Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Kinh Tạp A Hàm-TA 641 - KINH 641. A-DỤC VƯƠNG THÍ BÁN A-MA-LẶC QUẢ NHÂN DUYÊN KINH[20]
Kinh Tạp A Hàm-TA 641 - KINH 641. A-DỤC VƯƠNG THÍ BÁN A-MA-LẶC QUẢ NHÂN DUYÊN KINH[20]
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:4144

Các tên gọi khác

Kinh Tạp A Hàm-TA 641 - KINH 641. A-DỤC VƯƠNG THÍ BÁN A-MA-LẶC QUẢ NHÂN DUYÊN KINH[20]

General Information

Danh sách : Liên quan
:
Kinh Tạp A Hàm-TA 641 - KINH 641. A-DỤC VƯƠNG THÍ BÁN A-MA-LẶC QUẢ NHÂN DUYÊN KINH[20]

KINH 641. A-DỤC VƯƠNG THÍ BÁN A-MA-LẶC QUẢ NHÂN DUYÊN KINH[20]
Vua A-dục, đối với Pháp của Như Lai đạt được niềm tin kính sâu xa. Một hôm, vua hỏi các Tỳ-kheo:

“Đối trong pháp của Như Lai, ai là người thực hành bố thí nhất?”

Các Tỳ-kheo trả lời vua rằng:

“Trưởng giả Cấp Cô Độc, là người thực hành đại bố thí nhất.”

Vua lại hỏi:

“Ông bố thí bao nhiêu vật báu?”

Tỳ-kheo đáp:

“Có đến ức ngàn vàng.”

Vua nghe vậy, suy nghĩ như vầy: ‘Gia chủ kia còn có thể bỏ ra ức ngàn vàng. Nay ta là vua, vì lý do gì cũng lại bỏ ức ngàn vàng ra bố thí? Nên bỏ ra ức trăm ngàn vàng bố thí.’

Bấy giờ, vua cho khởi công xây dựng tám vạn bốn ngàn tháp Phật và trong mỗi tháp này lại bỏ ra ngàn trăm vàng để cúng. Lại cứ năm năm tổ chức đại hội một lần. Mỗi hội có ba trăm ngàn vị Tỳ-kheo. Dùng ba trăm ức vàng cúng dường vào trong chúng Tăng đó. Phần thứ nhất là A-la-hán. Phần thứ hai là những vị hữu học. Phần thứ ba là những phàm phu chân thật. Trừ kho tàng riêng ra, vật gì ở Diêm-phù-đề này; gồm phu nhân, thể nữ, thái tử, đại thần, đều có thể đem cúng dường cho Thánh tăng, rồi dùng bốn mươi ức tiền vàng chuộc chúng trở lại. Như vậy mà tính toán cho đến dùng hết chín mươi sáu ức ngàn tiền vàng.

Cho đến một hôm, vua bị bệnh nặng. Vua tự biết thân mạng mình sắp kết thúcLúc ấy có đại thần tên là La-đà-quật-đa[21], kiếp trước là đứa trẻ đồng bạn với vua, khi vua cúng dường nắm đất cho Phật. Bấy giờ, đại thần La-đà-quật-đa thấy vua đang bị bệnh nặng mạng sắp lâm chung, cúi đầu hỏi vua bằng kệ:

Dung mạo luôn tươi tốt,

Trăm ngàn nữ vây quanh;

Giống như những đóa sen,

Ong mật tụ tập lại.

Nay nhìn dung nhan vua,

Không còn tươi thắm nữa.

Vua liền dùng kệ đáp:

Nay ta không còn lo

Mất tiền tài, vương vị.

Thân này cùng người thân,

Và các thứ châu báu.

Nay ta chỉ có buồn

Không còn thấy Hiền thánh

Để cúng dường tứ sự.

Nay ta chỉ nghĩ thế,

Nên nhan sắc biến đổi,

Tâm ý lại không an.

“Lại nữa, sở nguyện của ta là muốn dùng hết ức trăm ngàn tiền vàng để làm công đức. Nhưng nay nguyện chưa thành, phải để lại đời sau. Nếu đem cả vàng bạc trân báu đã đem ra cúng dường mà tính góp lại trước sau, thì chỉ thiếu có bốn ức là chưa đủ.”

Vua liền chuẩn bị các thứ trân bảo gởi cúng vào chùa Kê tước[22]. Con của Pháp Ích tên là Tam-ba-đề[23] được lập lên làm thái tử.

Các đại thần thưa thái tử rằng:

“Chẳng còn bao lâu, Đại vương sẽ qua đời. Nay đem các thứ trân báu này gởi cúng vào chùa, trong khi của cải vật báu trong kho đã hết sạch. Theo pháp của các vua thì lấy vật làm trọng. Vậy nay thái tử nên xét lại việc này, không nên để Đại vương dùng hết.” 

Bấy giờ, thái tử ra lệnh cho người giữ kho, không được xuất vật báu ra cho Đại vương dùng nữa. Lúc này nhà vua tự biết là những vật mà mình đòi hỏi sẽ không được nữa, nên đem đồ đựng thức ăn bằng vàng cúng vào cho chùa. Thái tử ra lệnh không cung cấp đồ đựng bằng vàng, mà cung cấp đồ bằng bạc. Sau khi vua ăn xong lại gởi cúng vào cho chùa. Lại không cung cấp đồ đựng bằng bạc, mà cung cấp đồ bằng đồng. Vua cũng đem đồ này gởi cúng vào cho chùa. Lại không cung cấp đồ đồng, mà cung cấp đồ gốm. Lúc này trong tay nhà vua chỉ có nửa trái a-ma-lặc[24], lòng buồn thương rơi lệ, vua bảo các đại thần:

“Hiện nay, ai là chủ đất này?”

Bấy giờ, các đại thần bạch Đại vương:

“Vua là chủ đất này.”

Nhà vua liền dùng kệ đáp:

Các ngươi hộ tâm ta,

Tại sao lại nói dối?

Ta đang ở vương vị,

Lại không được tự tại!

Nửa trái A-ma-lặc,

Đang ở trong tay ta;

Nó là vật của ta,

Ở đây được tự do.

Phú quý đáng chán bỏ,

Than ôi! Lại tôn trọng!

Xưa cai trị Diêm-phù,

Nay bỗng dưng nghèo hèn.

Như sông Hằng cuộn trôi,

Một đi không trở lại;

Phú quý cũng như vậy,

Qua rồi không trở lại.

Vua lập lại bài kệ như Phật đã dạy:

Phàm thịnh ắt có suy,

Vì suy là cứu cánh.

Nên Như Lai nói vậy,

Chân thật không sai khác.

Những lời dạy trước đây,

Nay tức thì thông suốt.

Nay có điều cầu cạnh,

Lại không vâng lời ta.

Như gió bị núi ngăn,

Như nước bị bờ cản;

Nay giáo lệnh của ta,

Từ đây tuyệt vĩnh viễn.

Theo sauvô lượng chúng,

Đánh trống thổi loa ốc;

Thường chơi các kỹ nhạc,

Thụ hưởng vui năm dục.

Thể nữ hàng trăm người,

Ngày đêm ta khoái lạc;

Hôm nay đều không còn,

Như cây không hoa trái.

Tướng mạo dần khô kiệt,

Sắc lực cũng như vậy;

Như hoa dần héo tàn,

Nay ta cũng như vậy.

Bấy giờ, vua A-dục bảo người hầu rằng:

“Nay ngươi, nếu còn nhớ ân nuôi dưỡng của ta, thì ngươi hãy đem nửa trái A-ma-lặc này gởi cúng vào cho chùa Kê tước, thay ta lễ bái sát chân các Tỳ-kheo Tăng, thưa rằng: ‘Vua A-dục hỏi thăm các vị đại Thánh, tôi là A-dục vương, thống lãnh cõi Diêm-phù-đề này; tất cả mọi sở hữu của tôi ở cõi Diêm-phù-đề, ngày nay bỗng dưng mất hết, không còn của quý nào để cúng dường cho chúng Tăng nữa. Đối với tất cả mọi thứ của cải, tôi không còn được tự tại, nay chỉ có nửa trái A-ma-lặc này là tôi được tự do. Đây là lần cuối cùng bố thí ba-la-mật, xin thương xót tôi mà thu nhận sự cúng dường này, khiến tôi được phước khi cúng dường chúng Tăng.’” 

Rồi nói kệ rằng:

Nửa trái A-ma-lặc,

Đây, sở hữu của ta;

Được tự tại đối ta,

Nay cúng dường đại chúng.

Tâm hướng về Thánh chúng,

Không ai khác giúp ta.

Xin thương xót cho ta,

Nhận lấy A-ma-lặc.

Vì ta ăn quả này,

Nhờ phước vô lượng này;

Đời đời được diệu lạc,

Dụng không bao giờ hết. 

Bấy giờ, người sứ giả kia, nhận lệnh của vua rồi, liền đem nửa trái A-ma-lặc đi vào chùa Kê tước, đến trước Thượng tọanăm vóc gieo xuống đất làm lễ, quỳ gối chắp tay hướng lên Thượng tọa mà nói kệ rằng:

Người thống lãnh Diêm-phù,

Một lọng, một tiếng trống;

Đi dạo không chướng ngại,

Như trời chiếu thế gian.

Báo nghiệp hành đã đến,

Ở đời chẳng còn lâu;

Vua không còn uy đức,

Như mây che mặt trời.

Vua hiệu là A-dục,

Cúi đầu lễ chân Tăng;

Gởi cúng dường vật này,

Nửa trái A-ma-lặc.

Nguyện cầu phước đời sau,

Xin vì vua, thương xót

Thánh chúng vì thương vua,

Nhận nửa trái cúng dường.

Bấy giờ, vị Thượng tọa kia bảo Đại chúng:

“Ai nghe những lời này mà không nhàm chán thế gian? Chúng ta nghe việc này, không thể không sanh nhàm chánxa lìa. Như kinh Phật đã dạy: ‘Thấy sự suy giảm của người, nên sanh ra nhàm chánxa lìa.’ Nếu chúng sanh hiểu biết khi nghe việc này há không thể từ bỏ thế gian được sao?” Rồi nói kệ rằng:

Người trong đời, vua nhất,

A-dục dòng Khổng Tước;

Tự tại Diêm-phù-đề,

Làm chủ A-ma-lặc.

Thái tử cùng các thần,

Đoạt vật vua bố thí;

Gởi nửa A-ma-lặc,

Hàng phục người tiếc của.

Khiến họ sanh tâm chán,

Người ngu không biết thí;

Được diệu lạc nhân quả,

Chỉ cúng nửa Ma-lặc.

Lúc ấy vị Thượng tọa nghĩ như vầy: ‘Làm thế nào để đem nửa trái A-ma-lặc này chia đều cho khắp tất cả chúng Tăng được?’ Sau đó bảo đem nghiền nát, bỏ vào trong nồi nấu lên, làm vậy xong tất cả chúng Tăng đều được chia đủ cả.

Bấy giờ, vua lại hỏi vị đại thần bên cạnh rằng:

“Ai là vua cõi Diêm-phù-đề?”

Đại thần thưa vua rằng:

“Chính Đại vương.”

Lúc ấy vua đang nằm ngồi dậy, quay nhìn bốn phía, chắp tay làm lễ cảm niệm ân đức chư Phật, lòng nghĩ miệng nói: ‘Nay ta đem cõi Diêm-phù-đề này cúng dường cho Tam bảotùy ý sử dụng.’ Rồi nói kệ rằng:

Nay, Diêm-phù-đề này,

Nhiều trân bảo trang sức;

Cúng cho ruộng phước lành,

Tự nhiên được quả báo.

Đem công đức bố thí này,

Chẳng cầu Thiên đế Thích;

Phạm vương cùng nhân chủ,

Các diệu lạc thế giới.

Những quả báo như vậy,

Tôi đều không thụ dụng;

Nhờ công đức thí này,

Mà mau thành Phật đạo.

Nơi tôn ngưỡng cho đời,

Thành được Nhất thiết trí;

Làm bạn lành thế gian,

Là Đạo sư bậc nhất.

Bấy giờ, nhà vua đem những lời này viết lên trên giấy rồi phong kín lại, dùng răng cắn vào làm dấu ấn. Sau khi làm xong việc này, nhà vua qua đời.

Bấy giờ, thái tử cùng các quần thần, cung nhân thể nữ, nhân dân trong nước dâng các thứ cúng dườngtống táng theo nghi thức của quốc vương, mà làm lễ trà tỳ

Lúc này, các đại thần muốn lập thái tử lên nối ngôi vị vua, nhưng trong triều có một đại thần tên là A-nậu-lâu-đà, nói với các quần thần rằng:

“Không được lập thái tử lên làm vua. Vì sao? Vì Đại vương A-dục lúc còn sanh tiền, vốn có nguyện đem mười vạn ức tiền vàng, làm công đức, nhưng còn thiếu bốn ức nữa, chưa đủ mười vạn. Vì muốn cho đủ số, nên nay cõi Diêm-phù-đề này đã được xả cúng cho Tam bảo. Nay đại địa này thuộc về Tam bảo, làm sao mà lập làm vua được?” 

Sau khi các đại thần nghe vậy, liền đem bốn ức tiền vàng cúng vào cho chùa, sau đó liền lập con của Pháp Ích lên làm vua tên là Tam-ba-đề. Kế đến nối tiếp vương vị là thái tử Tỳ-lê-ha-ba-đê[25]; nối tiếp vương vị Tỳ-lê-ha-ba-đê là thái tử Tỳ-lê-ha-tây-na[26]; nối tiếp vương vị Tỳ-lê-ha-tây-na là thái tử Phất-sa-tu-ma[27]; nối tiếp vương vị Phất-sa-tu-ma là thái tử Phất-sa-mật-đa-la[28]. Bấy giờ Phất-sa-mật-đa-la hỏi các vị đại thần rằng:

“Ta phải làm những việc gì để khiến cho danh đức của ta tồn tại mãi ở thế gian?”

Lúc ấy, những vị hiền thần tin ưa Tam bảo thưa vua rằng:

“Đại vương A-dục là Quốc vương đầu tiên của dòng họ. Khi còn sống, vua cho xây dựng tám vạn bốn ngàn tháp Như Lai và phát tâm cúng dường đủ thứ, chính danh đức này lưu truyền mãi đến hôm nay. Nếu nhà vua muốn cầu danh đức này thì cũng phải cho tạo lập tám vạn bốn ngàn tháp và các thứ cúng dường.”

Nhà vua nói:

“Vì Đại vương A-dục có oai đức lớn nên có khả năng thực hiện được những việc làm này, ta thì không thể nào làm được, hãy nghĩ đến việc khác đi.”

Trong đó, có vị nịnh thần gian ác, không có lòng tin, tâu vua:

“Thế gian có hai loại pháp lưu truyền mãi ở đời không dứt: Một là làm lành, hai là làm ác. Đại vương A-dục đã làm các hạnh lành, thì nay vua nên làm các hạnh ác như phá hoại tám vạn bốn ngàn tháp.”

Lúc này vua nghe theo lời vị nịnh thần, lập tức cho khởi bốn binh chúng đi đến các chùa chiền phá hoại các tháp thờ. Trước hết vua đi vào chùa Kê tước, liền bị con sư tử đá trước cổng chùa rống lên, làm cho vua vô cùng kinh hoàng sợ hãi khi nghe nó và tự nghĩ: ‘Không phải là loài thú thật, mà có thể rống lên được sao?’ Vua trở về trong thành. Ba lần như vậy, nhà vua muốn phá hoại chùa này.

Bấy giờ, vua cho gọi các Tỳ-kheo lại và hỏi các Tỳ-kheo:

“Ta phá hoại tháp là thiện hay là pháp hoại Tăng phòng là thiện?”

Tỳ-kheo đáp:

“Không nên làm cả hai. Nếu vua muốn phá hoại chúng, thì thà phá hoại Tăng phòng, chớ nên phá hoại tháp Phật.”

Lúc ấy vua sát hại các Tỳ-kheo, cùng phá hoại các tháp thờ và như vậy dần dần cho đến nước Bà-già-la. Lại ra sắc lệnh: ‘Nếu có người nào mang được đầu Sa-môn Thích tử đến, sẽ được thưởng ngàn tiền vàng.’

Bấy giờ, trong nước này có một vị A-la-hán hóa ra rất nhiều đầu Tỳ-kheo cho mọi người mang đến chỗ vua, làm cho của báu trong kho tàng nhà vua đều cạn hết. Khi nhà vua nghe vị A-la-hán đã làm những việc như vậy, thì càng nổi giạân hơn, muốn giết vị A-la-hán này. Lúc này, vị A-la-hán vào định Diệt tận nên nhà vua dùng vô lượng cách để sát hại vị Thánh nhân này, rốt cuộc cũng không thể được. Vì ngài vào định Diệt tận nên không thể làm tổn thương thân thể ngài được và như vậy vua tiến dần đến cửa tháp Phật. Ở trong tháp này có một vị quỷ thần đang ở để bảo vệ tháp Phật tên là Nha Xỉ[29]. Vị quỷ thần này nghĩ rằng mình là đệ tử của Phật, vì thọ trì giới cấm không sát hại chúng sanh, nên nay mình không thể giết hại nhà vua được. Lại nghĩ: ‘Có một vị thần tên là Trùng[30], mạnh mẽ hung bạo, thường làm các việc ác, cầu kết hôn con gái ta, ta không chịu. Nay vì để bảo vệ Chánh pháp nên phải gả cho nó, khiến nó bảo hộ pháp Phật.’ Liền kêu vị thần kia bảo rằng: 

“Nay ta gả con gái cho ngươi, song cùng lập giao ước là ngươi phải hàng phục vị vua này, chớ để ông ta tạo ra các việc ác, hoại diệt Chánh pháp.” 

Lúc này chỗ vua lại có một vị đại quỷ thần tên là Ô-trà, vì oai đức đầy đủ nên vị thần kia không thể làm gì vua được. Lúc này thần Nha Xỉ muốn tìm cách hủy diệt sức mạnh tự nhiên hiện tại của vua do vị thần này mang lại. Nay ta nên giả làm thân với hắn và như vậy cùng làm bạn tri thức với vị thần kia. Sau khi kết bạn tri thức thân nhau rồi, liền dẫn vị thần này đến giữa biển lớn phương Nam. Lúc đó thần Trùng mới sang dẹp núi lớn, xua đuổi bức bách từ trên vua cho đến bốn binh chúng không ai là không chết hết. Dân chúng đều reo hò: ‘Sướng thay, sướng thay!’ và người đời cùng truyền nhau từ ‘sướng thay’ này. 

Nhà vua này mất rồi, dòng dõi Khổng tước vĩnh viễn cáo chung từ đây. Cho nên sự giàu sangsung sướng ở thế gian không đáng để tham. Đại vương A-dục là người có trí, giác ngộ cuộc đời là vô thườngthân mạng khó mà bảo tồncủa cải của năm nhà cũng như huyễn hóa. Khi đã giác ngộ được điều này rồi, thì phải nỗ lực tinh tấn tạo các thứ công đứccho đến lúc mạng chung tâm luôn nhớ đến Tam bảoniệm niệm không gián đoạn, không có gì phải luyến tiếc, chỉ có nguyện thành tựu rốt ráo Vô thượngChánh đẳng Chánh giác thôi.

*
 

--------------------------------------------------------------------------------

[1]. Nguyên Đại Chánh quyển 25, gồm hai kinh, số 640-641, học giả hiện đại đoán định không thuộc Tạp A-hàm. Quốc Dịch đưa xuống quyển 50, tiếp theo A-dục vương nhân duyên (Xem kinh số 604). Phật Quang đưa vào Phụ lục 2. Về kinh số 640, tham chiếu, Đại 12 No383 Ma-ha Ma-da kinh. Đại 13, No397 Đại Tập kinh, “15. Nguyệt tạng phần, phẩm 20. Pháp diệt tận”. Đại 49, No2028 Ca-đinh Tỳ-kheo Thuyết Đương Lai Biến kinh. Đại 49, No2029 Ca-chiên-diên Thuyết Pháp Một Tận Kệ. Đại 50, No2042 A-dục vương kinh; Đại 27, No1545 Đại Tỳ-bà-sa quyển 183, tr. 918a.

[2]. Ma-thâu-la 摩偷羅, xem cht.11, kinh 36.

[3]. Quật-đa 掘多, xem kinh 604, âm là Cù-đa.

[4]. Ưu-ba-quật-đa 優波掘多, xem cht.32, kinh 604.

[5]. Ưu-lưu-mạn-trà 優留曼茶, xem cht.34 kinh 604.

[6]. Na-tra-bạt-trí 那吒跋置, xem cht.35 kinh 604, âm là Na-trà-bà-đề.

[7]. Quỷ thôn 鬼村 chỉ các loại thảo mộc. Skt.: bhūtagrāma.

[8]. Da-bàn-na 耶槃那. Skt. yavana, nguyên chỉ người Hy-lạp. Về sau, chỉ người Hồi giáo.

[9]. Bát-la-bà 缽羅婆.

[10]. Đâu-sa-la 兜沙羅. Skt. Tukhāra, chỉ người Nhục-chi, ở Tây vực Trung quốc, xâm chiếm Tây bắc bộ Ấn độ.

[11]. Câu-diệm-di Ma-nhân-đà-la-tây-na 拘睒彌摩因陀羅西那; A-dục vương truyện nói là Đại Quan. Skt. Kosambi Mahenaresena.

[12]. A-kỳ-ni-đạt-đa 阿耆尼達多. Skt. Agnidatta.

[13]. Tỳ-đà kinh luận 比陀經論, chỉ các kinh điển thuộc Veda.

[14]. Đệ Tử 弟子, A-dục vương truyện gọi là “Đa Đệ Tử”.

[15]. Tu-đà-na 須 須陀那. Skt. Sudhana?

[16]. Kiền-đà-ma-la 揵陀摩羅. Skt. Gandhamālya? Xem Câu-xá 11 (Đại 29, tr.58a): Hương túy sơn 香醉山 Skt. Gandhamādana.

[17]. Hán: bất tát-xà vị nhân thọ kinh 不薩闍為人受經. Đại-tỳ-bà-sa 183: bất lộc độc xứ tĩnh lự tư duy 不祿獨處靜慮思性: không thích một mình ở chỗ vắng vẻ tu thiền.

[18]. Đại Chánh: Tu-la-tha 修羅他. Bản Minh: Tu-la-đà 修羅陀.

[19]. Hành sa-la trù 行沙羅籌: phát thẻ tre và đếm, một hình thức kiểm danh hay lấy biểu quyết tập thể giữa Tăng. Skt. Śalākā.

[20]. Kinh nói về nhân duyên vua A-dục bố thí nửa trái A-ma-lặc (quả xoài). Xem cht.1 kinh 640. Tham chiếu kinh số 604 (Đại Chánh, quyển 23).

[21]. La-đà-quật-đa 羅陀崛多. Skt. Rādhagupta.

[22]. Kê tước tự 雞雀寺. Skt. Kurkuṭārāma.

[23]. Tam-ba-đề 三波提. Skt. Sampadī, cháu nội của vua A-dục.

[24]. A-ma-lặc 阿摩勒. Skt. āmalaka, quả xoài.

[25]. Tỳ-lê-ha-ba-đê 毘梨訶波低. Skt.Bṛhaspati.

[26]. Tỳ-lê-ha-tây-na 毘梨訶西那. Skt. Vṛṣhasena.

[27]. Phất-sa-tu-ma 沸沙須摩. Skt. Puṣyadharma.

[28]. Phất-sa-mật-đa-la 沸沙蜜多羅. Skt. Puṣyamitra.

[29]. Nha Xỉ 牙齒. Skt. Daṃṣṭrānivāsī-yakṣa.

[30]. Trùng 蟲. Skt. Kṛmiśa.
 
 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications