách dùng ngôn ngữ thích hợp đối với mỗi chúng-sinh. Cho nên, Đức-Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh gồm có nhiều hạng chúng-sinh khác nhau như tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận-sự-nam, cận-sự- nữ, Vua chúa, Bà-la-môn, dân chúng, cho đến chư-thiên, chư phạm-thiên, v.v...

Mỗi khi chúng-sinh lắng nghe Đức-Phật thuyết pháp,

 

họ đều hiểu rõ ràng chánh-pháp, bởi do ngôn ngữ thích hợp theo trình độ riêng của mỗi chúng-sinh.

Vì vậy, sau khi nghe pháp xong, có số trở thành bậc Thánh Nhập-lưu, có số trở thành bậc Thánh Nhất-lai, có số trở thành bậc Thánh Bất-lai, có số trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tùy theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.

Cũng có số chúng-sinh chưa trở thành bậc Thánh- nhân, họ đang tạo duyên lành, bồi bổ các pháp-hạnh ba- la-mật để chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả trong thời vị-lai kiếp này, hoặc kiếp sau.

  1. Đức-Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng-sinh như thế nào?

Đức-Phật có hai loại trí-tuệ đặc biệt là:

  1. Indriyaparopariyattañāṇa: Trí-tuệ biết rõ 5 pháp- chủ già dặn hoặc non nớt của mỗi chúng-sinh.
  2. Āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ biết rõ phiền-não trầm luân ngấm ngầm của mỗi chúng-sinh.

Cho nên, Đức-Phật biết rõ được chúng-sinh có duyên lành chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, hoặc không chứng đắc, nên Đức-Phật thuyết pháp tế độ phù hợp với duyên lành của chúng-sinh ấy.

Khi chúng-sinh ấy lắng nghe chánh-pháp của Đức- Phật dễ dàng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được phiền- não, tham-ái, trở thành bậc Thánh-nhân.

Ví như một vị thầy thuốc có tài đức, biết chẩn bệnh chính xác, biết rõ căn bệnh của bệnh nhân, liền bốc thuốc tốt nên bệnh nhân mau lành bệnh.

 

  1. Đức-Phật thuyết dạy chúng-sinh diệt tà-kiến như thế nào?

Đức-Phật biết rõ mỗi chúng-sinh có tà-kiến khác nhau (trong 62 loại tà-kiến), nên Đức-Phật thuyết dạy chúng- sinh ấy phát sinh chánh-kiến, nên diệt được tà-kiến theo chấp ngã, các loại tà-kiến khác cũng bị diệt cùng một lúc, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân một cách dễ dàng.

Đó là ba đặc tính đặc biệt của Tạng Kinh.

 

 

  1. Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭakapāḷi)

 

Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm những chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) cao siêu, vi diệu, là những pháp có thật-tánh rõ ràng như: thiện-pháp (kusaladhamma), bất-thiện-pháp (akusaladhamma), không phải thiện- pháp, không phải bất-thiện pháp (abyākatadhamma), …

Những pháp ấy được phân chia ra là ngũ-uẩn, 12 xứ, 18 tự tánh, ... tâm (citta), tâm-sở (cetasika), sắc-pháp (rūpa), Niết-bàn (Nibbàna), thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng-sinh, … chỉ là những thật-tánh-pháp mà thôi.

Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi được Đức-Phật thuyết tại cung trời Tam-thập-Tam-thiên vào mùa hạ thứ 7 của Đức- Phật, để tế độ Phật-mẫu mà kiếp hiện-tại là vị thiên-nam Santussita ở cõi trời Đâu-suất-đà-thiên. Vị thiên-nam Santussita hiện xuống cung trời Tam-thập-Tam-thiên lắng nghe Đức-Phật thuyết Tạng Vi-diệu-pháp này suốt

 

ba tháng hạ.(1) Vị thiên-nam Santussita trở thành bậc Thánh Nhập-lưu cùng với 800 tỷ chư-thiên, chư phạm- thiên cũng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn cao thấp tùy theo năng lực của pháp-hạnh ba-la-mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm- pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của mỗi vị.

Đức-Phật thuyết giảng Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi trên cung trời Tam-thập-Tam-thiên, mỗi ngày đến giờ đi khất thực, Đức-Phật-hóa tiếp tục thuyết giảng, còn Đức-Phật thật ngự đi khất thực nơi Bắc-cưu-lưu-châu, rồi ngự đến hồ nước Anotatta tại rừng núi Himavanta, Đức-Phật thọ thực. Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta mỗi ngày đến hầu phục vụ Đức-Phật. Sau khi thọ thực xong, Đức- Phật thuyết giảng lại Vi-diệu-pháp tóm lược ngày hôm ấy cho Ngài Đại-Trưởng-lão.

Đức-Phật ngự trở lại cung trời thay thế Đức-Phật-hóa tiếp tục thuyết giảng Tạng Vi-diệu-pháp.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta trở về dạy lại bằng cách khai triển đầy đủ cho nhóm 500 đệ-tử của Ngài.

Như vậy, suốt ba tháng hạ mùa mưa, Đức-Phật thuyết giảng Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi trên cung trời Tam-thập- Tam-thiên, thì tại cõi người, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta cũng giảng dạy lại cho nhóm 500 đệ-tử thông thuộc, thấu suốt Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi. Về sau Tạng Vi- diệu-pháp Pāḷi được lưu truyền rộng rãi đến các hàng thanh-văn đệ-tử cho đến ngày nay.

Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi gồm có 7 bộ

III.1- Bộ Dhammasaṅgaṇīpāḷi: Bộ Pháp-hội-tụ gồm

1 Thời gian 3 tháng hạ ở cõi người so với ở cõi trời Tam-thập-Tam-thiên là khoảng 3 phút 36 giây, bởi vì một ngày một đêm ở cõi trời Tam-thập- Tam-thiên bằng 100 năm ở cõi người.

 

tất cả các chân-nghĩa-pháp thành nhóm Mātikā pháp đầu đề, có tất cả 132 mātikā chia làm hai loại:

- Tika mātikā: Pháp đầu đề có ba chi-pháp gồm có 32 mātikā, Duka mātikā: Pháp đầu đề có hai chi-pháp gồm có 100 mātikā, …

III.2- Bộ Vibhaṅgapāḷi: Bộ Pháp-phân-tích gồm các pháp phân tích thành 18 loại, uẩn (khandha), xứ (āyatana), tự tánh (dhātu), v.v…

III.3- Bộ Dhātukathāpāḷi: Bộ Pháp-phân-loại gồm các pháp phân loại thành ngũ-uẩn (khandha), 12 xứ (āyatana), 18 tự-tánh (dhātu), tứ đế (sacca)…

III.4- Bộ Puggalapaññattipāḷi: Bộ Pháp-nhân-chế-

định phân biệt các hạng người khác nhau.

III.5- Bộ Kathāvatthupāḷi: Bộ Pháp-luận-đề đặt vấn

đề phá tan mọi tà thuyết, trở lại Chánh-pháp.

III.6- Bộ Yamakapāḷi: Bộ Pháp-song-đối gồm các câu hỏi, câu trả lời đi đôi với nhau từng cặp.

III.7- Bộ Paṭṭhānapāḷi: Bộ Pháp-duyên-hệ giải về 24 duyên (paccaya) có quan hệ với nhau.

Bộ Pháp-duyên-hệ này là bộ lớn và rộng nhất, sâu sắc và vi-diệu nhất trong Phật-giáo.

Tạng Vi-Diệu-Pháp Pāḷi có ba đặc tính đặc biệt

    1. Đức-Phật thuyết giảng về chân-nghĩa-pháp (Paramatthadesanā).

2 - Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh tùy theo căn duyên để diệt tà-kiến chấp-ngã (yathādhamma- sāsana).

3 - Đức-Phật thuyết giảng phân tích sắc-pháp, danh- pháp (nāmarūpaparicchedakathā).

 

  1. Đức-Phật thuyết giảng về chân-nghĩa-pháp như thế nào?

Đức-Phật chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán đầu tiên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Đức-Phật thông hiểu thấu suốt tất cả các chân-nghĩa- pháp (paramatthadhamma) đó là tâm (citta), tâm-sở (cetasika), sắc-pháp (rūpa) Niết-bàn (Nibbāna).

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác Ñeyyadhamma (1) đầy đủ năm pháp đặc biệt, nên Đức-Phật có khả năng chế định ra ngôn ngữ để thuyết giảng chân-nghĩa-pháp, thuyết dạy Tạng Vi-diệu-pháp này.

Ngoài Đức-Phật ra, không có một vị đạo-sư nào có khả năng thuyết giảng chân-nghĩa-pháp này, bởi vì họ không phải là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

  1. Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh tùy theo căn duyên để diệt tà-kiến chấp-ngã như thế nào?

Đức-Phật biết rõ tà-kiến theo chấp ngã của chúng- sinh khác nhau như:

* Số chúng-sinh có tà-kiến theo chấp danh-pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp sắc-pháp cho là ta (ngã).

Để tế độ nhóm chúng-sinh ấy, Đức-Phật thuyết pháp

ngũ-uẩn (pañcakkhandha) là pháp vô-ngã (anattā), bởi

1 Ñeyyadhamma có 5 pháp 1- Saṅkhāra: Các pháp-hành cấu tạo. 2- Vikāra: Các pháp biến đổi. 3- Lakkhaṇa: Các trạng-thái của các pháp. 4- Paññatti: Các chế-định-pháp. 5- Nibbāna: Niết-bàn.

 

vì trong ngũ-uẩn có 4 danh-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn thuộc về danh-pháp là pháp vô-ngã (anattā), còn một sắc-uẩn thuộc về sắc-pháp cũng là pháp vô-ngã.

  • Số chúng-sinh có tà-kiến theo chấp sắc-pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp danh-pháp cho là ta (ngã).

Để tế độ nhóm chúng-sinh này, Đức-Phật thuyết pháp 12 xứ (12 āyatana) là pháp vô-ngã (anattā), bởi vì trong 12 xứ, có 10 xứ: nhãn-xứ, nhĩ-xứ, tỷ-xứ, thiệt-xứ, thân- xứ, và sắc-xứ, thanh-xứ, hương-xứ, vị-xứ, xúc-xứ thuộc về sắc-pháp là pháp vô-ngã (anattā). Còn lại ý-xứ thuộc về danh-pháp và phần pháp-xứ thuộc về sắc-pháp, danh-pháp pháp vô-ngã.

  • Số chúng-sinh có tà-kiến theo chấp danh-pháp và sắc-pháp tương đương cho là ta (ngã).

Để tế độ nhóm chúng-sinh ấy, Đức-Phật thuyết pháp 18 tự-tánh (18 dhātu) là pháp vô-ngã (anattā), bởi vì trong 18 tự-tánh, có 10 tự-tánh: nhãn-tự-tánh, nhĩ-tự- tánh, tỷ-tự-tánh, thiệt-tự-tánh, thân-tự-tánh, và sắc-tự- tánh, thanh-tự-tánh, hương-tự-tánh, vị-tự-tánh, xúc-tự- tánh thuộc về sắc-pháp là pháp vô-ngã (anattā). Còn lại 7 tự-tánh khác: nhãn-thức-tự-tánh, nhĩ-thức-tự-tánh, tỷ- thức-tự-tánh, thiệt-thức-tự-tánh, thân-thức-tự-tánh, ý-tự- tánh, ý-thức-tự-tánh thuộc về danh-pháp là pháp vô-ngã (anattā). Riêng pháp-tự-tánh thuộc về danh-pháp và sắc-pháp là pháp vô-ngã, v.v...

Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh thấy rõ, biết rõ tất cả các pháp là pháp vô-ngã (anattā), không phải ta, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng-sinh, ... để diệt tà-kiến theo chấp ngã.

 

  1. Đức-Phật thuyết giảng phân tích sắc-pháp, danh- pháp như thế nào?

Đức-Phật thuyết giảng phân tích cho chúng-sinh thấy rõ, biết rõ sắc-pháp, danh-pháp thuộc về pháp hữu-vi; mỗi danh-pháp, mỗi sắc-pháp có thật-tánh-pháp, có trạng- thái riêng, có sự sinh, sự diệt, nên có 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, để diệt tâm tà-kiến thấy sai chấp lầm từ danh-pháp, từ sắc-pháp cho là tự ngã của ta, diệt tâm tham-ái trong sắc-pháp, danh-pháp cho là của ta, diệt tâm ngã-mạn chấp sắc-pháp, danh-pháp cho là ta hơn người, bằng người, kém thua người, ...

Đó là ba đặc tính đặc biệt của Tạng Vi-diệu-pháp.

Quả báu của sự học Tam-Tạng Pāḷi

  • Hành-giả theo học và hành nghiêm chỉnh đúng đắn theo Tạng Luật Pāḷi, giữ gìn giới đức trong sạch trọn vẹn.

Hành-giả có giới trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, nương nhờ giới, thực-hành pháp-hành thiền-định và thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân- lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tam- minh(1)do năng lực quả báu của pháp học Tạng Luật Pāḷi.

  • Hành-giả học thông-thuộc Tạng Kinh Pāḷi có giới trong sạch thanh-tịnh làm nền tảng, thực-hành pháp- hành thiền-định dẫn đến chứng đắc bát-thiền.(2)

Hành-giả dùng bậc thiền làm nền tảng, nương nhờ bậc thiền làm đối-tượng, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4

1 Tam minh: Tiền-kiếp-minh, Thiên-nhãn minh, Trầm-luân-tận-minh.

2 Bát thiền: 4 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

 

Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với lục thông(1) do năng lực quả báu của pháp-học Tạng Kinh Pāḷi.

  • Hành-giả học thông-thuộc Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi giới và định làm nền tảng, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ-tuệ phân-tích,(2) do năng lực quả báu của pháp-học Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi.

 

Ngũ-Bộ Pāḷi (Pañcanikāyapāḷi)

Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia theo bộ (nikāya), thì có 5 bộ gồm có 40 quyển căn cứ theo kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ 6 tại động Kaba Aye, Yangon xứ Myanmar.

Ngũ-Bộ Pāḷi (Pañcanikāyapāḷi )

  1. Trường-Bộ-Kinh Pāḷi (Dīghanikāyapāḷi).
  2. Trung-Bộ-Kinh Pāḷi (Majjhimanikāyapāḷi).
  3. Đồng-Loại-Bộ-Kinh Pāḷi (Saṃyuttanikāyapāḷi).
  4. Chi-Bộ-Kinh Pāḷi (Aṅguttaranikāyapāḷi).
  5. Tiểu-Bộ-Kinh Pāḷi (Khuddakanikāyapāḷi).
  1. Trường-bộ-kinh Pāḷi là gì?

Trường-bộ-kinh Pāḷi gồm có 34 bài kinh dài chia làm 3 quyển:

  1. Sīlakkhandhavaggapāḷi gồm có 13 bài kinh dài.

1 Lục thông: Đa-dạng-thông, thiên-nhãn-thông, thiên-nhĩ-thông, tiền-kiếp- thông, tha-tâm-thông, trầm-luân-tận-thông.

2 Tứ-tuệ-phân-tích: Nghĩa phân-tích, Pháp phân-tích, Ngôn-ngữ phân tích, Tuệ-ứng-đối phân-tích.

 

  1. Mahāvaggapāḷi gồm có 10 bài kinh dài.
  2. Pāthikavaggapāḷi gồm có 11 bài kinh dài.
  1. Trung-bộ-kinh Pāḷi là gì?

Trung-bộ-kinh Pāḷi gồm có 152 bài kinh loại vừa chia làm 3 quyển:

  1. Mūlapaṇṇāsapāḷi: có 5 chương, mỗi chương có 10 bài kinh trung bình, gồm có 50 bài kinh loại vừa.
  2. Majjhimapaṇṇāsapāḷi: có 5 chương, mỗi chương có 10 bài kinh trung bình, gồm có 50 bài kinh loại vừa.
  3. Uparipaṇṇāsapāḷi: có 5 chương, chương 1, 2, 3 và 5: mỗi chương có 10 bài kinh loại vừa, còn chương 4 có 12 bài kinh trung bình, gồm có 52 bài kinh loại vừa.
  1. Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi là gì?

Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi có 7.762 bài kinh dài, ngắn khác nhau, đặc biệt bộ này những bài kinh có điểm đồng loại nhau, được gom chung lại với nhau thành một chương riêng biệt.

Ví dụ: Những bài kinh liên quan đến chư-thiên gom chung lại với nhau thành nhóm gọi là devatasaṃyutta. Những bài kinh liên quan đến Đức-vua xứ Kosala gom chung lại thành chương gọi là Kosalasaṃyutta, v.v...

Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi có 5 bộ chia làm 3 quyển:

  1. Sagāthavaggasaṃyuttapāḷi gồm có 11 chương

Nidānavaggasaṃyuttapāḷi gồm có 10 chương.

  1. - Khandhavaggasaṃyuttapāḷi gồm có 13 chương

Sāḷāyatanasaṃyuttapāḷi gồm có 10 chương.

  1. Mahāvaggasaṃyuttapāḷi gồm có 12 chương.

Như vậy, tổng cộng tất cả 56 chương gồm có 7.762 bài kinh.

 

  1. Chi-bộ-kinh Pāḷi là gì?

Chi-bộ-kinh Pāḷi gồm có những bài kinh có chi-pháp. Những bài kinh có một chi-pháp, những bài kinh có hai chi-pháp, v.v... cho đến những bài kinh có 11 chi-pháp.

    • Những bài kinh có một chi-pháp gọi là: Ekakanipāta.
    • Những bài kinh có các chi-pháp khác: Dukanipāta, Tikanipāta, Catukkanipāta, Pañcakanipāta, … cho đến những bài kinh có 11 chi-pháp gọi là: Ekādasakanipāta.

Chi-bộ-kinh Pāḷi này có 11 nipāta, gom thành 3 quyển, gồm tất cả có 9.557 bài kinh ngắn dài khác nhau.

  1. Ekaka-duka-tika-catukka nipātapāḷi.
  2. Pañcaka-chakka-sattaka nipātapāḷi.
  3. Aṭṭhaka-navaka-dasaka-ekādasaka nipātapāḷi.
  1. Tiểu-bộ-kinh Pāḷi là gì?

Tiểu-bộ-kinh Pāḷi này gồm có tất cả các bài kinh nào, quyển nào không có trong 4 bộ trên đều được gom vào Tiểu-bộ-kinh Pāḷi này.

Tiểu-bộ-kinh Pāḷi gồm có Tạng Luật Pāḷi, Tạng Vi- diệu-pháp Pāḷi và một phần Tạng Kinh Pāḷi còn lại gồm có 28 quyển:

    • Tiểu-bộ-kinh Pāḷi phần Tạng Luật Pāḷi có 5 bộ, có 5 quyển:
  • Pārājikapāḷi.
  • Pācittiyapāḷi.
  • Mahāvaggapāḷi.
  • Cūḷavaggapāḷi.
  • Parivārapāḷi.
    • Tiểu-bộ-kinh Pāḷi phần Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi có 7 bộ, gồm có 12 quyển:
  • Dhammasaṅgaṇīpāḷi.

 

  • Vibhaṅgapāḷi.
  • Dhātukathā
  • Puggalapaññattipāḷi.
  • Kathāvatthupāḷi.
  • Yamakapāḷi (3 quyển).
  • Paṭṭhānapāḷi (5 quyển).
    • Tiểu-bộ-kinh Pāḷi phần Tạng Kinh gồm có 19 bộ, gồm có 11 quyển:
  • Khuddakapāṭhapāḷi, Dhammapadagāthāpāḷi, Udāna- pāḷi, Itivuttakapāḷi, Suttanipātapāḷi (gồm có 5 bộ).
  • Vimānavatthupāḷi, Petavatthupāḷi, Theragāthāpāḷi, Therīgāthāpāḷi (gồm có 4 bộ).
  • Apādānapāḷi (phần 1).
  • Apādānapāḷi (2), Buddhavaṃsapāḷi, Cariyapiṭakapāḷi.
  • Mahāniddesapāḷi.
  • Cūḷaniddesapāḷi.
  • Jātakapāḷi (2 quyển).
  • Paṭisambhidāmaggapāḷi.
  • Nettipāḷi, Peṭakopādesapāḷi.
  • Milindapañhāpāḷi.

Ngũ-bộ gồm có 40 quyển.

Cửu-Phần (Navaṅga)

Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia theo phần (aṅga) thì có 9 phần như sau:

  1. Suttapāḷi (kinh): gồm những bài kinh văn xuôi lẫn kệ, như kinh Maṅgalasuttapāḷi, Ratanasuttapāḷi Tạng luật Pāḷi cũng được gom chung vào phần Suttapāḷi này.
  2. Geyyapāḷi (kệ): gồm những bài kinh hoàn toàn bằng những câu kệ (không có đoạn văn xuôi) như những bài kệ trong phần Sagāthavaggasaṃyuttapāḷi, ...

 

  1. Veyyākaraṇapāḷi (kinh): gồm những bài kinh hoàn toàn văn xuôi (không có kệ xen vào) như Dhamma- cakkappavattanasuttapāḷi, Mahāsatipaṭṭhānasuttapāḷi,... Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi được gom chung vào trong phần Veyyākaraṇapāḷi này.
  2. Gāthāpāḷi (kệ): gồm những bài kệ không có tên bài kinh như Dhammapadagāthāpāḷi, Theragāthāpāḷi, Therīgāthāpāḷi, ...
  3. Udānapāḷi (bài tự thuyết): gồm có 82 bài tự thuyết của Đức-Phật do tâm hoan hỷ phát sinh.
  4. Itivuttakapāḷi: gồm có 110 bài kinh, thường bắt đầu có câu: Vuttam hetaṃ Bhagavatā, ... Điều này đúng như lời Đức-Thế-Tôn dạy ...
  5. Jātakapāḷi (tiền-kiếp): những câu kệ liên quan đến 547 tích tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama, bắt đầu tích Apannakajātakapāḷi và cuối cùng Vessantarajātakapāḷi.
  6. Abhūtadhammapāḷi: gồm những bài kinh có pháp phi thường chưa từng có từ trước (acchariyabhūta- dhammapāḷi), thường khởi đầu bằng câu:

“Này chư tỳ-khưu, những pháp phi thường chưa từng có từ trước ...” như bài kinh Pahārādasutta ...

  1. Vedalla: gồm những bài kinh vấn đáp bằng trí-tuệ hợp với hỷ như Cūḷavedallasuttapāḷi, Mahāvedallasutta- pāḷi, Sakkapañhāsuttapāḷi, ...

 

84.000 Pháp-Môn (Dhammakkhandhapāḷi )

Toàn giáo-pháp của Đức-Phật, nếu phân chia thành pháp-môn Pāḷi (Dhammakkhandhapāḷi) thì có 84.000 pháp-môn Pāḷi, trong bộ Tam-tạng Pāḷi như sau:

  1. Tạng Luật Pāḷi gồm có 21.000 Pháp-môn.

 

  1. Tạng Kinh Pāḷi           gồm có 21.000 Pháp-môn.
  2. Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 42.000 Pháp-môn.

Phương pháp đếm pháp-môn trong Tam-Tạng Pāḷi

    • Trong Tạng Luật Pāḷi: Mỗi chuyện làm nguyên nhân đầu tiên để Đức-Phật chế định điều-giới, ban hành giới đến chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni là một pháp-môn.

Mỗi nguồn gốc phát sinh, mỗi cách phạm giới, mỗi cách không phạm giới, v.v... mỗi điều là một pháp-môn.

Như vậy, trong Tạng Luật gồm có 21.000 pháp-môn.

    • Trong Tạng Kinh Pāḷi: Mỗi bài kinh có ý nghĩa pháp liên tục là một pháp-môn.

Trong bài kinh có nhiều đoạn, mỗi đoạn có ý nghĩa pháp riêng rẽ là một pháp-môn, mỗi câu hỏi, mỗi câu trả lời là một pháp-môn, v.v…

Như vậy, trong Tạng Kinh có 21.000 pháp-môn.

    • Trong Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi: Pháp phân chia mỗi tika, mỗi duka một pháp-môn, phân loại tâm và tâm- sở đồng sinh là một pháp-môn, v.v…

Như vậy, trong Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 42.000 pháp-môn.

Trong 84.000 pháp-môn Pāḷi này, Đức-Phật trực tiếp thuyết dạy có 82.000 pháp-môn Pāḷi, còn 2.000 pháp- môn Pāḷi do chư bậc Thánh A-ra-hán thuyết dạy.

Như Ngài Trưởng-lão Ānanda, bậc thủ kho tàng pháp-bảo Pāḷi của Đức-Phật Gotama dạy trong bộ Theragāthāpāḷi, Ānandattheragāthā có câu kệ rằng:

“Dvāsiti Buddhato gaṇhiṃ, dve sahassāni bhikkhuto. Caturāsiti sahassāni, ye me dhammā pavattino.”(1)

1 Bộ Theragāthāpāḷi, Ānandattheragathāpāḷi.

 

“Tôi là Ā-nan-da,

Đã học từ kim ngôn Đức-Phật, Được tám mươi hai ngàn pháp-môn, Học từ chư Thánh A-ra-hán,

Gom nhặt được hai ngàn pháp-môn, Tôi là thủ kho tàng pháp-bảo

Trọn tám mươi bốn ngàn pháp-môn.”

Toàn giáo-pháp của Đức-Phật Gotama gồm có 84.000 pháp-môn Pāḷi vẫn còn lưu truyền trong các nước có truyền thống Phật-giáo Theravāda (Phật-giáo nguyên-thuỷ) như nước Tích Lan (Srilankā), nước Miến Điện (Myanmar), nước Thái-Lan, nước Campuchia, nước Lào, v.v…

Ngày nay, Phật-giáo Theravāda (Phật-giáo nguyên- thuỷ) được truyền bá đến nhiều nước trên thế giới, trong số các nước ấy có Phật-giáo nguyên-thuỷ Theravāda tại Việt-Nam.

 

Duy trì pháp-học Phật-giáo

Pháp-học Phật-giáo (Pariyattisāsana) là toàn lời giáo huấn của Đức-Phật được ghi trong Tam-tạng Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi là nền-tảng căn bản của Phật-giáo.

Khi pháp-học Phật-giáo còn tồn tại, thì pháp-hành Phật-giáo mới mong được phát triển. Khi pháp-hành Phật-giáo được phát triển tốt, thì pháp-thành Phật-giáo mới có thể phát sinh.

Nếu pháp-học Phật-giáo bị tiêu hoại, thì pháp-hành Phật-giáo và pháp-thành Phật-giáo chắc chắn sẽ không còn nữa.

Vì vậy, chư Đại-Trưởng-lão, chư Trưởng-lão là những Bậc thông-thuộc Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, tổ chức kết tập toàn giáo-pháp của Đức-Phật, không để rời rạc,

 

không cho thất lạc, rồi giữ gìn duy trì toàn bộ pháp-học Phật-giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho tất cả chúng-sinh nhất là chư-thiên và nhân-loại.

Kết Tập Tam-Tạng Pāḷi

Để giữ gìn duy trì pháp-học Phật-giáo cho được đầy đủ, nguyên vẹn, không để rời rạc, không cho thất lạc, cho nên, chư Đại-Trưởng-lão, chư Trưởng-lão đã kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng tiếng Pāḷi trải qua các thời-kỳ như sau:

Kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ nhất

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa đứng ra tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, thời gian sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn 3 tháng 4 ngày, trong mùa an cư nhập hạ tại động Sattapaṇṇi gần kinh-thành Rājagaha xứ Māgadha.

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất này gồm có 500 vị Thánh A-ra-hán có đầy đủ tứ tuệ- phân-tích, lục thông, ... đặc biệt thông-thuộc Tam-tạng Pāḷi Chú-giải Pāḷi. Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì đại hội, đọc tuyên ngôn đoạn cuối kết luận rằng:

“……Saṃgho appaññattaṃ nappaññapeti, paññattaṃ na samucchindati, yathāpaññattesu sikkhāpadesu samādāya vattati, khamati saṃghassa, tasmā tuṇhī evametaṃ dharayāmi.”(1)

“……Chư tỳ-khưu-Tăng! Không được phép chế-định thêm điều-giới nào mà Đức-Phật không chế-định, không được phép xóa bỏ điều-giới nào mà Đức-Phật đã chế-

1 Vinayapiṭaka, Cūḷavaggapāḷi, phần Saṅgītinidāna.

 

định. Chư tỳ-khưu Tăng cần phải giữ gìn, duy trì, thực- hành nghiêm chỉnh đúng theo các điều-giới mà Đức- Phật đã chế định. Tất cả chư tỳ-khưu-Tăng đều hài lòng nên làm thinh. Tôi ghi nhận sự hài lòng này của quý vị bằng trạng-thái làm thinh như vậy.”

Tất cả chư tỳ-khưu-Tăng gồm có 500 bậc Thánh A- ra-hán đều đồng tâm nhất trí tuân theo lời tuyên ngôn của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa chủ trì chất vấn Ngài Trưởng-lão Upāli giải đáp về Tạng Luật, và chất vấn Ngài Trưởng-lão Ānanda giải đáp về Tạng Kinh Pāḷi và Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi.

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được thực hiện suốt 7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất này bằng cách truyền khẩu (mukhapāṭha) chưa ghi chép bằng chữ viết.

Đức-vua Ajātasattu đất nước Māgadha là người hộ độ chư Thánh A-ra-hán trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất này.

Phân chia phận sự duy trì Tam-Tạng Pāḷi, Ngũ-Bộ

Sau khi kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi xong, chư Thánh A-ra-hán phân công mỗi vị có bổn phận giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi như sau:

  • Về Tạng Luật Pāḷi (Vinayapiṭakapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Trưởng-lão Upāli. Ngài Trưởng-lão có bổn phận dạy Tạng Luật Pāḷi và Chú-giải tạng Luật Pāḷi đến nhóm đệ-tử để giữ gìn duy trì Tạng Luật Pāḷi và Chú-giải tạng Luật Pāḷi này.

 

Khi Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, Đức-Phật đã từng tuyên dương Ngài Trưởng-lão Upāli là bậc Thánh thanh-văn đệ-tử xuất sắc nhất về trì luật trong các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.

  • Về Trường-bộ-kinh Pāḷi (Dīghanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Trưởng-lão Ānanda. Ngài Trưởng- lão có bổn phận dạy Trường-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến nhóm đệ-tử để giữ gìn duy trì Trường-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải trường-bộ-kinh Pāḷi này.
  • Về Trung-bộ-kinh Pāḷi (Majjhimanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của nhóm đệ tử của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta. Các vị Đại-đức này có bổn phận dạy Trung- bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Trung-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.
  • Về Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi (Saṃyuttanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa. Ngài Đại-Trưởng-lão có bổn phận dạy Đồng-loại-bộ- kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.
  • Về Chi-bộ-kinh Pāḷi (Aṅguttaranikāya) thuộc về phận sự của Ngài Trưởng-lão Anuruddha. Ngài Trưởng- lão có bổn phận dạy Chi-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Chi-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.
  • Về Tiểu-bộ-kinh Pāḷi (Khuddakanikāyapāḷi) thuộc về phận sự chung của 500 chư Thánh A-ra-hán. Quý Ngài có bổn phận dạy Tiểu-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đến các nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Tiểu-bộ-kinh Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.

 

  • Về Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭaka- pāḷi) gồm có 7 bộ lớn, thuộc phận sự chung của 500 chư Thánh A-ra-hán. Quý Ngài có bổn phận dạy Tạng Vi- diệu-pháp Pāḷi và Chú-giải Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi đến các nhóm đệ-tử, để giữ gìn duy trì Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi và Chú-giải Pāḷi này.

Toàn giáo-pháp của Đức-Phật Gotama được kết tập lại đầy đủ trọn vẹn. Ngài Đại-Trưởng-lão và chư Vị Trưởng-lão có bổn phận dạy cho các hàng đệ tử học thuộc lòng, ghi nhớ đầy đủ trọn vẹn Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, gìn giữ duy trì pháp-học Phật-giáo cho được trường tồn lâu dài trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho tất cả chúng-sinh nhất là chư-thiên và nhân-loại

 

Kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ nhì

Giáo-pháp của Đức-Phật được giữ gìn duy trì nguyên vẹn đúng theo pháp-học Phật-giáo trải qua được 100 năm, thì có nhóm tỳ-khưu Vajjīputta xứ Vesālī đặt ra 10 điều không hợp theo pháp-luật của Đức-Phật là:

  1. Kappati siṅgīloṇakappo: Tỳ-khưu cất giữ muối trong ống bằng sừng với tác-ý rằng:

“Muối dùng làm đồ gia vị món ăn ngày hôm sau, cũng được.”

  1. Kappati dvaṅgulakappo: Tỳ-khưu thọ thực quá ngọ, mặt trời ngả qua hai lóng tay, cũng được.
  2. Kappati gāmantarakappo: Tỳ-khưu đã ngăn cản vật thực rồi tự nghĩ rằng:

“Bây giờ ta đi vào xóm để dùng vật thực nữa, mà không cần làm đúng theo luật, cũng được.”

 

  1. Kappati āvasakappa: Trong cùng mahāsīmā nhiều nhóm riêng rẽ cùng hành uposathakamma, cũng được.
  2. Kappati anumatikappo: Chư Tăng trong nhóm

đang hành-Tăng-sự nghĩ rằng:

“Sẽ cho phép tỳ-khưu đến sau, cũng được.”

  1. Kappati āciṇṇakapo: Tỳ-khưu hành theo pháp mà thầy tổ của mình thường thực-hành, cũng được.
  2. Kappati amathitakappo: Tỳ-khưu đã ngăn cản vật thực rồi, dùng sữa tươi đã biến chất, chưa biến thành sữa chua, cũng được.
  3. Kappati jaḷogiṃ pātuṃ: Tỳ-khưu uống rượu nhẹ chưa thành chất say, cũng được.
  4. Kappati adasakaṃ nisīdanaṃ: Tỳ-khưu dùng tọa cụ không có đường lai, cũng được.
  5. Kappati jātarūparajataṃ: Tỳ-khưu thọ nhận vàng bạc, cũng được.

Đó là 10 điều do nhóm tỳ-khưu Vajjīputta đề xướng không hợp theo pháp-luật của Đức-Phật.

Ngài Đại-Trưởng-lão Yassa Kākaṇḍakaputta nghe tin nhóm tỳ-khưu Vajjīputta xứ Vesālī đặt ra 10 điều không hợp theo pháp-luật của Đức-Phật như vậy. Ngài Đại- Trưởng-lão liền đến tận nơi hội họp chư tỳ-khưu-Tăng giải thích, để cho họ hiểu rõ, đó là 10 điều không hợp theo pháp-luật của Đức-Phật.

Đó là nguyên nhân khiến Ngài Đại-Trưởng-lão Yassa Kākaṇḍakaputta triệu tập kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ nhì tại ngôi chùa Vālikārāma, gần thành Vesālī, khoảng thời gian 100 năm sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn.

 

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhì này gồm có 700 bậc Thánh A-ra-hán có đầy đủ tứ tuệ- phân-tích, lục thông, thông thuộc Tam-tạng Pāḷi và Chú- giải Pāḷi, do Ngài Đại-Trưởng-lão Yassa Kākaṇḍakaputta chủ trì. Ngài Đại-Trưởng-lão Revata chất vấn, Ngài Đại- Trưởng-lão Sabbakāmi giải đáp, …

Công cuộc kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được thực hiện trong khoảng thời gian suốt 8 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi hoàn toàn y theo bổn chánh của kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất.

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhì này cũng bằng khẩu truyền (mukhapāṭha), chưa ghi chép bằng chữ viết.

Đức Vua Kālāsoka xứ Vesālī hộ độ kỳ kết tập Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhì này.

Giáo-pháp của Đức-Phật một lần nữa được giữ gìn duy trì đúng theo pháp-học Phật-giáo. Tất cả chư tỳ- khưu thực-hành nghiêm chỉnh giới-luật, làm cho những người chưa có đức-tin nơi Tam-Bảo thì phát sinh đức- tin, những người nào đã có đức-tin trong sạch nơi Tam- Bảo rồi thì đức-tin càng tăng trưởng.

Kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ ba

Sau kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhì, Phật-giáo càng ngày càng phát triển, chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni càng đông, cận-sự-nam, cận-sự-nữ có đức-tin trong sạch nơi Tam-Bảo càng nhiều. Các thí chủ làm phước-thiện bố-thí cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư tỳ-khưu rất đầy đủ, nhất là vào thời-kỳ Đức-vua Dhammāsoka (Asoka).

 

Đức-vua Asoka là Đấng-minh-quân, trị vì toàn cõi Nam-thiện-bộ-châu, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, làm phước thiện bố-thí, cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư tỳ- khưu-Tăng rất đầy đủ, sung túc.

Trái lại, các nhóm tu-sĩ ngoại đạo thì đời sống thiếu thốn khổ cực. Vì vậy, một số tu-sĩ ngoại đạo xâm nhập vào sống chung với chư tỳ-khưu, về mặt hình thức thì giống tỳ-khưu, nhưng về mặt nội tâm vẫn giữ nguyên tà- kiến cố-hữu của mình không hề thay đổi.

Cho nên, chư tỳ-khưu thật chánh-kiến và tỳ-khưu giả tà-kiến sống lẫn lộn với nhau không thể hành-Tăng-sự chung với nhau được.

Tình trạng này kéo dài suốt 7 năm, chư tỳ-khưu trình sự việc này lên Đức-vua Dhammāsoka (Asoka) và nhờ uy quyền của Đức-vua để thanh lọc tỳ-khưu giả ngoại đạo tà-kiến ra khỏi nhóm chư tỳ-khưu thật chánh-kiến.

Đức-vua Asoka là Đấng-minh-quân, cũng là một cận- sự-nam có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, hộ trì phụng sự Tam-bảo, Đức-vua học giáo-pháp của Đức-Phật với Ngài Đại-Trưởng-lão Moggaliputtatissa, nên hiểu rõ chánh-kiến trong Phật-giáo và các tà-kiến của ngoại đạo.

Đức-vua Asoka thỉnh chư tỳ-khưu đến xét hỏi, qua cuộc xét hỏi này, Đức-vua đã loại được 60.000 tỳ-khưu giả có tà-kiến ra khỏi chư tỳ-khưu thật có chánh-kiến.

Đức-vua ban cho mỗi người một bộ đồ trắng, bắt buộc hoàn tục, trở thành người cư-sĩ, còn lại tất cả tỳ-khưu thật có chánh-kiến trong Phật-giáo đoàn kết cùng nhau hành-Tăng-sự trở lại.

Nhân dịp này, Ngài Đại-Trưởng-lão Moggaliputtatissa

đứng ra triệu tập kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ ba.

 

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba này được tổ chức tại chùa Asokārāma, xứ Pāṭaliputta, khoảng thời gian 235 năm, sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn.

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba này gồm có 1.000 bậc Thánh A-ra-hán có tứ tuệ-phân- tích, lục thông, thông thuộc Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Moggaliputtatissa làm chủ trì, công cuộc kết tập được thực hiện trong khoảng thời gian suốt 9 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi hoàn toàn giống như bản chính của hai kỳ kết tập trước.

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba này cũng bằng khẩu truyền (Mukhapātha), chưa ghi chép bằng chữ viết.

Đức-vua Asoka xứ Pāṭaliputta hộ độ kỳ kết tập Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ ba này.

 

Kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ

Đức-vua Asoka là Đấng-minh-quân, cũng là một cận- sự-nam có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, hộ trì, phụng sự Tam-bảo, không những hộ trì Phật-giáo được phát triển trong nước, mà còn gửi các phái đoàn chư tỳ-khưu- Tăng sang các nước láng giềng khác, để truyền bá Phật- giáo.

Vào năm Phật-lịch 236 sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, Đức-vua Asoka gởi phái đoàn 5 vị tỳ-khưu- Tăng do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahinda(1) trưởng đoàn

1 Ngài Đại-đức Mahinda là bậc Thánh A-ra-hán, vốn là Thái-tử của đức- vua Asoka.

 

cùng với Ngài Trưởng-lão Iṭṭiya, Ngài Trưởng-lão Uttiya, Ngài Trưởng-lão Sambala, Ngài Trưởng-lão Bhaddasāla sang truyền bá Phật-giáo ở đảo quốc Srilankā.

Vào thời ấy, Đức-vua Devānampiyatissa trị vì đảo quốc Srilankā, là bạn thân của Đức-vua Asoka. Đức-vua Devānampiyatissa và các quan trong triều cùng với toàn thể dân chúng đón rước, cung thỉnh phái đoàn chư Trưởng-lão-Tăng rất trọng thể. Ngài Đại-Trưởng-lão Mahinda thuyết-pháp tế độ Đức-vua cùng với các quan, dân chúng trên đảo quốc phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, có số kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo trở thành cận- sự-nam, cận-sự-nữ.

Có số cận-sự-nam (upāsaka) xin xuất gia trở thành tỳ- khưu trong Phật-giáo.

Còn có số cận-sự-nữ (upāsikā) có ý nguyện muốn xuất gia trở thành tỳ-khưu-ni trong Phật-giáo, như bà Anuḷādevī Hoàng-hậu của Đức-vua Devānampiyatissa cùng với 500 cận-sự-nữ (upāsikā) trong hoàng tộc, và số đông cận-sự-nữ dân chúng trong đảo quốc.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahinda truyền dạy gửi đoàn sứ giả đến tâu Đức-vua Asoka, kính xin Đức-vua gửi phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-ni sang đảo quốc Srilankā.

Đức-vua Asoka gửi phái đoàn chư tỳ-khưu-ni-Tăng do Đại-đức tỳ-khưu-ni Saṃghamittāttherī(1) làm trưởng đoàn sang đảo quốc Srilankā, để hành lễ thọ tỳ-khưu-ni cho Hoàng-hậu Anuḷādevī và 500 cận-sự-nữ trong hoàng tộc và số đông cận-sự-nữ dân chúng trong đảo quốc.

1 Ngài Đại-đức tỳ-khưu-ni Samghamittā là bậc Thánh A-ra-hán, vốn là công-chúa của đức-vua Asoka

 

Đại-đức tỳ-khưu-ni Saṃghamittāttherī có kính thỉnh một cây Đại-Bồ-đề sang trồng trên đảo quốc Srilankā.

Cây Đại-Bồ-đề được thỉnh đến trồng tại tỉnh Anurādhapura đảo-quốc Srilankā. Cây Đại-Bồ-đề này được duy trì tồn tại cho đến nay vẫn còn tươi tốt. Nhà- nước Srilankā chăm sóc cây Đại-Bồ-đề rất chu đáo.

Phật-giáo được phát triển rất thịnh hành trên đảo quốc Srilankā, chư tỳ-khưu-Tăng và chư tỳ-khưu-ni-Tăng tăng trưởng càng ngày càng đông.

Một thời đảo quốc Srilankā gặp phải cuộc phiến loạn, dân chúng gặp cảnh thiếu thốn, nên đời sống của chư tỳ- khưu cũng chịu ảnh hưởng. Số Đại-đức tỳ-khưu sức khỏe yếu kém, nên phận sự ôn lại Tam-tạng Pāḷi và Chú- giải Pāḷi thuộc lòng rất vất vả.

Khi cuộc phiến loạn đã được dẹp xong, chư Đại- Trưởng-lão suy xét về sau này trí nhớ và trí-tuệ con người càng ngày càng kém dần, cho nên, chư Đại-đức tỳ-khưu học thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi cho được đầy đủ trọn vẹn không phải là việc dễ dàng.

Một hôm, Đức-vua Vaṭṭagāmanī ngự đến ngôi chùa Mahāvihāra làm phước-thiện bố-thí, cúng dường vật dụng đến chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.

Nhân dịp ấy, chư Đại-Trưởng-lão thưa với Đức-vua Vaṭṭagāmanī rằng:

  • Thưa Đại-vương, từ xưa đến nay, chư Đại-đức tỳ- khưu có phận sự học thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và Chú- giải Pāḷi, để giữ gìn duy trì giáo-pháp của Đức-Phật.

Trong thời vị-lai, đàn hậu sinh là những Đại-đức tỳ- khưu, khó mà học thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi một cách đầy đủ trọn vẹn được.

 

Như vậy, giáo-pháp của Đức-Thế-Tôn sẽ bị mai một theo thời gian.

  • Thưa Đại-vương, muốn giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được đầy đủ và trọn vẹn.

Cho nên, chư Đại-Trưởng-lão có ý định tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng chữ viết ghi chép trên lá buông, để lưu lại cho đời sau.

Nghe chư Đại-Trưởng-lão thưa như vậy, Đức-vua Vaṭṭagāmanī phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ với lời của chư Đại-Trưởng-lão.

* Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ tư này được tổ chức tại động Ālokalena vùng Matulajanapada nước Srilankā, khoảng thời gian 450 năm, sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn.

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư này gồm 1.000 bậc Thánh A-ra-hán có tứ tuệ-phân-tích, do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahādhammarakkhita làm chủ trì, công cuộc kết tập ghi chép trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng chữ viết trên lá buông được thực hiện suốt một năm mới hoàn tất.

Sau đó, chư bậc Thánh A-ra-hán kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng cách khẩu truyền một lần nữa, hoàn toàn y theo bản chính của ba kỳ kết tập Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi trước.

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư này là lần đầu tiên được ghi chép bằng chữ viết trên lá buông đầy đủ trọn vẹn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi gọi là: Potthakaropanasaṅgīti”.

Đức Vua Vaṭṭagāmanī Abhaya nước Srilankā hộ độ kỳ kết tập Tam-Tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư này.

 

Kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ năm

Dưới thời Đức-vua Asoka, Đức-vua có gửi phái đoàn chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng do Ngài Đại-Trưởng-lão Soṇa và Ngài Đại-Trưởng-lão Uttara đi đến vùng Suvaṇṇabhūmi gồm các nước: Indonesia, Myanmar, Thái-Lan, Campuchia, Lào, … để truyền bá Phật-giáo. Phật-giáo ở các nước trong vùng này trải qua bao cuộc thăng trầm, tùy theo vận mệnh của mỗi nước.

Đất nước Myanmar vào thời đại Đức-vua Mindon đóng đô tại kinh-thành Mandalay, Đức-vua là người có đức- tin trong sạch nơi Tam-bảo, tận tâm hộ trì Tam-Bảo, suy nghĩ rằng:

“Phật-giáo thường liên quan đến sự tồn vong của đất nước, mỗi khi đất nước bị xâm lăng, kẻ thù thường đốt kinh sách Phật-giáo.”

Đức-vua Mindon muốn bảo toàn giáo-pháp của Đức- Phật, nên Đức-vua thỉnh chư Đại-Trưởng-lão tổ chức cuộc kết tập Tam-tạng Pāḷi khắc chữ trên những tấm bia đá, để giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi, Pháp-bảo cho được bền vững lâu dài.

Nghe Đức-vua thỉnh như vậy, chư Đại-Trưởng-lão vô cùng hoan hỷ chấp thuận theo lời thỉnh cầu của Đức-vua. Chư Đại-Trưởng-lão tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ năm tại kinh-thành Mandalay xứ Myanmar, Phật-lịch năm 2404.

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ năm này gồm 2.400 Ngài Trưởng-lão toàn là những Bậc uyên bác Tam-tạng Pāḷi Chú-giải Pāḷi, do Ngài Đại-Trưởng-lão Bhaddanta Jāgara làm chủ trì, ngoài ra còn có những Ngài Trưởng- lão rất xuất sắc như Ngài Bhaddanta Narindabhidhaja, v.v…

 

Công trình khắc bộ Tam-tạng Pāḷi bằng chữ trên tấm bia đá bắt đầu khởi công vào năm Phật-lịch 2404 cho đến năm Phật-lịch 2415, trải qua suốt 11 năm ròng rã, mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi trên 729 tấm bia đá:

  • Tạng Luật Pāḷi gồm có 111 tấm.
  • Tạng Kinh Pāḷi gồm có 410 tấm.
  • Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 208 tấm.

Sau khi khắc trọn bộ Tam-tạng Pāḷi bằng chữ trên những tấm bia đá xong, chư Đại-Trưởng-lão tổ chức cuộc kết tập Tam-tạng Pāḷi bằng khẩu vấn và đáp suốt 6 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi y theo bản chính của 4 kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần trước, gọi là: Selakkharāropanasaṅgīti”.

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ năm này do Đức- vua Mindon nước Myanmar hộ độ.

Lần đầu tiên trọn bộ Tam-tạng Pāḷi được ghi khắc trên bia đá, những tấm bia đá này hiện nay vẫn còn nguyên vẹn ở kinh-thành cổ Mandalay, đất nước Myanmar.

Các nhà in kinh sách Phật-giáo đều y cứ vào những tấm bia đá này làm nền tảng căn bản.

Về sau Vị Đạo-sĩ Khanti đứng ra tổ chức khắc trọn bộ Chú-giải Pāḷi trên những tấm bia đá. Hiện nay những tấm bia đá khắc trọn bộ Chú-giải Pāḷi vẫn còn nguyên vẹn tại kinh-thành cổ Mandalay.

 

Kết tập Tam-Tạng Pāḷi lần thứ sáu

Phật-giáo đã trải qua thời gian khá lâu, Tam-tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) và Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi), Phụ- chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi), … đã được in ra thành sách. Công việc sao đi chép lại, in đi in lại nhiều lần, khó

 

tránh khỏi sự sai sót. Vì vậy, các bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, … của mỗi nước Phật-giáo có chỗ sai chữ dẫn đến sai nghĩa, làm cho pháp-học Phật-giáo không hoàn toàn giống y nguyên bản chính.

Chính-phủ Myanmar thành lập hội Phật-giáo có tên “Buddhasāsanasamiti” vào năm Phật-lịch 2497 để lo tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ sáu, tại động nhân tạo Lokasāma (Kaba-Aye), thủ-đô Yangon, Myanmar.

Chính phủ Myanmar thỉnh tất cả mọi bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi) hiện có trên các nước Phật-giáo, để làm tài liệu đối chiếu từng chữ, từng câu của mỗi bản.

Kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ sáu này gồm 2.500 Ngài Trưởng-lão thông hiểu Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi … rành rẽ về ngữ pháp Pāḷi, chia thành nhiều ban đối chiếu sửa lại cho đúng.

Công việc được thực hiện bắt đầu từ ngày rằm tháng tư Phật-lịch năm 2498 cho đến ngày rằm tháng tư Phật- lịch năm 2500, ròng rã suốt 2 năm mới hoàn thành xong bộ Tam-tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) và Chú-giải Pāḷi (Aṭṭha- kathāpāḷi), Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi), …

Sau đó, chính-phủ Myanmar thỉnh chư Ngài Đại- Trưởng-lão, chư Trưởng-lão kết tập Tam-tạng Pāḷi bằng khẩu chất vấn và giải đáp, do Ngài Đại-Trưởng-lão Bhaddanta Revata chủ trì, Ngài Đại-Trưởng-lão Bhaddanta Sobhana vấn, và Ngài Đại-Trưởng-lão Bhaddanta Vicittasārābhivaṃsa Tipiṭakadhara Tipiṭaka- kovida Tipiṭakadhara dhammabhaṇḍāgarika thông- thuộc Tam-tạng Pāḷi và thấu suốt Tam-tạng Pāḷi, bậc Thủ kho tàng Tam-tạng Pāḷi giải đáp đúng theo Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

 

Trong buổi đại lễ trọng thể này, chính-phủ Myanmar, đứng đầu là Thủ-tướng U Nu, tổ chức hoàn thành kết tập Tam-tạng Pāḷi rất long trọng, có mời các nguyên-thủ quốc gia của các nước Phật-giáo cùng với phái đoàn chư Tăng, cận-sự-nam, cận-sự-nữ gồm có 25 nước trên thế giới đến tham dự, để đánh dấu lịch sử Phật-giáo đã trải qua một nửa tuổi thọ 2.500 năm, dưới sự bảo trợ hộ độ của chính-phủ Myanmar cùng các cận-sự-nam, cận-sự- nữ trong nước và các nước trên thế giới.

Bộ Tam-tạng Pāḷi gồm có 40 quyển, bộ Chú-giải Pāḷi gồm có 51 quyển, bộ Phụ-chú-giải Pāḷi gồm có 26 quyển và các bộ khác hoàn thành trong kỳ kết tập lần thứ sáu này được xem là mẫu mực cho các nước Phật-giáo Theravāda.

Để Phật-giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian này chừng nào, thì chúng-sinh được hưởng sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc chừng ấy. Cho nên, chư Đại-Trưởng- lão tiền bối đã dày công gìn giữ và duy trì pháp-học Phật-giáo từ thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, và sau khi Đức-Phật đã tịch diệt Niết-bàn.

Tất cả quý Ngài Đại-Trưởng-lão có phận sự bảo tồn đầy đủ trọn vẹn pháp-học Phật-giáo, nên quý Ngài Đại- Trưởng-lão đã tổ chức qua 6 kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi không để cho rời rạc, thất lạc. Chư Đại- Trưởng-lão đã có công giữ gìn duy trì pháp-học Phật-giáo từ trước cho đến nay.

Công việc học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi để bảo tồn trọn vẹn pháp-học Phật-giáo, là bổn phận của các hàng thanh-văn đệ-tử là bậc xuất-gia tỳ-khưu, sa-di cũng như các hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ.

 

Hàng thanh-văn đệ-tử nào học thuộc lòng được lời giáo huấn của Đức-Phật bằng ngôn ngữ Pāḷi dù ít dù nhiều, thì hàng thanh-văn đệ-tử ấy đã gieo duyên lành trong Phật-giáo, bởi vì ngôn ngữ Pāḷi là mūlabhāsā: ngôn ngữ gốc, ngôn ngữ của chư Phật quá-khứ, Đức- Phật Gotama hiện-tại và chư Phật vị-lai.

Vì vậy, hàng thanh-văn đệ-tử nào học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi cần phải hiểu biết rõ ý nghĩa trực tiếp ngôn ngữ Pāḷi hoặc gián tiếp qua ngôn ngữ của nước mình, thì được lưu trữ, tích lũy trong tâm của mình suốt trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Nếu kiếp nào gặp được Đức-Phật hoặc bậc Thánh thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp thì kiếp ấy dễ hiểu chánh-pháp, dễ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, ...

Tại nước Myanmar, công việc học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được phổ cập đến chư sa-di, chư tỳ-khưu.

Hằng năm, bộ Tôn-giáo Myanmar có tổ chức kỳ thi đọc thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi bằng tiếng Pāḷi, và thi viết trả lời những câu hỏi về Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

 

  • Thi Tam-Tạng Pāḷi

Phật-lịch năm 2492 (dương-lịch năm 1948), chính phủ Myanmar, bộ Tôn-giáo bắt đầu tổ chức kỳ thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi lần thứ nhất. Từ đó về sau, hằng năm đều có tổ chức thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi.

  • Nếu vị sa-di, tỳ-khưu nào đậu kỳ thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi xong thì vị ấy được kính dâng danh-hiệu cao thượng là Tipiṭakadhara: Bậc cao-thượng-thông- thuộc Tam-tạng Pāḷi.

 

Tiếp theo thi viết trả lời những câu hỏi về Tam-tạng Pāḷi. Nếu vị tỳ-khưu nào thi đậu kỳ thi viết trả lời xong thì vị tỳ-khưu ấy được kính dâng danh-hiệu cao thượng là Tipiṭakakovida: Bậc cao-thượng-thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi.

Ngài Trưởng-Lão đã đậu cả 2 kỳ thi Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida là Bậc cao-thượng-thông-thuộc và thấu- suốt Tam-tạng Pāḷi, và đặc biệt chính phủ Myanmar, bộ Tôn-giáo kính dâng danh-hiệu cao thượng nhất gọi là Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika: Bậc cao-thượng- thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi, Bậc thủ-kho-tàng Pháp-bảo Tam-tạng Pāḷi đến Ngài Đại-Trưởng-lão có đầy đủ tài đức lớn.

  • Đến Phật-lịch 2558 (dương-lịch 2014), đã trải qua 66 kỳ thi Tam-tạng Pāḷi, theo tài liệu của bộ Tôn-giáo Myanmar năm 2014 có kết quả qua kỳ thi Tam-tạng Pāḷi như sau:
  • Ekapiṭakadhara là bậc thông-thuộc Nhất-tạng Pāḷi có 512 Ngài Đại-đức.
  • Ekapiṭakadhara Ekapiṭakakovida là bậc thông- thuộc Nhất-tạng Pāḷi và thấu-suốt Nhất-tạng Pāḷi có 139 Ngài Đại-đức.
  • Dvipiṭakadhara là bậc thông-thuộc Nhị-tạng Pāḷi có 61 Ngài Đại-đức.
  • Dvipiṭakadhara Dvipiṭakakovida là bậc thông- thuộc Nhị-tạng Pāḷi và thấu-suốt Nhị-tạng Pāḷi có 28 Ngài Đại-đức.
  • Tipiṭakadhara là bậc cao-thượng-thông-thuộc Tam- tạng Pāḷi có 5 Ngài Trưởng-lão.

 

  • Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida bậc cao-thượng- thông-thuộc, thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi có 13 Ngài Trưởng-lão như sau:
  1. Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Vicittāsārā- bhivaṃsa (Visiṭṭhatipiṭakadhara, Mahātipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 6, Phật-lịch 2497 (DL.1953) lúc Ngài 42 tuổi. Ngài đã viên tịch năm 1992, thọ 81 tuổi.
  2. Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Neminda (Visiṭṭhatipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 12, Phật- lịch 2503 (DL. 1959) lúc Ngài 32 tuổi. Ngài đã viên tịch năm 1991, thọ 64 tuổi.
  3. Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Kosalla (Tipiṭaka- dhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍā- gārika) đậu trong kỳ thi thứ 16, Phật-lịch 2507 (DL. 1963) lúc Ngài 36 tuổi. Ngài đã viên tịch năm 1991, thọ 68 tuổi.
  4. Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Sumaṅgalā- laṅkāra (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 26, Phật- lịch 2516 (DL. 1972) lúc Ngài 27 tuổi. Ngài đã viên tịch năm 2006, thọ 60 tuổi.
  5. Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Sirindābhivaṃsa (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhamma- bhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 37, Phật-lịch 2528 (DL. 1984) lúc Ngài 42 tuổi.
  6. Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Vāyāmindā- bhivaṃsa (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 47, Phật- lịch 2538 (DL. 1994) lúc Ngài 40 tuổi.

 

  1. Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Sīlakkhandhā- bhivaṃsa (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 52, Phật- lịch 2543 (DL. 1999) lúc Ngài 36 tuổi.
  2. Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Vaṃsapālā- laṅkāra (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 52, Phật- lịch 2543 (DL. 1999) lúc Ngài 34 tuổi.
  3. Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Gandhamālā- laṅkāra (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 53, Phật- lịch 2544 (DL. 2000) lúc Ngài 33 tuổi.
  4. Ngài Đại-Trưởng-Lão Bhaddanta Sundara (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhamma- bhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 56, Phật-lịch 2547 (D.l. 2004) lúc Ngài 48 tuổi.
  5. Ngài Trưởng-Lão Bhaddanta Indakapāla (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, Tipiṭakadhara Dhamma- bhaṇḍāgārika) đậu trong kỳ thi thứ 56, Phật-lịch 2547 (DL. 2004) lúc Ngài 43 tuổi.
  6. Ngài Trưởng-Lão Bhaddanta Abhijātābhivaṃsa (Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida, đậu trong kỳ thi thứ 62, Phật-lịch 2553 (DL. 2010) lúc Ngài 41 tuổi.
  7. Ngài Trưởng-Lão Bhaddanta Indācariya (Tipiṭaka- dhara, Tipiṭakakovida) đậu trong kỳ thi thứ 64, Phật-lịch 2555 (DL. 2012) lúc Ngài 47 tuổi.

Nước Myanmar đã có 13 Ngài Đại-Trưởng-Lão đã thi đậu Tipiṭakadhara, Tipiṭakakovida và còn các Ngài Trưởng-lão khác đã thi đậu Tipiṭakadhara, đậu Dvipiṭakadhara, Dvipiṭakadhara và Dvipiṭakakovida, Ekapiṭakadhara, Ekapiṭakadhara và Ekapiṭakakovida,…

 

Quý Ngài Đại-Trưởng-lão là Bậc đáng tôn kính đối với tất cả các hàng thanh-văn biết dường nào!

Pháp-học Phật-giáo là nền tảng căn bản của pháp- hành Phật-giáo. Thật vậy, Phật-giáo được duy trì do nhờ pháp-học Phật-giáo, cho nên quý Ngài Đại-Trưởng- lão đã cố công giữ gìn duy trì pháp-học Phật-giáo lưu truyền lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho chúng-sinh, nhất là nhân- loại và chư-thiên.

Học Tam-Tạng Pāḷi qua các thời-kỳ

  • Thời-kỳ đầu: Kể từ khi Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian cho đến trước Phật-lịch năm 450, trong khoảng thời gian này, trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi chưa ghi thành chữ viết, cho nên, việc học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi bằng cách khẩu truyền tâm thọ. Vị thầy dạy đọc, các học trò lặp theo ghi nhớ nằm lòng.

Như vậy, vị thầy thông-thuộc được chừng nào, các học trò cũng thông-thuộc được chừng ấy. Nếu vị thầy không thuộc lòng bộ nào, thì vị thầy gửi các học trò của mình đến Ngài Đại-Trưởng-lão khác xin học bộ ấy.

Cho nên, việc học trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi trong thời-kỳ ấy rất vất vả khó khăn.

  • Thời-kỳ sau: Kể từ sau thời-kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư, khoảng thời gian 450 năm sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần này được ghi bằng chữ viết trên lá buông. Cho nên, việc học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi tương đối ít vất vả khó khăn hơn thời- kỳ trước, song có phần hạn chế, bởi vì số bổn Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được ghi trên lá buông không nhiều.

 

  • Thời hiện-tại này: Hầu hết các nước Phật-giáo lớn như: nước Myanmar, nước Thái-Lan, nước Srilankā, nước Lào, nước Campuchia, v.v… đều có trọn bộ Tam- tạng Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi được in ra thành sách bằng mẫu tự của nước mình. Cho nên, việc học trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi có nhiều điều kiện thuận lợi hơn, nhưng việc dạy Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi và việc học Tam-tạng Pāḷi trong mỗi nước chưa phổ biến rộng đến toàn thể các hàng xuất-gia chư sa-di, chư tỳ- khưu, hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ.

Hiện nay tại nước Myanmar, các Ngài Đại-Trưởng- lão dạy Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, và chư sa-di, chư tỳ-khưu theo học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi tại nhiều ngôi chùa lớn trong thủ-đô Yangon và các ngôi chùa lớn tại các tỉnh thành lớn.

Hằng năm, chính-phủ Myanmar, bộ Tôn-giáo tổ chức kỳ thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi, để cho chư sa-di, chư tỳ-khưu đến dự thi thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và thi viết trả lời những câu hỏi về Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

  • Thời-kỳ Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, việc thông hiểu về pháp-học Phật-giáo không những chư Đại- Trưởng-lão, chư Trưởng-lão, chư sa-di, mà còn có nhiều vị cận-sự-nam, cận-sự-nữ nữa.

Thí dụ: Cận-sự-nam Cittagapati là bậc Thánh Bất-lai cũng là vị pháp sư được Đức-Phật Gotama tuyên dương. Cận-sự-nữ Khujjuttarā là tỳ-nữ của bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī, chứng đắc thành bậc Thánh Nhập- lưu có tài thuyết pháp tế độ bà Chánh-cung Hoàng-hậu Sāmāvatī cùng với 500 nữ hầu bà, đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập-lưu. Cận-sự-nữ Khujjuttarā trở thành Bahussutā: Bậc đa-văn-túc-trí được Đức-Phật Gotama tuyên dương.

 

Về sau, Cận-sự-nữ Khujjuttarā cũng trở thành Tipiṭaka- dharā: Bậc thông thuộc Tam-tạng Pāḷi, v.v…

Ngày nay, công việc bảo tồn pháp-học Phật-giáo là phận sự chung của các hàng thanh-văn đệ-tử gồm cả bậc xuất-gia sa-di, tỳ-khưu lẫn các hàng tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ nữa.

Để giữ gìn, duy trì pháp-học Phật-giáo chỉ có một phương pháp duy nhất là mỗi người thanh-văn đệ-tử là bậc xuất-gia sa-di, tỳ-khưu, cận-sự-nam, cận-sự-nữ cần phải học thuộc lòng Tam-tạng Pāḷi và các bộ Chú-giải Pāḷi, Ṭīkāpāḷi, Anuṭīkāpāḷi, … theo khả năng của mình, để lưu trữ, tích lũy trong tâm của mình, để tạo duyên lành sâu sắc trong Phật-giáo thật sự.

Nếu khi đã thông hiểu pháp-học Phật-giáo thì hành- giả mới có thể thực-hành đúng theo pháp-hành-giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được.

Hoặc khi giảng dạy đến người khác, cũng đúng theo chánh-pháp. Cho nên, học pháp-học Phật-giáo sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho mình và cho người khác. Đặc biệt còn giữ gìn và duy trì bảo tồn pháp-học Phật-giáo được trường tồn trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho tất cả chúng-sinh.

 

Cúng dường Đức-Pháp-Bảo

Trong thời Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, có một vị Bà-la-môn đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, bạch rằng:

  • Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con thành kính cúng dường Đức-Phật-bảo, cúng dường Đức-Tăng-bảo thì có Đức-Phật, chư tỳ-khưu-Tăng thọ nhận rõ ràng, còn

 

thành kính cúng dường đến Đức-Pháp-bảo, thì con phải cúng dường bằng cách nào? Bạch Ngài.

Đức Phật truyền dạy rằng:

  • Sacepi Brahmaṇa Dhammaratanaṃ pūjetukāmo ekaṃ bahussutaṃ pūjehi. (1)
  • Này Bà-la-môn! Nếu con muốn cúng dường đến Đức-Pháp-bảo thì con nên cúng dường đến vị Đa-văn túc-trí (bahussuta).

Ông Bà-la-môn đảnh lễ Đức-Phật xong, xin phép lui ra và đi hỏi chư tỳ-khưu để biết vị nào là bậc Đa-văn túc-trí học nhiều hiểu rộng.

Chư tỳ-khưu chỉ dẫn, giới thiệu đến Ngài Trưởng-lão Ānanda bậc Đa-văn-túc-trí (bahussuta) bậc Thủ-kho- tàng Pháp-bảo.

Ông Bà-la-môn tìm đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão

Ānanda, rồi kính dâng đến Ngài Trưởng-lão bộ y trị giá

1.000 kahāpana (tiền Ấn-Độ ngày xưa). Ngài Trưởng-lão

Ānanda thọ nhận bộ y quý giá ấy.

Sau đó, Ngài Trưởng-lão Ānanda kính dâng bộ y ấy đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta bậc Thống-lĩnh- pháp (Dhammasenāpati).

Hiện nay, Phật-giáo tại Myanmar còn có những Bậc Tipiṭakadhara Tipiṭakakovida là Bậc cao-thượng- thông-thuộc và thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi, và đặc biệt có những bậc Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika: Bậc cao-thượng-thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi, Bậc thủ-kho-tàng Pháp-bảo Tam-tạng Pāḷi.

Nếu thí-chủ có tác-ý đại-thiện-tâm hướng tâm đến cúng dường Đức-Pháp-bảo thì nên cúng dường đến các Bậc cao thượng ấy, gọi là cúng dường Đức-Pháp-bảo.

1 Bộ Chú-giải Pāthikavaggaṭṭhakathā, phần Dhammaratanapūjā (91).

 

Hoặc thí-chủ cúng dường đến Ngài Trưởng-lão Tipiṭakadhara: Bậc thông-thuộc Tam-tạng Pāḷi, hoặc Ngài Trưởng-lão Dvipiṭakadhara: Bậc thông-thuộc Nhị- tạng Pāḷi hoặc Ngài Trưởng-lão Ekapiṭakadhara: Bậc thông-thuộc Nhất-tạng Pāḷi, v.v… thậm chí quý vị sa-di, tỳ-khưu đang ngày đêm kiên trì học thuộc lòng Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi để tham dự kỳ thi Tam-tạng Pāḷi, cũng gọi là cúng dường Đức-Pháp-bảo.

Tipiṭaka - Aṭṭhakathā - Ṭīkā - Anuṭīkā

Pháp-học Phật-giáo gồm có:

  • Tipiṭakapāḷi (Tam-tạng Pāḷi).
  • Aṭṭhakathāpāḷi (Chú-giải Pāḷi).
  • Ṭīkāpāḷi (Phụ-chú-giải Pāḷi).
  • Anuṭīkāpāḷi (Phụ-theo Chú-giải Pāḷi).

Căn cứ theo kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi lần thứ sáu Phật-lịch 2500 năm tại động Kaba Aye, thủ-đô Yangon, nước Myanmar như sau:

  • Tipiṭakapāḷi                   gồm có 40 quyển.
  • Aṭṭhakathāpāḷi               gồm có 51 quyển.
  • Ṭīkāpāḷi-Anuṭīkāpāḷi   gồm có 26 quyển.

Tipiṭakapāḷi (Tam-Tạng Pāḷi)

Tipiṭakapāḷi (Tam-tạng Pāḷi) gồm có 40 quyển được phân chia theo mỗi Tạng như sau:

  1. Vinayapiṭakapāḷi (Tạng Luật Pāḷi) có 5 quyển:
    1. Pārājikapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    2. Pācittiyapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    3. Mahāvaggapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    4. Cūḷavaggapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    5. Parivārapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.

 

  1. Suttantapiṭakapāḷi (Tạng Kinh Pāḷi) có 23 quyển phân chia theo 5 Nikāya (Bộ) như sau:
  • Dīghanikāya (Trường-bộ-kinh Pāḷi) có 3 quyển:
    1. Sīlakkhandhavaggapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    2. Mahāvaggapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    3. Pāthikavaggapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
  • Majjhimanikāya (Trung-bộ-kinh) có 3 quyển:
    1. Mūlapaṇṇāsapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    2. Majjhimapaṇṇāsapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    3. Uparipaṇṇāsapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
  • Saṃyuttanikāya (Đồng-loại-bộ-kinh) có 5 phần gom vào 3 quyển:
    1. Sagāthāvagga Nidānavaggasaṃyuttapāḷi do

Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.

    1. Khandhavagga Saḷāyatanavaggasaṃyuttapāḷi

do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.

    1. Mahāvaggasaṃyuttapāḷi do Đức-Phật, trong thời kỳ Đức-Phật.
  • Aṅguttaranikāya (Chi-bộ-kinh) từ 1 đến 11 chi gom vào 3 quyển:
    1. Ekaka-duka-tika-catukkanipātapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    2. Pañcaka-chakka-sattakanipāta      do   Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    3. Aṭṭhaka-navaka-dasaka-ekādasakanipāta do Đức- Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.

 

  • Khuddakanikāya (Tiểu-bộ-kinh) gồm có 19 bộ gom vào 11 quyển:
    1. Khuddakapāṭha-dhammapada-udāna-itivuttaka- sutta-nipātatapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    2. Vimānavatthu-petavatthu-theragāthā-therīgāthā- pāḷi do Đức-Phật và chư Thánh A-ra-hán, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    3. Apadānapāḷi (paṭhama) do Đức-Phật, trong thời- kỳ Đức-Phật.
    4. Apadānapāḷi (dutiya) Buddhavaṃsa, Cariyā- piṭakapāḷi do Đức-Phật và chư Thánh A-ra-hán, trong thời-kỳ Đức-Phật.

17-18- Jātakapāḷi (paṭhama-dutiya) do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.

  1. Mahāniddesapāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, trong thời-kỳ Đức-Phật.
  2. Cūḷaniddesapāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, trong thời-kỳ Đức-Phật.
  3. Paṭisambhidāmaggapāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, trong thời-kỳ Đức-Phật.
  4. Netti-peṭakopadesapāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākaccayana, trong thời-kỳ Đức-Phật.
  5. Milindapañhāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Nāgasena, Phật-lịch năm 500.

 

  1. Abhidhammapiṭakapāḷi (Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi) có 7 bộ lớn phân chia thành 12 quyển:
    1. Dhammasaṅgaṇīpāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    2. Vibhaṅgapāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.

 

    1. Dhātukathā Puggalapaññattipāḷi do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.
    2. Kathāvatthupāḷi do Đức-Phật và sau có Ngài Đại- Trưởng-lão Moggaliputtatissa, Phật-lịch 235.

5-6-7- Yamakapāḷi (paṭhama-dutiya-tatiya) (3 quyển) do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.

8-9-10-11-12- Paṭṭhānapāḷi (paṭhama-dutiya-tatiya- catuttha-pañcama) (5 quyển) do Đức-Phật, trong thời-kỳ Đức-Phật.

Tam-tạng Pāḷi gồm có 40 quyển được phân chia theo mỗi tạng như vậy.

Aṭṭhakathāpāḷi (Chú-Giải Pāḷi)

Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi) gồm có 51 quyển, Chú- giải này được phân chia theo mỗi Tạng như sau:

  1. Chú-giải Tạng Luật Pāḷi Gồm có 6 quyển

1-2- Pārājikakaṇḍa aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya) (2 quyển) gọi Samantapāsādikā aṭṭhakathā do Ngài Đại- Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 976.

  1. Pācityādi aṭṭhakathāpāḷi gọi Samantapāsādikā aṭṭhakathā do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 976.
  2. Cūḷavaggādi aṭṭhakathāpāḷi gọi Samantapāsādikā aṭṭhakathā do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 976.
  3. Kaṅkhāvitaraṇī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng- lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 976 - 1000.
  4. Vinayasaṅgaha aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại- Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 976.

 

  1. Chú-giải Tạng Kinh Pāḷi gồm có 42 quyển được phân chia theo mỗi bộ (nikāya) như sau:
    • Chú-giải Trường-bộ-kinh Pāḷi có 3 quyển
  1. Sīlakkhandhavagga aṭṭhakathāpāḷi gọi Sumaṅgala- vilāsinī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā- buddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
  2. Mahāvagga aṭṭhakathāpāḷi, gọi Sumaṅgalavilāsinī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddha- ghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
  3. Pāthikavagga aṭṭhakathāpāḷi, gọi Sumaṅgala- vilāsinī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
    • Chú-giải Trung-bộ-kinh Pāḷi có 4 quyển

4-5- Mūlapaṇṇāsa aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya) (2 quyển), gọi Papañcasūdanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.

  1. Majjhimapaṇṇāsa aṭṭhakathāpāḷi gọi Papañca- sūdanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā- buddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
  2. Uparipaṇṇāsa aṭṭhakathāpāḷi gọi Papañcasūdanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddha- ghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
    • Chú-giải Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi 3 quyển
  3. Sagāthavaggasaṃyutta aṭṭhakathāpāḷi gọi Sāratthapakāsanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng- lão Mahābudhaghosa, Phật-lịch 976.
  4. Nidānavagga Khandhavaggasaṃyutta aṭṭha- kathāpāḷi gọi Sāratthapakāsanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābudddhaghosa Phật-lịch 977 - 1000.

 

  1. Sāḷāyatanavagga Mahāvaggasaṃyutta aṭṭhakathā- pāḷi gọi Sāratthapakāsanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại- Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
    • Chú-giải Chi-bộ-kinh Pāḷi có 3 quyển

11-12-13- Aṅguttara aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya- tatiya) (3 quyển) gọi Manorathapūraṇī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.

    • Chú-giải Tiểu-bộ-kinh Pāḷi có 29 quyển

14-15- Visuddhimagga aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama- dutiya) (2 quyển) do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddha- ghosa, Phật-lịch 972.

16- Khuddakapāṭha aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramattha- jotikā aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā- buddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.

17-18- Dhammapada aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya) (2 quyển) do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.

19-20- Suttanīpāta aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya) (2 quyển) gọi Paramatthajotikā aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.

21-27- Jātaka aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya-tatiya- catuttha-pañcama-chaṭṭha-sattama) (7 quyển) do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.

  1. Udāna aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
  2. Itivuttaka aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.

 

  1. Vimānavatthu aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramattha- dīpanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
  2. Petavatthu aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.

32-33- Theragāthā aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya) (2 quyển) gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.

  1. Therīgathā aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
  2. Cariyāpiṭaka aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramattha- dīpanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
  3. Cūḷaniddesa-netti aṭṭhakathāpāḷi gọi Saddhamma- jotikā aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Upasena.
  4. Mahāniddesa aṭṭhakathāpāḷi gọi Saddhamma- jotikā aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Upasena.
  5. Buddhavaṃsa aṭṭhakathāpāḷi gọi Madhurattha- vilāsinī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Buddhadatta, Phật-lịch hơn 900.

39-40- Paṭisambhidāmagga aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama- dutiya) (2 quyển) gọi Saddhammapakāsanī aṭṭhakathā- pāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahānāma, Phật-lịch 1061.

41-42- Apadāna aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya) (2 quyển) gọi Visuddhajanavilāsinī do Ngài Đại-Trưởng- lão Poraṇācariya.

  1. Chú-giải Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi có 3 quyển:

 

  1. Dhammasaṅgaṇī aṭṭhakathāpāḷi gọi Aṭṭhasālinī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão, Mahābuddha- ghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
  2. Vibhaṅga aṭṭhakathāpāḷi gọi Sammohavinodanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā- buddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
  3. Pañcapakaraṇa aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại- Trưởng-lão Mahābuddhaghosa, Phật-lịch 977 - 1000.
    • Bộ Abhidhammatthasaṅgaha xem như Chú-giải(1)

Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi) gồm có 51 quyển được phân chia theo mỗi Tạng Pāḷi như vậy.

 

Ṭīkāpāḷi - Anuṭīkāpāḷi

(Phụ-chú-giải - Phụ-theo-chú-giải)

Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi) và Phụ-theo-chú-giải Pāḷi (Anuṭīkāpāḷi) gồm có 26 quyển được phân chia theo mỗi Tạng như sau:

  1. Phụ-chú-giải Tạng Luật có 7 quyển

1-2-3- Sāratthadīpanīṭīkā (paṭhama-dutiya-tatiya) (3 quyển) do Ngài Trưởng-lão Sāriputta, Phật-lịch 1707 - 1725.

4-5- Vimativinodanīṭīkā (paṭhama-dutiya) (2 quyển) do Ngài Đại-Trưởng-lão Coḷiyakassapa.

1 Bộ Abhidhammatthasaṅgaha xem như là Chú-giải, do Ngài Đại-Trưởng- lão Anuruddha vào khoảng thời gian sau Ngài Đại-Trưởng-lão Buddha- ghosa. Ngài Đại-Trưởng-lão Anuruddha biên soạn 3 bộ: Paramattha- vinicchaya, Nāmarūpapariccheda, Abhidhammatthasaṅgaha. Riêng bộ Abhidhammatthasaṅgaha dù là bộ nhỏ vẫn có sự lợi ích lớn đối với người ban đầu học hỏi nghiên cứu về tạng Vi-diệu-pháp, xem là “Bộ-cẩm-nang của môn Vi-diệu-pháp”.

 

  1. Vājirabuddhiṭīkā     do    Ngài    Đại-Trưởng-lão Vajirabuddhi.
  2. Kaṅkhāvitaraṇīpurāṇa-abhinavaṭīkā gọi Vinayattha- mañjūsāṭīkā do Ngài Đại-Trưởng-lão Buddhanāga.

Ngoài ra, còn các Phụ-chú-giải về Tạng Luật Pāḷi như:

    • Vinayālaṅkāraṭīkā (paṭhama-dutiya) (2 quyển).
    • Vinayavinicchayaṭīkā (paṭhama-dutiya) (2 quyển).
    • Khuddasikkhā, Mūlasikkhāṭīkā, v.v...
  1. Phụ-chú-giải Tạng Kinh Pāḷi có 16 quyển phân chia theo mỗi bộ (nikāya) như sau:
    • Phụ-chú-giải Trường-bộ-kinh Pāḷi có 5 quyển

1- Sīlakkhandhavaggaṭīkā gọi Līnatthapakāsanāṭīkā do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.

2-3- Sīlakkhandhavagga abhinavaṭīkā (paṭhama- dutiya (2 quyển) gọi Sādhujanavilāsinīṭīkā do Ngài Đại- Trưởng-lão Ñāṇābhivaṃsadhammasenāpati.

  1. Mahāvaggaṭīkā gọi Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài

Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.

  1. Pāthikavaggaṭīkā gọi Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.
    • Phụ-chú-giải Trung-bộ-kinh Pāḷi có 3 quyển

6-7- Mūlapaṇṇāsaṭīkā (paṭhama-dutiya) (2 quyển) gọi Līnatthapakāsanīṭīkā do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhamma- pāla, Phật-lịch 1100 - 1200.

  1. Majjhima-Uparipaṇṇāsaṭīkā gọi Līnatthapakāsanī- ṭīkā do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.

 

    • Phụ-chú-giải Đồng-loại-bộ-kinh Pāḷi có 2 quyển

9-10- Saṃyuttaṭīkā (paṭhama-dutiya) (2 quyển) gọi Līnatthapakāsanāṭīkā do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhamma- pāla, Phật-lịch 1100 - 1200.

    • Phụ-chú-giải Chi-bộ-kinh có 3 quyển

11-12-13- Aṅguttaraṭīkā (paṭhama-dutiya-tatiya) (3 quyển) gọi Sāratthamañjūsāṭīkā do Ngài Đại-Trưởng- lão Sāriputta, Phật-lịch 1707 - 1725.

    • Phụ-chú-giải Tiểu-bộ-kinh có 3 quyển

14-15- Visuddhimaggamahāṭīkā (paṭhama-dutiya) (2 quyển) gọi Paramatthamañjūsāṭīkā do Ngài Đại- Trưởng-lão Dhammapāla, Phật-lịch 1100 - 1200.

16- Nettiṭīkā Nettivibhāvinīṭīkā do Ngài Đại- Trưởng-lão Saddhammapāla, Phật-lịch 1986.

  1. Phụ-chú-giải - Phụ-theo-chú-giải về Tạng Vi- diệu-pháp Pāḷi có 3 quyển:
    1. Dhammasaṅgaṇīmūlaṭīkā do Ngài Đại-Trưởng-lão Ānanda và phần Anuṭīkapāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla.
    2. Vibhaṅgamūlaṭīkā do Ngài Đại-Trưởng-lão Ānanda và phần Anuṭīkā do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla.
    3. Pañcapakaraṇamūlaṭīkā do Ngài Đại-Trưởng-lão Ānanda và phần Anuṭīkāpāḷi do Ngài Đại-Trưởng-lão Dhammapāla.

Ngoài ra, còn các Phụ-chú-giải về Tạng Vi-diệu-pháp:

      • Abhidhammavatāraṭīkā (2 quyển).
      • Maṇisārāmañjūsāṭīkā (2 quyển).
      • Abhidhammavibhāvanīṭīkā, v.v…

 

Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkapāḷi) và Phụ-theo-chú-giải Pāḷi (Anuṭīkāpāḷi) gồm có 26 quyển được phân chia theo mỗi Tạng như sau:

      • Tạng Luật có 7 quyển.
      • Tạng Kinh có 16 quyển.
      • Tạng Vi-diệu-pháp có 3 quyển.

 

 

  1. Pháp-học Phật-giáo (Pariyattisāsana)

Pháp-học Phật-giáo đó là Tam-tạng Pāḷi Chú-giải Pāḷi đã có từ thời-kỳ Đức-Phật. Sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, trải qua thời gian lâu, các hàng hậu sinh theo học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi không phải vị nào cũng có khả năng hiểu rõ đúng đắn theo chánh-pháp.

Do đó, quý Ngài Đại-Trưởng-lão là Bậc thông-thuộc và thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, nên quý Ngài biên soạn thêm những bộ Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi) và bộ Phụ-theo-chú-giải Pāḷi (Anuṭīkāpāḷi) để giảng giải những điều khó hiểu trong Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

 

Tam-Tạng Pāḷi (Tipiṭakapāḷi) là gì?

Tam-tạng Pāḷi đó là Tạng Luật Pāḷi, Tạng Kinh Pāḷi, Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi mà Đức-Phật đã chế định, đã thuyết giảng suốt 45 năm, kể từ khi trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, cho đến trước khi Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn.

Trong bộ Tam-tạng Pāḷi này, không chỉ có lời giáo huấn của Đức-Phật, mà còn có lời của chư Thánh A-ra- hán,  chư-thiên,  phạm-thiên,  cận-sự-nam,  cận-sự-nữ,

 

v.v… Những lời ấy được Đức-Phật nhắc lại, hoặc xác nhận, cũng được xem như là lời dạy của Đức-Phật.

Chú-giải Pāḷi (Aṭṭhakathāpāḷi) là gì?

Chú-giải Pāḷi đó là những lời giảng giải những điều nào khó hiểu từ trong Tam-tạng Pāḷi, để giúp cho hiểu biết đúng đắn theo chánh-pháp. Có khi chính Đức-Phật giảng giải những điều ấy gọi là pakiṇṇakadesanā: Đức- Phật thuyết giảng, giải thích rõ mỗi điều riêng rẽ; có khi chư Thánh A-ra-hán giảng giải.

Qua các thời-kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi đều có các Chú-giải Pāḷi. Các Chú-giải ấy được gom lại thành các bộ lớn gọi là bộ Đại-chú-giải (mahā-āṭṭhakathāpāḷi).

Vào thời-kỳ Phật-lịch khoảng 972 năm (sau khi Đức- Phật tịch diệt Niết-bàn), Ngài Đại-Trưởng-lão Mahā- buddhaghosa là Bậc có trí-tuệ siêu việt, thông-thuộc và thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa từ xứ Ấn- Độ đi sang đảo quốc Srilankā. Lần đầu tiên, Ngài Đại- Trưởng-lão Mahābuddhaghosa biên soạn bộ Visuddhi- magga (Thanh-Tịnh-đạo) vào năm Phật-lịch 972.

Sau đó, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa xin phép chư Đại-Trưởng-lão trên đảo quốc Srilankā cho Ngài dịch toàn bộ Đại-chú-giải (Mahā-aṭṭhakathāpāḷi) bằng tiếng Sihali ra tiếng Pāḷi.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa có trí-tuệ siêu-việt, thông-thuộc và thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi, nên Ngài Đại-Trưởng-lão có khả năng đặc biệt phân loại toàn bộ Đại-chú-giải ra theo từng mỗi Tạng Pāḷi riêng biệt: Chú-giải Tạng Luật Pāḷi, Chú-giải Tạng Kinh Pāḷi, Chú-giải Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi.

 

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahābuddhaghosa phân loại Chú-giải Pāḷi theo mỗi Tạng Pāḷi, phân chia ra thành mỗi phần, mỗi đoạn, mỗi điều-giới, mỗi bài kinh, bài kệ, đặc biệt mỗi chữ khó hiểu trong mỗi đoạn, mỗi câu v.v…

Công trình dịch thuật toàn bộ Chú-giải từ tiếng Sihali ra tiếng Pāḷi, rồi phân loại ra từng Tạng (Piṭaka), từng Bộ (Nikāya), … để lại cho các đàn hậu sinh được dễ dàng thuận lợi học pháp-học Phật-giáo và thực-hành pháp-hành Phật-giáo.

 

Phụ-chú-giải (Ṭīkāpāḷi) và Phụ-theo-chú-giải (Anuṭīkāpāḷi) là gì?

Những bộ Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi) và bộ Phụ- theo-chú-giải Pāḷi (Anuṭīkāpāḷi) là những lời giảng giải, giải thích những điều khó hiểu từ trong Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi. Những bộ sách này được biên soạn sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn trải qua nhiều năm sau.

Chư Đại-Trưởng-lão suy xét thấy các thế hệ hậu sinh có trí-tuệ mỗi ngày một kém dần, cho nên, việc theo học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi để hiểu biết đúng đắn theo chánh-pháp không phải là việc dễ dàng.

Vì vậy, quý Ngài Đại-Trưởng-lão tiền bối là những Bậc thông-thuộc và thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đã dày công biên soạn ra những bộ Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi) và bộ Phụ-theo-chú-giải Pāḷi (Anuṭīkā- pāḷi) này, để giúp cho thế hệ hậu sinh theo học pháp-học Phật-giáo được dễ hiểu, hiểu đúng lời giáo huấn của Đức-Phật.

Pháp-học Phật-giáo là nền tảng căn bản của pháp- hành Phật-giáo. Cho nên, hành giả cần phải học và hiểu biết đúng theo pháp-học Phật-giáo đó là điều tối ư quan

 

trọng, bởi vì, nếu khi hành-giả hiểu đúng pháp-học Phật- giáo, rồi mới có thể thực-hành đúng theo pháp-hành Phật-giáo đó là thực-hành đúng theo pháp-hành-giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.

Nếu khi thực-hành đúng theo pháp-hành thiền-tuệ thì mới dẫn đến kết quả chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, đó là pháp-thành Phật-giáo, pháp giải thoát khổ tử sinh luân- hồi trong ba giới bốn loài.

Nếu hành-giả học hiểu không đúng về pháp-học Phật- giáo thì thực-hành không đúng pháp-hành Phật-giáo.

Nếu hành-giả thực-hành không đúng pháp-hành thiền-tuệ thì không dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thể chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, cũng không thể giải thoát khỏi khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Cho nên, hành-giả muốn thực-hành đúng theo pháp- hành Phật-giáo đó là thực-hành đúng theo pháp-hành- giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ, thì nên theo học pháp-học Phật-giáo đó là học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi. Nếu chưa hiểu rõ thì theo học thêm các bộ Phụ-chú-giải Pāḷi (Ṭīkāpāḷi) và bộ Phụ-theo-chú- giải Pāḷi (Anuṭīkāpāḷi) để cho hiểu rõ.

Khi đã hiểu biết rõ phần pháp-học Phật-giáo rồi, hành-giả cố gắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành Phật- giáo đó là thực-hành pháp-hành-giới, pháp-hành thiền- định, pháp-hành thiền-tuệ (1) được thuận lợi.

Đối với các hàng thanh-văn đệ-tử là chư tỳ-khưu, sa-

1 Nên tìm hiểu đầy đủ trong bộ “Nền-Tảng-Phật-Giáo,” quyển III: Pháp- Hành-Giới; quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định và quyển X: Pháp-Hành Thiền-Tuệ, cùng soạn-giả.

 

di, các cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên theo học pháp-học Phật-giáo để hiểu biết giáo-pháp của Đức-Phật Gotama làm nền tảng căn bản cho pháp-hành Phật-giáo.

Công việc theo học pháp-học Phật-giáo còn là một bổn phận thiêng liêng của hàng thanh-văn đệ-tử giữ gìn và duy trì pháp-học Phật-giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho chính mình và truyền dạy đến những người khác, cùng nhau bảo tồn pháp-học Phật-giáo được trường tồn đến 5.000 năm tuổi thọ Phật-giáo, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc cho tất cả chúng-sinh, nhất là chư- thiên và nhân-loại.

Hơn nữa, ngôn ngữ Pāḷi (Pāḷibhāsā) vốn là ngôn ngữ của dân Magadha Mūlabhāsā là ngôn ngữ gốc chư Phật quá-khứ, Đức-Phật hiện-tại, chư Phật vị-lai đều sử dụng thuyết-pháp tế độ chúng-sinh, nên người nào học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi được lưu-trữ trong tâm không bao giờ bị mai một theo thời gian và không gian trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

 

  1. Pháp-hành Phật-giáo (Paṭipattisāsana)

Sau khi đã học hỏi nghiên cứu hiểu biết rõ pháp-học Phật-giáo ở giai đoạn đầu, rồi tiếp theo giai đoạn giữa là hành pháp-hành Phật-giáo.

Pháp-hành Phật-giáo là gì?

Pháp-hành Phật-giáo có nhiều pháp, trong đó có 3 pháp-hành chính là:

  • Pháp-hành-giới.
  • Pháp-hành thiền-định.
  • Pháp-hành thiền-tuệ.

 

  1. Pháp-hành-giới là gì?

Pháp-hành-giới là pháp-hành mà hành-giả có tác-ý đại-thiện-tâm giữ gìn thân và khẩu tránh xa mọi hành-ác. Hành-giả thực-hành pháp-hành-giới có tác-ý đại-thiện- tâm tránh xa 3 thân hành điều ác và tránh xa 4 khẩu nói điều ác, giữ gìn giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, để làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển.

Giới của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử khác nhau:

  • Đối với hàng tại gia cư-sĩ là cận-sự-nam, cận-sự-nữ có ngũ-giới bát-giới ājīvaṭṭhamakasīla là thường giới. Ngoài ra, cận-sự-nam, cận-sự-nữ còn có thể thọ trì bát- giới uposathasīla, cửu-giới uposathasīla, thập-giới, tùy theo khả năng của mỗi người cận-sự-nam, cận-sự-nữ.
  • Đối với bậc xuất-gia:
  • Vị sa-di 10 sa-di-giới, 10 điều-giới hoại phẩm hạnh sa-di, 10 giới hành phạt, 75 điều-giới hành, … 14 pháp- hành như tỳ-khưu,…
  • Vị tỳ-khưu tứ thanh-tịnh-giới. Trong tứ thanh- tịnh-giới ấy, có Bhikkhupātimokkkasīla 227 điều-giới, nếu tính đầy đủ trong Tạng Luật thì có 91.805.036.000 điều-giới.

Muốn giữ gìn giới được trong sạch trọn vẹn, thanh- tịnh, điều trước tiên, hành-giả cần phải học hỏi, hiểu rõ kỹ càng tất cả mọi điều-giới của mình, rồi mới có thể thực-hành pháp-hành-giới (1)là tránh xa mọi hành ác do thân và khẩu, giữ gìn giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn, làm cho thân và khẩu được thanh-tịnh.

1 Tìm hiểu đầy đủ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển III: Pháp-Hành- Giới, cùng soạn-giả.

 

Do năng lực của giới có thể diệt được phiền-não loại thô ở thân và khẩu (vitikkamakilesa), để làm nền-tảng cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển.

 

  1. Pháp-hành thiền-định là gì?

Pháp-hành thiền-định là pháp-hành dẫn đến định-tâm trong một đối-tượng-thiền-định duy nhất, để chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

Muốn thực-hành pháp-hành thiền-định, trước tiên, hành-giả cần phải học hỏi, nghiên cứu cho hiểu biết rõ về 40 đề-mục thiền-định, rồi chọn một đề-mục thiền- định nào thích hợp với bản tánh riêng của mình.

Sau đó, hành-giả học hỏi kỹ càng phương pháp thực- hành pháp-hành thiền-định với đề-mục thiền-định ấy.

Khi đã chọn đề-mục thiền-định rồi, hành-giả thực- hành pháp-hành thiền-định với đề-mục thiền-định ấy làm đối-tượng. Hành giả chỉ có định-tâm trong đối-tượng- thiền-định duy nhất ấy mà thôi.

Nếu đề-mục thiền-định sắc-giới ấy là đề-mục thiền- định có thể dẫn đến chứng đắc tuần tự 5 bậc thiền sắc- giới thiện-tâm thì 5 bậc thiền sắc-giới phát sinh như sau:

 

5 Bậc thiền Sắc-giới

  • Thiền sắc-giới có 5 bậc đối với hành-giả thuộc về hạng mandapuggala là hành-giả có trí-tuệ trung bình, thực-hành pháp-hành thiền-định, chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm theo tuần tự như sau:
  • Đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền

hướng-tâm, quan-sát, hỷ, lạc, nhất-tâm do chế ngự

 

được 5 pháp-chướng-ngại là tham-dục, sân-hận, buồn- chán - buồn-ngủ, phóng-tâm - hối-hận, hoài-nghi.

  • Đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có 4 chi-thiền là quan-sát, hỷ, lạc, nhất-tâm do chế ngự được chi-thiền hướng-tâm.
  • Đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là hỷ, lạc, nhất-tâm do chế ngự được chi thiền quan-sát.
  • Đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi thiền là lạc, nhất-tâm do chế ngự được chi thiền hỷ.
  • Đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi thiền là xả, nhất-tâm do thay thế chi thiền lạc bằng chi thiền xả.

4 Bậc thiền Sắc-giới

  • Thiền sắc-giới có 4 bậc thiền đối với hành-giả thuộc về hạng tikkhapuggala là hành-giả có trí-tuệ sắc bén nhanh nhạy, thực-hành pháp-hành thiền-định đến khi chứng đắc đến đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có khả năng chế ngự được 2 chi-thiền là hướng-tâm và quan- sát cùng một lúc, nên đệ nhị thiền sắc-giới có 3 chi-thiền.

Cho nên, hành-giả thuộc về hạng người tikkha- puggala thực-hành pháp-hành thiền-định, chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm như sau:

  • Đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm có 5 chi-thiền là hướng-tâm, quan-sát, hỷ, lạc, nhất-tâm do chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại là tham-dục, sân-hân, buồn- chán - buồn-ngủ, phóng-tâm - hối-hận, hoài-nghi.
  • Đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm có 3 chi-thiền là hỷ, lạc, nhất-tâm do chế ngự được 2 chi-thiền hướng-tâm quan-sát.
  • Đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là lạc, nhất-tâm do chế ngự được chi thiền hỷ.

 

  • Đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm có 2 chi-thiền là xả, nhất-tâm do thay thế chi-thiền lạc bằng chi-thiền xả.

Sau khi đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, nếu hành-giả tiếp tục thực-hành pháp-hành thiền-định để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm thì hành giả cần phải thay đổi đối-tượng sang đề-mục-thiền vô- sắc-giới.

  • Thiền vô-sắc-giới thiện-tâm có 4 bậc thiền mà mỗi bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm nào chỉ có riêng biệt mỗi đề-mục-thiền vô-sắc-giới ấy mà thôi, nên có 4 đề-mục- thiền vô-sắc-giới dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc- giới thiện-tâm.

Cho nên, hành-giả chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm như sau:

 

4 Bậc thiền Vô-sắc-giới

  • Đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là “Không-vô-biên-xứ- thiền” có 2 chi-thiền là xả, nhất-tâm.
  • Đệ nhị thiền vô-sắc-giới gọi là “Thức-vô-biên-xứ- thiền” có 2 chi-thiền là xả, nhất-tâm.
  • Đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là “Vô-sở-hữu-xứ- thiền” có 2 chi-thiền là xả, nhất-tâm.
  • Đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là “Phi-tưởng-phi-phi- tưởng-xứ-thiền” có 2 chi-thiền là xả, nhất-tâm.

Như vậy, 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm đều có 2 chi-thiền giống nhau, chỉ có khác nhau là mỗi đề-mục- thiền vô-sắc-giới riêng biệt nào để chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới ấy mà thôi.(1)

1 Tìm hiểu đầy đủ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định, phương pháp thực-hành pháp-hành thiền-định, cùng soạn-giả.

 

5 bậc thiền sắc-giới và 4 bậc thiền vô-sắc-giới đều có khả năng diệt phiền-não bằng cách chế ngự được phiền- não loại trung trong tâm (pariyuṭṭhānakilesa), phiền-não không phát hiện ra bên ngoài thân và khẩu.

Hành-giả có thể nhập-thiền (jhānasamāpatti) để hưởng sự an-lạc của bậc thiền, và có thể luyện 5 phép-thần- thông tam-giới.

 

5 Phép-thần-thông Tam-giới

  1. Iddhividha abhiññā: Đa-dạng-thông là phép-thần- thông có khả năng biến hoá một người thành nhiều người, xuất hiện đến một nơi, đi xuyên qua núi, qua tường, bay trên hư không, chui xuống mặt đất, v.v…
  2. Dibbacakkhu abhiññā: Thiên-nhãn-thông là phép- thần-thông có khả năng nhìn thấy khắp mọi nơi trong cõi người, các cõi trời dục-giới, … như mắt của chư-thiên.
  3. Dibbasota abhiññā: Thiên-nhĩ-thông là phép-thần- thông có khả năng nghe được các thứ tiếng gần xa khắp mọi nơi như tai của chư-thiên.
  4. Paracittavijānana abhiññā: Tha-tâm-thông là phép thần thông có khả năng biết được ý nghĩ của người khác, chúng-sinh khác, …
  5. Pubbenivāsānussati abhiññā: Tiền-kiếp-thông là phép-thần-thông có khả năng nhớ lại những tiền-kiếp của mình với đủ chi tiết, như tiền-kiếp sinh làm loài chúng-sinh nào, kiếp sống như thế nào, v.v…

Đó là 5 phép-thần-thông thuộc về tam-giới.(1)

1 Tìm hiểu đầy đủ trong bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo, quyển IX: Pháp-Hành Thiền-Định, phương pháp tập luyện phép-thần-thông.

 

  • Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định nếu có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao nào cuối cùng, sau khi hành-giả chết, chắc chắn bậc thiền sắc-giới thiện-nghiệp bậc cao ấy có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp, hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên 1 trong 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên, được sinh trên tầng trời sắc-giới nào tuỳ theo bậc thiền sắc-giới quả-tâm ấy.

Và hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, nếu có khả năng chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc cao nào cuối cùng, sau khi hành-giả chết, chắc chắn bậc thiền vô-sắc-giới thiện-nghiệp bậc cao ấy có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh làm phạm-thiên trên 1 trong 4 cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên, được sinh trên tầng trời vô sắc-giới nào tuỳ theo bậc thiền vô sắc-giới quả-tâm ấy.

Các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, bậc thiền vô-sắc- giới thiện-tâm còn có thể làm nền tảng, làm đối-tượng cho pháp-hành thiền-tuệ.

 

  1. Pháp-hành thiền-tuệ là gì?

Pháp-hành thiền-tuệ là pháp-hành dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc- pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái- chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã, của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh- đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

 

Muốn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trước tiên, hành- giả cần phải học hỏi, hiểu biết rõ kỹ càng tất cả các đối- tượng thiền-tuệ đó là thân, thọ, tâm, pháp, là đối-tượng của pháp-hành tứ niệm-xứ:

    • Thân niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác.
    • Thọ niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác.
    • Tâm niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác.
    • Pháp niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm và trí-tuệ-tỉnh-giác.
    • Thân niệm-xứ thuộc về sắc-pháp.
    • Thọ niệm-xứ tâm niệm-xứ thuộc về danh-pháp.
    • Pháp niệm-xứ thuộc về sắc-pháp, danh-pháp.

Sắc-pháp, danh-pháp là đối-tượng của pháp-hành thiền-tuệ.

  • Hành-giả còn là phàm-nhân thuộc hạng người tam- nhân thực-hành pháp-hành thiền-tuệ đối-tượng-thiền- tuệ là sắc-pháp hoặc danh-pháp tam-giới, có khả năng dẫn đến phát sinh trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; tiếp tục trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được hai loại phiền-não là tà-kiến hoài-nghi, trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.

 

Bậc Thánh Nhập-lưu sau khi chết, vĩnh viễn không còn tái-sinh trong 4 cõi ác-giới nữa, chỉ còn tái-sinh trong cõi thiện-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi.

Đến kiếp thứ 7 ấy, bậc Thánh Nhập-lưu chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

  • Nếu Bậc Thánh Nhập-lưu tiếp tục thực-hành pháp- hành thiền-tuệ thì trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh- pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhất-lai Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được một loại phiền-não là sân loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất-lai.

Bậc Thánh Nhất-lai sau khi chết, chỉ còn tái-sinh một kiếp trong cõi thiện-giới là cõi người hoặc cõi trời dục-giới mà thôi.

Kiếp ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

  • Nếu Bậc Thánh Nhất-lai tiếp tục thực-hành pháp- hành thiền-tuệ thì trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh- pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được một loại phiền-não là sân loại vi- tế không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Bất-lai.

 

Bậc Thánh Bất-lai sau khi chết, không còn trở lại tái- sinh trong cõi dục-giới, mà chỉ còn tái-sinh trên cõi trời sắc-giới mà thôi. Bậc Thánh Bất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn tại cõi trời sắc-giới ấy, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

  • Nếu Bậc Thánh Bất-lai tiếp tục thực-hành pháp- hành thiền-tuệ thì trí-tuệ-thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô- thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được 7 loại phiền-não còn lại là tham, si, ngã-mạn, buồn-chán, phóng-tâm, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Bậc Thánh A-ra-hán ngay kiếp hiện-tại sẽ tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Pháp-hành Phật-giáo có quả trực tiếp là Pháp-thành Phật-giáo.

 

  1. Pháp-thành Phật-giáo (Paṭivedhasāsana)

Pháp-thành Phật-giáo là gì?

Pháp-thành Phật-giáo là quả của pháp-hành Phật- giáo đó là quả trực tiếp của pháp-hành thiền-tuệ.

Thật vậy, pháp-thành Phật-giáo đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn là quả của pháp-hành thiền-tuệ.

4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả liên quan nhân với quả tương xứng với nhau, Thánh-đạo-tâm nào sinh rồi diệt

 

liền cho Thánh-quả-tâm ấy sinh không có thời gian khoảng cách trong cùng Thánh-đạo lộ-trình-tâm ấy (Maggavīthicitta).

4 Thánh-đạo ® 4 Thánh-quả

Nhập-lưu Thánh-đạo ® Nhập-lưu Thánh-quả. Nhất-lai Thánh-đạo ® Nhất-lai Thánh-quả.

Bất-lai Thánh-đạo ® Bất-lai Thánh-quả.

A-ra-hán Thánh-đạo ® A-ra-hán Thánh-quả.

Niết-bàn chỉ là đối-tượng của 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm mà thôi. 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn gọi là 9 pháp siêu-tam-giới.

Sự liên quan giữa pháp-học, pháp-hành, pháp-thành

    • Pháp-học Phật-giáo là nhân có pháp-hành Phật- giáo là quả.
    • Pháp-hành Phật-giáo là nhân có pháp-thành Phật- giáo là quả.

Sự liên quan giữa pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo và pháp-thành Phật-giáo là sự liên quan theo nhân với quả với nhau. Cho nên, khi pháp này phát triển, thì pháp kia cũng phát triển, trái lại khi pháp này suy thoái, khiến cho pháp kia cũng suy thoái.

 

Phật-giáo suy thoái (Sāsana Antaradhāna)

Phật-giáo đó là lời giáo huấn của Đức-Phật vô cùng cao siêu, vô cùng vi-tế. Cho nên, các hàng thanh-văn đệ- tử của Đức-Phật chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu-ni, cận-sự- nam, cận-sự-nữ giữ gìn, duy trì, bảo tồn pháp-học Phật- giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp-thành Phật-giáo bằng trí-tuệ ba-la-mật, chắc chắn không phải là bằng cách

 

nào khác, mà trí-tuệ ba-la-mật của các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật càng ngày càng bị suy giảm dần, giảm dần theo thời gian.

Vì vậy, Phật-giáo bị mai một dần, bị suy thoái dần, theo thời gian tuổi thọ của Phật-giáo 5.000 năm.

Thời-kỳ đầu: Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, và sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, Phật-giáo phát triển theo thời gian.

Về sau trải qua thời gian lâu, Phật-giáo bị suy thoái dần theo thời gian tuổi thọ của Phật-giáo 5.000 năm, bởi vì, các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật không còn đủ khả năng trí-tuệ ba-la-mật để giữ gìn, duy trì, bảo tồn Phật-giáo vô cùng cao siêu, vô cùng vi-tế.

Trong Chú-giải Chi-bộ-kinh phần Ekakanipāta, giải thích về Phật-giáo suy thoái như sau:

  • Pháp-thành Phật-giáo suy thoái, (Adhigama antaradhāna).
  • Pháp-hành Phật-giáo suy thoái, (Paṭipatti antaradhāna).
  • Pháp-học Phật-giáo suy thoái. (Pariyatti antaradhāna).
  • Pháp-thành Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp- học Phật-giáo cả 3 loại Phật-giáo này thuộc về danh- pháp đó là trí-tuệ ba-la-mật, không phải sắc-pháp, nên Phật-giáo bị suy thoái, bị mai một không phải do lửa thiêu hủy, cũng không phải nước lũ cuốn trôi, cũng không phải do bão tàn phá, mà Phật-giáo bị suy thoái dần, bị mai một dần do các hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật là chư tỳ-khưu, chư sa-di, các cận-sự-nam, cận-sự-nữ càng ngày càng giảm dần trí-tuệ ba-la-mật,

 

nên càng ngày càng giảm dần đức-tin, giảm trí nhớ, giảm trí-tuệ.

Đó là nguyên nhân làm cho Phật-giáo bị suy thoái.

Pháp-học Phật-giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp- thành Phật-giáo được phát triển hay bị suy thoái theo tuần tự theo sự liên quan nhân với quả.

Pháp-học Phật-giáo là nhân, pháp-hành Phật-giáo là quả. Pháp-hành Phật-giáo là nhân, pháp-thành Phật- giáo là quả.

Sở pháp-thành Phật-giáo càng ngày càng bị suy thoái là vì pháp-hành Phật-giáo càng ngày càng bị suy thoái.

Pháp-hành Phật-giáo càng ngày càng bị suy thoái là vì pháp-học Phật-giáo càng ngày càng bị suy thoái, nên Phật-giáo dần dần bị suy thoái theo thời gian tuổi thọ của Phật-giáo 5.000 năm.

 

Pháp-thành Phật-giáo suy đồi như thế nào?

  • Trong Chú-giải bài kinh Gotamīsuttavaṇṇanā(1) có đoạn giải thích pháp-thành Phật-giáo bị mai một, bị suy đồi tuần tự theo thời gian tuổi thọ Phật-giáo 5.000 năm như sau:
    • Một ngàn năm thứ nhất: Hành-giả thực-hành pháp hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh A- ra-hán cùng với tứ tuệ-phân-tích, lục thông, tam-minh.
    • Một ngàn năm thứ nhì: Hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh A- ra-hán chỉ diệt tận được mọi phiền-não (sukkha- vipassaka) mà thôi.

1 Aṅg. Aṭṭhakanipātaṭṭhakathā, Gotamīsuttavaṇṇanā.

 

    • Một ngàn năm thứ ba: Hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Bất-lai.
    • Một ngàn năm thứ tư: Hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Nhất-lai.
    • Một ngàn năm thứ năm: Hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Nhập-lưu, và cuối cùng không còn bậc Thánh-nhân nào trong cõi người này nữa.

Đó là lúc pháp-thành Phật-giáo bị mai một, bị suy

đồi hoàn toàn trong cõi người này.

Theo Chú-giải Pāthikavaggaṭṭhakathā, Sampasādanīya- nīyasuttavaṇṇanā, phần Tipiṭaka antaradhānakathā(1) và Chú-giải Chi-bộ-kinh Ekakanipātaṭṭhakathā phần pañca antaradhānāni đó là adhigama antaradhāna, paṭipatti antaradhāna, pariyatti antaradhāna, liṅga antaradhāna, dhātu antaradhāna.

  • Pháp-thành Phật-giáo (adhigama antaradhāna) đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả bị mai một, bị suy đồi tuần tự theo thời gian tuổi thọ Phật-giáo 5.000 năm:
    • Một ngàn năm thứ nhất: Hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh A-ra-hán cùng với catupaṭisambhidā: Tứ tuệ-phân-tích.
    • Một ngàn năm tiếp theo: Hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh A- ra-hán cùng với chaḷābhiññā: Lục thông.

1 Dī. Pāthikavaggaṭṭhakathā, Sampasādanīyasuttavaṇṇanā, Tipiṭka antara- dhānakathā và Aṅg. Ekakanipātaṭṭhakathā, phần Pañca antarādhānāni.

 

    • Một ngàn năm tiếp theo: Hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh A-ra-hán cùng với tevijja: Tam-minh.
    • Một ngàn năm tiếp theo: Hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh A-ra-hán chỉ diệt tận được mọi phiền-não (sukkha- vipassaka) mà thôi.
    • Một ngàn năm tiếp theo: Hành-giả thực-hành pháp- hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Bất-lai, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Nhập-lưu và cuối cùng không còn ai có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh-nhân trên cõi người này nữa.

Nếu những bậc Thánh-nhân còn hiện hữu trong cõi người này thì pháp-thành Phật-giáo vẫn chưa hoàn toàn bị mai một, bị suy đồi cho đến khi nào những bậc Thánh-nhân ấy hết tuổi thọ, từ bỏ cõi người này, thiện- nghiệp cho quả tái-sinh hóa-sinh làm phạm-thiên trên cõi trời sắc-giới hoặc chư-thiên trong cõi trời dục-giới. Khi ấy, trong cõi người hoàn toàn không còn bậc Thánh- nhân nào.

Đó là lúc pháp-thành Phật-giáo bị mai một, bị suy

đồi hoàn toàn không còn trong cõi người này.

Pháp-hành Phật-giáo bị suy thoái như thế nào?

  • Pháp-hành Phật-giáo (paṭipatti antaradhāna) đó là pháp-hành-giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền- tuệ bị mai một, bị suy đồi tuần tự theo thời gian tuổi thọ Phật-giáo 5.000 năm.

Thời-kỳ đầu Phật-giáo, hành-giả thuộc hạng tam-nhân thực-hành pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc thành các bậc Thánh A-ra-hán cùng với lục thông càng ngày càng nhiều.

 

Sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, hành-giả thực- hành pháp-hành thiền-tuệ còn có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán (sukkhavipassaka) không có bậc thiền sắc-giới.

Về sau, trải qua thời gian theo tuần tự, hành-giả thực- hành pháp-hành thiền-tuệ có khả năng chứng đắc các bậc Thánh thấp dần, theo tuần tự thời gian từ bậc Thánh Bất-lai, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Nhập-lưu.

Đến thời-kỳ gần mãn tuổi thọ của Phật-giáo 5.000 năm, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ không đúng theo pháp-hành trung-đạo và cuối cùng không còn hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ nữa.

Đó là thời-kỳ pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền- tuệ bị mai một, bị suy đồi trong cõi người.

  • Pháp-hành-giới: Cũng như pháp-hành thiền-tuệ và pháp-hành thiền-định, thời-kỳ đầu Phật-giáo, hành-giả giữ gìn giới của mình trong sạch, đầy đủ và trọn vẹn.

Sau khi Đức-Phật tịch diệt Niết-bàn, chư tỳ-khưu có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, nên hết lòng tôn kính tất cả mọi điều-giới mà Đức-Phật đã chế định, ban hành cho tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni. Chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nghiêm chỉnh giữ gìn mọi điều-giới của mình được trong sạch trọn vẹn, để làm nền tảng cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.

Về sau, trải qua thời gian theo tuần tự, chư tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni có đức-tin càng ngày càng giảm dần, xem thường những điều-giới nhẹ, nên phạm giới dubbhāsita āpatti (giới nói bậy), phạm giới dukkaṭa āpatti (giới hành bậy), và dần dần tiếp theo phạm giới pācittiya āpatti (giới sám hối lỗi), phạm giới thullaccaya āpatti (giới trọng). Các loại giới này còn thuộc về loại giới nhẹ.

 

Từ đó về sau, thời gian theo tuần tự tỳ-khưu, tỳ-khưu- ni phạm giới nặng, như phạm giới Saṃghādisesa āpatti (giới hành phạt), nhưng vẫn còn giữ phẩm hạnh tỳ-khưu, tỳ-khưu ni, cho đến khi tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni nào phạm giới pārājika āpatti (giới bại hoại), khi ấy, tỳ-khưu, tỳ- khưu-ni ấy không còn phẩm hạnh tỳ-khưu, phẩm hạnh tỳ-khưu-ni nữa.

Thời-kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ tư tại Đảo quốc Srilankā, 450 năm sau Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn, khi ấy, tỳ-khưu-ni-Tăng vẫn còn, khoảng 500 năm sau Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn, tỳ-khưu-ni-tăng không còn nữa, chỉ còn có chư tỳ-khưu-tăng tồn tại cho đến nay mà thôi.

Theo tuần tự thời gian đến khi gần mãn tuổi thọ Phật- giáo 5.000 năm, tỳ-khưu có đức-tin càng ngày càng giảm dần, nên giữ gìn giới-hạnh của mình không còn trong sạch, cho đến khi không còn hành-giới nữa.

Đó là thời-kỳ pháp-hành-giới bị mai một, bị suy đồi và cũng là thời-kỳ pháp-hành Phật-giáo bị suy đồi trong cõi người.

Pháp-học Phật-giáo bị suy thoái như thế nào?

Pháp-học Phật-giáo đó là học Tam-tạng Pāḷi và Chú- giải Pāḷi, lời giáo huấn của Đức-Phật.

Pháp-học Phật-giáo là nhân, pháp-hành Phật-giáo là quả, nhân và quả đi đôi với nhau.

Sở dĩ, pháp-hành Phật-giáo bị mai một, bị suy thoái dần tuần tự theo thời gian tuổi thọ Phật-giáo 5.000 năm là vì pháp-học Phật-giáo bị mai một, bị suy đồi theo thời gian tuổi thọ Phật-giáo 5.000 năm ấy.

Ban đầu, chư Đại-Trưởng-lão, chư Trưởng-lão học thuộc lòng giữ gìn duy trì Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải

 

Pāḷi Pháp-học Phật-giáo đầy đủ y theo bản chánh qua các kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

Về sau, tuần tự theo thời gian chư Đại-Trưởng-lão và chư Trưởng-lão thông-thuộc, thấu-suốt Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi đã tịch diệt không còn trong cõi người.

Chỉ còn chư tỳ-khưu có đức-tin càng ngày càng giảm dần, trí-tuệ ba-la-mật kém, nên không đủ khả năng học thuộc lòng trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi.

Đó là nguyên nhân làm cho pháp-học Phật-giáo bị mai một, bị suy đồi tuần tự theo thời gian tuổi thọ của Phật-giáo 5.000 năm như sau:

Tam-tạng Pāḷi Tạng Luật Pāḷi, Tạng Kinh Pāḷi, Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi bị mai một, bị suy đồi theo tuần tự:

Trong Tam-tạng Pāḷi ấy, trước tiên Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi (Abhidhammapiṭakapāḷi) bị mai một, bị suy đồi.

  • Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi gồm có 7 bộ lớn là:
  1. Bộ Dhammasaṅgaṇīpāḷi: Bộ Pháp-hội-tụ gồm tất cả các chân-nghĩa-pháp thành nhóm Mātikā.
  2. Bộ Vibhaṅgapāḷi: Bộ Pháp-phân-tích gồm các pháp phân tích ra 18 loại, …
  3. Bộ Dhātukathāpāḷi: Bộ Pháp-phân-loại gồm các pháp phân loại thành ngũ-uẩn (khandha),…
  4. Bộ Puggalapaññattipāḷi: Bộ Pháp-nhân-chế-định

phân biệt các hạng người khác nhau.

  1. Bộ Kathāvatthupāḷi: Bộ Pháp-luận-đề đặt vấn đề

phá tan mọi tà thuyết, trở lại Chánh-pháp.

  1. Bộ Yamakapāḷi: Bộ Pháp-song-đối gồm các câu hỏi, câu trả lời đi đôi với nhau từng cặp.
  2. Bộ Paṭṭhānapāḷi: Bộ Pháp-duyên-hệ giải về 24 duyên (paccaya) có quan hệ với nhau.

 

  • Bộ Paṭṭhānapāḷi: Pháp-duyên-hệ này là bộ lớn và rộng nhất, sâu sắc và vi-diệu nhất trong Phật-giáo.

Trong 7 bộ này, đầu tiên bộ Paṭṭhānapāḷi: Bộ Pháp- duyên-hệ là bộ lớn nhất, vi-tế sâu sắc nhất, bị mai một trước; tiếp theo bộ Yamakapāḷi: Bộ Pháp-song-đối; tuần tự đến bộ Kathāvatthupāḷi: Bộ Pháp-luận-đề, bộ Puggalapaññattipāḷi: Bộ Nhân-chế-định, bộ Dhātu- kathāpāḷi: Bộ Pháp-phân-loại, bộ Vibhaṅgapāḷi: Bộ Pháp-phân-tích, cuối cùng bộ Dhammasaṅgaṇīpāli: Bộ Pháp-hội-tụ bị mai một, bị suy đồi cuối cùng.

Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, nhưng còn Tạng Kinh Pāḷi và Tạng Luật Pāḷi pháp-học Phật-giáo vẫn còn tồn tại.

Tiếp theo Tạng Kinh Pāḷi (Suttantapiṭakapāḷi) bị mai một, bị suy đồi. Tạng Kinh Pāḷi có 5 bộ lớn:

  • Dīghanikāyapāḷi (Trường-bộ-kinh)
  • Majjhimanikāyapāḷi (Trung-bộ-kinh)
  • Saṃyuttanikāyapāḷi (Đồng-loại-bộ-kinh)
  • Aṅguttaranikāyapāḷi (Chi-bộ-kinh)
  • Khuddakanikāyapāḷi (Tiểu-bộ-kinh)

Trong 5 bộ này, đầu tiên Aṅguttaranikāyapāḷi: Chi- bộ-kinh bị mai một trước. Chi-bộ-kinh có 11 phần, gồm những bài pháp, bài kinh có 1 chi, 2 chi, 3 chi, v.v... cho đến những bài kinh có 11 chi.

  • Aṅguttaranikāyapāḷi, trước tiên, những bài kinh có 11 chi bị mai một trước, tiếp theo những bài kinh có 10 chi và tuần tự đến những bài kinh có 9 chi, có 8 chi, có 7 chi, có 6 chi, có 5 chi, có 4 chi, có 3 chi, có 2 chi, cuối cùng những bài pháp 1 chi bị mai một hoàn toàn.

Chi-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.

 

  • Tiếp theo Saṃyuttanikāyapāḷi: Đồng-loại-bộ-kinh

bị mai một, bị suy đồi. Đồng-loại-bộ-kinh có 5 phần:

  • Sagāthāvaggasaṃyuttapāḷi
  • Nidānavaggasaṃyuttapāḷi
  • Khaṇdhavaggasaṃyuttapāḷi
  • Sāḷāyatanasaṃyuttapāḷi
  • Mahāvaggasaṃyuttapāḷi

Trong 5 phần này, trước tiên phần Mahāvagga- saṃyuttapāḷi bị mai một trước, tiếp theo phần Sāḷāyatanasaṃyuttapāḷi, tuần tự đến phần Khaṇdha- vaggasaṃyuttapāḷi, phần Nidānavaggasaṃyuttapāḷi và cuối cùng phần Sagāthāvaggasaṃyuttapāḷi bị mai một hoàn toàn.

Đồng-loại-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.

  • Tiếp theo Majjhimanikāyapāḷi: Trung-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi. Trung-bộ-kinh có 3 phần:
  • Mūlapaṇṇāsapāḷi
  • Majjhimapaṇṇāsapāḷi
  • Uparipaṇṇāsapāḷi

Trong 3 phần này, trước tiên phần Uparipaṇṇāsapāḷi bị mai một trước, tiếp theo phần Majjhimapaṇṇāsapāḷi cuối cùng phần Mūlapaṇṇāsapāḷi bị mai một hoàn toàn.

Trung-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.

  • Tiếp theo Dīghanikāyapāḷi: Trường-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi. Trường-bộ-kinh có 3 phần:
  • Sīlakkhandhavaggapāḷi
  • Mahāvaggapāḷi
  • Pāthikavaggapāḷi

Trong 3 phần này, trước tiên phần Pāthikavaggapāḷi

bị mai một, bị suy đồi trước, tiếp đến phần Mahā-

 

vaggapāḷi và cuối cùng phần Sīlakkhandhavaggapāḷi bị mai một hoàn toàn.

Trường-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.

  • Tiếp theo Khuddakanikāyapāḷi: Tiểu-bộ-kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.

Tạng Kinh Pāḷi bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, nhưng còn Tạng Luật Pāḷi pháp-học Phật-giáo vẫn còn tồn tại.

  • Cuối cùng Tạng Luật Pāḷi: Vinayapiṭakapāḷi bị mai một, bị suy đồi. Tạng Luật Pāḷi có 5 bộ:
  • Bộ Pārājikapāḷi
  • Bộ Pācittiyapāḷi
  • Bộ Mahāvaggapāḷi
  • Bộ Cūḷavaggapāḷi
  • Bộ Parivārapāḷi

Trong 5 bộ này, trước tiên bộ Parivārapāḷi bị mai một trước, tiếp theo bộ Cūḷavaggapāḷi, tuần tự đến bộ Mahāvaggapāḷi, bộ Pācittiyapāḷi và cuối cùng bộ Pārājikapāḷi bị mai một, song chỉ còn Uposatha- kkhandhaka pháp-học Phật-giáo vẫn chưa bị mai một, chưa bị suy đồi.

Về sau, Uposathakkhandhaka bị mai một, cuối cùng không còn một ai thuộc lòng được bài kệ gồm có 4 câu.

Khi ấy, pháp-học Phật-giáo bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn.

Tóm lại, trong 3 loại Phật-giáo là pháp-học Phật- giáo, pháp-hành Phật-giáo, pháp-thành Phật-giáo, thì pháp-học Phật-giáo là cốt lõi, là nền tảng căn bản của pháp-hành Phật-giáo và pháp-thành Phật-giáo.

 

Thật vậy, nếu học pháp-học Phật-giáo hiểu biết đúng, kỹ càng, thì khi thực-hành pháp-hành Phật-giáo mới đúng. Nếu thực-hành pháp-hành Phật-giáo đúng, thì có quả là pháp-thành Phật-giáo đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn mới phát sinh, dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Trái lại, nếu học pháp-học Phật-giáo mà hiểu sai thì sẽ thực-hành pháp-hành Phật-giáo sai, nếu thực-hành pháp-hành Phật-giáo sai thì sẽ không có quả là pháp- thành Phật-giáo, không có 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, Niết-bàn, không thể giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, mà vẫn tiếp tục chịu mọi cảnh khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.

Phật-giáo là lời giáo huấn của Đức-Phật bằng ngôn ngữ Pāḷi được ghi chép thành Tam-tạng Pāḷi đó là Tạng Luật Pāḷi, Tạng Kinh Pāḷi, Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi.

Trong ba Tạng này, Tạng Luật Pāḷi là nền tảng căn bản của Phật-giáo, cũng là tuổi thọ của Phật-giáo.

Thật vậy, dù Tạng Vi-diệu-pháp Pāḷi Tạng Kinh Pāḷi bị mai một hoàn toàn, chỉ còn có Tạng Luật Pāḷi thì Phật-giáo vẫn còn tồn tại trong cõi người.

Trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, phần đầu Nidāna dạy rằng:

“Vinayo nāma Buddhasāsanassa āyu, Vinaye ṭhite, sāsanaṃ ṭhitaṃ hotu.”(1)

Tạng Luật là tuổi thọ của Phật-giáo. Khi Tạng Luật được trường tồn,

Thì Phật-giáo được trường tồn. (Xong phần Đức-Pháp)

1 Bộ Pārājikakaṇda aṭṭhakathā, Bāhiranidānakathā.

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications