Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Kinh Trường Bộ 033 Kinh Phúng Tụng (Sangīti sutta)
Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại vườn xoài của người thợ rèn Thuần-đà (Cunda), gần thành Pàvà, thuộc bộ-lạc Mallà. Thể theo lời mời của dân Mallà, Ngài đến khai-trương hội-trường mới của họ. Đến tối, Ngài hơi mệt, nên bảo Tôn-giả Xá-lợi-phất thay-thế Ngài giảng kinh cho các Tỳ-kheo nghe. Do đó Kinh nầy được Tôn-giả Xá-lợi-phất (Sariputta) thuyết-giảng, có sự chứng-minh của Thế-Tôn đang nằm nghỉ bên cạnh.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:179

Các tên gọi khác

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại vườn xoài của người thợ rèn Thuần-đà (Cunda), gần thành Pàvà, thuộc bộ-lạc Mallà. Thể theo lời mời của dân Mallà, Ngài đến khai-trương hội-trường mới của họ. Đến tối, Ngài hơi mệt, nên bảo Tôn-giả Xá-lợi-phất thay-thế Ngài giảng kinh cho các Tỳ-kheo nghe. Do đó Kinh nầy được Tôn-giả Xá-lợi-phất (Sariputta) thuyết-giảng, có sự chứng-minh của Thế-Tôn đang nằm nghỉ bên cạnh.
Kinh Trường Bộ 033 Kinh Phúng Tụng (Sangīti sutta)

 

 

 

I.Nội dung kinh


(Download file MP3 – 18.21 MB – Thời gian phát: 01 giờ,46 phút 03 giây.)
Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về [email protected] để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Như vầy tôi nghe.
Tụng phẩm I

1. Một thời Thế Tôn du hành giữa dân tộc Mallà cùng với Ðại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Ngài đến tại thành của dân chúng Mallà tên là Pàvà và trú tại đấy. Thế Tôn trú tại Pàvà trong rừng xoài của thợ rèn Cunda.
2. Lúc bấy giờ, một hội trường tên là Ubbhataka mới được dựng lên giữa dân chúng Mallà, trú ở Pàvà, và hội trường này chưa có vị Sa-môn, Bà-la-môn, hay một người nào khác an trú. Dân chúng Mallà ở Pàvà được nghe: “Thế Tôn du hành giữa dân tộc Mallà, cùng với Ðại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Ngài đến tại Pàvà, trú tại đấy, trong rừng xoài của thợ rèn Cunda”. Rồi các vị Mallà ở Pàvà đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các vị Mallà ở Pàvà bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, ở đây một hội trường tên là Ubbhataka mới được dựng lên giữa dân chúng Mallà ở Pàvà, và hội trường này chưa có vị Sa-môn, Bà-la-môn, hay một người nào khác an trú. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn là người đến dùng hội trường này trước tiên. Nhờ Thế Tôn dùng trước tiên, dân chúng Mallà ở Pàvà sẽ được hạnh phúc an lạc lâu dài.
Thế Tôn im lặng nhận lời.
3. Rồi các vị Mallà ở Pàvà, sau khi biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng đến Ngài, từ tạ đi đến hội trường. Sau khi đến, liền dùng đệm trải khắp tất cả, sửa soạn các ghế ngồi, đặt sẵn một ghè nước, treo cây đèn dầu, rồi đến chỗ Thế Tôn ở. Sau khi đến, các vị này đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, các vị Mallà ở Pàvà bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, hội trường đã được trải nệm tất cả, các ghế ngồi đã được sửa soạn, ghè nước đã được đặt sẵn, cây đèn dầu đã được treo lên, Thế Tôn hãy làm gì Ngài nghĩ là phải thời.
4. Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát cùng với chúng Tỷ-kheo đến tại hội trường. Khi đến xong Ngài rửa chân và vào hội trường. Thế Tôn ngồi dựa trên cột chính giữa, mặt hướng về phía Ðông. Chúng Tỷ-kheo sau khi rửa chân, vào hội trường, ngồi dựa trên bức tường phía Tây, mặt hướng về phía Ðông, sau lưng Thế Tôn. Các vị Mallà ở Pàvà cũng rửa chân, đi vào hội trường, và ngồi xuống, dựa vào bức tường phía Ðông, mặt hướng phía Tây, trước mặt có Thế Tôn. Rồi Thế Tôn, cho đến đêm thật khuya, thuyết pháp cho dân Mallà ở Pàvà, giảng dạy, giải thích, khích lệ, làm cho hứng khởi rồi bảo các vị ấy về:
– Này Vàsetthà, đêm đã quá khuya. Các Ngươi hãy làm những gì các Ngươi xem là phải thời.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Các vị Mallà ở Pàvà vâng lời Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân phía hữu hướng về Ngài và ra đi.
5. Thế Tôn, khi dân Mallà đi chưa bao lâu, nhìn chúng Tỷ-kheo đang yên lặng, rồi bảo tôn giả Sàriputta:
– Này Sàriputta, chúng Tỷ-kheo không có hôn trầm thụy miên. Này Sàriputta, hãy thuyết pháp cho chúng Tỷ-kheo. Ta cảm thấy đau lưng! Ta muốn nằm nghỉ.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn! – Tôn giả Sàriputta vâng lời Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn, xếp y Sanghàti (Tăng-già-lê) gấp bốn và nằm xuống như cách nằm con sư tử, thân phía hữu, hai chân để trên nhau, chánh niệm tỉnh giác, với tâm nghĩ đến lúc ngồi dậy.
6. Lúc bấy giờ, Niganthà Nàthaputta vừa mới tạ thế ở Pàvà. Sau khi vị này tạ thế, các vị Niganthà chia ra làm hai phái, chia rẽ nhau, tranh chấp nhau, tranh luận nhau và sống tàn hại nhau với binh khí bằng miệng: “Ngươi không biết Pháp và Luật này, ta biết Pháp và Luật này. Sao Ngươi có thể biết Pháp và Luật này? Người theo tà hạnh, ta theo chánh hạnh. Lời nói ta tương ưng, lời nói Ngươi không tương ưng. Ðiều đáng nói trước, Ngươi nói sau; điều đáng nói sau, Ngươi nói trước. Ðiều Ngươi quan niệm trình bày đã bị đảo lộn. Quan niệm của Ngươi đã bị thách đố. Ngươi đã bị đánh bại. Hãy đi giải tỏa quan điểm của Ngươi! Hãy tự thoát khỏi bế tắc nếu Ngươi có thể làm được”. Hình như các đệ tử của Niganthà Nàthaputta muốn tàn hại lẫn nhau. Chính các đệ tử cư sĩ mặc đồ trắng của Nigantha Nàthaputta cũng chán ngấy, cơ hiềm và phản đối các vị Nigantha, vì Pháp và Luật của họ đã được trình bày, tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết, tháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ y chỉ.
7. Rồi tôn giả Sàriputta bảo các Tỷ-kheo:
– Này Hiền giả, Niganthà Nàthaputta vừa mới từ trần không bao lâu. Sau khi vị này từ trần, các Nigantha (Ni-kiền-tử) chia làm hai phe… và không có chỗ y chỉ.
Nhưng với chúng ta, này các Hiền giả, pháp này được Thế Tôn khéo giảng dạy, khéo trình bày, một Chánh pháp có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh Ðẳng Giác trình bày. Ở đây, tất cả mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không cãi cọ nhau, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Này các Hiền giả, thế nào là Pháp được Thế Tôn chúng ta khéo giảng dạy, khéo trình bày, một pháp có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh do vị Chánh Ðẳng Giác trình bày? Ở đây, tất cả cần phải cùng nhau tụng đọc không cãi cọ nhau, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Này các Hiền giả, có một pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị này đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Một pháp
8. Thế nào là một pháp? Tất cả loài hữu tình do các món ăn (àhàra) mà an trú, tất cả loài hữu tình do các hành (samkhàrà) mà an trú. Này các Hiền giả, đó là một pháp được Thế Tôn, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thuyết giảng một cách chơn chánh. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Hai pháp
9. Này các Hiền giả, có hai pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Thế nào là hai pháp?
i) Danh và sắc.
ii) Vô minh và hữu ái.
iii) Hữu kiến và vô hữu kiến.
iv) Vô tàm và vô quý.
v) Tàm và quý.
vi) Ác ngôn và ác hữu.
vii) Thiện ngôn và thiện hữu.
viii) Nhập tội thiện xảo và xuất tội thiện xảo.
ix) Ðẳng chí thiện xảo và xuất khởi đẳng chí thiện xảo.
x) Giới thiện xảo và tác ý thiện xảo.
xi) Xứ thiện xảo và duyên khởi thiện xảo.
xii) Thiện xảo về xứ và thiện xảo về phi xứ.
xii) Chơn trực và tàm quý.
xiv) Kham nhẫn và nhu hòa.
xv) Lời nói nhu thuần và tiếp đón thân tình.
xvi) Vô hại và từ ái.
xvii) Thất niệm và bất chánh tri.
xvii) Chánh niệm và tỉnh giác.
xix) Các căn không được chế ngự và ăn uống không tiết độ.
xx) Các căn được chế ngự và ăn uống có tiết độ.
xxi) Tư duy lực và tu tập lực.
xxii) Niệm lực và định lực.
xxiii) Chỉ và quán.
xxiv) Chỉ tướng và tinh cần tướng.
xxv) Tinh cần và không dao động.
xxvi) Giới thành tựu và kiến thành tựu.
xxvii) Giới suy khuyết và kiến suy khuyết.
xxxiii) Giới thanh tịnh và kiến thanh tịnh.
xxix) Kiến thanh tịnh và tinh cần theo tri kiến ấy.
xxx) Dao động đối với các pháp bị dao động và chánh tinh cần của người bị dao động ấy.
xxxi) Không tri túc với các thiện pháp và không thối thất trong tinh cần.
xxxii) Minh tri và giải thoát.
xxxiii) Tận tri và vô sanh trí.
Này các Hiền giả, hai pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Ba pháp
10. Này các Hiền giả, có ba pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Thế nào là ba pháp?
i) Ba bất thiện căn: Tham bất thiện căn, sân bất thiện căn, si bất thiện căn.
ii) Ba thiện căn: Vô tham thiện căn, vô sân thiện căn, vô si thiện căn.
iii) Ba ác hạnh: Thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh.
iv) Ba thiện hạnh: Thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh, ý thiện hạnh.
v) Ba bất thiện tầm: Dục tầm, sân tầm, hại tầm.
vi) Ba thiện tầm: Ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm.
vii) Ba bất thiện tư duy: Dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy.
viii) Ba thiện tư duy: Ly dục tư duy, vô sân tư duy, vô hại tư duy.
ix) Ba bất thiện tưởng: Dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng.
x) Ba thiện tưởng: Ly dục tưởng, vô sân tưởng, vô hại tưởng.
xi) Ba bất thiện giới: Dục giới, sân giới, hại giới.
xii) Ba thiện giới: Ly dục giới, vô sân giới, vô hại giới.
xiii) Ba giới khác: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
xiv) Ba giới khác: Sắc giới, vô sắc giới, diệt giới.
xv) Ba giới khác: Liệt giới, trung giới, thắng giới.
xvi) Ba ái: Dục ái, hữu ái, vô hữu ái.
xvii) Ba ái khác: Dục ái, sắc ái, vô sắc ái.
xviii) Ba ái khác: Sắc ái, vô sắc ái, diệt ái.
xix) Ba kiết sử: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ.
xx) Ba lậu: Dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu.
xxi) Ba hữu: Dục hữu, sắc hữu, vô minh hữu.
xxii) Ba cầu: Dục cầu, hữu cầu, phạm hạnh cầu.
xxiii) Ba mạn: Thắng mạn, đẳng mạn, ty liệt mạn.
xxiv) Ba thời: Quá khứ thời, vị lai thời, hiện tại thời.
xxv) Ba biên: Hữu thân biên, hữu thân tập biên, hữu thân diệt biên.
xvi) Ba thọ: Lạc thọ, khổ thọ, phi khổ phi lạc thọ.
xvii) Ba khổ tánh: Khổ khổ, hành khổ, hoại khổ.
xxviii) Ba tụ: Tà định tụ, chánh định tụ, bất định tụ.
xxix) Ba nghi: Ðối với vấn đề thuộc quá khứ nghi ngờ, do dự, không quyết định, không hài lòng; đối với các vấn đề thuộc tương lai, nghi ngờ, do dự, không quyết định, không hài lòng; đối với các vấn đề hiện tại nghi ngờ, do dự, không quyết định, không hài lòng.
xxx) Ba điều Như Lai không cần gìn giữ: Này các Hiền giả, Như Lai thanh tịnh thiện hành về thân. Như Lai không có ác về thân mà Như Lai phải gìn giữ: “Chớ để người khác biết việc này về Ta”. Này các Hiền giả, Như Lai thanh tịnh thiện hành về miệng. Như Lai không có ác hạnh về miệng mà Như Lai phải gìn giữ: “Chớ để người khác biết việc này về Ta”. Này các Hiền giả, Như Lai thanh tịnh thiện hành về ý. Như Lai không có ác hạnh về ý mà Như Lai phải gìn giữ: “Chớ để người khác biết việc này về Ta”.
xxxi) Ba chướng: Tham chướng, sân chướng, si chướng.
xxxii) Ba loại lửa: Lửa tham, lửa sân, lửa si.
xxxiii) Ba loại lửa khác: Lửa của người hiếu kính, lửa của người gia chủ, lửa của người cúng dường (cha mẹ, vợ con và các vị xuất gia).
xxxiv) Ba loại sắc tụ: Hữu kiến hữu đối sắc, vô kiến hữu đối sắc, vô kiến vô đối sắc.
xxxv) Ba hành: Phước hành, phi phước hành, bất động hành.
xxxvi) Ba loại người: Hữu học nhân, vô học nhân, phi hữu học phi vô học nhân.
xxxvii) Ba vị trưởng lão: Sanh trưởng lão, pháp trưởng lão, nhập định trưởng lão.
xxxviii) Ba phước nghiệp sự: Thí hành phước nghiệp sự, giới hành phước nghiệp sự, tu hành phước nghiệp sự.
xxxix) Ba cử tội sự: Thấy, nghe và nghi.
xl) Ba dục sanh: Này các Hiền giả, có những loại hữu tình do dục an trú. Ðối với các dục, họ chịu sự an trú, họ bị chi phối phụ thuộc, như loài Người, một số chư Thiên, một số tái sanh trong đọa xứ. Ðó là loại dục sanh thứ nhất. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình có lòng dục đối với những sự vật do họ tạo ra. Họ tạo hóa ra các sự vật và họ sống bị chi phối phụ thuộc hóa ra các sự vật và họ sống bị chi phối phụ thuộc trong những dục vọng ấy, như các loài chư Thiên Nimmàna-Rati (Hóa Lạc thiên). Ðó là loại dục sanh thứ hai. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình có lòng dục đối sự vật do các loài khác tạo ra. Họ sống bị chi phối phụ thuộc trong những dục vọng đối với sự vật do các loại khác tạo ra. Như các loài chư Thiên Para-nimmitava-savatti (Tha Hóa Tự tại thiên). Ðó là hạng dục sanh thứ ba.
xli) Ba loại lạc sanh: Này các Hiền giả, có những loài hữu tình (trong quá khứ) luôn luôn tạo ra (thiền định lạc) hay sống trong sự an lạc, như các vị Brahma – Kàyikà (Phạm Chúng thiên). Ðó là hạng lạc sanh thứ nhất. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình thấm nhuần, biến mãn, sung mãn, hưng thịnh với an lạc. Thỉnh thoảng họ thốt ra những câu cảm hứng: “Ôi an lạc thay! Ôi an lạc thay!”, như chư Thiên Abhassarà (Quang Âm thiên). Ðó là hạng lạc sanh thứ hai. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình thấm nhuần, biến mãn, sung mãn, hưng thịnh với an lạc. Họ sống mãn túc với an lạc ấy, cảm thọ an lạc, như chư Thiên Subhakinnà (Biến Tịnh thiên). Ðó là loại lạc sanh thứ ba.
xlii) Ba tuệ: Hữu học tuệ, vô học tuệ, phi hữu học phi vô học tuệ.
xliii) Lại ba tuệ khác: Tư sanh tuệ, văn sanh tuệ, tu sanh tuệ.
xliv) Ba loại binh khí: Nghe, xả ly và tuệ.
xlv) Ba căn: Vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn.
xlvi) Ba nhãn: Nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn.
xlvii) Ba học: Tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học.
xlviii) Ba sự tu tập: Thân tu, tâm tu, tuệ tu.
xlix) Ba vô thượng: Kiến vô thượng, hành vô thượng, giải thoát vô thượng.
l) Ba định: Hữu tầm hữu tứ định, vô tầm hữu tứ định, vô tầm vô tứ định.
li) Lại ba định khác: Không định, vô tướng định, vô nguyện định.
lii) Ba thanh tịnh: Thân thanh tịnh, ngữ thanh tịnh, ý thanh tịnh.
liii) Ba tịch mặc: Thân tịch mặc, ngữ tịch mặc, ý tịch mặc.
liv) Ba thiện xảo: Tăng ích thiện xảo, tổn ích thiện xảo, phương tiện thiện xảo.
lv) Ba kiêu: Vô bệnh kiêu, niên tráng kiêu, hoạt mạng kiêu.
lvi) Ba tăng thượng: Ngã tăng thượng, thế tăng thượng, pháp tăng thượng.
lvii) Ba luận sự: Luận bàn về vấn đề quá khứ: “Sự việc này xảy ra trong quá khứ”; luận bàn về vấn đề tương lai: “Sự việc này xảy ra trong tương lai”; luận bàn về vấn đề hiện tại: “Sự việc này xảy ra trong hiện tại”.
lvii) Ba minh: Túc mạng trí minh, Hữu tình sanh tử minh, Lậu tận trí minh.
lix) Ba trú: Thiên trú, Phạm trú, Thánh trú.
lx) Ba thần thông: Thần túc thần thông, tri tha tâm thần thông, giáo giới thần thông.
Này các Hiền giả, ba pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Bốn pháp
11. Này các Hiền giả, có bốn pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào là bốn?
i) Bốn niệm xứ: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham sân trên đời; quán các cảm thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham sân trên đời; quán các tâm trên các tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham sân trên đời; quán các pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để nhiếp phục tham sân trên đời.
ii) Bốn chánh cần: Ở đây, này các Hiền giả vị Tỷ-kheo, với mục đích khiến cho các ác, bất thiện pháp từ trước chưa sanh không cho sanh khởi, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm. Với mục đích khiến cho các ác bất thiện pháp đã sanh ra được trừ diệt, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm. Với mục đích khiến cho các thiện pháp từ trước chưa sanh nay cho sanh khởi, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm. Với mục đích khiến cho các thiện pháp đã được sanh có thể duy trì, không có mù mờ, được tăng cường, được quảng đại, được tu tập, được viên mãn, khởi lên ý muốn, cố gắng, tinh tấn, sách tâm, trì tâm.
iii) Bốn thần túc: Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo tu tập thần túc, câu hữu với tinh tấn thực hiện Dục thiền định. Tu tập thần túc câu hữu với tinh tấn thực hiện Tâm thiền định. Tu tập thần túc câu hữu với tinh tấn thực hiện Tinh tấn thiền định. Tu tập thần túc câu hữu với tinh tấn thực hiện Tư duy thiền định (Dục như ý thần túc, Tâm như ý thần túc, Tinh tấn như ý thần túc, Tư duy như ý thần túc).
iv) Bốn thiền: Ở đây, vị Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
v) Bốn tu tập thiền định: Này các Hiền giả, có sự tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần đưa đến lạc trú ngay trong hiện tại. Này các Hiền giả, có sự tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến chứng đắc tri kiến. Này các Hiền giả, có sự tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến chánh niệm tỉnh giác. Này các Hiền giả, có sự tu tập thiền định, nhờ sự tu tập, nhờ hành trì nhiều lần đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc.
Này các Hiền giả, thế nào là sự tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần đưa đến lạc trú ngay trong hiện tại? Ở đây, này các Hiền giả, có vị Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, và trú thiền thứ nhất… thiền thứ hai… thiền thứ ba… chứng và trú thiền thứ tư. Này các Hiền giả, như vậy là sự tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần đưa đến lạc trú ngay trong hiện tại.
Này các Hiền giả, thế nào là sự tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần đưa đến chứng đắc tri kiến? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo, tác ý quang minh tưởng, an trú tưởng ban ngày, ban ngày thế nào ban đêm như vậy, ban đêm thế nào ban ngày như vậy. Và như vậy với tâm mở rộng không có đóng kín, tạo ra một tâm có hào quang. Này các Hiền giả, như vậy là tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến chứng đắc tri kiến.
Này các Hiền giả, thế nào là sự tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, hướng đến chánh niệm, tỉnh giác? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo biết được thọ khởi, biết được thọ trú, biết được thọ diệt, biết được tưởng khởi, biết được tưởng trú, biết được tưởng diệt, biết được tầm khởi, biết được tầm trú, biết được tầm diệt. Này các Hiền giả, như vậy là sự tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến chánh niệm tỉnh giác.
Này các Hiền giả, thế nào là sự tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc? Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo an trú, quán tánh sanh diệt trên Năm Thủ uẩn – Ðây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt. Ðây là thọ… Ðây là tưởng… Ðây là hành… Ðây là thức, đây là thức tập, đây là thức diệt. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự tu tập thiền định, nhờ tu tập, nhờ hành trì nhiều lần, đưa đến sự diệt tận các lậu hoặc.
vi) Bốn vô lượng tâm: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Lại nữa, vị Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi … với tâm câu hữu với hỷ … với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
vii) Bốn vô sắc: Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, vị Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ. Vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ. Vượt lên mọi thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
viii) Bốn y chỉ: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo sau khi suy nghĩ, thọ dụng; sau khi suy nghĩ, nhẫn thọ; sau khi suy nghĩ, viễn ly; sau khi suy nghĩ, khiển trừ.
ix) Bốn Thánh chủng: Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo tự bằng lòng với bất cứ loại y nào, tán thán sự bằng lòng với bất cứ loại y nào, không cố gắng tìm cầu y một cách không xứng đáng, không có áo não nếu không được y, nhưng khi được y, vị này, không nhiễm trước, không say mê, không có phạm tội. Vị này dùng y, thấy các nguy hiểm và biết rõ sự giải thoát. Vì tự bằng lòng với bất cứ loại y nào, vị ấy không khen mình chê người. Ở đây, vị này khéo léo, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm, này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã trung thành với Thánh chủng, theo truyền thống quá khứ.
Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo tự bằng lòng với bất cứ món ăn khất thực nào, tán thán sự bằng lòng với bất cứ món ăn khất thực nào, không cố gắng tìm cầu món ăn khất thực một cách không xứng đáng, không có áo não nếu không được món ăn khất thực. Nhưng khi được món ăn khất thực, vị này không nhiễm trước, không say mê, không có phạm tội. Vị này dùng các món ăn khất thực, thấy các nguy hiểm và biết rõ sự giải thoát. Vì tự bằng lòng với bất cứ món ăn khất thực nào, vị này không khen mình chê người. Ở đây, vị này khéo léo, tinh cần, chánh niệm. Này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã trung thành với Thánh chủng, theo truyền thống quá khứ.
Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo tự bằng lòng với bất cứ phòng xá nào, tán thán sự bằng lòng với bất cứ phòng xá nào, không cố gắng tìm cầu phòng xá một cách không xứng đáng, không có áo não nếu không được trú xứ. Nhưng khi được phòng xá, vị này không nhiễm trước, không say mê, không có phạm tội. Vị này dùng các phòng xá, thấy các nguy hiểm và biết rõ sự giải thoát. Vì tự bằng lòng với bất cứ phòng xá nào, vị này không khen mình chê người. Ở đây, vị này khéo léo, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm. Này các Hiền giả, vị Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã trung thành với Thánh chủng, theo truyền thống quá khứ.
Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ-kheo ưa thích đoạn trừ, hoan hỷ đoạn trừ, ưa thích tu tập, hoan hỷ tu tập. Nhờ ưa thích đoạn trừ, hoan hỷ đoạn trừ, ưa thích tu tập, hoan hỷ tu tập nên không khen mình chê người. Ở đây, vị Tỷ-kheo này khéo léo, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm. Này các Hiền giả, vị ấy được gọi là một vị đã trung thành với Thánh chủng, theo truyền thống quá khứ.
x) Bốn tinh cần: Chế ngự tinh cần, đoạn trừ tinh cần, tu tập tinh cần, hộ trì tinh cần.
Này các Hiền giả, thế nào là chế ngự tinh cần? Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo, khi mắt thấy sắc không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị Tỷ-kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự chế ngự nhãn căn. Khi tai nghe tiếng… mũi ngửi hương… lưỡi nếm vị… thân cảm xúc… ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự chế ngự ý căn. Này các Hiền giả, như vậy gọi là chế ngự tinh cần.
Này các Hiền giả, thế nào là đoạn trừ tinh cần? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo không chấp nhận dục tầm đã khởi lên, từ bỏ, đoạn trừ, tiêu diệt, không cho hiện hữu; không chấp nhận sân tầm đã khởi lên… không chấp nhận hại tầm đã khởi lên, từ bỏ, đoạn trừ, tiêu diệt, không cho hiện hữu. Này các Hiền giả, như vậy gọi là đoạn trừ tinh cần.
Này các Hiền giả, thế nào là tu tập tinh cần? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo tu tập Niệm Giác chi, pháp này y xả ly, y ly dục, y đoạn diệt, thành thục trong đoạn trừ; tu tập Trạch pháp Giác chi… tu tập Tinh tấn Giác chi… tu tập Hỷ Giác chi… tu tập Khinh an Giác chi… tu tập Ðịnh Giác chi… tu tập Xả Giác chi, pháp này y xả ly, y ly dục, y đoạn diệt, thành thục trong đoạn trừ. Này các Hiền giả, như vậy gọi là tu tập tinh cần.
Này các Hiền giả, thế nào là hộ trì tinh cần? Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ-kheo hộ trì định tướng tốt đẹp đã khởi lên, cốt tưởng, trùng hám tưởng, thanh ứ tưởng, đoạn hoại tưởng, trương bành tưởng. Này các Hiền giả, như vậy gọi là hộ trì tinh cần.
xi) Bốn trí: Pháp trí, loại trí, tha tâm trí, thế tục trí.
xii) Lại bốn trí khác: Khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí.
xiii) Bốn Dự lưu hướng chi: Thiện nhân thân cận, diệu pháp thính thọ, như lý tác ý, pháp tùy pháp hành.
xiv) Bốn Dự lưu quả chi: Ở đây Thánh đệ tử thành tựu lòng tin tuyệt đối với Phật – “Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn”. Vị này thành tựu lòng tin tuyệt đối đối với Pháp – “Pháp được Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, Pháp ấy là thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến mà thấy, có hiệu năng hướng thượng, chỉ người có trí mới tự mình giác hiểu”. Vị ấy thành tựu lòng tin tuyệt đối chúng Tăng: “Chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là đầy đủ diệu hạnh, chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là đầy đủ trực hạnh, chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là đầy đủ như lý hạnh, chúng Tăng đệ tử của Thế Tôn là đầy đủ chánh hạnh, tức là bốn đôi, tám vị. Chúng tăng đệ tử của Thế Tôn này đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời”. Vị ấy thành tựu giới đức được các bậc Thánh ái mộ, không bị hư hoại, không bị tỳ vết, được thực hành liên tục, không bị khiếm khuyết khiến con người tự tại, được bậc Thánh tán thán, không bị nhiễm ô, hướng đến thiền định.
xv) Bốn Sa môn quả: Dự lưu quả, Nhứt lai quả, Bất lai quả, A-la-hán quả.
xvi) Bốn giới: Ðịa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới.
xvii) Bốn thực: Ðoàn thực, thô hay tế; xúc thực là thứ hai; tư niệm thực là thứ ba; thức thực là thứ tư.
xviii) Bốn thức trú: Này các Hiền giả, khi duyên sắc, thức khởi lên và an trú, thức ấy lấy sắc làm cảnh, lấy sắc làm sở y, lấy sắc làm căn cứ thọ hưởng, được tăng trưởng, tăng thịnh, tăng quảng. Này các Hiền giả, hay duyên thọ, thức… hay duyên tưởng… Này các Hiền giả, hay duyên hành, thức khởi lên và an trú, thức ấy lấy hành làm cảnh, lấy hành làm sở y, lấy hành làm căn cứ thọ hưởng, được tăng trưởng, tăng thịnh, tăng quảng.
xix) Bốn bất hành xứ hạnh: Tham dục bất hành xứ hạnh, sân bất hành xứ hạnh, si bất hành xứ hạnh, bố úy bất hành xứ hạnh.
xx) Bốn ái sanh: Này các Hiền giả, do nhơn y phục, vị Tỷ-kheo khởi lên lòng tham ái. Này các Hiền giả, do nhơn đồ ăn khất thực, vị Tỷ-kheo khởi lên lòng tham ái. Này các Hiền giả, do nhơn phòng xá, vị Tỷ-kheo khởi lên lòng tham ái. Này các Hiền giả, do nhơn hữu và phi hữu, vị Tỷ-kheo khởi lên lòng tham ái.
xxi) Bốn hành: Khổ hành trì chứng, khổ hành tốc chứng, lạc hành trì chứng, lạc hành tốc chứng.
xxvii) Bốn loại hành khác: Bất kham nhẫn hành, kham nhẫn hành, điều phục hành, tịch tịnh hành.
xxiii) Bốn pháp túc: Vô tham pháp túc, vô sân pháp túc, chánh niệm pháp túc, chánh định pháp túc.
xxiv) Bốn pháp thọ: Này các Hiền giả, có pháp thọ, hiện tại khổ và tương lai quả báo khổ. Này các Hiền giả, có pháp thọ, hiện tại khổ và tương lai quả báo lạc. Này các Hiền giả, có pháp thọ, hiện tại lạc và tương lai quả báo khổ. Này các Hiền giả có pháp thọ, hiện tại lạc và tương lai quả báo lạc.
xxy) Bốn pháp uẩn: Giới uẩn, định uẩn, công đức uẩn, giải thoát uẩn.
xxvi) Bốn lực: Tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.
xxvii) Bốn thắng xứ: Tuệ thắng xứ, đế thắng xứ, xả thắng xứ, chỉ tức thắng xứ (Bốn nguyện).
xxviii) Bốn cách trả lời câu hỏi: Trả lời câu hỏi một cách dứt khoát, trả lời câu hỏi bằng cách phân tích, trả lời câu hỏi bằng cách cật vấn, trả lời câu hỏi bằng cách giả lơ, bỏ qua.
xxix) Bốn nghiệp: Này các Hiền giả, có hắc nghiệp hắc báo. Này các Hiền giả, có bạch nghiệp bạch báo. Này các Hiền giả, có hắc bạch nghiệp, hắc bạch báo. Này các Hiền giả, có phi hắc phi bạch nghiệp, phi hắc phi bạch báo, và đưa đến sự tận diệt các nghiệp.
xxx) Bốn pháp cần phải chứng ngộ: Túc mạng cần phải chứng ngộ bởi niệm. Sanh tử cần phải chứng ngộ bởi nhãn. Tám giải thoát cần phải chứng ngộ bởi thân. Lậu tận cần phải chứng ngộ bởi Tuệ.
xxxi) Bốn bộc lưu: Dục bộc lưu, hữu bộc lưu, kiến bộc lưu, vô minh bộc lưu.
xxxii) Bốn ách: Dục ách, hữu ách, kiến ách, vô minh ách.
xxxiii) Bốn ly ách: Ly dục ách, ly hữu ách, ly kiến ách, ly vô minh ách.
xxxiv) Bốn hệ phược: Tham thân hệ, sân thân hệ, giới cấm thủ thân hệ, thử thực chấp thân hệ.
xxxv) Bốn thủ: Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã thuyết thủ.
xxxvi) Bốn sanh: Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh.
xxxvii) Bốn nhập thai: Này các Hiền giả, ở đây, có loài không tỉnh giác nhập mẫu thai, không tỉnh giác trú mẫu thai, không tỉnh giác xuất mẫu thai. Ðó là loại nhập thai thứ nhất. Lại nữa, này các Hiền giả, ở đây, có loại tỉnh giác nhập mẫu thai, không tỉnh giác trú mẫu thai, không tỉnh giác xuất mẫu thai. Ðó là loại nhập thai thứ hai. Lại nữa, này các Hiền giả, ở đây, có loại tỉnh giác nhập mẫu thai, tỉnh giác trú mẫu thai, không tỉnh giác xuất mẫu thai. Ðó là loại nhập thai thứ ba. Lại nữa, này các Hiền giả, ở đây, có loại tỉnh giác nhập mẫu thai, tỉnh giác trú mẫu thai, tỉnh giác xuất mẫu thai. Ðó là loại nhập thai thứ tư.
xxxviii) Bốn phương cách được tự thể mới: Này các Hiền giả, có tự thể mới được, do ý chí của mình, không do ý chí của người khác. Này các Hiền giả, có tự thể mới được, do ý chí của người khác, không do ý chí của mình. Này các Hiền giả, có tự thể mới được, do ý chí của mình và ý chí của người khác. Này các Hiền giả, có tự thể mới được không do ý chí của mình, không do ý chí của người khác.
xxxix) Bốn sự cúng dường thanh tịnh: Này các Hiền giả, có sự cúng dường, người cúng dường thanh tịnh, người nhận cúng dường không thanh tịnh. Này các Hiền giả, có sự cúng dường, người nhận cúng dường thanh tịnh, người cúng dường không thanh tịnh. Này các Hiền giả, có sự cúng dường, cả người cúng dường và người nhận cúng dường đều không thanh tịnh. Này các Hiền giả, có sự cúng dường, người cúng dường và người nhận sự cúng dường đều thanh tịnh.
xl) Bốn nhiếp pháp: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự.
xli) Bốn phi Thánh ngôn: Vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ.
xlii) Bốn Thánh ngôn: Ly vọng ngữ, ly lưỡng thiệt, ly ác khẩu, ly ỷ ngữ.
xliii) Bốn phi Thánh ngôn khác: Không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không nghĩ nói nghĩ, không biết nói biết.
xliv) Bốn Thánh ngôn khác: Không thấy nói không thấy, không nghe nói không nghe, không nghĩ nói không nghĩ, không biết nói không biết.
xlv) Bốn phi Thánh ngôn khác: Thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, nghĩ nói không nghĩ, biết nói không biết.
xlvi) Bốn Thánh ngôn khác: Thấy nói thấy, nghe nói nghe, nghĩ nói nghĩ, biết nói biết.
xlvii) Bốn loại người: Này các Hiền giả, ở đây, có người tự làm khổ mình và siêng năng làm khổ mình. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người làm khổ người khác, siêng năng làm khổ người khác. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người làm khổ mình, siêng năng làm khổ mình; làm khổ người, siêng năng làm khổ người. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người không làm khổ mình, không siêng năng làm khổ mình; không làm khổ người, không siêng năng làm khổ người. Vị này không làm khổ mình, không làm khổ người ngay trong hiện tại sống ly dục, tịch tịnh, thanh lương, an lạc, thánh thiện.
xlviii) Lại bốn loại người khác: Này các Hiền giả, ở đây, có loại người hành tự lợi, không hành lợi tha. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người hành lợi tha, không hành tự lợi. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người, không hành tự lợi và không hành lợi tha. Này các Hiền giả, ở đây, có loại người hành tự lợi và hành lợi tha.
xlix) Lại bốn loại người khác: Sống trong bóng tối và hướng đến bóng tối, sống trong bóng tối hướng đến ánh sáng, sống trong ánh sáng hướng đến bóng tối, sống trong ánh sáng hướng đến ánh sáng.
l) Lại bốn loại người khác: Bất động Sa môn, Xích liên hoa Sa môn, Bạch liên hoa Sa môn, Diệu thiện Sa môn.
Này các Hiền giả, bốn Pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la Hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.

Tụng phẩm II

Năm pháp

1. Này các Hiền giả, có năm Pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.

i) Năm uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.

ii) Năm thủ uẩn: Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.

iii) Năm dục công đức: Sắc do nhãn nhận thức. Sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Tiếng do tai nhận thức… Hương do mũi nhận thức… Vị do lưỡi nhận thức… Xúc do thân cảm xúc là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn.

iv) Năm thú: Ðịa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, Người, chư Thiên.

v) Năm xan tham: Xan tham đối với trú xứ, xan tham đối với gia đình, xan tham đối với các vật thâu hoạch, xan tham đối với sắc, xan tham đối với pháp.

vi) Năm triền cái: Tham dục triền cái, sân triền cái, hôn trầm thụy miên triền cái, trạo cử hối quá triền cái, nghi triền cái.

vii) Năm hạ phần kiết sử: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham, sân.

viii) Năm thượng phần kiết sử: Sắc tham, vô sắc tham, mạn, trạo cử, vô minh.

ix) Năm học xứ: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngôn, không uống các loại rượu.

x) Năm bất năng xứ: Này các Hiền giả, một vị Lậu tận Tỷ kheo không thể cố sát hại đời sống loài hữu tình. Một vị Lậu tận Tỷ kheo không thể cố ý lấy của không cho gọi là trộm cắp. Một vị Lậu tận Tỷ kheo không thể cố ý hành dâm. Một vị Lậu tận Tỷ kheo không thể cố ý tự mình biết mà nói láo. Một vị Lậu tận Tỷ kheo không thể tiêu dùng các vật chứa cất vào các thú vui dục lạc như khi còn là cư sĩ.

xi) Năm sự tổn thất: Thân thuộc tổn thất, tài sản tổn thất, tật bệnh tổn thất, giới tổn thất, kiến tổn thất. Này các Hiền giả, không có loài hữu tình nào, vì thân thuộc tổn thất, vì tài sản tổn thất, hay vì tật bệnh tổn thất, sau khi thân hoại mạng chung sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, có loài hữu tình, vì giới tổn thất hay vì kiến tổn thất, sau khi thân hoại mạng chung sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

xii) Năm sự thành tựu: Thân thuộc thành tựu, tài sản thành tựu, vô bệnh thành tựu, giới thành tựu, kiến thành tựu. Này các Hiền giả, không có loài hữu tình nào, vì thân thuộc thành tựu, vì tài sản thành tựu hay vì vô bệnh thành tựu, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, đời này. Này các Hiền giả, có các loài hữu tình, vì giới thành tựu hay vì kiến thành tựu, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, đời này.

xiii) Năm điều nguy hiểm của người ác giới, phạm giới: Này các Hiền giả, người ác giới, vì phạm giới luật, do phóng dật thiệt hại nhiều tài sản. Ðó là điều nguy hiểm thứ nhất của người ác giới, phạm ác giới. Lại nữa, này các Hiền giả, với người ác giới, phạm ác giới, tiếng xấu đồn khắp. Ðó là điều nguy hiểm thứ hai của người ác giới, phạm ác giới. Lại nữa, này các Hiền giả, với người ác giới, phạm ác giới, khi vào hội chúng nào, hội chúng Sát đế ly, hội chúng Bà la môn, hội chúng Cư sĩ hay hội chúng Sa môn, người ấy vào một cách sợ sệt và dao động. Ðó là điều nguy hiểm thứ ba của người ác giới, phạm ác giới. Lại nữa, này các Hiền giả, người ác giới, phạm ác giới, khi mệnh chung, chết một cách mê loạn. Ðó là điều nguy hiểm thứ tư của người ác giới, phạm ác giới. Lại nữa, này các Hiền giả, người ác giới, phạm ác giới, khi thân hoại mạng chung sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ðó là điều nguy hiểm thứ năm của người ác giới, phạm ác giới.

xiv) Năm điều lợi ích của người đủ giới, giữ giới: Này các Hiền giả, ở đây người đủ giới, giữ giới, nhờ không phóng dật nên được tài sản sung túc. Ðó là điều lợi ích thứ nhất cho người đủ giới, giữ giới. Này các Hiền giả, lại nữa người đủ giới, giữ giới được tiếng tốt đồn khắp. Ðó là điều lợi ích thứ hai cho người đủ giới, giữ giới. Này các Hiền giả, với người đủ giới, giữ giới, khi vào hội chúng nào, hội chúng Sát đế ly, hội chúng Ba la môn, hội chúng Cư sĩ, hội chúng Sa môn, vị ấy vào một cách đàng hoàng, không dao động. Ðó là điều lợi ích thứ ba cho người đủ giới, giữ giới. Này các Hiền giả, lại nữa người đủ giới, giữ giới khi mệnh chung chết một cách không mê loạn. Ðó là điều lợi ích thứ tư cho người đủ giới, giữ giới. Này các Hiền giả, lại nữa người đủ giới, giữ giới, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy là điều lợi ích thứ năm cho người đủ giới, giữ giới.

xv) Năm pháp nội tâm: Này các Hiền giả, năm pháp nội tâm một vị Tỷ kheo cần phải có nếu muốn chỉ trích một vị khác: “Tôi nói đúng thời, không phải phi thời. Tôi nói đúng sự thật, không sai sự thật. Tôi nói một cách từ tốn, không nói lời ác khẩu. Tôi nói lời có lợi ích, không nói lời không có lợi ích. Tôi nói lời có lòng từ, không phải lời sân hận”. Này các Hiền giả, như vậy là năm pháp nội tâm một vị Tỷ kheo cần phải có, nếu muốn chỉ trích một vị khác.

xvi) Năm cần chi: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo có lòng tin, tin tưởng sự giác ngộ của Như Lai – “Ðây là Thế tôn, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Vị ấy thiểu bệnh, thiểu não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình hợp với sự tinh tấn. Vị ấy không lường đảo, dối gạt, nêu rõ tự mình như chơn đối với bậc Ðạo Sư, đối với các vị sáng suốt hay đối với các vị đồng phạm hạnh. Vị ấy sống siêng năng, tinh tấn, từ bỏ các ác pháp, thành tựu các thiện pháp, cương quyết, kiên trì nỗ lực, không tránh né đối với các thiện pháp. Vị ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ hướng đến sự sanh diệt của các pháp, thành tựu Thánh quyết trạch, đưa đến sự đoạn diệt chơn chánh các khổ đau.

xvii) Năm tịnh cư: Vô Phiền thiên, Vô Nhiệt thiên, Thiện Hiện thiên, Thiện Kiến thiên, Sắc Cứu Cánh thiên.

xviii) Năm bất hoàn: Trung gian Bát Niết bàn, Sanh Bát Niết bàn, Vô hành Bát Niết bàn, Hữu hành Bát Niết bàn, Thượng lưu thú A-ca-ni-sá.

xix) Năm tâm hoang vu: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không có thỏa mãn đối với vị Ðạo Sư. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không có thỏa mãn đối với vị Ðạo Sư, vị Tỷ kheo ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Khi tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn, như vậy gọi là tâm hoang vu thứ nhất.

Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo nghi ngờ … đối với Pháp… đối với Tăng… đối với học Pháp…

Lại nữa vị Tỷ kheo tức giận đối với các vị đồng phạm hạnh, không hoan hỷ, tâm dao động, trở thành hoang vu. Này các Hiền giả, khi một vị Tỷ kheo tức giận đối với các vị đồng phạm hạnh, không hoan hỷ, tâm dao động, trở thành hoang vu, vị Tỷ kheo ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Như vậy gọi là tâm hoang vu thứ năm.

xx) Năm tâm triền phược: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo tâm không ly tham, không ly dục, không ly ái, không ly khao khát, không ly nhiệt tình, không ly ái nhiễm đối với các dục vọng. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo tâm không ly tham, không ly dục, không ly ái, không ly khao khát, không ly nhiệt tình, không ly ái nhiễm đối với ác dục vọng, tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Như vậy là tâm triền phược thứ nhất. Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo, tâm không ly tham đối với các thân… Như vậy là tâm triền phược thứ hai… Ðối với các sắc, tâm không ly tham… Ðây là tâm triền phược thứ ba. Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo không ăn quá sức bao tử có thể chịu nổi, hưởng thọ sự sung sướng về nằm ngủ, sự sung sướng về xúc chạm, sự sung sướng về thụy miên… Ðây là tâm triền phược thứ tư. Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo sống đời sống phạm hạnh với hy vọng mong được thành một loại chư Thiên: “Với nghi thức này, với giới luật này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này, tôi sẽ trở thành loại chư Thiên này hay loại chư Thiên khác”. Này các Hiền giả, khi vị Tỷ kheo sống đời sống phạm hạnh với hy vọng được thành một loại chư Thiên: “Với nghi thức này, với giới luật này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này, tôi sẽ trở thành loại chư Thiên này hay chư Thiên khác”. Tâm của vị này không hướng về nỗ lực, hăng hái, kiên trì và tinh tấn. Như vậy là tâm triền phược thứ năm.

xxi) Năm căn: Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn.

xxii) Lại năm căn khác: Lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn.

xxiii) Lại năm căn khác: Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.

xxiv) Năm xuất ly giới: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo, có tác ý đối với dục vọng, tâm không hướng nhập dục vọng, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối bởi dục vọng. Khi vị này có tác ý đối với ly dục, tâm hướng nhập ly dục, tín lạc, an trú và bị chị phối bởi ly dục, tâm của vị ấy khéo ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với các dục lạc. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên các dục lạc, vị ấy đối với chúng được giải thoát, không còm cảm thọ cảm giác ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối với các dục vọng.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo có tác ý đối với sân hận, tâm không hướng nhập sân hận, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối bởi sân hận. Khi vị này có tác ý đối với vô sân, tâm hướng nhập vô sân, có tín lạc, có an trú, có bị chi phối bởi vô sân, tâm vị ấy khéo ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với vô sân. Và các lậu hoặc, các tổn hoại, các nhiệt não khởi lên do duyên với sân, vị ấy đối với chúng được giải thoát, không còn cảm thọ cảm giác ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối với sân hận.

Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo, có tác ý đối với hại tâm, tâm không hướng nhập hại tâm, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối bởi hại tâm. Khi vị này có tác ý đối với ly hại tâm, tâm hướng nhập ly hại tâm, tín lạc, an trú, bị chi phối bởi ly hại tâm. Tâm vị ấy khéo ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ hại tâm. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên với hại tâm, vị ấy đối với chúng được giải thoát, không còn cảm thọ cảm giác ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối với hại tâm.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo, có tác ý đối với sắc, tâm không hướng nhập vào sắc, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối bởi sắc. Khi vị này có tác ý đối với vô sắc, tâm hướng nhập vô sắc, tín lạc, an trú, bị chi phối bởi vô sắc. Tâm vị ấy khéo ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với sắc. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên với sắc, vị ấy đối với chúng được giải thoát, không còn cảm thọ cảm giác ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối với sắc.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo có tác ý đối với tự thân, tâm không hướng nhập tự thân, không tín lạc, không an trú, không bị chi phối bởi tự thân. Khi vị này có tác ý đối với thân diệt, tâm hướng nhập thân diệt, tín lạc, an trú, bị chi phối bởi thân diệt. Tâm vị ấy khéo ly, khéo tu, khéo khởi, khéo giải thoát, khéo ly hệ thân diệt. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên với tự thân, vị ấy đối với chúng được giải thoát, không còn cảm thọ cảm giác ấy. Như vậy được gọi là giải thoát đối với tự thân.

xxv) Năm giải thoát xứ: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo, khi nghe bậc Ðạo Sư, hay một vị đồng phạm hạnh đáng kính nào thuyết pháp. Này các Hiền giả, khi vị Tỷ kheo nghe bậc Ðạo Sư hay một vị đồng phạm hạnh đáng kính nào thuyết pháp, vị ấy, đối với pháp ấy, hiểu được nghĩa lý và hiểu cả văn cú. Nhờ hiểu được nghĩa lý và hiểu cả văn cú, khoan khoái sanh. Nhờ khoan khoái, hỷ sanh. Nhờ hỷ tâm, thân khinh an sanh. Nhờ thân khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ, tâm được định tĩnh. Ðó là giải thoát xứ thứ nhất.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo không nghe bậc Ðạo Sư hay một vị đồng phạm hạnh đáng kính nào thuyết pháp. Như vị ấy, theo điều đã nghe, theo điều đã học, thuyết pháp một cách rộng rãi cho các người khác. Này các Hiền giả, khi vị Tỷ kheo theo điều đã nghe, theo điều đã học, thuyết pháp một cách rộng rãi cho các người khác, vị ấy đối với pháp ấy, hiểu được nghĩa lý và hiểu được văn cú. Nhờ hiểu được nghĩa lý và hiểu được văn cú, khoan khoái sanh. Nhờ khoan khoái, hỷ sanh. Nhờ hỷ tâm, thân khinh an sanh. Nhờ thân khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ, tâm được định tĩnh. Ðó là giải thoát xứ thứ hai.

Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo, không được nghe bậc Ðạo Sư hay một vị đồng phạm hạnh đáng kính nào thuyết pháp, cũng không theo điều đã nghe, điều đã học thuyết pháp một cách rộng rãi cho các người khác. Vị ấy theo điều đã nghe, theo điều đã học, tụng đọc pháp một cách rõ ràng. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo, theo điều đã nghe, theo điều đã học, tụng đọc pháp một các rõ ràng, do vậy đối với pháp ấy, hiểu được nghĩa lý và hiểu được văn cú, thân khinh an sanh. Nhờ thân khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ, tâm được định tĩnh. Ðó là giải thoát xứ thứ ba.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo, không nghe bậc Ðạo sư hay một vị đồng phạm hạnh đáng kính thuyết pháp, cũng không theo điều đã nghe, điều đã học thuyết pháp một cách rộng rãi cho các người khác, cũng không theo điều đã nghe, điều đã học, tụng đọc pháp một cách rõ ràng. Vị ấy, theo điều đã nghe, theo điều đã học, dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát pháp ấy. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo, theo điều đã nghe, theo điều đã học, dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát pháp ấy. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo, theo điều đã nghe, theo điều đã học, dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát pháp ấy nên đối với pháp ấy hiểu được nghĩa lý, hiểu được văn cú. Nhờ hiểu được nghĩa lý, hiểu được văn cú, khoan khoái sanh. Nhờ khoan khoái sanh, hỷ tâm sanh. Nhờ hỷ tâm, thân khinh an sanh. Nhờ khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ, tâm được định tĩnh. Ðó là giải thoát xứ thứ tư.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo, không nghe bậc Ðạo Sư hay một vị đồng phạm hạnh đáng kính nào thuyết pháp, cũng không theo điều đã nghe, theo điều đã học, thuyết pháp một cách rộng rãi cho các người khác, cũng không theo điều đã nghe, theo điều đã học dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát pháp ấy, vị Tỷ kheo đã khéo nắm giữ một định tướng nào, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập nhờ trí tuệ. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nắm giữ một định tướng nào, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập nhờ trí tuệ. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo tùy theo khéo nắm giữ một định tướng nào, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập nhờ trí tuệ, nên đối với pháp ấy, hiểu được nghĩa lý, hiểu được văn cú. Nhờ hiểu được nghĩa lý, hiểu được văn cú, nên khoan khoái sanh. Nhờ khoan khoái sanh, hỷ tâm sanh. Nhờ hỷ tâm, thân khinh an sanh. Nhờ thân khinh an, lạc thọ sanh. Nhờ lạc thọ, tâm được định tĩnh. Ðó là giải thoát xứ thứ năm.

xxvi) Năm giải thoát thành thục tưởng: Vô thường tưởng, khổ tưởng trong vô thường, vô ngã tưởng trong khổ, đoạn trừ tưởng, vô tham tưởng.

Này các Hiền giả, năm pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.

Sáu pháp

2. Này các Hiền giả, có sáu pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào là sáu?

i) Sáu nội xứ: Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ.

ii) Sáu ngoại xứ: Sắc xứ, thanh xứ, hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ.

iii) Sáu thức thân: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.

iv) Sáu xúc thân: Nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc.

v) Sáu thọ thân: Nhãn xúc sở sanh thọ, nhĩ xúc sở sanh thọ, tỷ xúc sở sanh thọ, thiệt xúc sở sanh thọ, thân xúc sở sanh thọ, ý xúc sở sanh thọ.

vi) Sáu tưởng thân: Sắc tưởng, thanh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng.

vii) Sáu tư thân: Sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư, pháp tư.

viii) Sáu ái thân: Sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái.

ix) Sáu không cung kính pháp: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo, sống không cung kính, không tùy thuận bậc Ðạo Sư; sống không cung kính, không tùy thuận Pháp; sống không cung kính, không tùy thuận Tăng; sống không cung kính, không tùy thuận học Pháp; sống không cung kính bất phóng dật, không tùy thuận bất phóng dật; sống không cung kính, không tùy thuận sự lễ phép xã giao.

x) Sáu cung kính pháp: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo sống cung kính, tùy thuận bậc Ðạo Sư; sống cung kính, tùy thuận Pháp; sống cung kính, tùy thuận Tăng; sống cung kính tùy thuận học Pháp; sống cung kính, tùy thuận bất phóng dật; sống cung kính, tùy thuận lễ phép xã giao.

xi) Sáu suy tư đến hỷ: Khi mắt thấy sắc, hoan hỷ khởi lên, sắc ấy được suy tư. Khi tai nghe tiếng… Khi mũi ngửi hương… Khi lưỡi nếm vị… Khi thân chạm xúc… Khi ý nhận pháp, hoan hỷ khởi lên, pháp ấy được suy tư.

xii) Sáu suy tư đến ưu: Khi mắt thấy sắc, ưu khởi lên, sắc ấy được suy tư. Khi tai nghe tiếng… Khi mũi ngửi hương… Khi lưỡi nếm vị… Khi thân chạm xúc… Khi ý nhận pháp, ưu khởi lên, pháp ấy được suy tư.

xiii) Sáu suy tư đến xả: Khi mắt thấy sắc, xả khởi lên, sắc ấy được suy tư… Khi tai nghe tiếng… Khi mũi ngửi hương… Khi lưỡi nếm vị… Khi thân chạm xúc… Khi ý nhận pháp, xả khởi lên, pháp ấy được suy tư.

xiv) Sáu hòa kính pháp: Này các Hiền giả, ở đây khi vị Tỷ kheo thành tựu từ thân nghiệp, trước mặt hay sau lưng đối với các vị đồng phạm hạnh, như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp.

Này các Hiền giả, lại nữa khi vị Tỷ kheo thành tựu từ khẩu nghiệp, trước mặt hay sau lưng đối với các vị đồng phạm hạnh, như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp.

Này các Hiền giả, lại nữa khi vị Tỷ kheo thành tựu từ ý nghiệp trước mặt hay sau lưng, đối với các vị đồng phạm hạnh, như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo, đối với các đồ vật được cúng dường một cách hợp pháp cho đến đồ vật nhận trong bình bát, đều đem chia đồng đều giữa các vị Tỷ kheo có giới hạnh, như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo, khi những giới luật của vị này không bị phá hoại, không vi phạm, được kiên trì tuân hành, không có tỳ vết, làm con người được giải thoát, được người trí tán thán, không uế tạp, hướng đến thiền định, vị Tỷ kheo ấy giữ giới hạnh Sa môn như vậy, sống trước mặt hay sau lưng với các vị đồng phạm hạnh như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, không tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo sống đời sống được Chánh kiến hướng dẫn, chơn chánh, đoạn diệt khổ đau, vị ấy sống thành tựu với Chánh kiến như vậy, sống với các vị đồng phạm hạnh, trước mặt hay sau lưng, như vậy là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, tạo ra cung kính, đưa đến đoàn kết, trong tranh luận, hòa hợp, đồng tâm, ý hợp.

xv) Sáu tránh căn: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo phẫn nộ, uất hận. Này các Hiền giả, vị này phẫn nộ, uất hận, sống không cung kính, không tùy thuận vị Ðạo Sư, sống không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các học pháp. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo sống không cung kính không tùy thuận bậc Ðạo Sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các học Pháp, vị ấy khởi lên tranh luận giữa chư Tăng. Tranh luận như vậy khiến chúng sanh không hạnh phúc, khiến chúng sanh không an lạc, khiến chúng sanh không lợi ích, và khiến chư Thiên và loài Người không hạnh phúc, mà đau khổ. Này các Hiền giả, nếu Hiền giả thấy được tránh căn ấy giữa các vị hay ngoài các vị, Hiền giả phải cố gắng đoạn trừ ác tránh căn ấy. Này các Hiền giả, nếu Hiền giả không thấy tránh căn ấy giữa các vị hay ngoài các vị, các vị hãy gìn giữ đừng cho ác tránh căn ấy có cơ hội làm hại trong tương lai. Như vậy là ngăn chặn nguy hại ác tránh căn ấy trong tương lai.

Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo che dấu và giả dối… tật đố và xan tham… lừa đảo và lường gạt… ác dục và tà kiến…

Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo chấp trước sở kiến, kiên trì gìn giữ rất khó rời bỏ. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo chấp trước sở kiến, kiên trì gìn giữ, rất khó rời bỏ, vị ấy sống không cung kính, không tùy thuận bậc Ðạo Sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các học pháp. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo không cung kính, không tùy thuận bậc Ðạo Sư, không cung kính, không tùy thuận Pháp, không cung kính, không tùy thuận Tăng, không thành tựu đầy đủ các học Pháp, vị ấy khởi lên tranh luận giữa chư Tăng. Tranh luận như vậy khiến chúng sanh không hạnh phúc, khiến chúng sanh không an lạc, khiến chúng sanh không lợi ích, khiến chư Thiên và loài Người không hạnh phúc, mà đau khổ. Này các Hiền giả, nếu Hiền giả thấy được tránh căn ấy giữa các vị hay ngoài các vị, Hiền giả phải cố gắng đoạn trừ ác tránh căn ấy. Này các Hiền giả, nếu Hiền giả không thấy tránh căn ấy giữa các vị hay ngoài các vị, các vị hãy gìn giữ đừng cho ác tránh căn ấy có cơ hội làm hại trong tương lai. Như vậy là sự đoạn trừ ác tránh căn ấy, như vậy là ngăn chận nguy hại ác tránh căn ấy trong tương lai.

xvi) Sáu giới: Ðịa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới.

xvii) Sáu xuất ly giới: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo nói như sau: “Ta đã tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy sân tâm vẫn ngự trị tâm ta”. Vị ấy cần phải được nói như sau: “Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Ðại đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy”. Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy, trường hợp không phải như vậy. Ai tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, mà sân tâm vẫn ngự trị, an trí, sự kiện không thể xảy ra như vậy. Này các Hiền giả, từ tâm giải thoát có khả năng giải thoát sân tâm.

Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo nói như sau: “Ta đã tu tập bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy hại tâm vẫn ngự trị tâm ta”. Vị ấy cần phải được nói như sau: “Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Ðại đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy”. Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, mà hại tâm vẫn ngự trị an trú, sự kiện không xảy ra như vậy. Này các Hiền giả, bi tâm giải thoát có khả năng giải thoát hại tâm.

Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo nói như sau: “Ta đã tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy bất lạc tâm vẫn ngự trị tâm ta”. Vị ấy cần phải được nói như sau: “Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Ðại đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy”. Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, bất lạc tâm vẫn ngự trị an trú, sự kiện không xảy ra như vậy. Này các Hiền giả, hỷ tâm giải thoát có khả năng giải thoát bất lạc tâm.

Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo nói như sau: “Ta đã tu tập xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy tham tâm vẫn ngự trị tâm ta”. Vị ấy cần được nói như sau: “Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Ðại Ðức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy”. Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần mà tham tâm vẫn ngự trị an trú, sự kiện không xảy ra như vậy. Này các Hiền giả, xả tâm giải thoát, có khả năng giải thoát tham tâm.

Này các Hiền giả, lại nữa ở đây vị Tỷ kheo nói như sau: “Ta đã tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy thức của tôi vẫn chạy theo các tướng”. Vị ấy cần phải được nói như sau: “Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Ðại Ðức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy”. Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, mà thức vẫn chạy theo các tướng, sự kiện không xảy ra như vậy. Nếu tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, mà thức vẫn chạy theo các tướng, sự kiện không xảy ra như vậy. Này các Hiền giả, vô tướng tâm giải thoát có khả năng giải thoát tất cả tướng.

Này các Hiền giả, lại nữa, ở đây vị Tỷ kheo nói như sau: “Quan điểm “tôi có mặt” bị tôi từ khước. Quan điểm “tôi là cái này” không được tôi chấp nhận. Tuy vậy mũi tên nghi ngờ do dự vẫn ám ảnh an trú tôi”. Vị ấy cần phải được nói như sau: “Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Ðại Ðức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy”. Này các Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. “Quan điểm “tôi có mặt” bị tôi từ khước. Quan điểm “tôi là cái này” không được tôi chấp thuận. Tuy vậy nghi ngờ, do dự vẫn ám ảnh an trú nơi tôi”. Sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, chính nhờ khước từ sự ngạo mạn “tôi có mặt”, mà mũi tên do dự nghi ngờ được giải thoát.

xviii) Sáu vô thượng: Kiến vô thượng, văn vô thượng, lợi đắc vô thượng, học giới vô thượng, hành vô thượng, ức niệm vô thượng.

xix) Sáu niệm xứ: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên.

xx) Sáu hằng trú: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo mắt thấy sắc, không có hoan hỷ, không có ưu phiền, an trú xả, chánh niệm, giác tỉnh; tai nghe tiếng… mũi ngửi hương… lưỡi nếm vị… thân cảm xúc… ý nhận thức pháp, không có hoan hỷ, không có ưu phiền, trú xả, chánh niệm, tỉnh giác.

xxi) Sáu sanh loại: Này các Hiền giả, ở đây có người hắc sanh và sống tạo hắc pháp. Này các Hiền giả, ở đây, có người hắc sanh và sống tạo bạch pháp. Này các Hiền giả, ở đây, có người hắc sanh và sống tạo Niết bàn, phi hắc phi bạch pháp. Ở đây, có người bạch sanh và sống tạo bạch pháp. Ở đây, có người bạch sanh và sống tạo hắc pháp. Ở đây, có người bạch sanh và sống tạo Niết bàn, phi hắc phi bạch pháp.

xxii) Sáu quyết trạch phần tưởng: Vô thường tưởng, khổ tưởng trên vô thường, vô ngã tưởng trên khổ, đoạn tưởng, vô tham tưởng, diệt tưởng.

Này các Hiền giả, sáu pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.

Bảy pháp

8. Này các Hiền giả, có bảy pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào là bảy?

i) Bảy tài sản: Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài.

ii) Bảy giác chi: Niệm Giác chi, Trạch pháp Giác chi, Tinh tấn Giác chi, Hỷ Giác chi, Khinh an Giác chi, Ðịnh Giác chi, Xả Giác chi.

iii) Bảy định cụ: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm.

iv) Bảy phi diệu pháp: Này các Hiền giả, ở đây, có vị Tỷ kheo bất tín, vô tàm, vô quý, thiểu văn, giải đãi, thất niệm, liệt tuệ.

v) Bảy diệu pháp: Này các Hiền giả, ở đây, có vị Tỷ kheo có lòng tín, có tàm, có quý, đa văn, tinh tấn, niệm được an trú, có trí tuệ.

vi) Bảy thượng nhân pháp: Này các Hiền giả, ở đây có vị Tỷ kheo tri pháp, tri nghĩa, tự tri, tri lượng, tri thời, tri chúng và tri nhân.

vii) Bảy thù diệu sự: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo tha thiết hành trì học pháp và khát vọng hành trì học pháp trong tương lai; tha thiết quán pháp và khát vọng quán pháp trong tương lai; tha thiết điều phục các dục vọng và khát vọng điều phục các dục vọng trong tương lai; tha thiết sống an tịnh và khát vọng sống an tịnh trong tương lai; tha thiết sống tinh tấn và khát vọng sống tinh tấn trong tương lai; tha thiết quán sát tư niệm và khát vọng quán sát tư niệm trong tương lai; tha thiết với kiến giải và khát vọng hiểu biết sở kiến trong tương lai.

viii) Bảy tưởng: Vô thường tưởng, vô ngã tưởng, bất tịnh tưởng, hoạn nạn tưởng, đoạn tưởng, ly tham tưởng, diệt tưởng.

ix) Bảy lực: Tín lực, tinh tấn lực, tàm lực, quý lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.

x) Bảy thức trú: Này các Hiền giả, có các loại hữu tình, thân sai biệt và tưởng sai biệt, như loài Người, một số chư Thiên và một số thuộc đọa xứ. Ðó là loại thức trú thứ nhất. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình thân sai biệt nhưng tưởng đồng loại, như các vị Phạm Chúng thiên vừa mới sanh lần đầu tiên (hay do tu sơ thiền). Ðó là loại thức trú thứ hai. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình, thân đồng loại, nhưng tưởng sai biệt, như chư Quang Âm thiên. Ðó là loại thức trú thứ ba. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình thân đồng loại và tưởng đồng loại, như chư Thiên Biến Tịnh thiên. Ðó là loại thức trú thứ tư. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình, vượt khỏi mọi tưởng về sắc, điều phục mọi tưởng về sân, không tác ý đến các tưởng sai biệt, chứng Không vô biên xứ: “Hư không là vô biên”. Ðó là loại thức trú thứ năm. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình, vượt khỏi hoàn toàn hư không vô biên xứ, chứng thức vô biên xứ: “Thức là vô biên”. Ðó là loại thức trú thứ sáu. Này các Hiền giả có những loại hữu tình vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, chứng Vô sở hữu xứ: “Không có vật gì cả”. Ðó là loại thức trú thứ bảy.

xi) Bảy loại người đáng kính trọng: Câu phần giải thoát, Tuệ giải thoát, Thân chứng, Kiến chí, Tín giải thoát, Tùy pháp hành, Tùy tín hành.

xii) Bảy tùy miên: Dục ái tùy miên, sân tùy miên, kiến tùy miên, nghi tùy miên, mạn tùy miên, hữu tham tùy miên, vô minh tùy miên.

xiii) Bảy kiết sử: Ái kiết sử, sân kiết sử, kiến kiết sử, nghi kiết sử, mạn kiết sử, hữu tham kiết sử, vô minh kiết sử.

xiv) Bảy diệt tránh pháp: Có khả năng đình chỉ, trừ diệt các tránh pháp đang khởi lên: Ưng dữ hiện tiền tỳ ni, ưng dữ ức niệm tỳ ni, ưng dữ bất si tỳ ni, ưng dữ tự ngôn trị, đa mích tội tướng, đa nhơn mích tội, như thảo phú địa.

Này các Hiền giả, bảy pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.

Tụng phẩm III

Tám pháp

1. “Này các Hiền giả, có tám pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào là tám?

i) Tám tà: Tà tri kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.

ii) Tám chánh: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

iii) Tám người đáng cung kính: Hạng Dự lưu, hạng đã thành tựu và chứng Dự lưu quả; hạng Nhất lai, hạng đã thành tựu và chứng Nhất lai quả; hạng Bất lai, hạng đã thành tựu và chứng Bất lai quả; hạng A la hán và hạng đã thành tựu A la hán quả.

iv) Tám giải đãi sự: Này các Hiền giả, ở đây có việc vị Tỷ kheo phải làm. Vị này nghĩ: “Có công việc ta sẽ phải làm. Nếu ta làm việc, thời thân ta sẽ mệt mỏi. Vậy ta nên nằm xuống”. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được, như vậy là giải đãi sự thứ nhất.

Này các Hiền giả, lại nữa, một việc đã được vị Tỷ kheo làm. Vị này nghĩ: “Ta đã làm một công việc. Do ta làm một công việc nên thân ta mệt mỏi. Vậy ta nên nằm xuống”. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn… như vậy là giải đãi sự thứ hai.

Này các Hiền giả, lại nữa, có con đường vị Tỷ kheo phải đi. Vị này nghĩ: “Khi ta đi con đường ấy, thân ta sẽ mệt mỏi. Vậy ta nên nằm xuống”. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn… Như vậy là giải đãi sự thứ ba.

Này các Hiền giả, lại nữa, con đường vị Tỷ kheo đã đi. Vị này nghĩ: “Ta đã đi con đường, do ta đã đi con đường nên thân ta mệt mỏi. Vậy ta nên nằm xuống”. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn… Như vậy là giải đãi sự thứ tư.

Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo đi khất thực ở làng hay tại đô thị không nhận được các đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn. Vị ấy nghĩ: “Ta đi khất thực ở làng hay đô thị, không nhận được các đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm đầy đủ như ý muốn. Thân này của ta bị mệt mỏi không lợi ích gì. Vậy ta nên nằm xuống”. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn. Như vậy là giải đãi sự thứ năm.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo, trong khi đi khất thực tại làng hay thị xã nhận được các đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm đầy đủ như ý muốn. Vị ấy nghĩ: “Ta đi khất thức tại làng hay tại thị xã, nhận được các đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn. Thân này của ta nặng nề, không làm được gì, như một nhóm đậu. Vậy ta nên nằm xuống”. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn… Như vậy là giải đãi sự thứ sáu.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo bị đau bệnh nhẹ. Vị này nghĩ: “Nay ta bị đau bệnh nhẹ, cần phải nằm nghỉ. Vậy ta nên nằm xuống”. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn… Như vậy là giải đãi sự thứ bảy.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo mới đau bệnh dậy, mới khỏi bệnh không bao lâu. Vị ấy nghĩ: “Ta mới đau bệnh dậy, mới khỏi bệnh không bao lâu. Thân này của ta yếu đuối, không làm được việc gì, vậy ta hãy nằm xuống”. Vị ấy nằm xuống, không có tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu được, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được. Như vậy là giải đãi sự thứ tám.

v) Tám tinh tấn sự: Này các Hiền giả, ở đây có việc vị Tỷ kheo phải làm, vị ấy nghĩ: “Có công việc, ta sẽ phải làm, nếu ta làm việc, thì không dễ gì ta có thể suy tư đến giáo pháp chư Phật. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn để đạt được điều gì chưa đạt được, để thành tựu điều gì chưa thành tựu được, để chứng ngộ điều gì chưa chứng ngộ được”. Và vị ấy tinh tấn để đạt được điều gì chưa đạt được, để thành tựu điều gì chưa thành tựu được, để chứng ngộ điều gì chưa chứng ngộ được. Như vậy là tinh tấn sự thứ nhất.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo đã làm xong công việc, vị ấy nghĩ: “Ta đã làm xong công việc. Khi ta làm công việc, ta không thể suy tư đến giáo pháp của chư Phật. Vậy ta phải cố gắng tinh tấn…” Vị ấy tinh tấn… Như vậy là tinh tấn sự thứ hai.

Này các Hiền giả, lại nữa, có con đường vị Tỷ kheo phải đi. Vị này nghĩ: “Ðây là con đường mà ta có thể sẽ phải đi. Khi ta đi con đường ấy, không dễ gì ta có thể suy tư đến giáo pháp của chư Phật. Vậy ta hãy cố gắng tinh…” Vị ấy tinh tấn… Như vậy là tinh tấn sự thứ ba.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo đã đi con đường. Vị này nghĩ: “Ta đã đi con đường ấy. Khi ta đi con đường, ta không có thể suy tư đến giáo pháp của chư Phật. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn…” Vị ấy tinh tấn… Như vậy là tinh tấn sự thứ tư.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo trong khi đi khất thực tại làng hay tại đô thị, không nhận được các loại đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm đầy đủ như ý muốn. Vị này nghĩ: “Ta trong khi đi khất thực tại làng hay tại đô thị, không nhận được các loại đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn. Thân ta như vậy nhẹ nhàng có thể làm việc. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn…” Và vị ấy tinh tấn… Như vậy là tinh tấn sự thứ năm.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo trong khi đi khất thực tại làng hay tại đô thị được các loại đồ ăn loại cứng hay loại đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn. Vị này nghĩ: “Ta trong khi đi khất thực tại làng hay tại đô thị được các loại đồ ăn loại cứng hay đồ ăn loại mềm, đầy đủ như ý muốn. Như vậy thân ta mạnh, có thể làm việc, vậy Ta hãy cố gắng tinh tấn…” Và vị ấy tinh tấn… Như vậy là tinh tấn sự thứ sáu.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo bị đau bệnh nhẹ. Vị ấy nghĩ: “Ta nay bị đau bệnh nhẹ, sự kiện này có thể xảy ra, bệnh này có thể trầm trọng hơn. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn…” Và vị ấy tinh tấn… Như vậy là tinh tấn sự thứ bảy.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo mới đau bệnh dậy, mới khỏi bệnh không bao lâu. Vị ấy nghĩ: “Ta mới đau bệnh dậy, mới khỏi bệnh không bao lâu. Sự kiện này có thể xảy ra, bệnh của ta có thể trở lại. Vậy ta hãy cố gắng tinh tấn để đạt được điều gì chưa đạt được, thành tựu điều gì chưa thành tựu được, chứng ngộ điều gì chưa chứng ngộ được”. Và vị ấy tinh tấn để đạt được điều gì chưa đạt được, thành tựu điều gì chưa thành tựu được, và chứng ngộ điều gì chưa chứng ngộ được. Ðó là tinh tấn sự thứ tám.

vi) Tám bố thí sự: Có người đến, nên bố thí. Vì sợ, nên bố thí. Vì “người ấy cho tôi”, nên bố thí. Vì “người ấy sẽ cho tôi”, nên bố thí. Vì suy nghĩ: “Bố thí là tốt lành”, nên bố thí. Vì suy nghĩ: “Ta nấu, họ không nấu. Thật không phải, nếu ta nấu mà không cho gì những người không nấu”, nên bố thí. Vì suy nghĩ: “Nay ta bố thí, tiếng đồn tốt đẹp sẽ được truyền đi”, nên bố thí. Vì muốn trang nghiêm tâm và tư trợ tâm, nên bố thí.

vii) Tám thí sanh: Này các Hiền giả, có người bố thí cho Sa môn hay Bà la môn, đồ ăn, đồ uống, vải, xe cộ, hoa man, hương xông, hương thoa, sàng tọa, phòng xá, đèn sáng. Ðồ vật vị này bố thí, vị này mong được bố thí trở lại. Người này thấy người Sát đế lỵ có nhiều tài sản, người Ba la môn có nhiều tài sản, hay người gia chủ có nhiều tài sản, được sung mãn, cụ túc, thụ hưởng năm món dục lạc. Vị này nghĩ: “Mong rằng, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được sanh là một trong những người Sát đế lỵ có nhiều tài sản, người Bà la môn có nhiều tài sản hay người gia chủ có nhiều tài sản”. Vị này nắm vững tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Tâm này được giải thoát trong tầm hạ liệt, không tu tập cao hơn, nên đưa đến tái sanh trong tầm ấy. Và tôi xác nhận, đây là trường hợp một vị đầy đủ giới luật, không phải vị phá giới luật. Này các Hiền giả, tâm nguyện của một vị giữ giới được thành tựu nhờ sự thanh tịnh. Này các Hiền giả, lại nữa, ở đây, có người bố thí cho Sa môn hay Bà la môn, đồ ăn, đồ uống, vải, xe cộ, hoa man, hương xông, hương thoa, sàng tọa, phòng xá, đèn sáng. Ðồ vật vị này bố thí, vị này mong được trở lại. Vị này nghe: “Tứ Ðại Thiên vương thọ mạng lâu dài, đẹp trai và nhiều an lạc”. Vị này nghĩ: “Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, ta được sanh thành một trong hàng Tứ Ðại Thiên vương”. Vị này nắm vững tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Tâm này được giải thoát trong tầm hạ liệt, không tu tập cao hơn, nên đưa đến tái sanh trong tầm ấy. Và tôi xác nhận đây là trường hợp một vị đầy đủ giới luật, không phải vị phá giới luật. Này các Hiền giả, tâm nguyện của một vị giữ giới được thành tựu nhờ sự thanh tịnh.

Này các Hiền giả, lại nữa, ở đây, có người bố thí cho Sa môn hay Bà la môn, đồ ăn, đồ uống, vải, xe cộ, hoa man, hương xông, hương thoa, sàng tọa, phòng xá, đèn sáng. Ðồ vật vị này bố thí, vị này mong được trở lại. Vị này nghe: “Chư Thiên Tam thập tam thiên… chư Thiên Dạ ma… chư Thiên Ðâu suất… chư Thiên Hóa Lạc… chư Thiên Tha Hóa Tự tại được sống lâu, đẹp trai, được nhiều an lạc”. Vị này nghĩ: “Mong rằng sau khi thân hoại mạng chung, ta được sanh thành một trong hàng chư Thiên Tha Hóa Tự tại”. Vị này nắm vững tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Tâm này được giải thoát trong tầm hạ liệt, không tu tập cao hơn, nên đưa đến tái sanh trong tầm ấy. Và tôi xác nhận, đây là trường hợp một vị đầy đủ giới luật, không phải vị phá giới luật. Này các Hiền giả, tâm nguyện của một vị giữ giới được thành tựu nhờ sự thanh tịnh. Này các Hiền giả, lại nữa, ở đây, có người bố thí cho Sa môn hay Bà la môn, đồ ăn, đồ uống, vải, xe cộ, hoa man, hương xông, hương thoa, sàng tọa, phòng xá, đèn sáng. Ðồ vật vị này bố thí, vị này mong được trở lại. Vị này nghe: “Chư Thiên Phạm Chúng thọ mạng lâu dài, đẹp trai và nhiều an lạc”. Vị này nghĩ: “Mong rằng, sau khi thân hoại mạng chung, ta được sanh thành một trong hàng Phạm Chúng thiên”. Vị này nắm vững tâm ấy, an trú tâm ấy, tu tập tâm ấy. Tâm này được giải thoát trong tầm hạ liệt, không tu tập cao hơn, nên đưa đến tái sanh trong tầm ấy. Và tôi xác nhận đây là trường hợp một vị đầy đủ giới luật, không phải vị phá giới luật. Này các Hiền giả, tâm nguyện của một vị giữ giới được thành tựu nhờ sự thanh tịnh.

viii) Tám chúng: Chúng Sát đế lỵ, chúng Bà la môn, chúng Gia chủ, chúng Sa môn, chúng Tứ Ðại Thiên vương, chúng Tam thập tam thiên, chúng (Thiên) Ma, chúng Phạm thiên.

ix) Tám thế gian pháp: Ðắc, bất đắc, danh văn, ác văn, phỉ báng, tán thán, lạc, khổ.

x) Tám thắng xứ: Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy”, đó là thắng xứ thứ nhất.

Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy”, đó là thắng xứ thứ hai.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy”, đó là thắng xứ thứ ba.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy”, đó là thắng xứ thứ tư.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh – như bông gai màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh – như lụa Ba-la-nại, cả hai mặt láng trơn, màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy”, đó là thắng xứ thứ năm.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng – như bông kanikàra màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng – như lụa Ba-la-nại cả hai mặt láng trơn màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng, vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy”, đó là thắng xứ thứ sáu.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ – như bông bandhujìvaka màu đỏ – như lụa Ba-la-nại cả hai mặt láng trơn màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng sắc đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ, vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy”, đó là thắng xứ thứ bảy.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng – như sao mai osadhi màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng, như lụa Ba-la-nại cả hai mặt láng trơn màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng, vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy”, đó là thắng xứ thứ tám.

xi) Tám giải thoát: Tự mình có sắc, thấy các sắc; đó là giải thoát thứ nhất.

Quán tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các ngoại sắc; đó là giải thoát thứ hai.

Quán tưởng sắc là tịnh, chú tâm trên suy tưởng ấy; đó là giải thoát thứ ba.

Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng hữu đối, không suy tư đến những tưởng khác biệt, với suy tư “Hư không là vô biên” chứng và trú Không vô biên xứ; đó là giải thoát thứ tư.

Vượt khỏi hoàn toàn Hư không vô biên xứ, với suy tư “thức là vô biên” chứng và trú Thức vô biên xứ; đó là giải thoát thứ năm.

Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, với suy tư “không có vật gì” chứng và trú Vô sở hữu xứ; đó là giải thoát thứ sáu.

Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đó là giải thoát thứ bảy.

Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng, đó là giải thoát thứ tám.

Này các Hiền giả, tám pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.

Chín pháp

2. Này các Hiền giả, có chín pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào là chín?

i) Chín xung đột sự: “Người ấy đã làm hại tôi”, xung đột khởi lên. “Người ấy đang làm hại tôi”, xung đột khởi lên. “Người ấy sẽ làm hại tôi”, xung đột khởi lên.

“Người ấy đã làm hại người tôi thương, người tôi mến”… “người ấy đang làm hại… ” … “người ấy sẽ làm hại…”, xung đột khởi lên.

“Người ấy đã làm lợi cho người tôi không thương, không mến”… “người ấy đang làm lợi…” …” người ấy sẽ làm lợi…”, xung đột khởi lên.

ii) Chín sự điều phục xung đột: “Người ấy đã làm hại tôi. Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?” Nhờ vậy xung đột được điều phục. “Người ấy đang làm hại tôi. Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?”. Nhờ vậy xung đột được điều phục. “Người ấy sẽ làm hại tôi. Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?” Nhờ vậy, xung đột được điều phục.

“Người ấy đã làm hại người tôi thương…”, …” người ấy đang làm hại…”, …” người ấy sẽ làm hại người tôi thương, người tôi mến. Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?” Nhờ vậy xung đột được điều phục.

“Người ấy đã làm lợi cho người tôi không thương, không mến…”, …” người ấy đang làm lợi…”, …” người ấy sẽ làm lợi… Có ích lợi gì mà nghĩ như vậy?” Nhờ vậy xung đột được điều phục.

iii) Chín chỗ an trú của loài hữu tình: Này các Hiền giả, có những loài hữu tình, thân sai biệt, tưởng sai biệt, như loài Người, một số chư Thiên, một số ở tại các đọa xứ. Ðó là hữu tình trú xứ thứ nhất. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình, thân sai biệt, tưởng đồng nhất, như Phạm Chúng thiên khi mới tái sanh. Ðó là hữu tình trú xứ thứ hai. Này các Hiền giả, có loài hữu tình, thân đồng nhất, tưởng sai biệt như chư Quang Âm thiên. Ðó là hữu tình trú xứ thứ ba. Này các Hiền giả, có loài hữu tình, thân đồng nhất, tưởng đồng nhất như chư Tịnh Cư thiên. Ðó là hữu tình trú xứ thứ tư. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình không có tưởng, không có thọ, như chư Vô Tưởng thiên. Ðó là hữu tình trú xứ thứ năm. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi sắc tưởng một cách hoàn toàn, diệt trừ các sân tưởng, không có tác ý sai biệt tưởng, chứng được Hư không vô biên xứ: “Hư không là vô biên”. Ðó là hữu tình trú xứ thứ sáu. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi Hư không vô biên xứ một cách hoàn toàn, chứng Thức vô biên xứ: “Thức là vô biên”. Ðó là hữu tình trú xứ thứ bảy. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, chứng Vô sở hữu xứ: “Không có vật gì”. Ðó là hữu tình trú xứ thứ tám. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình vượt khỏi Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðó là hữu tình trú xứ thứ chín.

iv) Phạm hạnh trú, chín bất thời bất tiết: Này các Hiền giả, có Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Pháp được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến Niết bàn, tiến tới giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị. Và người ấy sanh vào địa ngục. Ðó là Phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ nhất.

Này các Hiền giả, lại nữa, có Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Pháp được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến Niết bàn, tiến tới giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị. Và người ấy sanh vào bàng sanh. Ðó là Phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ hai.

… sanh vào ngạ quỷ… bất thời bất tiết thứ ba.

…sanh vào hàng A tu la… bất thời bất tiết thứ tư.

…sanh vào hàng chư Thiên được thọ mạng lâu dài… bất thời bất tiết thứ năm.

…sanh vào các biên địa, giữa các loài mọi rợ vô trí, những chỗ mà các hàng Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, Nam cư sĩ, Nữ cư sĩ không có đất đứng. Ðó là Phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ sáu.

Này các Hiền giả, lại nữa, có Như Lai xuất hiện ở đời, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Pháp được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến Niết bàn, tiến tới giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị. Và người ấy được sanh vào các trung quốc, nhưng lại theo tà kiến điên đảo: “Không có bố thí, không có cúng dường, không có cúng tế, không có quả báo các hành vi thiện ác, không có đời này, không có đời sau, không có các loài hóa sanh, không có các vị Sa môn, Bà la môn đã chứng đạt chơn chánh, đã thực thành chơn chánh, đã tự mình chứng tri, chứng ngộ thế giới này với thế giới sau và tuyên thuyết. Ðó là Phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ bảy.

Này các Hiền giả, lại nữa, Thế Tôn xuất hiện ở đời, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Pháp được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến Niết bàn, tiến đến giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị. Và người ấy sinh vào tại các nước trung quốc, nhưng ác tuệ, ngu si, điếc, ngọng, không biết nghĩa lý được khéo nói hay vụng nói. Ðó là Phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ tám.

Này các Hiền giả, lại nữa, Thế Tôn xuất hiện ở đời, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, nhưng Pháp không được thuyết giảng, đưa đến an tịnh, hướng đến Niết bàn, tiến đến giác ngộ, được Thiện Thệ khai thị, và người ấy sanh vào tại các nước trung quốc nhưng có trí tuệ, không ngu si, không điếc ngọng, biết nghĩa lý được khéo nói hay vụng nói. Ðó là Phạm hạnh trú, bất thời bất tiết thứ chín.

v) Chín thứ đệ trú: Này các Hiền giả, ở đây có vị Tỷ kheo, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú vào Thiền thứ nhất, có tầm có tứ có hỷ lạc do ly dục sanh. Diệt tầm diệt tứ… Thiền thứ hai… Thiền thứ ba… chứng và trú vào Thiền thứ tư. Sau khi vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, sau khi trừ diệt các hữu đối tưởng, không có tác ý với các sai biệt tưởng, chứng và trú Hư không vô biên xứ: “Hư không là vô biên”. Sau khi vượt qua Hư không vô biên xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Thức vô biên xứ: “Thức là vô biên”. Sau khi vượt qua Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Vô sở hữu xứ: “Không có sự vật gì tất cả”. Sau khi vượt qua một cách hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Sau khi vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Diệt thọ tưởng định.

vi) Chín thứ đệ diệt: Thành tựu Sơ thiền, các dục tưởng bị đoạn diệt; thành tựu đệ Nhị thiền, các tầm tứ bị đoạn diệt; thành tựu đệ Tam thiền, hỷ bị đoạn diệt; thành tựu đệ Tứ thiền, hơi thở vào hơi thở ra bị đoạn diệt; thành tựu Hư không vô biên xứ, sắc tưởng bị đoạn diệt; thành tựu Thức vô biên xứ, Hư không vô biên xứ tưởng bị đoạn diệt; thành tựu Vô sở hữu xứ, Thức vô biên xứ tưởng bị đoạn diệt; thành tựu Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Vô sở hữu xứ tưởng bị đoạn diệt; thành tựu Diệt thọ tưởng (định), các tưởng và các thọ bị đoạn diệt.

Này các Hiền giả, chín pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.

Mười pháp

3. Này Hiền giả, có mười pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào là mười?

i) Mười hộ trì nhân pháp: Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo có giới hạnh, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi, chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào có giới hạnh, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong giới pháp. Pháp như vậy là hộ trì nhân.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo nghe nhiều, gìn giữ những gì đã nghe, chất chứa những gì đã nghe, Những pháp ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý văn cú cụ túc, đề cao đời sống phạm hạnh, hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh những pháp ấy, vị đã nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ nhờ tụng đọc nhiều lần, chuyên ý quán sát, khéo thành tựu nhờ chánh kiến.

Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào, đa văn… khéo thành tựu nhờ chánh kiến, pháp như vậy là hộ trì nhân.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo là thiện hữu, thiện bạn lữ, là thiện bạn đảng, là hộ trì nhân. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào là thiện hữu, là thiện bạn lữ, là thiện bạn đảng. Pháp như vậy là hộ trì nhân.

Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo thiện ngôn, đầy đủ sự nhu hòa và khiêm nhường, nhẫn nại và nhận sự chỉ trích một cách cung kính. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào thiện ngôn… nhận sự chỉ trích một cách cung kính. Pháp như vậy là hộ trì nhân.

Này các Hiền giả, khi nào có những trách nhiệm cần phải làm đối với các vị đồng phạm hạnh niên lạp cao hơn, vị ấy khéo léo, không có biếng nhác, suy tư một cách đầy đủ các phương tiện, vừa đủ để làm, vừa đủ để tổ chức. Này các Hiền giả, một vị Tỷ kheo nào, đối với các vị đồng phạm hạnh… vừa đủ để tổ chức. Pháp như vậy là hộ trì nhân.

Này các Hiền giả, lại nữa có vị Tỷ kheo ưa Pháp, ái luyến nói Pháp, tự mình vô cùng hoan hỷ đối với Thắng pháp, Thắng luật. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào ưa Pháp… vô cùng hoan hỷ đối với Thắng pháp, Thắng luật. Pháp như vậy là hộ trì nhân.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo tự mình bằng lòng với các vật dụng nhận được như y phục, ẩm thực, sàng tọa, bệnh dược. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào tự bằng lòng… Pháp như vậy là hộ trì nhân.

Này các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo sống tinh tấn siêng năng đoạn trừ các ác pháp, thành tựu các thiện pháp, cương quyết, kiên trì tinh tấn, nhẫn trì không phế bỏ các thiện pháp. Này các Hiền giả, một vị Tỷ kheo nào sống tinh tấn siêng năng… nhẫn trì không phế bỏ các thiện pháp. Pháp như vậy là hộ trì nhân.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo chánh niệm, đầy đủ tối thượng niệm và tỉnh giác, nhớ đến và ghi nhớ những điều nói và làm từ lâu. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào có chánh niệm, ghi nhớ những điều đã nói và làm từ lâu. Pháp như vậy là hộ trì nhân.

Này các Hiền giả, lại nữa, vị Tỷ kheo có huệ trí, đầy đủ sanh diệt trí, hướng đến sự quyết trạch các bậc Thánh, chơn chánh diệt trừ mọi đau khổ. Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo nào có huệ trí… chơn chánh diệt trừ mọi đau khổ. Pháp như vậy là hộ trì nhân.

ii) Mười biến xứ: Một vị nào biết được địa biến xứ: trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng. Một vị biết được thủy biến… Một vị biết được hỏa biến… Một vị biết được phong biến… Một vị biết được thanh biến… Một vị biết được hoàng biến… Một vị biết được xích biến… Một vị biết được bạch biến… Một vị biết được hư không biến… Một vị biết được thức biến, trên dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.

iii) Mười bất thiện nghiệp đạo: Sát sanh, thâu đạo, tà dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham, sân, tà kiến.

iv) Mười thiện nghiệp đạo: Ly sát sanh, ly thâu đạo, ly tà dâm, ly vọng ngôn, ly lưỡng thiệt, ly ác khẩu, ly ỷ ngữ, ly tham, ly sân, ly si.

v) Mười Thánh cư: Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo đoạn trừ năm chi, đầy đủ sáu chi, một hộ trì, thực hiện bốn y, loại bỏ các giáo điều, đoạn tận các mong cầu, tâm tư không trệ phược, thân thể khinh an, tâm thiện giải thoát, tuệ thiện giải thoát.

Này các Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo đoạn trừ năm chi? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo đoạn trừ tham dục, đoạn trừ sân, đoạn trừ hôn trầm thụy miên, đoạn trừ trạo hối, đoạn trừ nghi. Này các hiền giả, như vậy là đoạn trừ năm chi.

Này các Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo đầy đủ sáu chi? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo mắt thấy sắc, không có thích ý, không có phật ý, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, tai nghe tiếng… mũi ngửi hương… lưỡi nếm vị… thân cảm xúc… ý nhận thức pháp, không có thích ý, không có phật ý, trú xả, chánh niệm, tỉnh giác. Này các Hiền giả, như vậy là vị Tỷ kheo đầy đủ sáu chi.

Này các Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo một hộ trì? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo thành tựu sự hộ trì về niệm. Này các Hiền giả, như vậy là vị Tỷ kheo một hộ trì.

Này các Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo có thực hiện bốn y? Này các Hiền giả, vị Tỷ kheo sau khi suy tư, thọ dụng một pháp; sau khi suy tư, nhẫn thọ một pháp; sau khi suy tư, đoạn trừ một pháp; sau khi suy tư tránh xa một pháp. Này các Hiền giả, như vậy là vị Tỷ kheo thực hiện bốn y.

Này các Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo loại bỏ các giáo điều? Này các Hiền giả, ở đây, tất cả những giáo điều thông thường mà các vị Sa môn thông thường chủ trương, vị Tỷ kheo đều loại bỏ, phóng xả. Này các Hiền giả, như vậy gọi là Tỷ kheo loại bỏ các giáo điều.

Này các Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo đoạn tận các mong cầu? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo đoạn trừ các mong cầu về dục vọng, đoạn trừ các mong cầu về hiện hữu, làm cho an tịnh các mong cầu về phạm hạnh. Này các Hiền giả, như vậy là vị Tỷ kheo đoạn tận các mong cầu.

Này các Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo, tâm tư không trệ phược? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo đoạn trừ các tâm tư dục vọng, đoạn trừ các tâm tư sân hận, đoạn trừ các tâm tư não hại. Này các Hiền giả, như vậy là vị Tỷ kheo, tâm tư không trệ phược.

Này các Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo, thân hành được khinh an? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ kheo đoạn trừ lạc, đoạn trừ khổ, diệt các hỷ ưu từ trước, chứng và an trú thiền thứ tư, không lạc, không khổ, xả niệm thanh tịnh. Này các Hiền giả, như vậy vị Tỷ- kheo thân hành được khinh an.

Này các Hiền giả, thế nào là vị Tỷ- kheo, tâm thiện giải thoát? Này các Hiền giả, ở đây, vị Tỷ- kheo tâm giải thoát khỏi tham, tâm giải thoát khỏi sân, tâm giải thoát khỏi si. Này các Hiền giả, như vậy vị Tỷ kheo tâm thiện giải thoát.

Này các Hiền giả, thế nào là vị Tỷ kheo tuệ thiện giải thoát? Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ- kheo biết rằng: “Tham tâm của ta đã được trừ, cắt tận gốc rễ, như cây ta-la bị chặt, đi đến chỗ không hiện hữu, không có khả năng sanh khởi trong tương lai”. Vị ấy biết rằng: “Sân tâm của ta đã đoạn trừ, cắt tận gốc rễ, như cây ta-la bị chặt, đi đến chỗ không hiện hữu, không có khả năng sanh khởi trong tương lai”. Vị ấy biết rằng: “Si tâm của ta đã đoạn trừ, cắt tận gốc rễ, như cây ta-la bị chặt, đi đến chỗ không hiện hữu, không có khả năng sanh khởi trong tương lai. Này các Hiền giả, như vậy là vị Tỷ kheo tuệ thiện giải thoát.

vi) Mười pháp vô học: Vô học Chánh tri kiến, vô học Chánh tư duy, vô học Chánh ngữ, vô học Chánh nghiệp, vô học Chánh mạng, vô học Chánh tinh tấn, vô học Chánh niệm, vô học Chánh định, vô học Chánh trí, vô học Chánh giải thoát.

Này các Hiền giả, mười pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu dài, vì hạnh phúc cho mọi loài, vì an lạc cho mọi loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.

4. Rồi Thế Tôn ngồi dậy và bảo tôn giả Sàriputta:

– Lành thay, lành thay Sàriputta! Này Sàriputta, Ngươi đã khéo giảng, khéo tụng kinh này cho chúng Tỷ kheo.

Tôn giả Sàriputta thuyết giảng như vậy. Bậc Ðạo Sư chấp thuận. Các vị Tỷ kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của tôn giả Sàriputta.

 

Source link

II. Phần lược giảng

  1. KINHPHÚNG-TỤNG .
  2. TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO, KINHPHÚNG-TỤNGĐƯỢC THUYẾT-GIẢNG?

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại vườn xoài của người thợ rèn Thuần-đà (Cunda), gần thành Pàvà, thuộc bộ-lạc Mallà. Thể theo lời mời của dân Mallà, Ngài đến khai-trương hội-trường mới của họ. Đến tối, Ngài hơi mệt, nên bảo Tôn-giả Xá-lợi-phất thay-thế Ngài giảng kinh cho các Tỳ-kheo nghe. Do đó Kinh nầy được Tôn-giả Xá-lợi-phất (Sariputta) thuyết-giảng, có sự chứng-minh của Thế-Tôn đang nằm nghỉ bên cạnh.

Tôn-giả Xá-lợi-phất nhắc đến sự từ-trần của vị đạo-sư phái loã-thể Ni-kiền-tử đã đưa đến sự tan-rả của giáo-phái nầy, chỉ vì giáo-lý đã được thuyết-giảng vụng-về bởi một người chưa đắc Chánh-Đẳng-Giác, khiến hàng đệ-tử mất nơi y-chỉ, tranh-cãi nhau, chống-đối nhau. Nhưng đối với chư Tăng-ni, Chánh-Pháp đã được Thế-Tôn khéo giảng-dạy, có hiệu-năng hướng đến đến an-tịnh và giải-thoát. Vì thế, nay Tôn-giả tuyên-thuyết lại tất cả các pháp, xếp thành mười loại, từ loại một pháp cho đến loại mười pháp, với mục-đích để các Tỳ-kheo khéo đọc-tụng lại, cùng nhau tìm hiểu nghiã-lý sâu-xa, chẳng nên cãi-cọ, để phạm-hạnh nầy được trường-tồn dài lâu.

Do đó, Kinh nầy mang tên Kinh Phúng-Tụng, (Kinh để đọc-tụng) được vị đại-đệ-tử bực nhứt của đức Phật thuyết-giảng, dưới sự chứng-minh của Ngài.

  1. NỘI-DUNG KINHPHÚNG-TỤNG .

Mặc dầu trong nguyên-bản, Kinh được chia ra làm ba phần, nhưng theo nội-dung toàn bản kinh thì đây chỉ là một bản liệt-kê tất cả các Pháp, sắp xếp lại theo 10 loại, từ loại một pháp đến loại mười pháp.

Sau đây là bản liệt-kê mười loại pháp:

  1. Loại một pháp:”Tất cả loài hữu-tình do các món ăn (àhàra) và các hành (samkhàrà) mà an-trú.
  2. Loại hai pháp:có tất cả 33 loại, kể ra:

– Danh và Sắc;
– Vô-minh và Hữu-ái;
– Hữu-kiến và Vô-hữu-kiến;
– Vô-tàm và Vô-quý;
– Tàm và Quý;
– Ác-ngôn và Ác-hữu;
– Thiện-ngôn và Thiện-hữu;
– Nhập tội thiện-xảo và Xuất tội thiện-xảo;
– Đẳng-chí thiện-xảo và Xuất-khởi đẳng-chí thiện-xảo;
– Giới thiện-xảo và Tác-ý thiện-xảo;
– Xứ thiện-xảo và Duyên-khởi thiện-xảo;
– Thiện-xảo về Xứ và Thiện-xảo về Phi-xứ;
– Chơn-trực và Tàm-quý;
– Kham-nhẫn và Nhu-hoà;
– Lời nói nhu-thuần và Tiếp-đón thân-tình;
– Vô-hại và Từ-ái;
– Thất-niệm và Bất-chánh-tri;
– Chánh-niệm và Tỉnh-giác;
– Các Căn không được chế-ngự và Ăn-uống không tiết-độ;
– Các Căn được chế-ngự và Ăn-uống có tiết-độ;
– Tư-duy-lực và Tu-tập-lực;
– Niệm-lực và Định-lực;
– Chỉ và Quán;
– Chỉ-tướng và Tinh-cần-tướng;
– Tinh-cần và Không dao-động;
– Giới thành-tựu và Kiến thành-tựu;
– Giới suy-khuyết và Kiến suy-khuyết;
– Giới thanh-tịnh và Kiến thanh-tịnh;
– Kiến thanh-tịnh và Tinh-cần theo tri-kiến ấy;
– Dao-động đối với các pháp bị dao-động và Chánh-tinh-cần của người bị dao-động ấy;
– Không Tri-túc với các thiện-pháp và Không thoái-thất trong Tinh-cần;
– Minh-trí và Giải-thoát;
– Tận tri và Vô-sanh-trí.

  1. Loại ba pháp:có tất cả 60 loại, như sau:

– ba Bất-thiện-căn: tham, sân, si;
– ba Thiện-căn: vô-tham, vô-sân, vô-si;
– ba Ác-hạnh: thân, khẩu, ý ác-hạnh;
– ba Thiện-hạnh: thân, khẩu, ý thiện-hạnh;
– ba Bất-thiện tầm: dục-tầm, sân-tầm, hại-tầm;
– ba Thiện-tầm: ly-dục-tầm, vô-sân-tầm, vô-hại-tầm;
– ba Bất-thiện tư-duy: dục tư-duy, sân tư-duy, hại tư-duy;
– ba Thiện tư-duy: ly-dục tư-duy, vô-sân tư-duy, vô-hại tư-duy;
– ba Bất-thiện tưởng: dục-tưởng, sân-tưởng, hại-tưởng;
– ba Thiện-tưởng: ly-dục tưởng, vô-sân tưởng, vô-hại tưởng;
– ba Bất-thiện giới: dục-giới, sân-giới, hại-giới;
– ba Thiện-giới: ly-dục giới, vô-sân giới, vô-hại giới;
– ba Giới khác: dục-giới, sắc-giới, vô-sắc giới;
– ba Giới khác: sắc-giới, vô-sắc-giới, diệt-giới;
– ba Giới khác: liệt-giới, trung-giới, thắng-giới;
– ba ái: dục-ái, hữu-ái, vô-hữu-ái;
– ba ái khác: dục-ái, sắc-ái, vô-sắc-ái;
– ba ái khác: sắc-ái, vô-sắc-ái, diệt-ái;
– ba kết-sử: thân-kiến, nghi, giới-cấm-thủ;
– ba lậu: dục-lậu, hữu-lậu, vô-minh-lậu;
– ba hữu: dục-hữu, sắc-hữu, vô-sắc-hữu;
– ba cầu: dục-cầu, hữu-cầu, phạm-hạnh-cầu;
– ba mạn: thắng-mạn. đẳng-mạn, ti-liệt-mạn;
– ba thời: quá-khứ, vị-lai, hiện-tại;
– ba biên: hữu thân biên, hữu thân tập-biên, hữu thân diệt-biên;
– ba thọ: lạc-thọ, khổ-thọ, phi khổ phi lạc thọ;
– ba khổ-tánh: khổ-khổ, hành-khổ, hoại-khổ;
– ba tụ: tà-định tụ, chánh-định tụ, bất-định tụ;
– ba nghi: nghi về tương-lai, quá-khứ, hiện-tại;
– ba điều toàn-thiện của Như-Lai không cần ngại kẻ khác chỉ-trích mình: về thân, về miệng, về ý;
– ba chướng: tham, sân, si;
– ba loại lửa: lửa tham, lửa sân, lửa si;
– ba loại lửa khác: lửa hiếu-kính, lửa cúng-dường, lửa người gia-chủ;
– ba loại sắc-tụ: hữu-kiến hữu đối sắc, vô-kiến hữu đối sắc, vô kiến vô đối sắc;
– ba hành: phước-hành, phi phước-hành, bất-động hành;
– ba loại người: hữu-học, vô-học, phi-hữu phi-vô học;
– ba trưởng-lão: sanh trưởng-lão, pháp trưởng-lạo, nhập-định trưởng-lão;
– ba phước-nghiệp-sự: thi-hành phước-nghiệp-sự, giới-hành phước-nghiệp-sự, tu-hành phước-nghiệp-sự;
– ba cử-tội-sự: thấy, nghe, nghi;
– ba dục-sanh: loài Người với lòng dục, bực Trời ở Hoá-lạc-Thiên, bực Trời ở Tha-há Tự-tại Thiên;
– ba loại lạc-sanh: Phạm-Chúng Thiên, Quang-Âm-thiên, Biến-Tịnh-thiên đều sanh và sống trong sự an-lạc;
– ba tuệ: hữu-học-tuệ, vô-học-tuệ, phi hữu phi vô học tuệ;
– ba loại tuệ khác: tư sanh tuệ, văn sanh tuệ, tu sanh tuệ;
– ba loại binh-khí: nghe, xả-ky, tuệ;
– ba căn: vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cũ tri căn;
– ba nhãn: nhục-nhãn, thiên-nhãn, tuệ-nhãn;
– ba học: Tăng-thượng giới-học, tăng-thượng tâm-học, tăng-thượng tuệ-học;
– ba sự tu-tập: thân-tu, tâm-tu, tuệ-tu;
– ba vô-thượng: kiến vô-thượng, hành vô-thượng, giải-thoát vô-thượng;
– ba định: định có tầm có tứ, định chẳng tầm có tứ, định chẳng tầm chẳng tứ;
– ba định khác: không-định, vô-tướng-định, vô-nguyện-định;
– ba thanh-tịnh: thân, ngữ, ý;
– ba tịch-mặc: thân, ngữ, ý;
– ba thiện-xảo: tăng-ích thiện-xảo, tổn-ích thiện-xảo, phương-tiện thiện-xảo;
– ba kiêu: vô-bịnh kiêu, niên-tráng kiêu, hoạt-mạng kiêu;
– ba tăng-thượng: ngã tăng-thượng, thế tăng-thượng, pháp tăng-thượng;
– ba luận-sự: về quá-khứ, về vị-lai, về hiện-tại;
– ba minh: túc-mạng minh, sanh-tử minh, lậu-tận minh;
– ba trú: Thiên-trú, Phạm-trú, Thánh-trú;
– ba thần-thông: thần-túc thông, tha-tâm-thông, giáo-giới-thông.

  1. Loại bốn pháp:có tất cả 50 loại, kể ra:

– bốn Niệm-xứ: quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên các pháp;
– bốn chánh-cần: bất-thiện-pháp chưa sanh khiến đừng sanh, bất-thiện-pháp đã sanh cần diệt-trừ, thiện-pháp chưa sanh khiến sanh ra, thiện-pháp đã sanh làm cho tăng-trưởng;
– bốn thần-túc: dục như-ý-túc, tinh-tấn như-ý-túc, thiền-định như-ý-túc, tư-duy như-ý-túc;
– bốn thiền: sơ-thiền, nhị-thiền, tam-thiền , tứ-thiền;
– bốn tu-tập thiền-định đưa đến: lạc-trú trong hiện-tại, chứng-đắc tri-kiến, chánh-niệm tỉnh-giác, diệt-tận lậu-hoặc;
– bốn vô-lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả;
– bốn vô-sắc-định: Không vô-biên xứ, Thức vô-biên-xứ, Vô-sở-hữu-xứ, Phi-tưởng phi phi-tưởng;
– bốn y-chỉ sau khi suy-nghĩ: thọ-dụng, nhẫn-thọ, viễn-ly, khiển-trừ;
– bốn Thánh-chủng: bằng lòng bất cứ loại y nào, bằng-lòng bất cứ món ăn khất-thực nào, bằng lòng bất cứ phòng-xá nào, ưa-thích tu-tập và khéo-léo tinh-cần tỉnh-giác chánh-niệm;
– bốn tinh-cần: chế-ngự tinh-cần (các căn), đoạn-trừ tinh-cần (dục-tầm, sân-tầm hại-tầm), tu-tập tinh-cần (bảy Giác-chi), hộ-trì tinh-cần (định-tưởng tốt-đẹp);
– bốn Trí: pháp-trí, loại-trí, tha-tâm trí, thế-tục trí;
– bốn loại Trí khác: Khổ-trí, Tập-trí, Diệt-trí, Đạo-trí;
– bốn chi Dự-lưu-hướng: gần bực thiện-nhơn, nghe lãnh diệu-pháp, tác-ý như lý, hành tuỳ pháp;
– bốn chi Dự-lưu-quả: lòng tin tuyệt-đối đối với Phật, Pháp, Tăng, đối với giới đức chẳng tì-vết được bậc Thánh tán-thán;
– bốn quả Sa-môn Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-lai, A-la-hán;
– bốn giới: điạ, thủy, hoả, phong;
– bốn thực: đoàn-thực, xúc-thực, tư-niệm-thực, thức-thực;
– bốn Thức-trú: Thức lấy sắc, thọ, hành, tưởng làm sở-y và an-trú;
– bốn hạnh Bất-hành-xứ: tham-dục, sân, si, bố-uý bất-hành-xứ hạnh;
– bốn ái-sanh: ái khởi lên do y-phục, món ăn, phòng-xa, hữu cùng phi-hữu;
– bốn hành: hành-trì Khổ mau chứng, chậm chứng, hành-trì Lạc mau chứng;
– bốn loại hành khác: bất-kham-nhẫn hành, kham-nhẫn hành, điều-phục hành, tịch-tịnh hành;
– bốn pháp-túc: vô-tham, vô-sân, chánh-niệm, chánh-định pháp-túc;
– bốn pháp-thọ: có pháp-thọ hiện-tại khổ và vị-lai khổ, hiện-tại khổ và vị-lai lạc, hiện-tại lạc và vị-lai khổ, hiện-tại lạc và vị-lai lạc;
– bốn pháp-uẩn: giới-uẩn, định-uẩn, công-đức-uẩn, giải-thoát-uẩn;
– bốn lực: tinh-tấn-lực, niệm-lực, định-lực, tuệ-lực;
– bốn thắng-xứ (nguyện): tuệ thắng-xứ, đế thắng-xứ, xả thắng-xứ, chỉ-tức thắng-xứ;
– bốn cách đáp: dứt-khoát, phân-tách, cật-vấn, lờ bỏ qua;
– bốn nghiệp: hắc-nghiệp hắc-báo, bạch-nghiệp bạch-báo, hắc-bạch-nghiệp hắc-bạch-báo, phi-hắc phi-bạch nghiệp phi-hắc phi-bạch báo;
– bốn pháp cần chứng-ngộ: túc-mạng chứng-ngộ bởi niệm, sanh-tử chứng ngộ bởi nhãn, tám giải-thoát chứng-ngộ bởi thân, lậu-tận chứng-ngộ bởi tuệ;
– bốn bộc-lưu: dục bộc-lưu, hữu bộc-lưu, kiến bộc-lưu, vô-minh bộc-lưu;
– bốn ách: dục ách, hữu-ách, kiến-ách, vô-minh-ách;
– bốn ly ách: ly-dục ách, ly-hữu ách, ly-kiến ách, ly-vô-minh ách;
– bốn hệ-phược: tham thân hệ, sân thân hệ, giới cấm thủ thân hệ, thử thực chấp thân hệ;
– bốn thủ: dục-thủ, kiến-thủ, giới-cấm-thủ, ngã-thuyết-thủ;
– bốn sanh: noãn-sanh, thai-sanh, thấp-sanh, hoá-sanh;
– bốn nhập-thai: không tỉnh-giác khi nhập khi trú khi xuất thai mẹ, tỉnh-giác khi nhập thai nhưng chẳng tỉnh-giác khi trú và xuất thai, iỉnh-giác khi nhập và trú nhưng chẳng tỉnh-giác khi xuất thai, tỉnh-giác cả khi nhập khi trú và khi xuất thai mẹ;
– bốn phương-cách có được tự-thể mới: có tự-thể do ý-chí của mình, do ý-chí của người khác, vừa do ý-chí của mình và của người khác, không do ý-chí mình cũng không do ý-chí kẻ khác;
– bốn sự cúng-dường thanh-tịnh: kẻ cúng-dường thanh-tịnh và người nhận không thanh-tịnh, kẻ cúng-dường không thanh-tịnh và người nhận thanh-tịnh, kẻ cúng-dường và người nhận đều không thanh-tịnh, kẻ cúng-dường và người nhận đều thanh-tịnh;
– bốn nhiếp-pháp: bố-thí, ái-ngữ, lợi-hành, đồng-sự;
– bốn phi-Thánh ngôn: vọng-ngữ, lưỡngf-thiệt, ác-khẩu, ỷ-ngữ;
– bốn Thánh-ngôn: ly vọng-ngữ, lý lưỡng-thiệt, ly ác-khẩu, ly ỷ-ngữ;
– bốn phi-Thánh-ngôn khác: không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không nghĩ nói nghĩ, không biết nói biết;
– bốn Thánh-ngôn khác: không thấy nói không thấy, không nghe nói không nghe, không nghĩ nói không nghĩ, không biết nói không biết;
– bốn phi-Thánh-ngôn khác: Thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, nghĩ nói không nghĩ, biệt nói không biết;
– bốn Thánh-ngôn khác: thấy nói thấy, nghe nói nghe, nghĩ nói nghĩ, biết nói biết;
– bốn loại Người: loại siêng làm khổ mình, siêng làm khổ kẻ khác, siêng làm khổ mình và kẻ khác, chẳng siêng làm khổ mình và kẻ khác;
– bốn loại Người khác: hạng người làm vì tự-lợi mà không vì lợi-tha, làm vì lợi-tha mà không tự-lợi, làm không vì tự-lợi cũng không vì lợi-tha, làm vì tự-lợi và cả vì lợi-tha;
– bốn loại Người khác: sống trong bóng tối và hướng đến bóng tối, sống trong bóng tối và hướng đến ánh-sáng, sống trong ánh-sáng và hướng đến bóng tối, sống trong ánh-sáng và hướng đến ánh-sáng;
– bốn loại Người khác: bất-động Sa-môn, xích liên-hoa Sa-môn, bạch liên-hoa Sa-môn, diệu-thiện liên-hoa Sa-môn.

  1. Loại năm pháp:có tất cả 26 loại, như sau:

– năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức;
– năm thủ-uẩn: sắc-thủ uẩn, thọ-thủ uẩn, tưởng-thủ uẩn, hành-thủ uẩn và thức-thủ uẩn;
– năm dục công-đức: khởi lòng dục vì do mắt thấy sắc, vì do tai nghe tiếng, vì do mũi ngửi mùi, vì do lưởi nếm vị, vì do thân xúc chạm;
– năm thú (năm nẻo tái-sanh): điạ-ngục, bàng-sanh, ngạ-quỷ, Người, Trời;
– năm xan-tham: xan-tham đối với trú-xứ, với gia-đình, với các vật thu-hoạch, với sắc, với pháp;
– năm triền-cái: tham, sân, hôn-trầm thụy-miên, trạo-cử hối-quá, và nghi;
– năm hạ-phần kết-sử: thân-kiến, nghi, giới-cấm-thủ, tham, sân;
– năm thượng-phần kết-sử: sắc-tham, vô-sắc-tham, mạn, trạo-cử, vô-minh;
– năm học-xứ: không sát-sanh, không trộm-cắp, không tà-dâm, không vọng-ngôn, không uống rượu;
– năm bất-năng-xứ: vị Tỳ-khêo đã diệt-tận các lậu-hoặc không thể sát-sanh, không thể trộm-cắp, không thể cố-ý hành-dâm, không thể nói dối, không thể cất-chứa vật-dụng dùng vào thú-vui dục-lạc như hồi còn là cư-sĩ;
– năm sự tổn-thất về: thân-thuộc, tài-sản, tật-bịnh, giới, kiến tổn-thất;
– năm sự thành-tựu: thân-thuộc, tài-sản, vô-bịnh, giới và kiến thành-tựu (chỉ khi giới và kiến thành-tựu mới sanh lên cõi trời, còn ba thành-tựu trước chưa đủ được để sanh Thiên);
– năm điều nguy-hiểm khi phạm-giới: vì phạm-giới nên phóng-dật làm tài-sản bị bị thiệt-hại, tiếng xấu đồn khắp, lo-sợ khi vào hội-chúng, khi chết tâm mê-loạn, tái-sanh vào các đường ác;
– năm điều lợi-ích khi giữ vẹn giới: tài-sản sung-túc, tiếng tốt đồn xa, chẳng sợ-hãi khi vào hội-chúng, khi chết tâm-thần chẳng dao-động, sanh vào thiện-giới;
– năm pháp nội-tâm cần có, khi chỉ-trích kẻ khác: nói đúng thời, đúng sự-thật, lời từ-tốn, lời lợi-ích, có lòng Từ;
– năm cần-chỉ: tin-tưởng sự giác-ngộ của Như-Lai, thiểu bịnh thiểu não, không dối-gạt, từ bỏ ác-pháp, thành-tựu trí-tuệ;
– năm tịnh-cư: Vô-phiền thiên, Vô-nhiệt thiên, Thiện-hiện thiên, Thiện-kiến thiên, Sắc-cứu-cánh thiên;
– năm bất-hoàn: Trung-gian Bát-Niết-bàn, Sanh Bát-Niết-bàn, Vô-hành Bát-Niết-bàn, Hữu-hành Bát-Niết-bàn, Thượng-lưu thú A-ca-ni-sá;
– năm tâm hoang-vu: tâm vị Tỳ-kheo không hướng đến tinh-tấn vì do-dự và nghi-ngờ về bực Đạo-sư, về Pháp, về Tăng, về học-pháp, về các vị đồng-tu;
– năm tâm triền-phược: tâm còn ô-nhiễm đầy dục-vọng, chẳng hướng đến nỗ-lực tinh-tấn vì tham-ái về thân, về sắc, về ăn-uống, về ngủ-nghỉ, về mong-cầu được sanh lên cõi Trời;
– năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân;
– năm căn khác: lạc-căn, khổ-căn, hỷ-căn, trú-căn, xả-căn;
– năm căn khác: tín-căn, tấn-căn, niệm-căn, định-căn, tuệ-căn;
– năm xuất-ly giới: tâm giải-thoát đối với các dục-vọng, đối với sân, đối với hại-tâm, đối với sắc, đối với tự-thân;
– năm giải-thoát-xứ: tâm hoan-hỷ nhập-định vì được nghe và hiểu pháp thuyết-giảng, vì giảng pháp rộng-rãi lại cho bạn đồng-tu, vì đọc-tụng pháp một cách rõ-ràng, vì suy-tư quán-sát về pháp, vì nắm giữ được một định-tướng đối với pháp;
– năm giải-thoát thành-thục-tưởng: Vô-thường tưởng, Khổ-tưởng trong vô-thường, Vô-ngã tưởng trong khổ, Đoạn-trừ tưởng, Vô-tham tưởng.

  1. Loại sáu pháp:có tất cả 22 loại nầy, kể ra:

– sáu nội-xứ: nhãn-xứ, nhĩ-xứ, tị-xứ, thiệt-xứ, thân-xứ và ý-xứ;
– sáu ngoại-xứ: sắc-xứ, thanh-xứ, hương-xứ, vị-xứ, xúc-xứ và pháp-xứ;
– sáu thức: nhãn-thức, nhĩ-thức, tị-thức, thiệt-thức, thân-thức và ý-thức;
– sáu xúc: nhãn-xúc, nhĩ-xúc, tị-xúc, thiệt-xúc, thân-xúc và ý-xúc;
– sáu thọ-thân: cảm-thọ từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý;
– sáu tưởng-thân: sắc-tưởng, thanh-tưởng, hương-tưởng, vị-tưởng, xúc-tưởng và pháp-tưởng;
– sáu tư-thân: sắc-tư, thanh-tư, hương-tư, vị-tư, xúc-tư và pháp-tư;
– sáu ái-thân: sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái và pháp-ái;
– sáu bất-kính pháp: sống không tùy-thuận cung-kính với bậc Đạo-sư, với Pháp, với Tăng, với học-pháp, phóng-dật, vô-lễ và thiếu xã-giao;
– sáu kính-pháp: sống tùy-thuận cung-kính bậc Đạo-sư, Pháp, Tăng, học-pháp, bất-phóng-dật, lễ-phép và xã-giao;
– sáu suy-tư về hỷ: suy-tư lúc hỷ khởi lên khi mắt thấy sắc, khi tai nghe tiếng, khi mũi ngửi mùi, khi lưỡi nếm vị, khi thân xúc chạm, khi ý nhận pháp;
– sáu suy-tư về ưu: suy-tư lúc ưu khởi lên khi mắt thấy sắc, khi tai nghe tiếng, khi mũi ngửi mùi, khi lưỡi nếm vị, khi thân xúc chạm, khi ý nhận-thức pháp;
– sáu suy-tư về xả: suy-tư khi xả khởi lên lúc mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý nhận-thức pháp;
– sáu hoà-kính pháp: giữ thân-nghiệp, khẩu-nghiệp, ý-nghiệp hoà-kính, chia vật cúng dường đồng-đều, giữ giới-hạnh, giữ Chánh-kiến;
– sáu tránh-căn: tránh các cơ-hội khởi lên tranh-cãi với nhau vì uất-hận, vì che dấu, vì tật-đố, vì ác-dục, vì tà-kiến, vì chấp-trước;
– sáu giới: điạ-giới, thủy-giới, hoả-giới, phong-giới, không-giới, thức-giới;
– sáu xuất-ly giới: từ-tâm giải-thoát được sân-tâm, bi-tâm giải-thoát được hại-tâm, hỷ-tâm giải-thoát được bất-lạc-tâm, xả-tâm giải-thoát được tham-tâm, vô-tướng-tâm giải-thoát được tâm chạy theo các tướng, khước-từ ngạo-mạn giải-thoát được do-dự và nghi-ngờ;
– sáu vô-thượng: kiến vô-thượng, văn vô-thượng, lợi-đắc vô-thượng, học-giới vô-thượng, hành vô-thượng, ức-niệm vô-thượng;
– sáu hằng-trú: tâm chẳng hỷ cũng chẳng ưu lại an-trú nơi xả khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý nhận-thức pháp;
– sáu sanh-loại: các loại người hắc-sanh và sống tạo hắc-pháp, hắc-sanh và sống tạo bạch-pháp, hắc-sanh và sống tạo Niết-bàn phi hắc phi bạch pháp, bạch-sanh và sống tạo bạch-pháp, bạch-sanh và sống tạo hắc-pháp, bạch-sanh và sống tạo Niết-bàn phi hắc phi bạch pháp;
– sáu quyết trạch phần tưởng: Vô-thường tưởng, Khổ-tưởng trên vô-thường, Vô-ngã tưởng trên khổ, Đoạn-tưởng, Vô-tham tưởng, Diệt-tưởng.

  1. Loại bảy pháp:có 14 loại pháp nầy như sau:

– bảy tài-sản: tín-tài, giới-tài, tàm-tài, quý-tài, văn-tài, thí-tài, tuệ-tài;
– bảy giác-chi: niệm, trạch-pháp, tinh-tấn, hỷ, khinh-an, định, xả;
– bảy định-cụ: chánh tri-kiến, chánh tư-duy, chánh-ngữ, chánh nghiệp, chánh-mạng, chánh tinh-tấn, chánh-niệm;
– bảy phi diệu-pháp: bất-tín, vô-tàm, vô-quý, thiểu-văn, giải-đải, thất-niệm, liệt-huệ;
– bảy diệu-pháp: tín, tám, quý, đa-văn, tinh-tấn, niệm, tuệ;
– bảy thượng-nhân pháp: tri-pháp, tri-nghiã, tự-tri, tri-lượng, tri-thời, tri-chúng, tri-nhơn;
– bảy thù-diệu-sự: tha-thiết hành-trì học-pháp, quán-pháp, điều-phục dục-vọng, sống an-tịnh, sống tinh-tấn, quán-sát tự-niệm, tha-thiết với kiến-giải;
– bảy tưởng: Vô-thường tưởng, Vô-ngã tưởng, Bất-tịnh tưởng, Hoạn-nạn tưởng, Đoạn-tưởng, Ly-tham tưởng, Diệt-tuởng;
– bảy lực: tín-lực, tinh-tấn-lực, tàm-lực, quý-lực, niệm-lực, định-lực, tuệ-lực;
– bảy thức-trú: loài hữu-tình có thân sai-biệt và tưởng sai-biệt như loài Người và một số chư Thiên, có thân sai-biệt và tưởng đồng-loại như chư Phạm-chúng Thiên, có thân đồng-loại và tưởng sai-biệt như chư Quang-âm Thiên, có thân đồng-loại và tưởng đồng-loại như chư Biến-tịnh Thiên, loài hữu-tình vượt khỏi mọi sắc-tưởng chứng Không vô-biên-xứ, chứng Thức vô-biên-xứ, chứng Vô-sở-hữu-xứ;
– bảy loại người khả-kính: câu-phần giải-thoát, tuệ giải-thoát, Thân-chứng, Kiến-chí, Tín giải-thoát, Tùy-pháp-hành, Tùy-tín-hành;
– bảy tùy-miên: dục-ái tùy-miên, sân tùy-miên, nghi tùy-miên, mạn tùy-miên, hữu-tham tùy-miên, vô-minh tùy-miên;
– bảy kết-sử: ái kết-sử, sân kết-sử, kiến kết-sử, nghi kết-sử, mạn kết-sử, hữu-tham kết-sử, vô-minh kết-sử;
– bảy diệt-tránh pháp: có khả-năng trừ-diệt các tránh-pháp: ưng dữ hiện tiền tỳ ni, ưng dữ ức niệm tỳ ni, ưng dữ bất si tỳ ni, ưng dữ tự ngôn trị, đa mích tội tướng, đa nhơn mích tội, như thảo phú điạ.

  1. Loại tám pháp:có tất cả 11 loại, liệt-kê ra:

– tám Tà: tà tri-kiến, tà tư-duy, tà-ngữ, tà-nghiệp, tà-mạng, tà tinh-tấn, tà-niệm, tà-định;
– tám Chánh: chánh tri-kiến, chánh tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh tinh-tấn, chánh- niệm, chánh-định;
– tám bực khả-kính: Dự-lưu-hướng, Dự-lưu-quả, Nhất-lai-hướng, Nhất-lai-quả, Bất-lai-hướng, Bất-lai-quả, A-la-hán-hướng, A-la-hán-đạo;
– tám giải-đải-sự: việc phải làm chẳng làm lại nằm xuống, việc đang làm chẳng làm tiếp lại nằm xuống, phải đi khất-thực chẳng đi lại nằm, đang đi khất-thực chẳng đi tiếp lại nằm nghỉ, bị bịnh nhẹ cũng muốn nằm nghỉ, vừa hết bịnh vẫn cứ nằm nghỉ;
– tám tinh-tấn-sự: có việc phải làm làm ngay, có việc đã làm nên cố-gắng thêm, có con đường phải đi cứ cố gắng đi, đường đã đi qua còn cố-gắng thêm nữa, khi khất-thực chẳng nhận được thức ăn vẫn cố gắng, khi khất-thực có nhận được thức ăn cũng cố-gắng mãi, bị bịnh nhẹ cũng cố gắng làm, vừa hết bịnh lại vẫn cố gắng làm;
– tám bố-thí sự: tôi bố-thí vì có người đến, vì có người cho tôi, vì có người sẽ cho tôi, vì bố-thí là việc tốt lành, vì có người chẳng có nấu-nướng, vì tiếng tốt đồn xa, vì muốn tâm tôi trang-nghiêm;
– tám thí-sanh: bố-thí vì mong được sanh vào hàng Sa-môn hay Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, chư Thiên các cõi Trời Tứ-Đại Thiên-Vương, Tam-Thập-Tam, Dạ-ma, Đâu-suất, Tha-Hoá Tự-tại, Phạm-Chúng Thiên;
– tám chúng: Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Gia-chủ, Sa-môn, Tứ-Đại Thiên-vương, Tam-thập-tam Thiên, Thiên-Ma, Phạm-Thiên;
– tám thế-pháp: đắc, bất-đắc, danh-văn, ác-văn, phỉ-báng, tán-thán, lạc và khổ;
– tám thắng-xứ: quán-tưởng nội-sắc và thấy ngoại-sắc có hạn-lượng đẹp xấu, quán-tưởng nội-sắc thấy ngoại-sắc vô hạn-lượng đẹp xấu, quán-tưởng vô-sắc ở nợi-tâm thấy ngoại-sắc có hạn-lượng đẹp xấu, quán-tưởng vô-sắc ở nội-tâm thấy các ngoại-sắc vô hạn-lượng đẹp xấu, quán-tưởng vô-sắc ở nội-tâm thấy các ngoại sắc màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng;
– tám giải-thoát: tự mình có sắc và thấy các sắc, quán nội-sắc là vô-sắc và thấy các ngoại-sắc, quán sắc là tịnh và chú-tâm trên tưởng đó, vượt khỏi sắc-tưởng và chứng Hư-không vô-biên-xứ, vượt Hư-không và chứng Thức vô-biên-xứ, vượt Thức vô-biên và chứng Vô-sở-hữu-xứ, vượt Vô-sở-hữu và chứng Phi-tưởng phi phi-tưởng xứ.

  1. Loại chín pháp:có tất cả 6 loại như sau:

– chín xung-đột sự: xung-đột khởi lên khi kẻ ấy đang làm hại tôi, đã làm hại tôi, sẽ làm hại tôi, đang làm hại, đã làm hại, sẽ làm hại người thân vủa tôi, đang làm lợi, đã làm lợi, sẽ làm lợi cho kẻ thù của tôi;
– chín sự điều-phục xung-đột: ích-lợi gì đâu mà cứ nhớ nghĩ kẻ ấy đã làm hại tôi, đang làm hại tôi, sẽ làm hại tôi, đã làm hại, đang làm hại, sẽ làm hại người thân của tôi, đã làm lợi, đang làm lợi, sẽ làm lợi cho kẻ thù của tôi;
– chín chỗ an-trú của loài hữu-tình: các đoạ-xứ, Phạm-chúng Thiên, Quang-âm Thiên, Tịnh-cư Thiên, Không vô-biên-xứ, Thức vô-biên-xứ, Vô-sở-hữu-xứ, Phi-tưởng phi phi-tưởng-xứ;
– chín bất thời bất tiết Phạm-hạnh trú: khi Phật ra đời có kẻ chẳng được nghe Phật-pháp, vì sanh ở điạ-ngục, bàng-sanh, ngạ-quỷ, a-tu-la, chư Thiên, vùng biên-điạ, vướng tà-kiến, các căn chẳng đầy-đủ;
– chín thứ-đệ trú: sơ-thiền, nhị-thiền, tam-thiền, tứ-thiền không vô-biên-định, Thức vô-biên-định, Vô-sở-hưũ-định, Phi-tưởng phi phi-tưởng-định, Diệt thọ-tưởng-định;
– chín thứ-đệ diệt: ở Sơ-thiền dục-tưởng bị diệt, ở Nhị-thiền tầm-tứ bị diệt, ở Tam-thiền hỷ bị diệt, ở Tứ-thiền hơi thở ra vào bị diệt, ở Không vô-biên-xứ sắc-tưởng bị diệt, ở Thức vô-biên xứ không-tưởng bị diệt, ở Vô-sở-hữu-xứ Thức-tưởng bị diệt, ở Phi-tưởng phi phi-tưởng xứ, Vô-sở-hữu tưởng bị diệt, ở Diệt-thọ-tưởng định cảm-thọ và tư-tưởng đều bị diệt.

  1. Loại mười pháp:có tất cả 6 loại, kể ra:

– Mười pháp hộ-trì nhân: sống chế-ngự trong Giới-bổn (Patimokkha), đa-văn nghe nhiều Pháp thành-tựu nhờ chánh-kiến, thân-cận với thiện-hữu, lời nói nhu-hoà kham-nhẫn nhận sự chỉ-trích, khéo nhận trách-nhiệm phải làm với bạn đồng-tu, rất hoan-hỷ đối với thắng-pháp và thắng-luật, bằng lòng với vật-dụng nhận được, sống tinh-tấn chẳng phế-bỏ các thiện-pháp, có chánh-niệm và tỉnh-giác nhớ rõ lời đã nói cùng việc đã làm từ lâu, có huệ-trí và chơn-chánh diệt-trừ mội đau-khổ;
– mười biến-xứ: các biến-xứ đất, nước, gió, lửa, xanh, vàng, đỏ, trắng, hư-không, thức khi biến-đổi trên dưới, ngang, bất-nhị, vô-hượng;
– mười nghiệp-đạo bất-thiện: sát-sanh, trộm-cắp, tà-dâm, vọng-ngữ, lưỡng-thiệt, ác-khẩu, ỷ-ngữ, tham, sân và tà-kiến;
– mười nghiệp-đạo thiện: chẳng sát-sanh, chẳng trộm-cắp, chẳng tà-dâm, chẳng vọng-ngữ, chẳng lưỡng-thiệt, chẳng ác-khẩu, chẳng ỷ-ngữ, ly-tham, ly-sân, ly-si;
– mười Thánh-cư: Tỳ-kheo đoạn-trừ năm triền-cái, chế-ngự sáu căn, hộ-trì niệm, thực-hiện bốn y (bằng cách suy-tư, nhẫn-thọ, đoạn-trừ, tránh xa một ác-pháp), loại bỏ các giáo-điều, đoạn-tận các mong-cầu, tâm-tư không trệ-phược, thân-tâm được khinh-an, tâm khéo giải-thoát, và tuệ khéo giải-thoát;
– mười pháp vô-học: Vô-học chánh-tri-kiến, vô-học chánh-tư-duy, vô-học chánh-ngữ, vô-học chánh-nghiệp, vô-học chánh-mạng, vô-học chánh tinh-tấn, vô-học chánh-niệm, vô-học chánh-định, vô-học chánh-trí, và vô-học chánh giải-thoát.

Trước khi kết-thúc, Tôn-giả Xá-lợi-phất nhắc-nhở các Tỳ-kheo: ”Các pháp nầy được Thế-Tộn giảng-dạy chơn-chánh, qúi-vị đã biết, đã thấy; mọi người phải cùng nhau tụng-đọc, không có tranh-luận, để phạm-hạnh nầy được trường-tồn, vì hạnh-phúc cho chư Thiên và loài Người.” Bấy giờ, Thế-Tôn ngồi dậy, khen-ngợi Tôn-giả đã khéo giảng Kinh nầy.

  1. ĐỌC KINHPHÚNG-TỤNG, CHÚ-Ý ĐIỂM NÀO?
  2. Nội-dung KinhPhúng-Tụnglà một bản tổng-kê các bài pháp quan-trọng đã được đức Phật thuyết-giảng cho các đệ-tử nghe và tu-tập. Tên bản Kinh nầy là Phúng-tụng, nghiã là để đọc-tụng, chớ chẳng phải để tranh-cãi nhau, như trong trường-hợp của giáo-phái loã-thể bị tan-rả sau khi vị sự-trưởng ngoại-đạo từ-trần.
  3. Bản tổng-kê còn chưa thâu-tómđược hết tất cả cácpháp-tu mà đức Phật đã diễn-giảng trong suốt hơn bốn mươi năm; ta thường nghe nói có đến tám vạn bốn ngàn pháp-môn ! Nhưng người học Kinh chớ ngại, học kỹ và thực-hành đúng bất cứ bản Kinh-Phật nào, cũng đem lại lợi-lạc thiết-thực cho đường-tu của mình. Tưởng cũng nên dùng bản tổng-kê nầy để tra-cứu lại các pháp-môn mình đang học-tập.

(TN. Mtl, 2006-93-25).

III. Video giảng pháp

.

Giáo Án Trường Bộ Kinh 

Kinh Phúng Tụng (Sangìti Sutta)

Xuất Xứ:

Đại đức SÀRIPUTTA đã thuyết giảng Pháp Thoại này cho chư Tỳ Khưu Tăng tại Hội Trường UBBHATAKA, thành PÀVÀ, xứ MALLÀ.

Duyên Khởi:

Dân chúng MALLÀ xây dựng một Hội Trường ở thành phố PÀVÀ, đặt tên là UBBHATAKA, và dâng cúng đến đức Phật. Ngài đã nhận lời và đi đến Hội Trường để thuyết giảng cho dân chúng MALLÀ cho tới lúc thật khuya. Sau khi dân chúng MALLÀ ra về, đức Phật cảm thấy mệt, muốn nằm nghỉ, và liền bảo đại đức SÀRIPUTTA hãy nên thuyết giảng cho chư Tỳ Khưu Tăng.

Chánh Kinh:

Do bởi NIGANTHA NÀTHAPUTTA vừa mới từ trần, các NIGANTHA chia thành hai phe tranh luận cãi vã, đại đức SÀRIPUTTA mới trùng tuyên lại các Pháp do đức Thế Tôn đã giảng dạy để gìn giữ những lời Phật dạy và tránh khỏi những tranh chấp về sau, để Phạm Hạnh được trường tồn, được duy trì lâu ngày vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho Chư Thiên và Nhân Loại.

Sau đó, đại đức SÀRIPUTTA đã trùng tuyên tuần tự các Pháp, từ một Pháp cho đến mười Pháp, và như vậy tóm tắt lại những Pháp Số đã được đức Phật giảng dạy. Sự sắp đặt ở đây dựa theo con số một Pháp cho đến mười Pháp, và cứ trong mỗi con số, thời kể lại tất cả Pháp có cùng một con số.

Đại đức SÀRIPUTTA trùng tuyên tuần tự một Pháp

  • Tất cả loài hữu tình phải do Vật Thực (ÀHÀRA) mà được an trú (Nhất Thiết Chúng Sanh Duy Thực Tồn).
  • Tất cả loài hữu tình phải do các Hành (SANKHÀRA) mà được an trú.

Đại đức SÀRIPUTTA trùng tuyên tuần tự hai Pháp

  • Danh và Sắc
  • Vô Minh và Hữu Ái
  • Hữu Kiến và Vô Hữu Kiến
  • Vô Tàm và Vô Quý
  • Tàm và Quý
  • Ác Ngôn và Ác Hữu
  • Thiện Ngôn và Thiện Hữu
  • Nhập tội thiện xảo và Xuất tội thiện xảo
  • Đẳng chí thiện xảo và Xuất khởi đẳng chí thiện xảo
  • Giới thiện xảo và Tác ý thiện xảo
  • Xứ thiện xảo và Duyên khởi thiện xảo
  • Thiện xảo về Xứ và Thiện xảo về Phi Xứ
  • Chân trực và Tàm Quý
  • Kham nhẫn và Nhu hoà
  • Lời nói nhu thuần và tiếp đón thân tình
  • Vô hại và Từ Ái
  • Thất niệm và Bất chánh tri
  • Chánh niệm và Tỉnh giác
  • Các căn không được chế ngự và ăn uống không tiết độ
  • Các căn được chế ngự và ăn uống có tiết độ
  • Tư duy lực và Tu tập lực
  • Niệm lực và Định lực
  • Chỉ và Quán
  • Chỉ tướng và Tinh cần tướng
  • Tinh cần và không dao động
  • Giới thành tựu và Kiến thành tựu
  • Giới suy khuyết và Kiến suy khuyết
  • Giới thanh tịnh và Kiến thanh tịnh
  • Kiến thanh tịnh và Tinh cần theo tri kiến ấy
  • Dao động đối với các Pháp bị dao động và Chánh tinh cần của người bị dao động ấy
  • Không tri túc với các Thiện Pháp và Không thối thất trong tinh cần
  • Minh tri và giải thoát
  • Tận tri và Vô Sanh trí.

Đại đức SÀRIPUTTA trùng tuyên tuần tự ba Pháp

  • Ba Bất Thiện Căn:   Tham bất thiện căn, Sân bất thiện căn, và Si bất thiện căn.
  • Ba Thiện Căn: Vô Tham thiện căn, Vô Sân thiện căn, và Vô Si thiện căn.
  • Ba Ác Hạnh: Thân ác hạnh, Ngữ ác hạnh, và Ý ác hạnh.
  • Ba Thiện Hạnh: Thân thiện hạnh, Ngữ thiện hạnh, và Ý thiện hạnh.
  • Ba Bất Thiện Tầm: Dục Tầm, Sân Tầm, và Hại Tầm.
  • Ba Thiện Tầm: Ly Dục Tầm, Vô Sân Tầm, và Vô Hại Tầm.
  • Ba Bất Thiện Tư Duy: Dục tư duy, Sân tư duy, và Hại tư
  • Ba Thiện Tư Duy: Ly Dục tư duy, Vô Sân tư duy, và Vô Hại tư
  • Ba Bất Thiện Tưởng: Dục tưởng, Sân tưởng, và Hại tưởng.
  • Ba Thiện Tưởng: Ly Dục tưởng, Vô Sân tưởng, và Vô Hại tưởng.
  • Ba Bất Thiện Giới: Dục giới, Sân giới, và Hại giới.
  • Ba Thiện Giới: Ly Dục giới, Vô Sân giới, và Vô Hại giới.
  • Ba Cõi Giới: Dục Giới, Sắc Giới, và Vô Sắc Giới.
  • Ba Giới (khác): Sắc Giới, Vô Sắc Giới, và Diệt Giới.
  • Ba Giới (khác): Hạ Liệt Giới, Trung Đẳng Giới, và Thù Thắng Giới.
  • Ba Ái: Dục Ái, Hữu Ái, và Vô Hữu Ái.
  • Ba Ái (khác): Dục Ái, Sắc Ái, và Vô Sắc Ái.
  • Ba Ái (khác): Sắc Ái, Vô Sắc Ái, và Diệt Ái.
  • Ba Kiết Sử: Thân Kiến, Hoài Nghi, và Giới Cấm Thủ.
  • Ba Lậu Hoặc: Dục Lậu, Hữu Lậu, và Vô Minh Lậu.
  • Ba Hữu: Dục Hữu, Sắc Hữu, và Vô Sắc Hữu.
  • Ba Cầu: Dục Cầu, Hữu Cầu, và Phạm Hạnh Cầu.
  • Ba Mạn: Thù Thắng Mạn, Trung Đẳng Mạn, và Ty Liệt Mạn.
  • Ba Thời: Quá khứ thời, Vị Lai thời, và Hiện tại thời.
  • Ba Biên: Hữu thân biên, Hữu thân tập biên, và Hữu thân diệt biên.
  • Ba Thọ: Lạc thọ, Khổ thọ, và Phi Khổ Phi Lạc thọ.
  • Ba Khổ Tánh: Khổ Khổ, Hành Khổ, và Hoại Khổ.
  • Ba Tụ: Tà Định tụ, Chánh Định tụ, và Bất Định tụ.
  • Ba Hoài Nghi: Hoài nghi thuộc quá khứ, Hoài nghi thuộc vị lai, và Hoài nghi thuộc hiện tại, do dự, không quyết định, không hài lòng.
  • Ba điều mà đức Phật không cần gìn giữ:
    • Ngài luôn thanh tịnh về Thân, không có Thân ác hạnh, do đó, Ngài không cần gìn giữ về điều: “Chớ để người khác biết việc này về ”
    • Ngài luôn thanh tịnh về Lời, không có Ngữ ác hạnh, do đó, Ngài không cần gìn giữ về điều: “Chớ để người khác biết việc này về ”
    • Ngài luôn thanh tịnh về Ý, không có Ý ác hạnh, do đó, Ngài không cần gìn giữ về điều: “Chớ để người khác biết việc này về ”
  • Ba Nghịch chướng: Tham chướng, Sân chướng, và Si chướng.
  • Ba loại lửa: Lửa Tham, Lửa Sân, và Lửa
  • Ba loại lửa (khác): Lửa của người hiếu kính, Lửa của người gia chủ, và Lửa của người cúng dường (Cha Mẹ, Vợ Con, và các vị xuất gia).
  • Ba loại sắc tụ: Hữu kiến hữu đối sắc, Vô Kiến hữu đối sắc, và Vô Kiến vô đối sắc.
  • Ba Hành: Phúc Hành, Phi Phúc Hành, và Bất Động Hành.
  • Ba loại người: Hữu Học nhân, Vô Học nhân, và Phi Hữu Học Phi Vô Học nhân.
  • Ba vị trưởng lão:   Sanh trưởng lão, Pháp trưởng lão, và Nhập Định trưởng lão.
  • Ba Phúc Hành Tông: Thí phúc hành tông, Giới phúc hành tông, và Tu tập phúc hành tông.
  • Ba Cử Tội Sự: Thấy, Nghe, và
  • Ba Dục Sanh:
    • Có những loại hữu tình do Dục an trú, chịu sự an trú, bị chi phối, như loài người và Chư Thiên, một số tái tục trong đọa xứ.
    • Có những loài hữu tình có lòng Dục đối với những sự vật do mình tạo ra, như là Chư Thiên ở Hóa Lạc Thiên.
    • Có những loài hữu tình có lòng Dục đối với sự vật do các loài khác tạo ra, như là Chư Thiên ở Tha Hóa Tự Tại Thiên.
  • Ba loại lạc sanh:
    • Có những loài hữu tình (trong quá khứ) luôn luôn tạo ra (Thiền Định Lạc) hay sống trong sự an lạc, như các vị Phạm Chúng Thiên.
    • Có những loài hữu tình thấm nhuần, biến mãn, hưng thịnh với sự an lạc, thường thốt lên những lời cảm hứng, như Chúng Quang Âm Thiên.
    • Có những loài hữu tình thấm nhuần, biến mãn, hưng thịnh với an lạc, chúng sống mãn túc với sự an lạc ấy, cảm thọ an lạc, như Chúng Biến Tịnh Thiên.
  • Ba Tuệ: Hữu Học Tuệ, Vô Học Tuệ, và Phi Hữu Học Phi Vô Học Tuệ.
  • Ba Tuệ (khác): Tư sanh tuệ, Văn sanh tuệ, và Tu sanh tuệ.
  • Ba loại binh khí: Nghe, xả ly, và Tuệ.
  • Ba Căn (Quyền): Vị tri đương tri căn, Dĩ tri căn, và Cụ tri căn.
  • Ba Nhãn: Nhục Nhãn, Thiên Nhãn, và Tuệ Nhãn.
  • Ba Học: Tăng thượng giới học, Tăng thượng tâm học, và Tăng thượng tuệ học.
  • Ba sự tu tập: Thân tu, Tâm tu, và Tuệ
  • Ba Vô Thượng: Kiến Vô Thượng, Hành Vô Thượng, và Giải Thoát Vô Thượng.
  • Ba Định: Hữu Tầm Hữu Tứ định, Vô Tầm Hữu Tứ định, và Vô Tầm Vô Tứ định.
  • Ba Định (khác): Không định, Vô Tướng định, và Vô Nguyện định.
  • Ba Thanh Tịnh: Thân thanh tịnh, Ngữ thanh tịnh, và Ý thanh tịnh.
  • Ba Tịch Mặc: Thân tịch mặc, Ngữ tịch mặc, và Ý tịch mặc.
  • Ba Thiện Xảo: Tăng ích thiện xảo, Tổn ích thiện xảo, Phương tiện thiện xảo.
  • Ba Kiêu Mạn: Vô bệnh kiêu, Niên tráng kiêu, và Hoạt mạng kiêu.
  • Ba Tăng Thượng: Ngã tăng thượng, Thế tăng thượng, và Pháp tăng thượng.
  • Ba Luận Sự:
    • Luận bàn về vấn đề xảy ra trong quá khứ.
    • Luận bàn về vấn đề xảy ra trong vị
    • Luận bàn về vấn đề xảy ra trong hiện tại.
  • Ba Minh: Túc mạng trí minh, Hữu tình sanh tử minh, và Lậu tận trí minh.
  • Ba Trú: Thiên trú, Phạm trú, và Thánh trú.
  • Ba Thần Thông: Thần túc thông, Tha tâm thông, và Giáo giới thần thông.

Đại đức SÀRIPUTTA trùng tuyên tuần tự bốn Pháp

  • Bốn Niệm Xứ: Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
  • Bốn Chánh Cần:
    • Bất Thiện chưa sanh không cho sanh
    • Bất Thiện đã sanh cố gắng diệt
    • Thiện chưa sanh cho sanh khởi
    • Thiện đã sanh cho được tăng trưởng
  • Bốn Thần Túc: Dục như ý thần túc, Cần như ý thần túc, Tâm như ý thần túc, Thẩm như ý thần túc.
  • Bốn Thiền:
    • Sơ Thiền do ly dục sanh, với Tầm, với Tứ.
    • Nhị Thiền do định sanh, vô Tầm vô Tứ.
    • Tam Thiền do Xả niệm lạc trú.
    • Tứ Thiền do Xả niệm thanh tịnh, phi khổ phi lạc.
  • Bốn Tu Tập Thiền Định:
    • Do tu tập thiền định và hành trì nhiều lần đưa đến Lạc trú ngay hiện tại.
    • Do tu tập thiền định và hành trì nhiều lần đưa đến chứng đắc Tri Kiến.
    • Do tu tập thiền định và hành trì nhiều lần đưa đến Chánh Niệm Tỉnh Giác.
    • Do tu tập thiền định và hành trì nhiều lần đưa đến sự diệt tận các Lậu Hoặc.
  • Bốn Vô Lượng Tâm: Từ Ái, Bi Mẫn, Tùy Hỷ, Hành Xả.
  • Bốn Vô Sắc: Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
  • Bốn Y Chỉ: Thọ dụng, Nhẫn thọ, Viễn ly, Khiển trừ.
  • Bốn Thánh Chủng: Tự hoan hỷ và bằng lòng với Tứ Vật Dụng (Y áo, Vật thực, Chỗ ở, Thuốc men).
  • Bốn Tinh Cần: Chế ngự tinh cần, Đoạn trừ tinh cần, Tu tập tinh cần, Hộ trì tinh cần.
    • Chế ngự tinh cần đối với Căn tiếp xúc với Trần.
    • Đoạn trừ tinh cần đối với Dục tầm, Sân tầm, và Hại tầm.
    • Tu tập tinh cần với Thất Giác
    • Hộ trì tinh cần đối với quán pháp Tử Thi bất tịnh.
  • Bốn Trí: Pháp trí, Loại trí, Tha tâm trí, Thế tục trí.
  • Bốn Trí (khác): Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí.
  • Bốn Dự Lưu Hướng Chi: Thiện nhân thân cận, Diệu Pháp thính thọ, Như Lý Tác Ý (Tác ý khôn khéo), Pháp tùy pháp hành.
  • Bốn Dự Lưu Quả Chi:
    • Thánh đệ tử lòng tìn tuyệt đối với đức Phật.
    • Thánh đệ tử lòng tin tuyệt đối với Pháp Bảo.
    • Thánh đệ tử lòng tin tuyệt đối với Tăng Bảo.
    • Thánh đệ tử thành tựu giới đức được các bậc Thánh ái mộ.
  • Bốn Sa Môn Quả: Dự Lưu Quả, Nhứt Lai Quả, Bất Lai Quả, Vô Sinh Quả.
  • Bốn Giới: Địa giới, Thủy giới, Hỏa giới, Phong giới.
  • Bốn Thực: Đoàn Thực, Xúc Thực, Tư Niệm Thực, Thức Thực.
  • Bốn Thức Trú:
    • Do duyên Sắc, Thức được khởi lên.
    • Do duyên Thọ, Thức được khởi lên.
    • Do duyên Tưởng, Thức được khởi lên.
    • Do duyên Hành, Thức được khởi lên.
  • Bốn Bất Hành Xứ Hạnh:
  • Tham dục bất hành xứ hạnh
  • Sân bất hành xứ hạnh
  • Si bất hành xứ hạnh
  • Bố Úy bất hành xứ hạnh
  • Bốn Ái Sanh:
    • Do nhân y phục, Tham ái khởi
    • Do nhân vật thực, Tham ái khởi
    • Do nhân trú xứ, Tham ái khởi
    • Do nhân hữu và phi hữu, Tham ái khởi
  • Bốn Hành: Khổ hành trì chứng, Khổ hành tốc chứng, Lạc hành trì chứng, Lạc hành tốc chứng.
  • Bốn Hành (khác): Bất kham nhẫn hành, Kham nhẫn hành, Điều phục hành, Tịch tịnh hành.
  • Bốn Pháp Túc: Vô Tham Pháp Túc, Vô Sân Pháp Túc, Chánh Niệm Pháp Túc, Chánh Định Pháp Túc.
  • Bốn Pháp Thọ:
    • Hiện tại Khổ và vị lai quả báo Khổ.
    • Hiện tại Khổ và vị lai quả báo Lạc.
    • Hiện tại Lạc và vị lai quả báo Khổ.
    • Hiện tại Lạc và vị lai quả báo Lạc.
  • Bốn Pháp Uẩn: Giới uẩn, Định uẩn, Công đức uẩn, Giải thoát uẩn.
  • Bốn Lực: Tấn Lực, Niệm Lực, Định Lực, Tuệ Lực.
  • Bốn Thắng Xứ: Tuệ thắng xứ, Đế thắng xứ, Xả thắng xứ, Chỉ Tức thắng xứ (Bốn Nguyện).
  • Bốn Cách Trả Lời Câu Hỏi:
    • Trả lời câu hỏi một cách dứt khoát.
    • Trả lời câu hỏi bằng cách phân tích.
    • Trả lời câu hỏi bằng cách cật vấn.
    • Trả lời câu hỏi bằng cách giả lơ, bỏ
  • Bốn Nghiệp:
    • Hắc Nghiệp, Hắc Báo.
    • Bạch Nghiệp, Bạch Báo.
    • Hắc Bạch Nghiệp, Hắc Bạch Báo.
    • Phi Hắc Phi Bạch Nghiệp, Phi Hắc Phi Bạch Báo, và đưa đến sự tận diệt các Nghiệp.
  • Bốn Pháp Cần Phải Chứng Ngộ:
    • Túc mạng cần phải chứng ngộ bởi Niệm.
    • Sanh Tử cần phải chứng ngộ bởi Nhãn.
    • Tâm giải thoát cần phải chứng ngộ bởi Thân.
    • Lậu tận cần phải chứng ngộ bởi Tuệ.
  • Bốn Bộc Lưu: Dục bộc lưu, Hữu bộc lưu, Kiến bộc lưu, Vô Minh bộc lưu.
  • Bốn Ách: Dục ách, Hữu ách, Kiến ách, Vô Minh ách.
  • Bốn Ly Ách: Ly Dục ách, Ly Hữu ách, Ly Kiến ách, Ly Vô Minh ách.
  • Bốn Hệ Phược: Tham thân hệ, Sân thân hệ, Giới Cấm Thủ thân hệ, Thử Thực Chấp thân hệ.
  • Bốn Sanh: Noãn Sanh, Thai Sanh, Thấp Sanh, Hóa
  • Bốn Nhập Thai:
    • Có loài không tỉnh giác nhập mẫu thai, không tỉnh giác trú mẫu thai, không tỉnh giác xuất mẫu
    • Có loài tỉnh giác nhập mẫu thai, không tỉnh giác trú mẫu thai, không tỉnh giác xuất mẫu
    • Có loài tỉnh giác nhập mẫu thai, tỉnh giác trú mẫu thai, không tỉnh giác xuất mẫu
    • Có loài tỉnh giác nhập mẫu thai, tỉnh giác trú mẫu thai, tỉnh giác xuất mẫu thai.
  • Bốn Phương Cách Được Tự Thể Mới:
    • Có tự thể mới do ý chí của mình và không do ý chí của người khác.
    • Có tự thể mới do ý chí của người khác, không do ý chí của mình.
    • Có tự thể mới do ý chí của mình và ý chí của người khác.
    • Có tự thể mới không do ý chí của mình và không do ý chí của người khác.
  • Bốn Sự Cúng Dường Thanh Tịnh:
    • Có sự cúng dường, người cúng dường thanh tịnh, và người nhận cúng dường không thanh tịnh.
    • Có sự cúng dường, người nhận cúng dường thanh tịnh, và người cúng dường không thanh tịnh.
    • Có sự cúng dường, cả người cúng dường, và người nhận cúng dường đều không thanh tịnh.
    • Có sự cúng dường, cả người cúng dường, và người nhận cúng dường đều thanh tịnh.
  • Bốn Nhiếp Pháp: Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng Sự.
  • Bốn Phi Thánh Ngôn: Vọng Ngữ, Lưỡng Thiệt, Ác Khẩu, Ỷ Ngữ.
  • Bốn Thánh Ngôn: Ly vọng ngữ, Ly lưỡng thiệt, Ly ác khẩu, Ly ỷ ngữ.
  • Bốn Phi Thánh Ngôn (khác):   Không thấy nói thấy, Không nghe nói nghe, Không nghĩ nói nghĩ, Không biết nói biết.
  • Bốn Thánh Ngôn (khác): Không thấy nói không thấy, Không nghe nói không nghe, Không nghĩ nói không nghĩ, Không biết nói không biết.
  • Bốn Thánh Ngôn (khác):   Thấy nói thấy, Nghe nói nghe, Nghĩ nói Nghĩ, Biết nói biết.
  • Bốn Loại Người:
    • Có loại người tự làm khổ mình và siêng năng làm khổ mình.
    • Có loại người làm khổ người khác và siêng năng làm khổ người khác.
    • Có loại người làm khổ mình và siêng năng làm khổ mình; làm khổ người khác và siêng năng làm khổ người khác.
    • Có loại người không làm khổ mình và không siêng năng làm khổ mình; không làm khổ người khác và không siêng năng làm khổ người khác. Vị này không làm khổ mình, không làm khổ người ngay trong hiện tại, sống ly dục, tịch tịnh, thanh lương, an lạc thánh thiện.
  • Bốn Loại Người (khác):
    • Có loại người hành tự lợi, không hành lợi
    • Có loại người hành lợi tha, không hành tự lợi.
    • Có loại người không hành tự lợi và không hành lợi
    • Có loại người hành tự lợi và hành lợi
  • Bốn Loại Người (khác):
    • Sống trong bóng tối và hướng đến bóng tối.
    • Sống trong bóng tối và hướng đến ánh sáng.
    • Sống trong ánh sáng và hướng đến bóng tối.
    • Sống trong ánh sáng và hướng đến ánh sáng.
  • Bốn Loại Người (khác): Bất Động Sa Môn, Xích Liên Hoa Sa Môn, Bạch Liên Hoa Sa Môn, Diệu Thiện Sa Môn.

Đại đức SÀRIPUTTA trùng tuyên tuần tự năm Pháp

  • Năm Uẩn: Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn.
  • Năm Thủ Uẩn: Sắc thủ uẩn, Thọ thủ uẩn, Tưởng thủ uẩn, Hành thủ uẩn, Thức thủ uẩn.
  • Năm Dục Công Đức:
    • Sắc do Nhãn nhận thức cảm xúc, là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục .
    • Thinh do Nhĩ nhận thức cảm xúc, là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục.
    • Khí do Tỷ nhận thức cảm xúc, là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục.
    • Vị do Thiệt nhận thức cảm xúc, là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục.
    • Xúc do Thân nhận thức cảm xúc, là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục.
  • Năm Thú: Địa Ngục, Bàng Sanh, Ngạ Quỷ, Nhân Loại, Chư Thiên.
  • Năm Xan Tham:
    • Xan tham đối với trú xứ.
    • Xan tham đối với gia đình.
    • Xan tham đối với các vật thâu hoạch.
    • Xan tham đối với sắc.
    • Xan tham đối với Pháp.
  • Năm Triền Cái: Tham dục triền cái, Sân độc triền cái, Hôn trầm Thùy miên triền cái, Trạo Hối triền cái, Hoài nghi triền cái.
  • Năm Hạ  Phần Kiết Sử:   Thân kiến, Hoài nghi, Giới cấm thủ, Tham, Sân.
  • Năm Thượng Phần Kiết Sử: Ái sắc, Ái vô sắc, Ngã mạn, Trạo cử, Vô minh.
  • Năm Học Xứ: Không sát sanh, không thâu đạo, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống các loại rượu.
  • Năm Bất Năng Xứ:
    • Một vị Lậu tận không thể cố ý sát hại đời sống loài hữu tình.
    • Một vị Lậu tận không thể cố ý lấy của không cho gọi là thâu đạo.
    • Một vị Lậu tận không thể cố ý hành dâm.
    • Một vị Lậu tận không thể cố ý tự mình biết mà nói láo.
    • Một vị Lậu tận không thể tiêu dùng các vật chứa cất (rượu) vào các thú vui dục lạc.
  • Năm Sự Tổn Thất: Thân quyến tổn thất, Tài sản tổn thất, Tật bệnh tổn thất, Giới hạnh tổn thất, Tri Kiến tổn thất.
  • Năm Sự Thành Tựu:   Thân quyến thành tựu, Tài sản thành tựu, Tật bệnh thành tựu, Giới hạnh thành tựu, Tri Kiến thành tựu.
  • Năm Điều Nguy Hiểm Của Người Ác Giới, Phạm Giới:
    • Người ác giới, phạm giới luật, do phóng dật làm thiệt hại nhiều tài sản.
    • Người ác giới, phạm giới luật, bị tiếng xấu đồn khắp.
    • Người ác giới, phạm giới luật, bị sợ sệt, và dao động khi vào hội chúng.
    • Người ác giới, phạm giới luật, khi cận tử lâm chung bị mê loạn.
    • Người ác giới, phạm giới luật, khi thân hoại mạng chung phải tái tục vào Khổ Thú, Ác Thú, Địa Ngục.
  • Năm Điều Lợi Ích Của Người Cụ Giới, Trì Giới:
    • Người cụ giới, trì giới luật, do không phóng dật nên được nhiều tài sản.
    • Người cụ giới, trì giới luật, được tiếng tốt đồn khắp.
    • Người cụ giới, trì giới luật, không sợ sệt, và dao động khi vào hội chúng.
    • Người cụ giới, trì giới luật, khi cận tử lâm chung không bị mê loạn.
    • Người cụ giới, trì giới luật, khi thân hoại mạng chung được tái tục vào Thiện Thú, Thiên Giới.
  • Năm Pháp Cần Phải Có Khi Muốn Chỉ Trích Người:
    • Phải nói đúng thời, không phải phi thời.
    • Phải nói đúng sự thật, không nói sai sự thật.
    • Phải nói một cách từ tốn, không nói lời ác khẩu.
    • Phải nói lời có lợi ích, không nói lời vô ích.
    • Phải nói lời với lòng từ ái, không phải lời sân hận.
  • Năm Cần Chi:
    • Vị tỳ khưu có lòng tin tưởng vào sự giác ngộ của đức Từ Phụ.
    • Vị ấy thiểu bệnh, thiểu não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, quân bình thích hợp với sự tinh tấn.
    • Vị ấy không lường đảo, không dối gạt, nêu rõ tự mình như chân đối với bậc Đạo Sư, đối với các vị sáng suốt hay đối với các vị đồng Phạm Hạnh.
    • Vị ấy sống siêng năng, tinh tấn, từ bỏ các ác pháp, thành tựu các thiện pháp, cương quyết, kiên trì nỗ lực, không tránh né với các thiện pháp.
    • Vị ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ hướng đến sự sanh diệt của các pháp, là bậc Thánh hướng đến phân tích, đưa đến đoạn diệt một cách chân chánh các khổ đau.
  • Năm Tịnh Cư: Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Hiện Thiên, Thiện Kiến Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên.
  • Năm Bất Lai:
    • Trung Bát Níp Bàn: Khi sanh lên cõi Phạm Thiên chưa đến phân nửa tuổi thọ thì chứng đắc Quả Vô Sinh và viên tịch lúc ấy.
    • Sanh Bát Níp Bàn: Khi sanh lên cõi Phạm Thiên được tuổi thọ hơn phân nửa, gần hết tuổi thọ thì chứng đắc Quả Vô Sinh và viên tịch lúc ấy.
    • Vô Hành Bát Níp Bàn: Là chứng đắc Quả Vô Sinh, diệt trừ Năm Thượng Phần Kiết Sử một cách dễ dàng.
    • Hữu Hành Bát Níp Bàn: Là chứng đắc Quả Vô Sinh và diệt trừ Năm Thượng Phần Kiết Sử một cách khó khăn.
    • Thượng Lưu Níp Bàn: Là vị Bất Lai phải tíến tu từng bậc theo Ngũ Quyền và các tầng Trời của Ngũ Tịnh Cư Thiên, từ thấp lên cao, và sau đó diệt Năm Thượng Phần Kiết Sử, chứng đắc Quả Vô Sinh, viên tịch lúc ấy.
  • Năm Tâm Hoang Vu:
    • Vị tỳ khưu nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không thỏa mãn đối với vị Đạo Sư.
    • Vị tỳ khưu nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không thỏa mãn đối với Pháp Bảo.
    • Vị tỳ khưu nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không thỏa mãn đối với Tăng Bảo.
    • Vị tỳ khưu nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không thỏa mãn đối với Điều Học.
    • Vị tỳ khưu nghi ngờ, do dự, không quyết đoán, không thỏa mãn đối với các vị đồng Phạm Hạnh.
  • Năm Tâm Triền Phược:
    • Vị tỳ khưu ái luyến, ái nhiễm, khao khát với các dục vọng.
    • Vị tỳ khưu ái luyến, ái nhiễm, khao khát về tự thân thể.
    • Vị tỳ khưu ái luyến, ái nhiễm, khao khát với sắc pháp.
    • Vị tỳ khưu hưởng thọ sung sướng về ăn uống no nê, về ngủ nghỉ, về xúc chạm, về thụy miên.
    • Vị tỳ khưu ái luyến, ái nhiễm, khao khát được sanh về Chư Thiên.
  • Năm Quyền: Nhãn Quyền, Nhĩ Quyền, Tỷ Quyền, Thiệt Quyền, Thân Quyền.
  • Năm Quyền (khác): Lạc Quyền, Khổ Quyền, Hỷ Quyền, Ưu Quyền, Xả Quyền.
  • Năm  Quyền  (khác):    Tín Quyền, Tấn Quyền, Niệm Quyền, Định Quyền, Tuệ Quyền.
  • Năm Xuất Ly Giới:
    • Vị tỳ khưu khéo tu, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với các dục lạc. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên các dục lạc, vị tỳ khưu được giải thoát và không còn cảm thọ cảm giác ấy.
    • Vị tỳ khưu khéo tu, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với các sân hận. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên các sân hận, vị tỳ khưu được giải thoát và không còn cảm thọ cảm giác ấy.
    • Vị tỳ khưu khéo tu, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với các hại tâm. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên các hại tâm, vị tỳ khưu được giải thoát và không còn cảm thọ cảm giác ấy.
    • Vị tỳ khưu khéo tu, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với các sắc. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên các sắc, vị tỳ khưu được giải thoát và không còn cảm thọ cảm giác ấy.
    • Vị tỳ khưu khéo tu, khéo giải thoát, khéo ly hệ đối với tự thân. Và các lậu hoặc, các tổn hại, các nhiệt não khởi lên do duyên với tự thân, vị tỳ khưu được giải thoát và không còn cảm thọ cảm giác ấy.
  • Năm Giải Thoát Xứ:
    • Vị tỳ khưu được nghe từ bậc Đạo Sư, hay từ một vị đồng Phạm Hạnh đáng kính thuyết giảng, và được thấu hiểu nghĩa lý Giáo Pháp. Như vậy, hỷ tâm phát sanh, duyệt ý phát sanh, thân khinh an phát sanh, lạc thọ phát sanh, nhờ đó, Tâm được định tỉnh.
    • Vị tỳ khưu theo điều đã nghe, theo điều đã học, đem thuyết giảng một cách rộng rãi cho người khác, và được thấu hiểu nghĩa lý Giáo Pháp. Như vậy, hỷ tâm phát sanh, duyệt ý phát sanh, thân khinh an phát sanh, lạc thọ phát sanh, nhờ đó, Tâm được định tỉnh.
    • Vị tỳ khưu, dù không được nghe từ bậc Đạo Sư, hay từ một vị đồng Phạm Hạnh đáng kính thuyết giảng, cũng không theo điều đã nghe, theo điều đã học, nhưng tụng đọc Pháp một cách rõ ràng, và được thấu hiểu nghĩa lý Giáo Pháp. Như vậy, hỷ tâm phát sanh, duyệt ý phát sanh, thân khinh an phát sanh, lạc thọ phát sanh, nhờ đó, tâm được định tỉnh.
    • Vị tỳ khưu, dù không được nghe từ bậc Đạo Sư, hay từ một vị đồng Phạm Hạnh đáng kính thuyết giảng, cũng không theo điều đã nghe, theo điều đã học, tụng đọc Pháp một cách rõ ràng, chỉ dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát Pháp ấy, và được thấu hiểu nghĩa lý Giáo Pháp. Như vậy, hỷ tâm phát sanh, duyệt ý phát sanh, thân khinh an phát sanh, lạc thọ phát sanh, nhờ đó, tâm được định tỉnh.
    • Vị tỳ khưu, dù không được nghe từ bậc Đạo Sư, hay từ một vị đồng Phạm Hạnh đáng kính thuyết giảng, cũng không theo điều đã nghe, theo điều đã học, tụng đọc Pháp một cách rõ ràng, dùng tâm tầm cầu, suy tư, quán sát Pháp ấy, nhưng khéo nắm giữ một định tướng, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thể nhập nhờ trí tuệ, và được thấu hiểu nghĩa lý Giáo Pháp. Như vậy, hỷ tâm phát sanh, duyệt ý phát sanh, thân khinh an phát sanh, lạc thọ phát sanh, nhờ đó, tâm được định tỉnh.
  • Năm Giải Thoát Thành Thục Tưởng: Vô Thường Tưởng, Khổ Tưởng trong Vô Thường, Vô Ngã Tưởng trong Khổ Đau, Đoạn Trừ Tưởng, Vô Tham Tưởng.

Đại đức SÀRIPUTTA trùng tuyên tuần tự sáu Pháp

  • Sáu Nội Xứ: Nhãn Xứ, Nhĩ Xứ, Tỷ Xứ, Thiệt Xứ, Thân Xứ, Ý Xứ.
  • Sáu Ngoại Xứ: Sắc Xứ, Thinh Xứ, Khí Xứ, Vị Xứ, Xúc Xứ, Pháp Xứ.
  • Sáu Thức Thân: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức.
  • Sáu Xúc Thân: Nhãn Xúc, Nhĩ Xúc, Tỷ Xúc, Thiệt Xúc, Thân Xúc, Ý Xúc.
  • Sáu Thọ Thân: Nhãn Xúc sở sanh thọ, Nhĩ Xúc sở sanh thọ, Tỷ Xúc sở sanh thọ, Thiệt Xúc sở sanh thọ, Thân Xúc sở sanh thọ, Ý Xúc sở sanh thọ.
  • Sáu Tưởng Thân: Sắc tưởng, Thinh tưởng, Khí tưởng, Vị tưởng, Xúc tưởng, Pháp tưởng.
  • Sáu Tư Thân: Sắc tư, Thinh tư, Khí tư, Vị tư, Xúc tư, Pháp tư.
  • Sáu Ái Thân: Sắc ái, Thinh ái, Khí ái, Vị ái, Xúc ái, Pháp ái.
  • Sáu Bất Cung Kính Pháp:
    • Vị tỳ khưu sống bất cung kính, bất tùy thuận với bậc Đạo Sư.
    • Vị tỳ khưu sống bất cung kính, bất tùy thuận với Pháp Bảo.
    • Vị tỳ khưu sống bất cung kính, bất tùy thuận với Tăng Bảo.
    • Vị tỳ khưu sống bất cung kính, bất tùy thuận với Điều Học.
    • Vị tỳ khưu sống bất cung kính, bất tùy thuận với không phóng dật.
    • Vị tỳ khưu sống bất cung kính, bất tùy thuận với sự lễ phép, xã
  • Sáu Cung Kính Pháp:
    • Vị tỳ khưu sống cung kính, tùy thuận với bậc Đạo Sư.
    • Vị tỳ khưu sống cung kính, tùy thuận với Pháp Bảo.
    • Vị tỳ khưu sống cung kính, tùy thuận với Tăng Bảo.
    • Vị tỳ khưu sống cung kính, tùy thuận với Điều Học.
    • Vị tỳ khưu sống cung kính, tùy thuận với không phóng dật.
    • Vị tỳ khưu sống cung kính, tùy thuận với sự lễ phép, xã
  • Sáu Suy Tư Đến Hỷ:
    • Khi mắt thấy Sắc, hoan hỷ khởi lên, Sắc ấy được suy tư.
    • Khi tai nghe Thinh, hoan hỷ khởi lên, Thinh ấy được suy tư.
    • Khi mũi ngửi Khí, hoan hỷ khởi lên, Khí ấy được suy tư.
    • Khi lưỡi nếm Vị, hoan hỷ khởi lên, Vị ấy được suy tư.
    • Khi thân chạm Xúc, hoan hỷ khởi lên, Xúc ấy được suy tư.
    • Khi ý nhận Pháp, hoan hỷ khởi lên, Pháp ấy được suy tư.
  • Sáu Suy Tư Đến Ưu:
    • Khi mắt thấy Sắc, ưu tư khởi lên, Sắc ấy được suy tư.
    • Khi tai nghe Thinh, ưu tư khởi lên, Thinh ấy được suy tư.
    • Khi mũi ngửi Khí, ưu tư khởi lên, Khí ấy được suy tư.
    • Khi lưỡi nếm Vị, ưu tư khởi lên, Vị ấy được suy tư.
    • Khi thân chạm Xúc, ưu tư khởi lên, Xúc ấy được suy tư.
    • Khi ý nhận Pháp, ưu tư khởi lên, Pháp ấy được suy tư.
  • Sáu Suy Tư Đến Xả:
    • Khi mắt thấy Sắc, xả khởi lên, Sắc ấy được suy tư.
    • Khi tai nghe Thinh, xả khởi lên, Thinh ấy được suy tư.
    • Khi mũi ngửi Khí, xả khởi lên, Khí ấy được suy tư.
    • Khi lưỡi nếm Vị, xả khởi lên, Vị ấy được suy tư.
    • Khi thân chạm Xúc, xả khởi lên, Xúc ấy được suy tư.
    • Khi ý nhận Pháp, xả khởi lên, Pháp ấy được suy tư.
  • Sáu Hòa Kính Pháp:
    • Vị tỳ khưu thành tựu từ thân nghiệp, sống hòa kính, cung kính với các vị đồng Phạm Hạnh, như là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, sự đoàn kết, hòa hợp, tâm đồng ý hợp.
    • Vị tỳ khưu thành tựu từ ngữ nghiệp, sống hòa kính, cung kính với các vị đồng Phạm Hạnh, như là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, sự đoàn kết, hòa hợp, tâm đồng ý hợp.
    • Vị tỳ khưu thành tựu từ ý nghiệp, sống hòa kính, cung kính với các vị đồng Phạm Hạnh, như là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, sự đoàn kết, hòa hợp, tâm đồng ý hợp.
    • Vị tỳ khưu chia sẻ những vật thực được cúng dường một cách hợp pháp đến các vị tỳ khưu có giới hạnh. Vị ấy sống với các vị đồng Phạm Hạnh, như là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, sự đoàn kết, hòa hợp, tâm đồng ý hợp.
    • Vị tỳ khưu sống giữ Giới Luật, không bị hư hoại, không vi phạm, kiên trì tuân hành, không tỳ vết, làm con người được giải thoát, được người trí tán thán, không uế tạp, hướng đến Thiền Định. Vị ấy sống với các vị đồng Phạm Hạnh, như là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, sự đoàn kết, hòa hợp, tâm đồng ý hợp.
    • Vị tỳ khưu sống đời sống được Thánh Kiến hướng dẫn, chân chánh, đoạn diệt khổ đau. Vị ấy sống thành tựu với Chánh Kiến như vậy, sống với các vị đồng Phạm Hạnh, như là một pháp hòa kính, tạo ra từ ái, sự đoàn kết, hòa hợp, tâm đồng ý hợp.
  • Sáu Ác Tránh Căn:
    • Vị tỳ khưu cố gắng đoạn trừ phẫn nộ và uất hận Ác tránh căn giữa các vị đồng Phạm Hạnh. Cố gắng ngăn chặn nguy hại ác tránh căn này xảy ra trong vị lai, vì lợi ích an vui và hạnh phúc của Chư Thiên và Nhân Loại.
    • Vị tỳ khưu cố gắng đoạn trừ che dấu và giả dối Ác tránh căn giữa các vị đồng Phạm Hạnh. Cố gắng ngăn chặn nguy hại ác tránh căn này xảy ra trong vị lai, vì lợi ích an vui và hạnh phúc của Chư Thiên và Nhân Loại.
    • Vị tỳ khưu cố gắng đoạn trừ tật đố và xan tham Ác tránh căn giữa các vị đồng Phạm Hạnh. Cố gắng ngăn chặn nguy hại ác tránh căn này xảy ra trong vị lai, vì lợi ích an vui và hạnh phúc của Chư Thiên và Nhân Loại.
    • Vị tỳ khưu cố gắng đoạn trừ lừa đảo và lường gạt Ác tránh căn giữa các vị đồng Phạm Hạnh. Cố gắng ngăn chặn nguy hại ác tránh căn này xảy ra trong vị lai, vì lợi ích an vui và hạnh phúc của Chư Thiên và Nhân Loại.
    • Vị tỳ khưu cố gắng đoạn trừ ác dục và tà kiến Ác tránh căn giữa các vị đồng Phạm Hạnh. Cố gắng ngăn chặn nguy hại ác tránh căn này xảy ra trong vị lai, vì lợi ích an vui và hạnh phúc của Chư Thiên và Nhân Loại.
    • Vị tỳ khưu cố gắng đoạn trừ chấp trước sở kiến Ác tránh căn, kiên trì gìn giữ rất khó rời bỏ, giữa các vị đồng Phạm Hạnh. Cố gắng ngăn chặn nguy hại ác tránh căn này xảy ra trong vị lai, vì lợi ích an vui và hạnh phúc của Chư Thiên và Nhân Loại.
  • Sáu Giới: Địa Giới, Thủy Giới, Hỏa Giới, Phong Giới, Không Giới, Thức Giới.
  • Sáu Xuất Ly Giới:
    • Tu tập Từ Tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần thì có khả năng giải thoát Sân Tâm.
    • Tu tập Bi Tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần thì có khả năng giải thoát Hại Tâm.
    • Tu tập Hỷ Tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần thì có khả năng giải thoát Bất Lạc Tâm.
    • Tu tập Xả Tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần thì có khả năng giải thoát Tham Tâm.
    • Tu tập Vô Tướng Tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần thì có khả năng giải thoát tất cả Tướng.
    • Tu tập khước từ sự ngạo mạn “Tôi có mặt,” “Tôi là cái này,” mà mũi tên do dự nghi ngờ được giải thoát.
  • Sáu Vô Thượng: Kiến Vô Thượng, Văn Vô Thượng, Lợi Đắc Vô Thượng, Học Giới Vô Thượng, Hành Vô Thượng, Ức Niệm Vô Thượng.
  • Sáu Niệm Xứ: Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng, Niệm Giới, Niệm Thí, Niệm Thiên.
  • Sáu Hằng Trú Pháp:
    • Vị tỳ khưu với mắt thấy sắc, không có hoan hỷ, không có ưu phiền, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác.
    • Vị tỳ khưu với tai nghe tiếng, không có hoan hỷ, không có ưu phiền, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác.
    • Vị tỳ khưu với mũi ngửi mùi hơi, không có hoan hỷ, không có ưu phiền, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác.
    • Vị tỳ khưu với lưỡi nếm các vị, không có hoan hỷ, không có ưu phiền, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác.
    • Vị tỳ khưu với thân cảm xúc, không có hoan hỷ, không có ưu phiền, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác.
    • Vị tỳ khưu với ý nhận thức Pháp, không có hoan hỷ, không có ưu phiền, an trú xả, chánh niệm, tỉnh giác.
  • Sáu Sanh Loại:
    • Có người Hắc Sanh và sống tạo Hắc Pháp.
    • Có người Hắc Sanh và sống tạo Bạch Pháp.
    • Có người Hắc Sanh và sống tạo Níp Bàn, Phi Hắc Phi Bạch Pháp.
    • Có người Bạch Sanh và sống tạo Bạch Pháp.
    • Có người Bạch Sanh và sống tạo Hắc Pháp.
    • Có người Bạch Sanh và sống tạo Níp Bàn, Phi Hắc Phi Bạch Pháp.
  • Sáu Quyết Trạch Phần Tưởng: Vô Thường Tưởng, Khổ Tưởng trên Vô Thường, Vô Ngã Tưởng trên Khổ, Đoạn Tưởng, Vô Tham Tưởng, Diệt Tưởng.

Đại đức SÀRIPUTTA trùng tuyên tuần tự bảy Pháp

  • Bảy Tài Sản: Tín Tài, Giới Tài, Tàm Tài, Quý Tài, Văn Tài, Thí Tài, Tuệ Tài.
  • Bảy Giác Chi: Niệm Giác Chi, Trạch Pháp Giác Chi, Tinh Tấn Giác Chi, Hỷ Giác Chi, Khinh An Giác Chi, Định Giác Chi, Xả Giác
  • Bảy Định Cụ: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm.
  • Bảy Phi Diệu Pháp: Bất Tín, Vô Tàm, Vô Quý, Thiểu Văn, Giải Đãi, Thất Niệm, Liệt Tuệ.
  • Bảy Diệu Pháp: Tín, Tàm, Quý, Đa Văn, Tinh Tấn, Niệm An Trú, Trí Tuệ.
  • Bảy Thượng Nhân: Tri Pháp, Tri Nghĩa, Tự Tri, Tri Lượng, Tri Thời, Tri Chúng, và Tri Nhân (người).
  • Bảy Thù Diệu Sự:
    • Vị tỳ khưu tha thiết hành trì Học Pháp và khao khát hành trì Học Pháp trong vị
    • Vị tỳ khưu tha thiết Quán Pháp và khao khát Quán Pháp trong vị
    • Vị tỳ khưu tha thiết điều phục các dục vọng và khao khát điều phục các dục vọng trong vị
    • Vị tỳ khưu tha thiết sống an tịnh và khao khát sống an tịnh trong vị lai.
    • Vị tỳ khưu tha thiết sống tinh tấn và khao khát sống tinh tấn trong vị lai.
    • Vị tỳ khưu tha thiết quán sát tự niệm và khao khát quán sát tự niệm trong vị
    • Vị tỳ khưu tha thiết với kiến giải và khao khát hiểu biết sở kiến trong vị
  • Bảy Tưởng: Vô Thường Tưởng, Vô Ngã Tưởng, Bất Tịnh Tưởng, Hoạn Nạn Tưởng, Đoạn Tưởng, Ly Tham Tưởng, Diệt Tưởng.
  • Bảy Lực: Tín Lực, Tấn Lực, Tàm Lực, Quý Lực, Niệm Lực, Định Lực, Tuệ Lực.
  • Bảy Thức Trú:
    • THÂN DỊ TƯỞNG DỊ: Thân hình khác nhau, tư tưởng khác nhau, như là Nhân Loại, Chư Thiên, và một số trong Địa Ngục.
    • THÂN DỊ TƯỞNG ĐỒNG: Thân hình khác nhau, nhưng tư tưởng giống nhau, như là các vị Phạm Chúng Thiên ở tầng Sơ Thiền.
    • THÂN ĐỒNG TƯỞNG DỊ: Thân hình giống nhau, nhưng tư tưởng khác nhau, như là các vị Quang Âm Thiên ở tầng Nhị Thiền.
    • THÂN ĐỒNG TƯỞNG ĐỒNG: Thân hình giống nhau và tư tưởng cũng giống nhau, như là các vị Biến Tịnh Thiên ở tầng Tam Thiền.
    • KHÔNG VÔ BIÊN XỨ: Vượt khỏi mọi sắc tưởng, đoạn trừ tất cả hữu đối tưởng, không còn suy tư đến bất luận một dị loại tưởng, như là các vị Không Vô Biên Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.
    • THỨC VÔ BIÊN XỨ: Vượt khỏi Không Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng “Thức là vô biên,” như là các vị Thức Vô Biên Xứ Thiên ở Cõi Vô Sắc Giới.
    • VÔ SỞ HỮU XỨ: Vượt khỏi Thức Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng “Vô Sở Hữu” (lấy đề mục “không có chi cả” làm cảnh giới), như các vị Vô Sở Hữu Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.
  • Bảy Loại Người Đáng Kính Trọng: Câu Phần giải thoát, Tuệ giải thoát, Thân Chứng, Kiến Chí, Tín giải thoát, Tùy Pháp Hành, Tùy Tín Hành.
  • Bảy Tùy Miên: Dục Ái tùy miên, Sân Độc tùy miên, Tà Kiến tùy miên, Hoài Nghi tùy miên, Hữu Ái tùy miên, Vô Minh tùy miên.
  • Bảy Kiết Sử: Ái kiết sử, Sân kiết sử, Kiến kiết sử, Nghi kiết sử, Mạn kiết sử, Hữu Ái kiết sử, Vô Minh kiết sử.
  • Bảy Diệt Tránh Pháp: Ưng dữ hiện tiền tỳ ni, Ưng dữ ức niệm tỳ ni, Ưng dữ bất si tỳ ni, Ưng dữ tự ngôn trị, Đa mích tội tướng, Đa nhân mích tội, Như thảo phú địa.

Đại đức SÀRIPUTTA trùng tuyên tuần tự tám Pháp

  • Tám Tà: Tà Tri Kiến, Tà Tư Duy, Tà Ngữ, Tà Nghiệp, Tà Mạng, Tà Tinh Tấn, Tà Niệm, Tà Định.
  • Tám Chánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.
  • Tám Người Đáng Cung Kính:
    • Hạng Dự Lưu (Thất Lai), hạng đã thành tựu và chứng Dự Lưu Quả.
    • Hạng Nhất Lai, hạng đã thành tựu và chứng Nhất Lai Quả.
    • Hạng Bất Lai, hạng đã thành tựu và chứng Bất Lai Quả.
    • Hạng Vô Sinh, hạng đã thành tựu và chứng Vô Sinh Quả.
  • Tám Giải Đãi Sự:
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc nằm nghỉ khi sắp có công việc phải làm. Do đó, không có tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc nằm nghỉ khi đã làm một công việc. Do đó, không có tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc nằm nghỉ khi sắp phải lên đường đi xa. Do đó, không có tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc nằm nghỉ khi vừa mới đi xa trở về. Do đó, không có tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc nằm nghỉ khi đi khất thực và không có được vật thực như ý. Do đó, không có tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc nằm nghỉ khi đi khất thực và có được vật thực như ý. Do đó, không có tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc nằm nghỉ khi vừa mới ngã bệnh nhẹ. Do đó, không có tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc nằm nghỉ khi vừa mới hết bệnh. Do đó, không có tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
  • Tám Tinh Tấn Sự:
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới sắp có công việc phải làm, và khi làm công việc thì không có thời gian để suy tư đến Giáo Pháp Chư Phật. Do đó, cố gắng tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới công việc đã làm xong, và khi làm công việc thì không có thời gian để suy tư đến Giáo Pháp Chư Phật. Do đó, cố gắng tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc sắp phải lên đường đi xa, và khi phải lên đường đi xa, thì không có thời gian để suy tư đến Giáo Pháp Chư Phật. Do đó, cố gắng tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc khi vừa đã đi xa trở về, và khi đã đi xa thì không có thời gian để suy tư đến Giáo Pháp Chư Phật. Do đó, cố gắng tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc đi khất thực và không có được vật thực như ý. Sắc Thân được nhẹ nhàng và có thể làm việc. Do đó, cố gắng tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc đi khất thực và có được vật thực như ý. Sắc Thân được khỏe mạnh và có thể làm việc. Do đó, cố gắng tinh  tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc vừa mới ngã bệnh nhẹ. Tâm liền nghĩ đến căn bệnh có thể trở nặng thêm. Do đó, cố gắng tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
    • Vị tỳ khưu nghĩ tới việc vừa mới hết bệnh. Tâm liền nghĩ đến căn bệnh có thể tái phát. Do đó, cố gắng tinh tấn để đạt được điều chưa đạt được, để thành tựu điều chưa thành tựu, để chứng ngộ điều chưa chứng ngộ được.
  • Tám Bố Thí Sự:
    • Bố Thí vì có người tới nhà mình.
    • Bố Thí vì sợ người chê bai, biếm nhẽ, hoặc cảnh khổ.
    • Bố Thí vì nghĩ rằng sẽ được cho lại.
    • Bố Thí vì nghĩ rằng sẽ làm cho có điều lợi ích và tốt đẹp.
    • Bố Thí vì nghĩ rằng có vật để cho đến người không có (nếu không cho quả thật là không nên).
    • Bố Thí vì nghĩ rằng sẽ có được danh thơm tiếng tốt.
    • Bố Thí vì nghĩ rằng là vật phụ thuộc để trang điểm, trau giồi cho tâm được tốt đẹp.
  • Tám Thí Sanh:
    • Có người bố thí đến Sa Môn hay Bà La Môn. Khởi Tâm mong được đón nhận quả bố thí trở lại, trở thành người Sát Đế Lỵ có nhiều tài sản, người Bà La Môn có nhiều tài sản, hay người gia chủ có nhiều tài sản.
    • Có người bố thí đến Sa Môn hay Bà La Môn. Khởi Tâm mong được đón nhận quả bố thí trở lại, trở thành một trong hàng Tứ Đại Thiên Vương với thọ mạng lâu dài, có Thiên Sắc xinh đẹp, và nhiều an lạc.
    • Có người bố thí đến Sa Môn hay Bà La Môn. Khởi Tâm mong được đón nhận quả bố thí trở lại, trở thành Chư Thiên Tam Thập Tam Thiên với thọ mạng lâu dài, có Thiên Sắc xinh đẹp, và nhiều an lạc.
    • Có người bố thí đến Sa Môn hay Bà La Môn. Khởi Tâm mong được đón nhận quả bố thí trở lại, trở thành Chư Thiên Dạ Ma với thọ mạng lâu dài, có Thiên Sắc xinh đẹp, và nhiều an lạc.
    • Có người bố thí đến Sa Môn hay Bà La Môn. Khởi Tâm mong được đón nhận quả bố thí trở lại, trở thành Chư Thiên Đâu Suất Đà với thọ mạng lâu dài, có Thiên Sắc xinh đẹp, và nhiều an lạc.
    • Có người bố thí đến Sa Môn hay Bà La Môn. Khởi Tâm mong được đón nhận quả bố thí trở lại, trở thành Chư Thiên Hóa Lạc với thọ mạng lâu dài, có Thiên Sắc xinh đẹp, và nhiều an lạc.
    • Có người bố thí đến Sa Môn hay Bà La Môn. Khởi Tâm mong được đón nhận quả bố thí trở lại, trở thành Chư Thiên Tha Hóa Tự Tại với thọ mạng lâu dài, có Thiên Sắc xinh đẹp, và nhiều an lạc.
    • Có người bố thí đến Sa Môn hay Bà La Môn. Khởi Tâm mong được đón nhận quả bố thí trở lại, trở thành Phạm Chúng Thiên với thọ mạng lâu dài, có Thiên Sắc xinh đẹp, và nhiều an lạc.
  • Tám Chúng: Chúng Sát Đế Lỵ, Chúng Bà La Môn, Chúng Gia Chủ, Chúng Sa Môn, Chúng Tứ Đại Thiên Vương, Chúng Tam Thập Tam Thiên, Chúng Thiên Ma, Chúng Phạm Thiên.
  • Tám Thế Pháp: Đắc – Bất Đắc, Danh Văn – Ác Văn, Phỉ Báng – Tán Thán, Lạc và Khổ.
  • Tám Thắng Xứ:
    • Hành giả quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, và xấu. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, có sự nhận biết, có sự nhận thấy.”
    • Hành giả quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, và xấu. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, có sự nhận biết, có sự nhận thấy.”
    • Hành giả quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, và xấu. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, có sự nhận biết, có sự nhận thấy.”
    • Hành giả quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, và xấu. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, có sự nhận biết, có sự nhận thấy.”
    • Hành giả quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc với sắc tướng xanh, hình sắc xanh, với cả hai mặt láng trơn. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, có sự nhận biết, có sự nhận thấy.”
    • Hành giả quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc với sắc tướng vàng, hình sắc vàng, với cả hai mặt láng trơn. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, có sự nhận biết, có sự nhận thấy.”
    • Hành giả quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc với sắc tướng đỏ, hình sắc đỏ, với cả hai mặt láng trơn. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, có sự nhận biết, có sự nhận thấy.”
    • Hành giả quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc với sắc tướng trắng, hình sắc trắng, với cả hai mặt láng trơn. Vị ấy nhận thức rằng: “Sau khi nhiếp thắng chúng, có sự nhận biết, có sự nhận thấy.”
  • Tám Giải Thoát:
    • Tự mình có sắc, thấy các sắc.
    • Quán tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các ngoại sắc.
    • Quán tưởng (sắc là) tịnh, chú tâm trên suy tưởng ấy.
    • Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng hữu đối, không suy tư đến những tưởng khác biệt, với suy tư “hư không là vô biên,” chứng và trú Không Vô Biên Xứ.
    • Vượt khỏi hoàn toàn Không Vô Biên Xứ, với suy tư “thức là vô biên,” chứng và trú Thức Vô Biên Xứ.
    • Vượt khỏi hoàn toàn Thức Vô Biên Xứ, với suy tư “không có chi cả,” chứng và trú Vô Sở Hữu Xứ.
    • Vượt khỏi hoàn toàn Vô Sở Hữu Xứ, với suy tư “chẳng phải tưởng chẳng phải chẳng phải tưởng,” chứng và trú Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
    • Vượt khỏi hoàn toàn Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, chứng và trú Diệt Thọ Tưởng Định.

Đại đức SÀRIPUTTA trùng tuyên tuần tự chín Pháp

  • Chín Xung Đột Sự:
    • “Nó đã làm hại tôi,” do đó, xung đột khởi lên.
    • “Nó đang làm hại tôi,” do đó, xung đột khởi lên.
    • “Nó sẽ làm hại tôi,” do đó, xung đột khởi lên.
    • “Nó đã làm hại người tôi thương, tôi mến,” do đó, xung đột khởi lên.
    • “Nó đang làm hại người tôi thương, tôi mến,” do đó, xung đột khởi lên.
    • “Nó sẽ làm hại người tôi thương, tôi mến,” do đó, xung đột khởi lên.
    • “Nó đã làm lợi cho người tôi không thương, không mến,” do đó, xung đột khởi lên.
    • “Nó đang làm lợi cho người tôi không thương, không mến,” do đó, xung đột khởi lên.
    • “Nó sẽ làm lợi cho người tôi không thương, không mến,” do đó, xung đột khởi lên.
  • Chín Sự Điều Phục Xung Đột:
    • “Nó đã làm hại tôi. Có ích lợi gì mà nghĩ như thế,” nhờ vậy xung đột được điều phục.
    • “Nó đang làm hại tôi. Có ích lợi gì mà nghĩ như thế,” nhờ vậy xung đột được điều phục.
    • “Nó sẽ làm hại tôi. Có ích lợi gì mà nghĩ như thế,” nhờ vậy xung đột được điều phục.
    • “Nó đã làm hại người tôi thương, tôi mến. Có ích lợi gì mà nghĩ như thế,” nhờ vậy xung đột được điều phục.
    • “Nó đang làm hại người tôi thương, tôi mến. Có ích lợi gì mà nghĩ như thế,” nhờ vậy xung đột được điều phục.
    • “Nó sẽ làm hại người tôi thương, tôi mến. Có ích lợi gì mà nghĩ như thế,” nhờ vậy xung đột được điều phục.
    • “Nó đã làm lợi người tôi không thương, không mến. Có ích lợi gì mà nghĩ như thế,” nhờ vậy xung đột được điều phục.
    • “Nó đang làm lợi người tôi không thương, không mến. Có ích lợi gì mà nghĩ như thế,” nhờ vậy xung đột được điều phục.
    • “Nó sẽ làm lợi người tôi không thương, không mến. Có ích lợi gì mà nghĩ như thế,” nhờ vậy xung đột được điều phục.
  • Chín Trú Xứ Của Loài Hữu Tình:
    • THÂN DỊ TƯỞNG DỊ: Thân hình khác nhau, tư tưởng khác nhau, như là Nhân Loại, Chư Thiên, và một số trong Địa Ngục.
    • THÂN DỊ TƯỞNG ĐỒNG: Thân hình khác nhau, nhưng tư tưởng giống nhau, như là các vị Phạm Chúng Thiên ở tầng Sơ Thiền.
    • THÂN ĐỒNG TƯỞNG DỊ: Thân hình giống nhau, nhưng tư tưởng khác nhau, như là các vị Quang Âm Thiên ở tầng Nhị Thiền.
    • THÂN ĐỒNG TƯỞNG ĐỒNG: Thân hình giống nhau và tư tưởng cũng giống nhau, như là các vị Biến Tịnh Thiên ở tầng Tam Thiền.
    • VÔ TƯỞNG VÔ THỌ: Chúng Phạm Thiên Vô Tưởng Sắc Giới.
    • KHÔNG VÔ BIÊN XỨ: Vượt khỏi hoàn toàn mọi sắc tưởng, đoạn trừ tất cả hữu đối tưởng, không còn suy tư đến bất luận một dị loại tưởng, như là các vị Không Vô Biên Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.
    • THỨC VÔ BIÊN XỨ: Vượt khỏi hoàn toàn Không Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng “Thức là vô biên,” như là các vị Thức Vô Biên Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.
    • VÔ SỞ HỮU XỨ: Vượt khỏi hoàn toàn Thức Vô Biên Xứ, chỉ có tưởng “Vô Sở Hữu” (lấy đề mục “không có chi cả” làm cảnh giới), như là các vị Vô Sở Hữu Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.
    • PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG XỨ: Vượt khỏi hoàn toàn Vô Sở Hữu Xứ, chỉ có tưởng “Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ,” như là các vị Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.
  • Phạm Hạnh Trú với chín bất thời bất tiết:
    • Có những hữu tình sanh trong địa ngục, ngay khi bậc Chánh Đẳng Giác hiện hữu trong đời và khéo thuyết giảng Chánh Pháp.
    • Có những hữu tình sanh vào hàng bàng sanh, ngay khi bậc Chánh Đẳng Giác hiện hữu trong đời và khéo thuyết giảng Chánh Pháp.
    • Có những hữu tình sanh vào hàng ngạ quỷ, ngay khi bậc Chánh Đẳng Giác hiện hữu trong đời và khéo thuyết giảng Chánh Pháp.
    • Có những hữu tình sanh vào hàng A-tu-la, ngay khi bậc Chánh Đẳng Giác hiện hữu trong đời và khéo thuyết giảng Chánh Pháp.
    • Có những hữu tình sanh vào hàng Chư Thiên hưởng thọ mạng lâu dài, ngay khi bậc Chánh Đẳng Giác hiện hữu trong đời và khéo thuyết giảng Chánh Pháp.
    • Có những hữu tình sanh vào các biên địa, giữa những chúng sanh hoang dã vô trí, và không có hàng Tứ Chúng (Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ) sinh sống, ngay khi bậc Chánh Đẳng Giác hiện hữu trong đời và khéo thuyết giảng Chánh Pháp.
    • Có những hữu tình sanh vào các trung quốc, nhưng lại theo các tà kiến điên đảo, ngay khi bậc Chánh Đẳng Giác hiện hữu trong đời và khéo thuyết giảng Chánh Pháp.
    • Có những hữu tình sanh vào các trung quốc, nhưng lại Ác Tuệ, sanh làm người Nhị Nhân, ngay khi bậc Chánh Đẳng Giác hiện hữu trong đời và khéo thuyết giảng Chánh Pháp.
    • Có những hữu tình sanh vào các trung quốc, nhưng có Trí Tuệ, sanh làm người Tam Nhân, ngay khi không có bậc Chánh Đẳng Giác hiện hữu trong đời và khéo thuyết giảng Chánh Pháp.
  • Chín Bậc Chứng Trú:
    • Vị tỳ khưu ly ác bất thiện pháp, chứng và trú vào Sơ Thiền, hữu Tầm hữu Tứ do ly Dục
    • Vị tỳ khưu ly ác bất thiện pháp, chứng và trú vào Nhị Thiền, vô Tầm vô Tứ.
    • Vị tỳ khưu ly ác bất thiện pháp, chứng và trú vào Tam Thiền.
    • Vị tỳ khưu ly ác bất thiện pháp, chứng và trú vào Tứ Thiền.
    • Vị tỳ khưu vượt khỏi hoàn toàn mọi sắc tưởng, đoạn trừ tất cả hữu đối tưởng, không còn suy tư đến bất luận một dị loại tưởng, chứng và trú Không Vô Biên Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.
    • Vị tỳ khưu vượt khỏi hoàn toàn Không Vô Biên Xứ, chứng và trú Thức Vô Biên Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.
    • Vị tỳ khưu vượt khỏi hoàn toàn Thức Vô Biên Xứ, chứng và trú Vô Sở Hữu Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.
    • Vị tỳ khưu vượt khỏi hoàn toàn Vô Sở Hữu Xứ, chứng và trú Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên ở cõi Vô Sắc Giới.
    • Vị tỳ khưu vượt khỏi hoàn toàn Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, chứng và trú Diệt Thọ Tưởng Định.
  • Chín Bậc Diệt Trừ:
    • Thành tựu Sơ Thiền, các Dục Tưởng bị đoạn diệt.
    • Thành tựu Nhị Thiền, các Tầm Tứ bị đoạn diệt.
    • Thành tựu Tam Thiền, Hỷ bị đoạn diệt.
    • Thành tựu Tứ Thiền, hơi thở vô bị đoạn diệt.
    • Thành tựu Không Vô Biên Xứ, sắc tưởng bị đoạn diệt.
    • Thành tựu Thức Vô Biên Xứ, Không Vô Biên Tưởng bị đoạn diệt.
    • Thành tựu Vô Sở Hữu Xứ, Thức Vô Biên Tưởng bị đoạn diệt.
    • Thành tựu Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, Vô Sở Hữu Tưởng bị đoạn diệt.
    • Thành tựu Diệt Thọ Tưởng Định, các Tưởng và Thọ bị đoạn diệt.

Đại đức SÀRIPUTTA trùng tuyên tuần tự mười Pháp

  • Mười Hộ Trì Nhân Pháp:
    • Vị tỳ khưu sống và thọ trì giới hạnh trang nghiêm, thu thúc và chế ngự theo giới bổn của PÀTIMOKKHA (Biệt Biệt Giải Thoát Giới), oai nghi, chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lời nhỏ nhặt, thọ lãnh và tu học trong Giới Pháp. Chính Pháp như vậy là một hộ trì nhân.
    • Vị tỳ khưu được lắng nghe, gìn giữ, và tích lũy những điều đã được nghe. Những Pháp thuộc Sơ Thiện, Trung Thiện, Hậu Thiện, nghĩa lý văn cú cụ túc, Phạm Hạnh tăng thượng, thanh tịnh hoàn mãn. Vị tỳ khưu nắm giữ, ghi nhớ, trùng tụng nhiều lần, chú tâm quán sát, khéo thành tựu nhờ Chánh Kiến. Chính Pháp như vậy là một hộ trì nhân.
    • Vị tỳ khưu nào là Thiện Hữu, Thiện bạn lữ, là hảo bằng hữu, Thiện đạo hữu. Chính Pháp như vậy là một hộ trì nhân.
    • Vị tỳ khưu thiện ngôn, nhu hòa và khiêm nhường, nhẫn nại và nhận sự chỉ trích một cách cung kính. Chính Pháp như vậy là một hộ trì nhân.
    • Vị tỳ khưu tinh cần, không biếng nhác, khéo léo, suy tư một cách đầy đủ các phương tiện, vừa đủ để làm, vừa đủ để tổ chức, làm tròn bổn phận đối với các vị đồng Phạm Hạnh hạnh niên lạp cao hơn. Chính Pháp như vậy là một hộ trì nhân.
    • Vị tỳ khưu ưa thích Pháp, duyệt ý với Pháp, tự mình vô cùng hoan hỷ đối với Vô Tỷ Pháp, Vô Tỷ Luật. Chính Pháp như vậy là một hộ trì nhân.
    • Vị tỳ khưu tự hoan hỷ, bằng lòng và thích hợp với điều kiện về Tứ Vật Dụng. Chính Pháp như vậy là một hộ trì nhân.
    • Vị tỳ khưu tinh cần nỗ lực đoạn trừ các Ác Pháp, thành tựu các Thiện Pháp, cương quyết, kiên trì cố gắng, nhẫn nại không lìa xa Thiện Pháp. Chính Pháp như vậy là một hộ trì nhân.
    • Vị tỳ khưu có đầy đủ chánh niệm và tỉnh giác, luôn ghi nhớ những điều đã nói và đã làm từ trước. Chính Pháp như vậy là một hộ trì nhân.
    • Vị tỳ khưu có đầy đủ Trí Tuệ, Sanh Diệt Trí, hướng Tâm đến sự quyết trạch của các bậc Thánh, chân chánh diệt trừ mọi đau khổ. Chính Pháp như vậy là một hộ trì nhân.
  • Mười Biến Xứ:
    • Hành giả biết được về Địa  Biến Xứ:   trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.
    • Hành giả biết được về Thủy Biến Xứ: trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.
    • Hành giả biết được về Hỏa Biến Xứ: trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.
    • Hành giả biết được về Phong Biến Xứ: trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.
    • Hành giả biết được về Thanh Biến Xứ: trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.
    • Hành giả biết được về Hoàng Biến Xứ: trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.
    • Hành giả biết được về Xích Biến Xứ: trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.
    • Hành giả biết được về Bạch Biến Xứ: trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.
    • Hành giả biết được về Hư  Không  Biến Xứ:   trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.
    • Hành giả biết được về Thức Biến Xứ: trên, dưới, ngang, bất nhị, vô lượng.
  • Mười Bất Thiện Nghiệp Đạo: Sát Sanh, Thâu Đạo, Tà Dâm, Vọng Ngữ, Lưỡng Thiệt, Ác Ngữ, Ỷ Ngữ, Tham, Sân, Tà Kiến.
  • Mười Thiện Nghiệp Đạo: Ly Sát Sanh, Ly Thâu Đạo, Ly Tà Dâm, Ly Vọng Ngữ, Ly Lưỡng Thiệt, Ly Ác Ngữ, Ly Ỷ Ngữ, Ly Tham, Ly Sân, Ly Tà Kiến.
  • Mười Thánh Cư: Đoạn trừ năm chi, đầy đủ sáu chi, một hộ, thực hiện bốn y, loại bỏ các giáo điều, đoạn tận các mong cầu, tâm tư không trệ phược, thân thể khinh an, tâm thiện giải thoát, tuệ thiện giải thoát.
  • Và thế nào là “Đoạn trừ năm chi?”
    • Đoạn trừ Dục Vọng,
    • Đoạn trừ Sân Hận,
    • Đoạn trừ Hôn Thùy,
    • Đoạn trừ Trạo Hối,
    • Đoạn trừ Hoài
  • Và thế nào là “Đầy đủ sáu chi?”
    • Mắt thấy Sắc, bất duyệt ý, vô ưu phiền, xả an trú, chánh niệm tỉnh giác.
    • Tai nghe Âm Thanh, bất duyệt ý, vô ưu phiền, xả an trú, chánh niệm tỉnh giác.
    • Mũi ngửi Mùi Hơi, bất duyệt ý, vô ưu phiền, xả an trú, chánh niệm tỉnh giác.
    • Lưỡi nếm Vị, bất duyệt ý, vô ưu phiền, xả an trú, chánh niệm tỉnh giác.
    • Thân cảm Xúc, bất duyệt ý, vô ưu phiền, xả an trú, chánh niệm tỉnh giác.
  • Ý hiểu biết Pháp, bất duyệt ý, vô ưu phiền, xả an trú, chánh niệm tỉnh giác.
  • Và thế nào là “Một Hộ?” Là thành tựu sự hộ trì về Niệm.
  • Và thế nào là “Thực Hiện Bốn Y?”
    • Vị tỳ khưu sau khi suy tư, Tầm Cầu một Pháp.
    • Vị tỳ khưu sau khi suy tư, Nhẫn Thọ một Pháp.
    • Vị tỳ khưu sau khi suy tư, Đoạn Trừ một Pháp.
    • Vị tỳ khưu sau khi suy tư, Tránh Xa một Pháp.
  • Và thế nào là “Loại bỏ các giáo điều?” Tất cả những giáo điều thông thường mà các vị Sa Môn thông thường chủ trương, vị Tỳ Khưu đều loại bỏ, bỏ qua một bên, không chấp nhận, tẩn xuất, từ bỏ, phóng xả.
  • Và thế nào là “Đoạn tận các mong cầu?”
    • Vị tỳ khưu đoạn tận các mong cầu về Dục Vọng.
    • Vị tỳ khưu đoạn trừ các mong cầu về Hiện Hữu.
    • Vị tỳ khưu làm cho an tịnh các mong cầu về Phạm Hạnh.
  • Và thế nào là “Tâm tư không trệ phược?”
    • Vị tỳ khưu đoạn trừ các tâm tư dục vọng.
    • Vị tỳ khưu đoạn trừ các tâm tư sân hận.
    • Vị tỳ khưu đoạn trừ các tâm tư não hại.
  • Và thế nào là “Thân hành được khinh an?” Vị tỳ khưu đoạn trừ lạc, đoạn trừ khổ, diệt các Hỷ Ưu từ trước, chứng và an trú Thiền Thứ Tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
  • Và thế nào là “Tâm Thiện giải thoát?” Tâm giải thoát khỏi Tham, giải thoát khỏi Sân, giải thoát khỏi
  • Và thế nào là “Huệ Thiện giải thoát?” 
  • Vị tỳ khưu đã đoạn trừ tận gốc rễ về Tâm Tham, như cây Ta La bị chặt đầu, không còn hiện hữu, không còn khả năng sanh khởi trong vị lai.
  • Vị tỳ khưu đã đoạn trừ tận gốc rễ về Tâm Sân, như cây Ta La bị chặt đầu, không còn hiện hữu, không còn khả năng sanh khởi trong vị
  • Vị tỳ khưu đã đoạn trừ tận gốc rễ về Tâm Si, như cây Ta La bị chặt đầu, không còn hiện hữu, không còn khả năng sanh khởi trong vị
  • Mười Vô Học Pháp:
    • Vô Học Chánh Tri Kiến
    • Vô Học Chánh Tư Duy
    • Vô Học Chánh Ngữ
    • Vô Học Chánh Nghiệp
    • Vô Học Chánh Mạng
    • Vô Học Chánh Tinh Tấn
    • Vô Học Chánh Niệm
    • Vô Học Chánh Định
    • Vô Học Chánh Trí
    • Vô Học Chánh Giải Thoát

“Như vậy, này các Hiền Giả, tất cả các pháp do đức Thế Tôn đã giảng dạy là để được gìn giữ, để tránh khỏi những tranh chấp về sau, để Phạm Hạnh được trường tồn, được duy trì lâu ngày vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho Chư Thiên và Nhân Loại.”

Kết Luận:

Sau khi đại đức SÀRIPUTTA trùng tuyên tất cả những Pháp Số vừa xong, đã làm cho đức Thế Tôn hoan hỷ duyệt ý, và chư Tỳ Khưu Tăng hoan hỷ tín thọ lời dạy của đại đức SÀRIPUTTA.

*Các bài trích trong cuốn Giáo Án Trường Bộ Kinh của Tỳ Khưu PASÀDO Sán Nhiên. Nguồn Vietheravada.

Servers Status

Server Load 1

Server Load 2

Server Load 3

Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

File Transfers

  • TPSReport.docx
  • Latest_photos.zip
  • Annual Revenue.pdf
  • Analytics_GrowthReport.xls

Tasks in Progress

  • Wash the car
    Rejected
    Written by Bob
  • Task with hover dropdown menu
    By Johnny
    NEW
  • Badge on the right task
    This task has show on hover actions!
    Latest Task
  • Go grocery shopping
    A short description ...
  • Development Task
    Finish React ToDo List App
    69

Urgent Notifications

All Hands Meeting

Yet another one, at 15:00 PM

Build the production release
NEW

Something not important
+

This dot has an info state