Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Kinh Tạp A Hàm-TA 58 - KINH 58. ẤM CĂN[107]
Kinh Tạp A Hàm-TA 58 - KINH 58. ẤM CĂN[107]
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:3561

Các tên gọi khác

Kinh Tạp A Hàm-TA 58 - KINH 58. ẤM CĂN[107]

General Information

Danh sách : Liên quan
:
Kinh Tạp A Hàm-TA 58 - KINH 58. ẤM CĂN[107]

KINH 58. ẤM CĂN[107]
Tôi nghe như vầy

Một thời, Phật ở tại giảng đường Lộc mẫu, Đông viên, nước Xá-vệ. Bấy giờ, vào buổi chiều, sau khi từ thiền tịnh dậy[108], Thế Tôn đến trước các Tỳ-kheo, trải tòa ngồi và bảo các Tỳ-kheo:

“Có năm thọ ấm. Những gì là năm? Sắc thọ ấm; thọ, tưởng, hành, thức thọ ấm.” 

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch áo vai bên phải, quỳ gối sát đấtchắp tay bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, có phải đây là năm thọ ấm: sắc thọ ấm; thọ, tưởng, hành, thức thọ ấm?”

Phật bảo Tỳ-kheo: 

“Hãy trở lại chỗ ngồi mà hỏi, Ta sẽ vì ngươi mà nói.”

Tỳ-kheo kia sau khi lạy Phật rồi trở lại chỗ ngồi của mình, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, năm thọ ấm này, lấy gì làm gốc, do gì tập khởi, do cái gì mà sanh, do cái gì mà xúc?

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Năm thọ ấm này, lấy dục làm gốc, do dục tập khởi, vì dục sanh và vì dục mà xúc.” 

[109]Khi Tỳ-kheo kia nghe những gì Đức Phật vừa nói, hoan hỷ tùy hỷ, mà bạch Phật rằng:

“Thế Tôn đã vì chúng con nói, năm ấm là thọ[110]. Hay thay! những gì đã được nói. Nay con xin hỏi lại. Bạch Thế Tôn, ấm là thọ hay năm ấm khác thọ?”

Phật bảo Tỳ-kheo: 

“Chẳng phải năm ấm là thọ, cũng chẳng phải năm ấm khác thọ. Ở nơi đó mà có dục tham, thì đó là năm thọ ấm[111].”

[112]Tỳ-kheo bạch Phật

“Lành thay, Thế Tôn! Hoan hỷtùy hỷ.”

Lại hỏi nữa: 

“Có hai ấm tương quan[113] chăng?”

Phật bảo Tỳ-kheo: 

“Đúng vậy! Đúng vậy! Cũng như có một người suy nghĩ như vầy: ‘Ta ở đời vị lai sẽ được sắc như vậy, thọ như vậy, tưởng như vậy, hành như vậy, thức như vậy.’ Đó gọi là ấm ấm tương quan[114].”

[115]Tỳ-kheo bạch Phật

“Lành thay! Những gì đã được nói. Hoan hỷtùy hỷ.”

Lại hỏi nữa:

“Bạch Thế Tôn, thế nào gọi là ấm[116]?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Những gì sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần, tất cả chúng gọi chung là ấm. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Như vậy, này Tỳ-kheo, đó gọi là ấm.”

[117]Tỳ-kheo bạch Phật:

“Lành thay! những gì đã được nói. Hoan hỷtùy hỷ.”

Lại hỏi nữa:

“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì mà gọi là sắc ấm? Do nhân gì, duyên gì mà gọi thọ, tưởng, hành, thức ấm?”

Phật bảo Tỳ-kheo: 

“Bốn đại là nhân, bốn đại là duyên; đó gọi là sắc ấm. Vì sao? Vì những gì thuộc về sắc ấm, tất cả những cái đó đều là bốn đại, được tác thành do duyên bốn đại. Xúc là nhân, xúc là duyên sanh ra thọ, tưởng, hành; cho nên gọi là thọ, tưởng, hành ấm. Vì sao? Vì nếu những gì thuộc về thọ, tưởng, hành, thì tất cả chúng đều lấy xúc làm duyên. Danh sắc là nhân, danh sắc là duyên, đó gọi là thức ấm. Vì sao? Vì nếu những gì thuộc về thức, thì tất cả chúng đều lấy danh sắc làm duyên.”

[118]Tỳ-kheo bạch Phật

“Lành thay! Những gì đã được nói. Hoan hỷtùy hỷ.”

Lại hỏi nữa:

“Thế nào là vị ngọt của sắc? Thế nào là sự tai hại của sắc? Thế nào là sự xuất ly sắc? Thế nào là vị ngọt của thọ, tưởng, hành, thức? Thế nào là sự tai hại của thức? Thế nào là sự xuất ly của thức?”

Phật bảo Tỳ-kheo: 

“Hỷ lạc duyên vào sắc sanh ra, đó gọi là vị ngọt của sắc. Nếu sắc là vô thường, khổ, là pháp biến dịch, đó gọi là sự tai hại của sắc. Nếu đối với sắc mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục thamvượt qua khỏi dục tham, đó gọi là sự xuất ly sắc. Nếu hỷ lạc duyên vào thọ, tưởng, hành, thức sanh ra, đó gọi là vị ngọt của thức. Nếu thọ, tưởng, hành, thức là pháp vô thường, khổ, biến dịch, thì đó gọi là sự tai hại của thức. Đối với thọ, tưởng, hành, thức mà điều phục được dục tham, đoạn trừ được dục thamvượt qua khỏi dục tham, thì đó gọi là sự xuất ly thức.

[119]Tỳ-kheo bạch Phật

“Lành thay! Những gì đã được. Hoan hỷtùy hỷ.”

Lại hỏi nữa:

“Từ cái gì sanh ra ngã mạn[120]?”

Phật bảo Tỳ-kheo: 

“Phàm phu ngu si không học, ở nơi sắc thấy là ngã, là khác ngã, hay ở trong nhau. Đối với thọ, tưởng, hành, thức là ngã, là khác ngã, hay ở trong nhau. Từ đây sanh ra ngã mạn.”

[121]Tỳ-kheo bạch Phật

“Lành thay! Những gì đã được nói. Hoan hỷtùy hỷ.”

Lại hỏi nữa:

“Bạch Thế Tôn, làm thế nào để đạt được không ngã mạn?” 

Phật bảo Tỳ-kheo: 

“Đa văn Thánh đệ tử ở nơi sắc không thấy là ngã, là khác ngã, là ở trong nhau. Ở nơi thọ, tưởng, hành, thức cũng không thấy là ngã, là khác ngã, là ở trong nhau.”

[122]Tỳ-kheo bạch Phật

“Lành thay! Những gì đã được nói. Hoan hỷtùy hỷ.”

Lại hỏi nữa:

“Biết cái gì, thấy cái gì nhanh chóng chứng đắc lậu tận[123]?”

Phật bảo Tỳ-kheo: 

“Những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần, tất cả chúng đều chẳng phải là ngã, không khác ngã, không ở trong nhau. Và thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Tỳ-kheo, biết như vậy, nên thấy như vậy, nhanh chóng chứng đắc lậu tận.”

Bấy giờ, trong chúng lại có một vị Tỳ-kheo khác căn trí đần độn, không hiểu biết, vì vô minh che lấp, nên khởi tà kiến ác, nghĩ rằng: “Nếu vô ngã, tạo nghiệp vô ngãvậy thì ai là người sẽ chịu quả báo trong đời vị lai?”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết những ý nghĩ trong tâm của vị Tỳ-kheo kia, nên liền bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong chúng này, có người ngu sivô trívô minh, nghĩ rằng: ‘Nếu sắc là vô ngã, thọ, tưởng, hành, thức là vô ngã, tạo nghiệp vô ngã, thì ai là người sẽ nhận quả báo?’ Những điều nghi ngờ như vậy, trước đây Ta đã giải thích. Thế nào Tỳ-kheo, sắc là thường hay vô thường?”

Đáp:

“Bạch Thế Tônvô thường.”

Hỏi:

“Vô thường là khổ chăng?” 

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là khổ.”

Hỏi:

“Vô thường, khổ, là pháp biến dịch, vậy đa văn Thánh đệ tử có nên ở trong đó thấy là ngã, khác ngã, ở trong nhau không?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, không.”

“Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Cho nên, này các Tỳ-kheo, nếu những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều chẳng phải là ngã, chẳng phải những gì thuộc về ngã. Ai thấy như vậy được gọi là thấy đúng. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đa văn Thánh đệ tử quán như vậy, liền tu tập tâm nhàm chán. Đã nhàm chán rồi, thì ly dục. Do ly dục mà giải thoátgiải thoát tri kiến, biết rằng, ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những điều cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Khi Phật nói kinh này xong, phần nhiều các Tỳ-kheo không khởi lên các lậu, tâm được giải thoát.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Đức Phật dạy, hoan hỷ phụng hành

Kệ tóm tắt:

Ấm căn, ấm tức thọ,
Hai ấm cùng tương quan,
Danh tự, nhân, hai vị,
Ngã mạn, chóng lậu tận.

-ooOoo-
 

--------------------------------------------------------------------------------

[1]. Bản Phật Quang quyển 4, kinh 79. Quốc Dịch quyển 3, phẩm 7. Đại Chánh, quyển 2, xem cht. 33. Pāli, S. 22. 59. Pañca..

[2]. Bản Pāli: etaṃ mama eo’ham asmi eso attā ti, cái cày là của tôi; cái này là tôi; cái này là tự ngã của tôi.

[3]. Pāli, S. 22. 59. Pañca. 

[4]. Sắc phi hữu ngã 色非有我. Pāli: rūpam bhikkhave annatā.

[5]. Không có Pāli tương đương.

[6]. Đây chỉ ba công tử họ Thích.

[7]. A-nậu-luật-đà 阿[少/兔]律陀. Pāli: Anuruddha.

[8]. Nan-đề 難提. Pāli: Nandiya.

[9]. Kim-tỳ-la 金毘羅. Pāli: Kimbila. 

[10]. Pāli, S. 22. 43. Attapīpa.

[11]. Ma-thâu-la 摩偷羅; Pāli: Mathurā. Bản Pāli, Sāvatthinidānaṃ, nhân duyên ở Xá-vệ.

[12]. Hán: tự châu 自洲. Pāli: attadīpa.

[13]. Hán: tự y 自依. Pāli: attasaeaṇā.

[14]. Hán: Pháp châu 法洲. Pāli: dhammadīpa, pháp là hòn đảo.

[15]. Hán: pháp y 法依. Pāli, dhammasaraṇā, pháp là nơi nương tựa.

[16]. Pāli: kiṃjātikā... kiṃpahotikā, do cái gì chúng sanh? Do cái gì chúng hiện?

[17]. Quốc Dịch, phẩm 8, quyển 3. Pāli, S. 22. 94 Puppha (bông hoa), hay Vaddha (tăng trưởng).

[18]. Thế gian thế gian pháp 世間世間法. Pāli: loke lokadhamma, pháp thế gian trong thế gian.gian.

[19]. Pāli, S. 22. 94. Puppha (hay Vaddha).

[20]. Kiền-tỳ 揵茨, chủy-chủy-la 匕匕羅, giá-lưu 遮留, tỳ-tất-đa 毘悉多, bà-xà-na 婆闍那, tát-lao 薩牢, không rõ phiên âm từ gì.

[21]. Pāli, S. 22. 54. Bīja.

[22]. Năm loại giống theo Pāli: mūlabīja, từ rễ; khandhabīja, từ thân, aggabīja, từ cành, hay ngọn, phalubīja, từ đốt; bījabīja, từ hạt giống.

[23]. Pāli: avātāpahatāni, không bị làm hư bởi gió, nóng.

[24]. Bản Pāli: pathavī ca nāassa āpo ca jnāssa, không có địa giới, và không có thủy giới.

[25]. Tứ thức trụ 四識住. Pāli: catassa vññāṭṭhitiyo, bốn điểm lập cước, bốn sở y của thức.

[26]. Hỷ tham 喜貪. Pāli: nandirāga.

[27]. Tứ thủ 四取. Pāli; cattāri upādāni: kāmūpādānaṃ, diṭṭhūpādānaṃ, sīlabbatūpādānaṃ, attavādūpadānaṃ, dục thủkiến thủgiới cấm thủngã ngữ thủ. Xem D. 33. Saīgīti.

[28]. Xem cht. 20 kinh 64.

[29]. Ư sắc phong trệ 於色封滯. Pāli: rūpupayaṃ, tiếp cận sắc, bị lôi kéo vào sắc, bị phong tỏa, vây khổn bởi sắc. Xem thêm cht.39 kinh 40.

[30]. Ý sanh, 意生, xem cht.20 kinh 64.

[31]. Phan duyên đoạn 攀緣斷. Pāli: vocchijjatārammanaṃ, sở duyên bị đoạn trừ.

[32]. Hành giới 行界. Pāli: saṅkhāradhātu.

[33]. Xem cht. 20 kinh 64.

[34]. Tác hành 作行. Pāli: abhisaṅkhāra, hành vihành sửtác động.

[35]. Pāli: viññānaṃ avirūḷhaṃ anabhisaṅkhāraṃ vimuttaṃ, thức không sanh trưởng, không tác hành, được giải phóng.

[36]. Pāli: vimuttattā ṭhitaṃ; ṭhitattā santusitaṃ; santusitattā na paritassati, do giải thoát mà trụ vững, do trụ vững mà thỏa mãn; do thỏa mãn mà không sợ hãi.

[37]. So sánh kinh 64. 

[38]. Pāli, S. 22. 53. Upāya.

[39]. Phong trệ 封滯, phong tỏa và trì trệ, bị vây khốn. Pāli. upāyo, và sớ giải: taṇhāmānadiṭṭhivasena pāicakkhandhe upagato, do thế lực của ái, mạn, kiến và bị hãm trong năm uẩn. Xem thêm cht.29 kinh 39.

[40]. Xem kinh 39.

[41]. Pāli, S.22.56. Upādānaṃ parivaṭṭaṃ (Thủ chuyển).

[42]. Năm như thật tri về sắc: sắc 色, sắc tập 色 集, sắc vị 色 味, sắc hoạn 色患, sắc ly 色 離. Pāli: Catuparivaṭṭam, bốn chuyển: rūpaṃ (sắc), rūpasamudāyam (sắc tập), rūpanrodhaṃ (sắc diệt), rūpanirodhayāminiṃ paṭipadam (sắc diệt đạo tích).

[43]. Chánh hướng 正向; Pāli: sammāpaṭipanno, thực hành chân chánh. Bản Pāli: supaṭipanno, thiện hànhthực hành tốt, thiện xảo.

[44]. Pāli: ye supsṭipannā te imasmiṃ dhammavinaye gādhanti, những ai thực hành chân chánh (khéo thú hướng), những người ấy xác lập trong pháp và luật này.

[45]. Thuần nhất 純一. Pāli: kevalin, con người toàn thiện, đấng độc tôn.

[46]. Hán: ly tha tự tại 離他自在. 

[47]. Khổ biên 苦邊. Pāli: dukkhānta, biên tế của khổ, sự chấm dứt của khổ.

[48]. Thất xứ thiện 七處善: ngũ uẩn cùng với tập, diệt, đạo, vị, hoạn, ly. Pāli: sattaṭṭhāna-kusala, sự thiện xảo (khéo léo) trong bảy trường hợp.

[49]. Tam quán nghĩa 三觀義: tức ba khoa uẩn, xứ và giới. Pāli: tividhūpaparikkhī, ba phương pháp quán sát. Xem cht.52 dưới.

[50]. Nguyên Hán: tận 盡; có lẽ dịch chữ kevalin: thuần nhất, độc nhất. Xem cht.45.

[51]. Pāli: imasmiṃ dhammavinaye kevalī susitā, ở trong chánh pháp và luật này mà được độc tôn (chỉ A-la-hán), xác lập.

[52]. Pāli: dhātuso, āyatanaso, paṭiccasamuppādaso, giới, xứ, duyên khởi.

[53]. Chánh phương tiện, tức chánh tinh tấn. Pāli: sammāvayāma.

[54]. Pāli, S. 22. 7 Upādāparitassanā.

[55]. Hán: thủ cố sanh trước 取故生著. Xem thêm cht.62 kinh 44. Pāli: upādā paritassanaṃ, chấp thủ và kinh sợ (do chấp nên có sợ hãi).

[56]. Ngã... tương tại; Pāli: rūpaṃ attato samanupassati rūpavantaṃ vā attānaṃ, attāni rūpaṃ rūpasmiṃ vā attānaṃ, nó quán sát, sắc là ngã, ngã có sắc, sắc trong ngã, ngã trong sắc. 

[57]. Pāli: rūpavipariṭāmānupavatti viññānaṃ, sắc biến chuyển, thức vận chuyển theo.

[58]. Praitassanā dhammasamuppādā citaaṃ pariyādāya tiṭṭhanti, sự sợ hãi và sự sanh khởi của các pháp chiếm cứ tâm đã bị biến dị theo sắc mà trú. Sớ giải nói: paritassanā dhammasamuppādā ti taṇhāparitassanā ca akusaladhammasamuppādā ca, sự sợ hãi và sự sanh khởi của pháp, đó là sự sợ hãi do khát ái và sự sanh khởi của pháp bất thiện.

[59]. Tâm loạn, có lẽ Pāli: cetaso pariyādāna (vipariyāsa: điên đảo), tâm bị chiếm cứ.

[60]. Tức do thủ và trước, Pāli: upādāya paritassati, do chấp thủ mà nó sợ hãi. Xem cht.55 trên.

[61]. Pāli, S. 22. 8. Upādāparitassanā.

[62]. Hán: sanh tắc hệ trước 生則繫著. Pāli: upādāpritassañ ca, chấp thủ và sợ hãi. Có lẽ trong bản Hán đọc là: uppāda-paritassanā, Xem cht.55 kinh 43.

[63]. Xem cht.58 kinh 43.

[64]. Cố niệm 顧念; kinh 43: tâm loạn (?). Pāli: apekkhavā, hy vọnghoài vọng.

[65]. Nguyên văn Hán: dĩ sanh hệ trước cố 以生繫著故. xem cht.62.

[66]. Pāli, S. 22. 47. Samanupassanā.

[67]. Sắc tại ngã, ngạ tại sắc 我在色, 色在我, trong các kinh khác, Hán dịch là tương tại. Xem cht.65 kinh 23. Pāli: attāni vā rūpaṃ, rūpasmiṃ vā attānaṃ.

[68]. Xúc nhập xứ 觸入處, hay xúc xứ. Pāli: phassāyatana.

[69]. Vô minh xúc 無明觸, Pāli: aviijasamphassa, bị xúc động bởi vô minh. Bản Pāli nói: avijjasamphassajena vedayitena phuṭṭhassa puthujjanassa, đối với phàm phu bị xúc chạm bởi cảm thọ phát sanh do sự xúc động của vô minh.

[70]. Bị uẩn trong ba đời nhai nuốt. Pāli, S. 22. 79. Sīha.

[71]. Hán: khả ngại khả phân 可閡可分: có thể bị gây trở ngại, có thể bị chia chẻ.

[72]. Định nghĩa về sắc, xem Câu-xá 1: “vì nó biến hoại nên nói là sắc”. Pāli: ruppatī’ti kho bhikkhave tasmā rūpan’ ti vuccati, này các Tỳ-kheo, nó não hoại (tức gây tổn hại), do đó nó được nói là sắc.

[73]. Pāli: kena ruppati? sītenapi ruppati uṇhenapi ruppati... daṃsa-makasa-(....)-samphassena ruppati, nó bị não hoại bởi cái gì? Nó bị não hoại bởi lạnh, bởi nóng,… bởi sự xúc chạm của muỗi mòng…

[74]. Chư giác tướng 諸覺相. Định nghĩa thọ uẩn, xem Câu-xá 1: thọ tức lãnh nạp tùy xúc. Pāli: vedayatī’ti kho bhikkhave tasmā vedanā ti, nó cảm nhận, do đó nó được nói là thọ.

[75]. Định nghĩa về tưởng thủ uẩn, Câu-xá 1: “tưởng thủ tượng vi thể”, tự thể của tưởng là thâu nhận các ấn tượng. Pāli: sañjānātī ‘ti kho bhikkhave tasma saññā ti vuccati, nó tri giác (tri nhận), do đó nó được nói là tưởng.

[76]. Định nghĩa hành uẩn, Pāli: saṅkhataṃ abhisaṅkharontī’ti kho bhikkhavve saṅkhārā’ ti vuccati, chúng tác thành pháp hữu vi, do đó chúng được nói là các hành.

[77]. Định nghĩa thức uẩn, Câu-xá 1: “thức vị các liễu biệt”, thức là sự nhận thức từng đối tượng cá biệt. Pāli: vijānātī’ ti kho bhikkhave viññānan’ ti vuccati, nó liễu biệt, do đó nó được gọi là thức.

[78]. Pāli: ahṃ kho etarahi rūpena khajjami. Ta ở nơi đây bị sắc nhai nuốt.

[79]. Trong bản Hán: diệt hoạn 滅患.

[80]. Diệt nhi bất tăng, thoái nhi bất tiến, diệt nhi bất khởi, xả nhi bất 滅而不增, 退而不進, 滅而不起, 捨而不取. Pāli: apacināti no ācināti, pajahati na upādiyati, visineti na ussineti, vidhūpeti na sandhūpeti, tổn giảm chứ không tích lũy; đoạn trừ chứ không chấp thủ; xa lánh chứ không gần gũi; làm mất mùi chứ không xông ướp mùi.

[81]. Quốc Dịch, phẩm 9, quyển 3. Pāli, S. 22. 147. Kulaputtena-dukkhā, (khổ với thiện gia nam tử).

[82]. Pāli. 22. 147. Kulaputtena-dukkhā.

[83]. Trong bản Hán: đắc ly 得離; trong kinh 93: đắc yểm 得厭. 

[84]. Pāli, S. 22. 37-38. Ānanda.

[85]. Pāli, S. 22. 37-38. Ānanda.

[86]. Pāli, S. 22. 32. Pabhaṅgu.

[87]. Hoại bất hoại pháp 壞不壞法. Pāli: pabhaṅguṃ ca apabhaṅ guuj ca.

[88]. Pāli: yo tassa nirodho vūpasamo atthaṅgamo idaṃ appabhaṅgo, sắc ấy diệt, tịch tĩnh, tiêu vong, ấy là pháp bất hoại.

[89]. Thân-thứ lâm 申恕林. Pāli: siṃsapā-vana, rừng cây siṃsapā.

[90]. Câu-tát-la 拘薩羅. Pāli: Kosala.

[91]. Pāli, S. 22, 48. Khandā.

[92]. Thượng phiền não tâm pháp 上煩惱心法; chỉ các tâm sở tùy phiền não.

[93]. Trong bản Hán: phi thọ 非受

[94]. Quốc Dịch, phẩm 10. Pāli, S. 22. 81. Pārileyya.

[95]. Chuyện xảy ra khi Phật trú tại Kiều-thưởng-di. Pāli: kosambiyaṃ viharati ghositārāme.

[96]. Hán: tịch diệt 寂滅; đây chỉ sự tĩnh lặng.

[97]. Bạt-đà-tát-la thị 跋陀薩羅樹. Pāli: bhadhasāla (cây sa-la hiền), một loại cây sa-la.

[98]. Ba-đà tụ lạc 波陀聚落. Pāli: Pārileyyaka, tên một khu rừng được bảo vệ (rakkhitavanasaṇḍo, sớ giải) tại Kosambi. 

[99]. Bán-xà quốc 半闍國. Pāli: Pañcala, nhưng bản Pāli không đề cập tên nước này.

[100]. Thị giáo lợi hỷ 示教利喜, thứ tự thuyết pháp của Phật. Pāli: samdassesi samādapesi samuttejasi sampahaṃsesi.

[101]. Pāli: anantarā āsavānaṃ khayo hoti, vô gián lậu tận.

[102]. Hành 行. Pāli: saṅkhāro.

[103]. Nhân, tập, sanh, chuyển 因集生轉, tức bốn hành tướng của Tập đế trong Thánh đế hiện quán (nhân, tập, sanh, duyên) của Hữu bộ, xem Câu-xá 23. Pāli: kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo.

[104]. Xúc sanh ái 觸生愛. Pāli: avijjasamphassajanea... vedayitena... uppannā taṇhā, khát ái sanh bởi cảm thọ phát sanh từ sự xúc động (chạm) của vô minh.

[105]. Tâm duyên khởi pháp 心綠起法, pháp duyên vào tâm mà khởi. Pāli: aniccaṃ saṅkhataṃ paṭiccasamuppannaṃ, (là pháp) vô thườnghữu viduyên khởi.

[106]. Hoại hữu 壞有, tức phi hữu, theo nghĩa hủy diệt, không còn tồn tại. Pāli: vibhava.

[107]. Pàli, tham chiếu các kinh, S. 22. 82. Puṇṇamā; M. 109. Mahapuṇṇama-sutta; 110. Cūḷapuṇṇama-sutta.

[108]. Bản Pāli: tad uposathe pannarase puṇṇāya puṇṇamāya rattiyā, ngày Bố-tát, vào đêm trăng tròn nửa tháng.

[109]. Theo kệ tóm tắt ở cuối phẩm, từ đây xuống, thuộc kinh khác, có tên là “Ấm tức thọ”.

[110]. Thọ 受, tức thủ hay chấp thủ. Pāli: upādāna.

[111]. Pāli: yo tattha chandarāgo taṃ tattha upādānan ti, nơi nào có dục tham, nơi đó có chấp thủ.

[112]. Theo bài kệ tóm tắt cuối phẩm, từ đây trở xuống thuộc kinh khác, gọi là “kinh Hai ấm tương quan”.

[113]. tương quan 相關, có lẽ là tương ngại 相礙: hai ấm trở ngại nhau. Câu hỏi theo Pāli: siyā pana bhante pañcupādānakkhandhesu chandarāgavemattā ti, có sự sai biệt của dục tham trong năm thủ uẩn chăng? Xem thêm cht.116 dưới.

[114]. Xem cht.113.

[115]. Theo kệ tóm tắt, trở xuống thuộc kinh “Danh tự”.

[116]. Câu hỏi theo Pāli: kittāvatā nu kho khandhanaṃ khandhādhivacanan ti, cho đến mức nào là danh xưng uẩn của các uẩn? Có lẽ câu này trong bản Hán được dịch là “ấm ấm tương quan”?

[117]. Theo kệ tóm tắt, trở xuống là kinh “Nhân duyên”.

[118]. Theo kệ tóm tắt, trở xuống là kinh “Hai vị ngọt”.

[119]. Theo kệ tóm tắt, trở xuống là kinh “Ngã mạn”.

[120]. Ngã mạn 我慢, phúc cảm tác thành tự ngã. Ở đây, Pāli: ahaṃkāra-mamaṃkāra-mānānusaya, ngã, ngã sở và mạn tùy miên.

[121]. Theo kệ tóm tắt, trở xuống là kinh “Không ngã mạn”.

[122]. Theo kệ tóm tắt, trở xuống là kinh “Chóng lậu tận”.

[123]. Trong bản Hán: tận đắc 盡得 có lẽ chính xác là tật đắc 疾得 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications