Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Kinh Tạp A Hàm-TA 1266 - KINH 1266. XIỂN-ĐÀ[72]
KINH 1266. XIỂN-ĐÀ[72]
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:4769

Các tên gọi khác

KINH 1266. XIỂN-ĐÀ[72]

General Information

Danh sách : Liên quan
:
Kinh Tạp A Hàm-TA 1266 - KINH 1266. XIỂN-ĐÀ[72]

KINH 1266. XIỂN-ĐÀ[72]
Tôi nghe như vầy

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có Tôn giả Xiển-đà ở trong rừng Hảo y Am-la, tại tụ lạc Na-la[73], bị nguy khốn vì tật bệnh. Khi ấy Tôn giả Xá-lợi-phất nghe Tôn giả Xiển-đà ở trong rừng Hảo y Am-la, tại tụ lạc Na-la, đang bị nguy khốn vì bệnh tật, nghe rồi, nói với Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la:

“Tôn giả biết không? Tỳ-kheo Xiển-đà ở trong rừng Hảo y Am-la, tại tụ lạc Na-la, bị nguy khốn vì bệnh tật. Chúng ta nên cùng đến đó thăm.”

Ma-ha Câu-hi-la im lặng nhận lời. Lúc này Tôn giả Xá-lợi-phất cùng Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la đến phòng Tôn giả Xiển-đà, trong rừng Hảo y Am-la tại tụ lạc Na-la. Tôn giả Xiển-đà từ xa trông thấy Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, vịn giường muốn đứng dậy.” 

Tôn giả Xá-lợi-phất bảo Tôn giả Xiển-đà:

“Thầy đừng ngồi dậy.”

Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la ngồi xuống nơi giường khác, hỏi Tôn giả Xiển-đà:

“Thế nào, Tôn giả Xiển-đà, có kham nổi sự đau đớn không? Bệnh tăng hay giảm?” Nói đầy đủ như kinh Xoa-ma trước.[74]

Tôn giả Xiển-đà thưa:

“Nay thân bệnh của tôi quá đau đớn, khó kham nhẫn được. Bệnh tiếp tục tăng chứ không giảm, chỉ muốn cầm dao tự sát, không thích sống khổ.”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

“Tôn giả Xiển-đà, thầy nên nỗ lực, chớ có tự hại mình. Nếu thầy còn sống, thì tôi sẽ tới lui chu toàn với thầy. Nếu thầy có thiếu gì, tôi sẽ cung cấp cho thầy, thuốc thang đúng pháp. Nếu thầy không có người nuôi bệnh, tôi sẽ chăm sóc thầy, làm cho thầy vừa ý, chẳng phải không vừa ý.”

Xiển-đà thưa:

“Tôi được các Gia chủ, các Bà-la-môn trong thôn Na-la đến chăm sóc và cúng dường y phục, mền nệm, đồ ăn thức uốngngọa cụ, thuốc thang không thiếu thứ gì. Tôi cũng có đệ tử tu phạm hạnh, nuôi bệnh vừa ý chẳng phải không vừa ý. Nhưng tôi bị đau khổ bức bách vì tật bệnh nên thân khó chịu đựng được nổi, chỉ muốn tự sát, không thích sống khổ.”

Xá-lợi-phất nói:

“Bây giờ, tôi hỏi thầy, cứ tùy ý trả lời tôi. Mắt, thức con mắt và sắc được nhận thức bởi mắt, chúng là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau?”

Xiển-đà đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, không.”

Lại hỏi Xiển-đà:

“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, … ý thức cùng pháp được nhận thức bởi ý, chúng là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau?”

Xiển-đà đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, không.”

Xá-lợi-phất lại hỏi:

“Xiển-đà, ở nơi mắt, thức con mắt và sắc được nhận thức bởi mắt, thầy thấy chúng thế nào, phân biệt chúng thế nào, biết chúng thế nào, mà bảo rằng mắt, thức con mắt và sắc được nhận thức bởi mắt không phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau?”

Xiển-đà đáp:

“Ở nơi mắt, thức con mắt và sắc được nhận thức bởi mắt, tôi thấy sự diệt tận. Vì biết diệt tận, nên thấy mắt, thức con mắt và sắc được nhận thức bởi mắt không phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau.”

Lại hỏi Xiển-đà:

“Ở nơi tai, mũi, lưỡi, thân, ý, … ý thức cùng pháp được nhận thức bởi ý, thầy thấy chúng thế nào, biết chúng thế nào, mà đối với ý, ý thức cùng pháp thấy không phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau?”

Xiển-đà đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, ở nơi … ý thức cùng pháp được nhận thức bởi ý, tôi thấy sự diệt tận. Vì biết diệt tận, nên ở nơi … ý thức cùng pháp được nhận thức bởi ý nhận thấy không phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau. Tôn giả Xá-lợi-phất, nhưng hiện nay thân tôi đau khổ, không thể chịu nổi, muốn dùng dao tự sát, không muốn sống khổ.”

Bấy giờ, Tôn giả Câu-hi-la nói với Tôn giả Xiển-đà:

“Nay thầy hãy tu tập chánh niệm nơi Đại Sư, như văn cú đã được nói: ‘Có sở y thì dao động[75]. Dao động thì có thú hướng. Có thú hướng thì không nghỉ ngơi. Không nghỉ ngơi thì qua lại theo các cõi. Qua lại theo các cõi thì có sanh tử trong vị lai. Có sanh tử trong vị lai thì có nổi chìm[76] vị lai. Có nổi chìm vị lai thì sẽ có sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ, tụ tập thuần đại khổ như vậy.’ Như văn cú đã được nói: ‘Không sở y thì không dao động. Không dao động thì không có thú hướng. Không có thú hướng thì có dừng nghỉ. Có dừng nghỉ thì không qua lại các đường[77]. Không qua lại các đường thì không nổi chìm trong vị lai. Không có nổi chìm trong vị lai thì không có sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ, thuần đại tụ tập khổ diệt như vậy.’”

Xiển-đà thưa:

“Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, tôi cung dưỡng[78] Thế Tôn, phận sự nay đã xong, tùy thuận Thiện Thệ nay đã hoàn tấtvừa ý chẳng phải không vừa ý. Những việc cần làm của đệ tử, nay đã làm xong. Nếu có phận sự nào khác của đệ tử cung dưỡng Đại Sư, thì cũng sẽ như vậy mà cung dưỡng Đại Sưvừa ý chẳng phải không vừa ý. Nhưng bây giờ, thân tôi đau khổ, không thể chịu nổi, chỉ muốn dùng dao tự sát, không muốn sống khổ.”

Bấy giờ, Tôn giả Xiển-đà dùng dao tự sát ngay ở trong rừng Hảo y Am-la thôn Na-la. Sau khi Tôn giả Xá-lợi-phất cung dưỡng xá-lợi của Tôn giả Xiển-đà xong, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân, rồi đứng lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế TônTôn giả Xiển-đà ở trong rừng Hảo y Am-la, tại thôn Na-la, đã dùng dao tự sát. Thế nào, bạch Thế TônTôn giả Xiển-đà kia sẽ đến đường nào? Thọ sanh thế nào? Đời sau ra sao?”

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Người kia đã chẳng tự ký thuyết rằng: ‘Thưa Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, ‘Tôi cung dưỡng Thế Tôn, phận sự nay đã xong, tùy thuận Thiện Thệ nay đã hoàn tấtvừa ý chẳng phải không vừa ý. Những việc cần làm của đệ tử, nay đã làm xong. Nếu có phận sự cung dưỡng Đại Sư khác nữa, thì cũng sẽ như vậy mà cung dưỡng Đại Sưvừa ý chẳng phải không vừa ý’ ư?”[79]

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa Thế Tôn:

“Tôn giả Xiển-đà kia, trước ở thôn Bà-la-môn Trấn-trân-ni[80], có nhà cung dưỡng, nhà thân hậu, nhà khéo nói năng.”[81]

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Như vậy, Xá-lợi-phất, thiện nam tử bằng chánh trí mà chân chánh khéo giải thoát, thì có nhà cung dưỡng, nhà thân hậu, nhà khéo nói năng. Này Xá-lợi-phất, Ta không nói người kia[82] có lỗi lớn. Nếu có người nào bỏ thân này để rồi tiếp tục thân khác, Ta mới nói người đó có lỗi lớn. Nếu có người nào bỏ thân này rồi không tiếp tục thân khác, Ta không nói người đó có lỗi lớn. Do không có lỗi lớn, Xiển-đà đã dùng dao tự sát ở thôn Na-la trong rừng Am-la.”[83]

Như vậy, Thế Tôn vì Tôn giả Xiển-đà kia nói lời thọ ký đệ nhất.

Phật nói kinh này xong, Tôn giả Xá-lợi-phất hoan hỷ làm lễ rồi đi.

-ooOoo- 
 

--------------------------------------------------------------------------------

[1]. Đại Chánh, quyển 47. Ấn Thuận Hội Biên, tụng 7 Như Lai sở thuyết; 48. Tương ưng Tạp (Đại Chánh, quyển 35, phần sau, kinh 980-992; quyển 47, phần đầu, kinh 1241-1245).-Đại Chánh kinh 1241. 

[2]. Pāli, A.2.9 Cariya; It. A2 Dhamma.

[3]. Nguyên bản: chỉ 止; bản Tống: chánh 正.

[4]. Pāli, A.3. 17. Pāpaṇika.

[5]. A.3.17: Ba pháp khiến tự hại, hại người, hại cả hai (attavyābādhāyapi … paravyābādhāyapi … ubhayavyābādhāyapi saṃvattati); đó là, ác hành nơi thân, miệng, ý.

[6]. Ấn Thuận, “Tụng vii. Như Lai sở thuyết; 49. Tương ưng thí dụ”, mười chín kinh, Đại Chánh, 1246-1264. –Đại Chánh, kinh 1246, tương đương Pāli, A.3. 100. Suvaṇnakāra (phần đầu).

[7]. Nguyên bản, trên chữ cương thạch 剛石, có bốn chữ: thô thượng phiền não 麤上煩惱 , Ấn Thuận lược bỏ vì cho là dư thừa theo ngữ cảnh. Nhưng bản Pāli nói: olārikā upakkillasā, trong đó upakkilesā bản Hán hiểu là “thượng phiền não” thay vì là “các thứ tạp uế”.

[8]. Sanh kim 生金. Pāli: jātarūpa, vàng nguyên, chưa chế biến.

[9]. Pāli: adhicittam anuyuttasa bhikkhuno, Tỳ-kheo tu tập tăng thượng tâm (tu định).

[10]. Trên kia dịch: thô thượng phiền não. Pāli: olārikā upakkillasā. 

[11]. Ba bất thiện tầm. Pāli: tayo akusalavitakkā, kāmavitakko, vyāpādavitakko, vihiṃsavitakko, tham dục, thù hận, ác hại.

[12]. Chỉ ba thiện tầm. Pāli: tayo kusalavitakkā: nekkhammavitakko, avyāpāda-vitakko, avihiṃsavitakko, viễn ly tầm, vô sân tầm, bất hại tầm.

[13]. Pāli: abhisaṃkūra, sự nỗ lực thực hành. sự dụng công.

[14]. Chỉ bốn xứ của vô sắc định.

[15]. Tam-muội chánh thọ 三 昧 正 受 .

[16]. Pāli, A.3. 100. Suvaịịakàra (phần sau).

[17]. Chỉ tướng, cử tướng, xả tướng 止相,舉相,捨相. Pāli: samādhinimitta, paggahanimitta, upekkhanimitta, định tướngtinh tấn tướng, xả tướng.

[18]. Pāli, M. 34. Cūḷa-Gopālaka; Cf. N0125(43.6).

[19]. Pāli: ayaṃ loko paraṃ loko, jānatā suppakāsito, yañ ca mārena samapatto, appattaṃ yañ ca maccunā, bậc minh trí khéo soi tỏ đời này và đời sau, chỗ nào Ma đến được, chỗ nào tử thần không đến được.

[20]. Pāli, M. 33. Mahā-Gopālaka; No 125(49.1).

[21]. Bất tri trạch xứ 不知擇處; đoạn dưới: bất tri chỉ xứ 不知止處 . Pāli: na pītaṃ jānāti, không biết nước uống.

[22]. Bất tri thực xứ 不知食處; đoạn dưới: bất tri phóng mục xứ 不知放牧處 . Pāli: na gocarakosalo hoti, không thiện xảo hành xứ, hay mục trường.

[23]. Pāli: kammalakkhaṇo bālo kammalakkhaṇo paṇḍito, nghiệp tướng kẻ ngu, nghiệp tướng người trí.

[24]. Dục giác; Pāli: kāmavitakka, tầm cầu dục.

[25]. Pāli: yatvādhikaraṇam enaṃ cakkhundriyaṃ asaưvuttaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssaveyyuṃ, tassa saṃvarāya na paṭipajjati, nó không tu tập để phòng hộ nguyên nhân mà do sống không phòng hộ nhãn căn, nên tham ưu, các pháp ác bất thiện tuôn chảy vào. 

[26]. Xem cht.22 trên.

[27]. Pāli: tathāgatappavedite dhammavinaye, ở nơi pháp luật mà Như Lai đã tuyên thuyết. Pavedita, được công bố; bản Hán hiểu là vedita, được kinh nghiệm hay được biết.

[28]. Pāli: na labhati atthavedaṃ, na labhati dhammavedaṃ, na labhati dhammūpasaưhitaṃ pamojjaṃ, không đạt được sự tín thọ đối với nghĩa, tín thọ đối với pháp, không đạt được sự hoan hỷ liên hệ đến pháp.

[29]. Pāli, A. 5. 30 Nāgita, A. 6. 42 Nāgita, A. 8. 86. Yasa.

[30]. Nhất-xa-năng-già-la 一奢能伽羅. Pāli: icchānaṅgala.

[31]. Na-đề-ca 那提伽. Pāli: Nāgita.

[32]. Pāli: bahidvārakoṭṭhake atthaṃsu uccāsaddā mahāsaddā, họ đứng ngoài cổng vào, cao giọng, lớn tiếng.

[33]. Chỗ này, Hán dịch hơi tối nghĩa. So sánh Pāli: yo kho, nāgita, nayimassa nekkhamasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikālamalābhī assa akicchalābhī akasiralābhī, yassāhaṃ nekkhamasukhassa... akasiralābhī, so taṃ mìơhasukhaṃ middhasukhaṃ lābhasakkarasilokasukhaṃ sādiyeyya, Những ai không đạt được dễ dàng, không mệt nhọc, không khó khăn, sự an lạc do xuất lyviễn ly... này, mà Ta đạt được dễ dàng..., thì những người ấy có thể thụ hưởng sự an lạc như phân dơ ấy, sự an lạc ngủ nghỉ, sự an lạc do lợi lộccung kínhdanh vọng ấy.

[34]. Pāli: adhivāsetu dāni, bhante, bhāgvā..., bạch Thế Tôn, xin hãy kiên nhẫn chịu đựng.

[35]. Tham chiếu bản Pāli: (...) na kiñci passāmi purato và pacchato vā... không thấy bất cứ ai ở phía trước hay phía sau.

[36]. Hán: tiện lợi chi lao 便利之勞. Pāli:... phāsu me, nāgita, tasmiṃ samaye hoti antamaso uccārapassāvakammāyā ti, lúc ấy Ta thoải mái cho đến cả việc đại tiểu tiện.

[37]. Pāli, A.6. 42. Nāgita.

[38]. Na-lăng-già-la tụ lạc 那楞伽羅聚落. Kinh 1250: Nhất-xa-năng-già-la.

[39]. Pāli:... vā taṃ tamhā samdhimhā cāvessati, sẽ khiến vị ấy xuất khỏi thiền định.

[40]. Pāli:... araññikaṃ araññe asamāhitaṃ nisinnaṃ, Tỳ-kheo a-lan-nhã ngồi trong rừng mà không nhập định.

[41]. Nguyên bản: kim 金 . Bản Nguyên-Minh: linh 令 .

[42]. Pāli: araññasaññaṃyeva manasikarissati, sẽ tác ý với ấn tượng về rừng vắng.

[43]. Pāli: tassa bhikkuno attamano homi araññaviharena, Ta hài lòng Tỳ-kheo sống trong rừng ấy.

[44]. Xem cht.43 trên.

[45]. Gối bằng gỗ. Pāli, S. 20. 8. Kaliṅgara.

[46]. Nguyên Hán: quy sách 龜坼, nứt nẻ. Ở đây nên hiểu, vì làm việc nhiều nên tay chân chai cứng. Pāli: appamatt ātāpino upāsanasmiṃ, không buông lungtích cực trong nhiệm vụ.

[47]. Pāli, S.20. 4. Ukkā.

[48]. Pāli, S. 20. 3. Kula.

[49]. Pāli, S. 20. 5. Satti.

[50]. Pāli, S. 20. 2. Nakkhasikha.

[51]. Pāli, S. 20. 6. Dhanuggaha.

[52]. Đạo nhật nguyệt thần 導日月神. Pāli: devā candimasuriyānaṃ purato dhāvanti, những Thiên thần chạy trước mặt trăng và mặt trời.

[53]. Pāli, S. 20. 7.Āṇi.

[54]. Đà-xá-la-ha 陀舍羅訶. Pāli: Dasārahā, tên chỉ một nhóm người khattiya.

[55]. A-năng-ha 阿 能 訶. Pāli: Ānaka.

[56]. Trong bản Hán: tu-đa-la.

[57]. Pāli: (suttantà) lokuttarā suññatappaṭisaṃyuttā, những kinh điển siêu xuất thế gianhoàn toàn phù hợp với tính không.

[58]. Không thấy Pāli tương đương.

[59]. Pāli, S. 20. 10. Bilāra.

[60]. Pāli, S. 20. 11. Siṅgālaka.

[61]. Trong bản: linh 令. Tống-Nguyên-Minh: kim 金 .

[62]. Cf. Pāli, S. 17. 5. Mīḷhaka.

[63]. Pāli, S. 17. 8 Siṇgāla. 

[64]. Ấn Thuận, “Tụng 7; 50. Tương ưng bệnh”; hai mươi kinh; Đại Chánh, quyển 47 (phần sau) kinh 1265-1266; quyển 37 (phần đầu), kinh 1023-1038. Kinh 1265, tương đương Pāli, S. 22. 87. Vakkali.

[65]. Bạt-ca-lê 跋迦梨. Pāli: Vakkali.

[66]. Kim-sư tinh xá 金師精舍. Pāli: kimbhakāranivesane, trong nhà của người thợ gốm.

[67]. Xem các kinh 103, 540, 544, 1030, 1031... Để Bản: Hựu-ma 又麽, sửa lại là Xoa-ma 叉麽. Chỗ khác cũng nói là Sai-ma 差麽.

[68]. Trước đoạn tiếp theo của bản Hán, Pāli: alaṃ, vakkali, kiṃ te iminā pūtikāyena diṭṭhena? Yo kho, vakkali, dhammaṃ passati, so maṃ passati; yo maṃ pasati so dhammaṃ pasati, “Thôi đủ rồi, Vakkali, ngươi hà cớ nhìn thân thể hôi thối này? Vakkali, ai thấy pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy pháp.”

[69]. Pāli: so hi nūna, bhante, suvimutto vimuccissati, “vị ấy sẽ giải thoát với thiện giải thoát.”

[70]. Pāli: isigilipassaṃ kāḷasiḷā, lên núi Tiên nhân, trong hang Hắc thạch.

[71]. Pāli: appatiṭṭhitena ca, bhikkhave, viññāṇena vakkali kulaputto parinibbuto ti, “Thiện gia nam tử Vakkali đã nhập Niết-bàn với thức vô trụ.”

[72]. Pāli, S. 35. 87. Channa.

[73]. Na-la tụ lạc, Hảo y Am-la, xem kinh 914.

[74]. Xem kinh 103.

[75]. Pāli: nissitassa calitaṃ, anissitassa calitaṃ natthi, có y chỉ thì có dao động, không y chỉ thì không dao động. Sớ giải, SA. 2. 370: nissitasāti taṇhāmādiṭṭhīhi nissitassa, “y chỉ, tức là y chỉ với ái, mạn và kiến.”

[76]. Nguyên Hán: xuất một 出沒 , chỉ sanh ra và chết đi. Pāli: cutūpapāto.

[77]. Pāli: calite asati pasaddhi hoti; passaddhiyā sati nati na hoti; natiyā asati agatigati na hoti, “không dao động thì có khinh an. Có khinh an thì không thiên hướng. Không thiên hướng thì không qua lại (các cõi thú).”

[78]. Cung dưỡng hay cúng dường, ở đây được hiểu là hầu hạ hay phụng sự.

[79]. Pāli: Nanu... channena... anupavajjatā vyākatā, “há không phải Channa tự xác nhận là không đáng bị khiển trách (vì muốn tự sát)?” Trong bản Hán, đoạn trên, không có câu này.

[80]. Trấn-trân-ni Bà-la-môn tụ lạc 鎮珍尼婆羅門聚落. Pāli: Pubbavijjhana, một thôn của người Vajji. Cf. M. iii. 266: Pubbajira. Bản Hán tách Pubba thành bất biến từ và tên thôn là Vijjhana.

[81]. Pāli: upavajjakulāni, (Sāriputta cho rằng) những gia đình (ở Pubbavijjhana) đáng bị khiển trách (vì sự tự sát của Channa). Bản Hán hiểu ngược lại: đáng được tán dương.

[82]. Chỉ Xiển-đà.

[83]. Pāli: anupavajjaṃ channena bhikkhunā satthaṃ āharitan ti, Tỳ-kheo Channa cầm dao đến (tự sát) mà không có lỗi.”

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications