Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Kinh Tạp A Hàm-TA 969 - KINH 969. TRƯỜNG TRẢO[75]
Kinh Tạp A Hàm-TA 969 - KINH 969. TRƯỜNG TRẢO[75]
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:4472

Các tên gọi khác

Kinh Tạp A Hàm-TA 969 - KINH 969. TRƯỜNG TRẢO[75]

General Information

Danh sách : Liên quan
:
Kinh Tạp A Hàm-TA 969 - KINH 969. TRƯỜNG TRẢO[75]

KINH 969. TRƯỜNG TRẢO[75]
Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà tại thành Vương xá. Bấy giờ có tu sĩ ngoại đạo là Trường Trảo[76] đến chỗ Phật, cùng Thế Tôn chào hỏi an úy xong, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, tôi không chấp nhận mọi sở kiến[77].”

Phật bảo:

“Này Hỏa chủng[78], ông nói không chấp nhận mọi sở kiến, vậy sở kiến này cũng chẳng chấp nhận luôn chăng?”

Trường Trảo ngoại đạo nói:

“Đã nói không chấp nhận mọi sở kiến thì cái sở kiến này cũng không chấp nhận.”

Phật bảo Hỏa chủng:

“Biết như vậy, thấy như vậy thì sở kiến này đã đoạn, đã xả, đã lìa, các sở kiến khác không còn tương tục, không khởi, không sanh. Này Hỏa chủng, nhiều người có cùng sở kiến như ông. Nhiều người cũng thấy như vậy, nói như vậy, ông cùng với họ giống nhau. Này Hỏa chủng, nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào xả bỏ các kiến chấp kia, các kiến chấp khác không khởi, thì hàng Sa-môn, Bà-la-môn này rất ít có ở thế gian.

“Này Hỏa chủng, y cứ vào ba loại kiến. Những gì là ba? Có người thấy như vầy, nói như vầy: ‘Tôi chấp nhận tất cả.’ Lại có người thấy như vầy, nói như vầy: ‘Tôi không chấp nhận tất cả.’ Lại có người thấy như vầy, nói như vầy: ‘Tôi chấp nhận một phần, không chấp nhận một phần.’

“Này Hỏa chủng, nếu chủ trương chấp nhận tất cả, kiến chấp này cùng sanh với tham, chẳng phải không tham; cùng sanh với nhuế, chẳng phải không nhuế; cùng sanh với si, chẳng phải không si; ràng buộc, chẳng lìa ràng buộcphiền não, chẳng thanh tịnhái lạcchấp thủnhiễm trước sanh. Hay nếu có kiến chấp như vầy: ‘Ta không chấp nhận tất cả’, kiến chấp này chẳng cùng sanh với tham, chẳng cùng sanh với nhuế, chẳng cùng sanh với si; thanh tịnh, không phiền não; lìa ràng buộc, chẳng ràng buộc; không ái lạckhông chấp thủ, không nhiễm trước sanh. Này Hỏa chủng, hay nếu có kiến chấp như vầy: ‘Ta chấp nhận một phần, không chấp nhận một phần’; vậy nếu chấp nhận thì câu hữu với tham,... cho đến sanh nhiễm trước; còn nếu không chấp nhận thì ly tham... cho đến không sanh nhiễm trướcĐa văn Thánh đệ tử kia nên học: ‘Nếu ta thấy như vầy, nói như vầy: ‘Ta chấp nhận tất cả’, sẽ bị hai hạng người chê trách và cật vấn. Những gì là hai? Người không chấp nhận tất cả và người một phần chấp nhận, một phần không chấp nhận. Họ sẽ bị hai hạng người này chê trách. Vì bị chê trách nên bị cật vấn. Vì bị cật vấn nên bị hại. Kiến chấp kia vì bị chê trách, bị cất vấn, bị phá hại nên họ xả bỏ kiến chấp đó, còn những kiến chấp khác thì không còn sanh trở lại. Cũng vậy đoạn kiến, xả kiến, ly kiến, các kiến khác, không còn tương tục, không khởi, không sanh.

“Đa văn Thánh đệ tử kia nên học như vầy: ‘Nếu ta thấy như vầy, nói như vầy: ‘Tất cả không chấp nhận’, sẽ bị hai hạng người chê trách và hai hạng người cật vấn. Những gì là hai? Người chấp nhận tất cả và người một phần chấp nhận, một phần không chấp nhận. Hai hạng người chê trách và cật vấn như vậy, ‘... cho đến không tương tục, không khởi, không sanh.’

“Đa văn Thánh đệ tử kia nên học như vầy: ‘Nếu ta thấy như vầy, nói như vầy: ‘Ta một phần chấp nhận, một phần không chấp nhận’, sẽ bị hai hạng người chê trách, hai hạng người cật vấn. Những gì là hai? Là người thấy như vầy, nói như vầy: ‘Ta chấp nhận tất cả và không chấp nhận tất cả’. Hai trường hợp bị trách như vậy, ‘... cho đến không tương tục, không khởi, không sanh.’

“Lại nữa, Hỏa chủng, thân có sắc gồm bốn đại thô kệch như vậy, Thánh đệ tử nên quán vô thườngquán sanh diệt, quán ly dục, quán diệt tận, quán xả. Nếu Thánh đệ tử sống mà luôn quán vô thườngquán sanh diệt, quán ly dục, quán diệt tận, quán xả, thì sống đối thân kia sự tham dục thuộc về thân, sự nhớ tưởng về thân, cảm thọ về thân, sự nhiễm về thân, sự đắm trước về thân vĩnh viễn diệt trừ không còn.

“Này Hỏa chủng, có ba thứ cảm thọ. Đó là khổ thọlạc thọ và bất khổ bất lạc thọ. Ba thứ cảm thọ này cần có nhân gì, tập gì, sanh gì, chuyển gì? Ba cảm thọ này cần có xúc là nhân, do xúc tập, xúc sanh, xúc chuyển. Mỗi mỗi xúc tập khởi, thọ tập khởi; mỗi mỗi xúc diệt tận, thọ diệt tận; vắng lặng, trong mát, vĩnh viễn hết sạch. Người kia đối với ba thọ này, biết rõ khổ, biết rõ lạc, biết rõ không khổ không lạc; biết như thật mỗi mỗi thọ hoặc tập khởi, hoặc diệt tận, hoặc vị ngọt, hoặc tai hại, hoặc xuất ly. Khi đã biết như thật rồi, đối những thọ ấy liền quán sát vô thườngquán sanh diệt, quán ly dục, quán diệt tận, quán xả bỏ. Người ấy ngay nơi toàn thân mình biết như thật các cảm thọ, nơi toàn phần sanh mạng mình biết như thật các cảm thọ. Nếu người ấy sau khi thân hoại, mạng chung, ngay lúc ấy các thọ hoàn toàn chấm dứt, không còn gì nữa. Bấy giờ, người ấy nghĩ rằng: ‘Lúc biết rõ cảm thọ lạc thì thân mình cũng hoại, lúc biết rõ cảm thọ khổ, thì thân mình cũng hoại, ngay lúc biết rõ cảm thọ chẳng lạc chẳng khổ, thì thân mình cũng hoại, thảy đều thoát khổ. Đối với cái cảm thọ lạc kia lìa ràng buộc, chẳng ràng buộc; đối với cái cảm thọ khổ kia lìa ràng buộc, chẳng ràng buộc; đối với cái cảm thọ chẳng lạc chẳng khổ kia, lìa ràng buộc, chẳng bị ràng buộc. Lìa ràng buộc gì? Lìa tham dụcsân nhuếngu si; lìa sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não’. Ta nói những điều này gọi là lìa khổ.”

Vào lúc bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất vừa mới thọ giới cụ túc nửa tháng, Tôn giả đang cầm quạt đứng sau hầu Phật. Lúc ấyTôn giả Xá-lợi-phất tự nghĩ: ‘Thế Tôn đã khen ngợi nói ở nơi pháp này, pháp kia mà đoạn dục, ly dục, diệt tận dục, xả dục.’ Tôn giả Xá-lợi-phất đối với từng pháp này quán sát vô thườngquán sanh diệt, quán ly dục, quán diệt tận, quán xả bỏ, không khởi các lậu, tâm được giải thoát.

Bấy giờ, xuất gia ngoại đạo Trường Trảo xa lìa trần cấuđắc pháp nhãn tịnh. Ông thấy pháp, đắc phápgiác ngộ pháp, thâm nhập pháp, thoát khỏi các nghi hoặc, không do người khác độ, vào trong Chánh pháp luật, được vô sở úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phụcđảnh lễ Phật và chắp tay bạch Phật:

“Con xin được xuất gia thọ giới cụ túc ở trong Chánh pháp luật, ở trong Phật pháp tu các phạm hạnh.”

Phật bảo xuất gia ngoại đạo Trường Trảo:

“Ông được xuất gia thọ cụ túc trở thành Tỳ-kheo, ở trong Chánh pháp luật.”

Được xuất gia trở thành thiện lai Tỳ-kheo. Ông suy nghĩ lý do người thiện nam cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chánh tín xuất gia học đạo, sống không nhà... cho đến tâm thiện giải thoát đắc A-la-hán.

Phật nói kinh này xong, Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Trường Trảo nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

*
 

--------------------------------------------------------------------------------

[1]. Đại Chánh quyển 34. Ấn Thuận Hội Biên, vii. Như Lai sở thuyết tụng, 45. Vô thủy tương ưng, kinh số 1377. Quốc Dịch, viii. Như Lai tụng, 5. Vô thủy tương ưng, kinh 13400. Phật Quang, quyển 34, kinh 932. Tương đương Pāli, S. 15, 1. Tiṇakaṭṭhaṃ. Hán, №100(336).

[2]. Pāli: amatagga, khởi thủy không thể ước lượng.

[3]. Hán: bản tế 本際. Pāli: pubbā koṭi.

[4]. Hòn đất. Pāli: 15.2 Pathavī. Hán: №100(336).

[5]. Bà-la quả 婆羅果. №100(336): “như hạt đậu”. Pāli: kollātthimatta, như hạt quả táo. 

[6]. Pāli: S.15.12. Sukhitaṃ. Hán Biệt dịch, №100(335). 

[7]. Pāli: S.15,11. Duggataṃ. Hán Biệt dịch, №100(336). 

[8]. Pāli: tham chiếu các kinh trên. Hán, №100(337). 

[9]. Pāli: 15. 14-19. Mātā, v.v... Hán, №100(338). 

[10]. Pāli: S.15.8. Gaṅgā. Hán, №100(339). 

[11]. Đống xương nọ. Pāli: S.15.10 Puggala (con người). Hán, №100(340), 101(11), 150A(30). 

[12]. Núi Tỳ-phú-la, thành Vương xá 王舍城毘富羅山. Pāli: Veppulla-pabbata; Nhưng S.15.10: Rājagahe Gijjhakūṭe pabbate. Trên núi Kỳ-xà-quật, thành Vương xá

[13]. Pāli: ekapuggalassa, đối với một con người.

[14]. Quốc Dịch phẩm 2, kinh 13480-13417 (=984-956). Pāli: S.15.6. Sāsapā. Hán, №100(341), №125(52.3). 

[15]. Pāli: S.15.5. Pabbata. Hán, №100(342). 

[16]. Ca-thi kiếp-bối 迦尸劫貝. Pāli: Kāsika vattha, vải sản xuất ở nước Kāsi. 

[17]. Pāli, S.15.7. Sāvakā(các Đệ tử). Cf. №100(343). 

[18]. Không có một chỗ nào. Hán Biệt dịch, №100(344). Pāli, không thấy tương đương. 

[19]. Không một nơi nào mà không. Pāli, S.15.14-19. Mātā, v.v... Cf. №100(345). 

[20]. Pāli, tham chiếu, S.22.95. Phenam (bong bóng), S.48.50. Saddha (tín). Cf. №100(346). 

[21]. Quốc Dịch gồm hai kinh: 1344. Đại vũ hồng chú 大雨洪澍; 1315. Trịch trượng 擲杖 (ném gậy). Pāli, S.15.9. Daṇḍa (cây gậy). 

[22]. Bánh xe 5 tiết (căm). Pāli, không thấy tương đương. Biệt dịch, №99(432), №100(349). 

[23]. Pāli, S. 15.20. Vepullapbbataṃ. Biệt dịch, №100(350). 

[24]. Trường trúc sơn 長竹山. Pāli: Pācīnavaṃsa (đông trúc). 

[25]. Đề-di-la ấp 低彌羅邑. Pāli: Tivara. 

[26]. Ca-la-ca Tôn-đề 迦羅迦孫提= Phật Câu-lưu-tôn. Pāli: Kakusandho.

[27]. Bằng-ca 朋迦. Pāli: Vaṅkaka. 

[28]. A-tỳ-ca 阿毘迦. Pāli: Rohitassa (ngựa đỏ). Xem cht. 30 dưới. 

[29]. Tú-ba-la-thủ 宿波羅首. Pāli: Supassa.. 

[30]. Xích mã 赤 馬. Pāli: Suppiya.

[31]. Quốc Dịch, tụng viii. Như Lai tụng, Tương ưng 6. Bà-sa chủng, gồm chín kinh, 13418-13426 (Đại Chánh kinh 957-964). Ấn Thuận Hội Biên, tương ưng 46: Bà-sa xuất gia, chín kinh: kinh 13297-13305). Tương đương Pāli, một phần các kinh thuộc S. 33. Vacchagotta-samyutta. Đại Chánh kinh 957; Pāli, tham chiếu S. 44.9. Kutūhalasālā (luận nghị đường). Biệt dịch, №100(190). 

[32]. Bà-sa chủng xuất gia 婆蹉種出家. Pāli: Vacchagotta-paribbājaka, tu sĩ thuộc chủng tộc Vaccha. 

[33]. Pāli: taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ, tức linh hồn và thân xác đồng nhất; một trong mười bốn vấn đề được xếp vào loại vô ký, không xác định. 

[34]. Hán: vô ký 無記. Pāli: avyākata. 

[35]. Bản Cao-ly: hà đẳng kỳ 何等奇. Bản Phật quang sửa lại: hà đẳng pháp 何等法. 

[36]. Ý sanh thân 意生身, hay ý thành thân, Pāli: manomaya-kāyā, thân được tác thành bởi ý, không lệ thuộc vật chất.

[37]. Hữu dư 有餘; Pāli: upādiesa, tàn dư của hữu y, chất liệu của tồn tại; tức tàn dư của chấp thủ hay phiền não, làm chỗ y cứ cho sự tồn tại. Niết-bàn với sự tồn tại của ngũ uẩn chưa tan rã gọi là hữu dư y Niết-bàn (saupādisesa-nibbāna). Niết-bàn với sự xả bỏ hoàn toàn ngũ uẩn gọi là vô dư (y) Niết-bàn (anupādiesa-nibbāna).

[38]. Hữu dư, đây được hiểu là nhiên liệu. 

[39]. Vô dư, đây chỉ lửa không nhiên liệu. 

[40]. Hữu dư, upādiesa, đây được hiểu là sở y

[41]. Ở đây hữu dư đồng nghĩa với chấp thủ

[42]. Pāli, S.44.7. Moggalāna (Àyatana). Biệt dịch, №100(191). 

[43]. Quốc Dịch chia làm hai kinh: “Kỳ tai” và “Tiên-na Ca-chiên-diên”. Ấn Thuận cũng chia làm hai. Pāli, S.44.11. Sabhiyo. Biệt dịch, №100(192, 193). 

[44]. Từ đây xuống, Ấn Thuận tách thành một kinh riêng.

[45]. Na-lê tụ lạc 那梨聚落. Pāli: Nātike Giñjakāvasatte. 

[46]. Tiên-đà Ca-chiên-詵陀迦旃延. Pāli: Sabhiyo Kaccāno. 

[47]. Bản Cao-ly: hành thân thi 行身施. Bản Minh: chủng thi thiết chư hành 種施切諸行 . Ấn Thuận Hội Biên, Phật Quang và Quốc Dịch đều sửa theo bản MinhTham chiếu Pāli: yo ca vaccha hetu yo ca paccayo paññāpanāya rūpīti và arūpīti va... “Có nhân này, có duyên này, để tuyên bố (= thi thiết) rằng: đây là sắc, đây là vô sắc…” 

[48]. Tham chiếu Pāli: so ca hetu, so ca paccayo sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ aparisesaṃ nirujjheyya, kena naṃ paññāpanāya rūpī ti vā ảūpī ti vā… “Nếu nhân ấy, duyên ấy hoàn toàn diệt tận, vĩnh viễn diệt tận, do cái gì mà nói (=thi thiết): đây là sắc, đây là vô sắc…?” 

[49]. Pāli, S.44.8 Vaccho (Bhandham). Biệt dịch №100(194). 

[50]. Pāli, S.44.10. Ānando. Biệt dịch, №100(195). 

[51]. Pāli, M. 72. Aggivacchagotta-suttanta. Biệt dịch, №100(196). 

[52]. Pāli, S.33.1-5 Aññāṇā. Biệt dịch, №100(197). 

[53]. Nghĩa là, như kinh trên, thay các từ “biết / không biết” bằng các từ tương ứng

[54]. Pāli, M.73. MahāVacchagotta-suttanta. Biệt dịch, №100(198). 

[55]. Cọng tương tùy thuận 共相隨順 . Pāli: dīgharattafhaṃ khotā gotamena sahakathī, từ lâu tôi thường đàm đạo với Tôn giả Gotama.

[56]. Pāli: saṃkhittenapi khote ahaṃ vaccha kusalā kusalaṃ deseyyaṃ, này Vaccha, Ta có thể nói cho ông một cách tóm tắt về thiện và bất thiện.

[57]. Bản Cao-ly không có “pháp bất thiện”. Ấn Thuận theo Tống-Nguyên-Minh thêm vào. 

[58]. Nghĩa là, pháp của Phật chưa hoàn hảo

[59]. Hán dịch không rõ nghĩa. Trong bản Pāli, đoạn này là lời Vacchagotta xin quy y Phật, Pháp, Tăng. 

[60]. Nghĩa là, y chỉ Thầy mà sống giữa các Tỳ-kheo tuy chưa thọ cụ túc. Bản Cao-ly: y 依 (chỉ). Bản Tống-Nguyên-Minh: y 衣 (áo). 

[61]. Bản Pāli: do sự sai biệt về tâm tính của mỗi người (api ca m’ettha puggalavemattatā). 

[62]. Pāli: samathaĩca vipassanaĩca.

[63]. Ấn Thuận Hội Biên, “47. Ngoại đạo Xuất gia tương ưng”. Gồm mười lăm kinh: 13306-13320 Quốc Dịch, mười lăm kinh: 13427-13441. Đại Chánh, kinh 965-979. Pāli, A.10.95. Uttiya. Biệt dịch, №100(199). 

[64]. Uất-đê-ca 鬱低迦. Pāli: Uttiya. 

[65]. Pāli: sabbo vā tena loko nīyati upaḍḍho vā tībhāgo vā ti, do bởi đó tất cả thế gian, hay một nửa, hay một phần ba, được hướng dẫn (xuất ly)?

[66]. Tham chiếu, Pāli, A.10.83. Puṇṇiya(không hoàn toàn tương đương). Skt. Pūrṇika (Píchel). Biệt dịch №100(200).

[67]. Phú-lân-ni 富鄰尼. Pāli: Puṇṇiya. 

[68]. Nguyên Hán: tà mạn bất vô gián đẳng, 邪命不無間等 Xem các cht.trước. 

[69]. Pāli, A.10.96. Kokanuda. Biệt dịch, №100(201). 

[70]. Tháp-bổ hà 榻補河. Pāli: Tappodā. 

[71]. Câu-ca-na 俱迦那. Pāli: Kokananda. 

[72]. Pāli, A.10.93. Diṭṭhi. Skt. Dṛsṭi (Píchel). Biệt dịch, №100(202). 

[73]. Pāli: Kiṃdiṭṭhikā bhikkhū ti, “Các Tỳ-kheo có quan điểm gì?” 

[74]. Hán: chân thật hữu vi tư lương duyên khởi 真實,有為,思量,緣起Tham chiếu Pāli: yaṃ.. kiñci bhūtaṃ saṅkhataṃ cetayitaṃ paticcasamuppannaṃ.. “Phàm cái gì là thật vật, được tạo thành bởi tâm tư, sanh khởi do duyên”. Trong bản Hán: bhūta (sanh vật hay thật vật) được hiểu là chân thật; saṅkhataṃ cetayitaṃ (đươc tạo tác thành do bởi tâm tư) hiểu là hữu vi tư lương

[75]. Móng tay dài. Pāli, M.47. Dīghanakha-suttanta. Skt. Dīrghânkha (Píchel). Biệt dịch, №100(203). 

[76]. Trường Trảo 長爪. Pāli: Dīghanakha, tu sĩ để móng tay dài. 

[77]. Nhất thiết kiến bất nhẫn 一切見不忍. Các bản Tống-Nguyên-Minh không có chữ kiến. Pāli: sabbaṃ me na khamati, “Tôi không công nhận tất cả”. Phát biểu của chủ nghĩa hoài nghi, không tin bất cứ điều gì.

[78]. Hỏa chủng 火種. Pāli: Aggivessana. 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications