Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐPS T1A.008 PHỤ CHÚ GIẢI ĐẠI PHẬT SỬ Cuốn I phần I
<p>Tập sách này là phần sau của cuốn I, phần I của bộ Đại Phật Sử, là bản dịch của hội Sāsana Council, được biên soạn bởi Đại trưởng lão Mingun     Sayadaw     Bhaddanta     Vicittasārābhivaṃsa,     Tipiṭakadhara, Dhammabhaṇḍāgārika, Agga Mahāpaṇḍita, Adhidhaja Mahāraṭṭhaguru.</p>
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:5923

Các tên gọi khác

Tập sách này là phần sau của cuốn I, phần I của bộ Đại Phật Sử, là bản dịch của hội Sāsana Council, được biên soạn bởi Đại trưởng lão Mingun     Sayadaw     Bhaddanta     Vicittasārābhivaṃsa,     Tipiṭakadhara, Dhammabhaṇḍāgārika, Agga Mahāpaṇḍita, Adhidhaja Mahāraṭṭhaguru.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
ĐPS T1A.008 PHỤ CHÚ GIẢI ĐẠI PHẬT SỬ Cuốn I phần I

PHỤ CHÚ GIẢI
ĐẠI PHẬT SỬ

THE GREAT CHRONICLE OF BUDDHAS
             (MAHĀ BUDDHAVAṂSA)

Cuốn I, phần I

The Anudīpanī on the Great Chronicle of Buddhas

TỰA

Tập sách này là phần sau của cuốn I, phần I của bộ Đại Phật Sử, là bản dịch của hội Sāsana Council, được biên soạn bởi Đại trưởng lão Mingun     Sayadaw     Bhaddanta     Vicittasārābhivaṃsa,     Tipiṭakadhara, Dhammabhaṇḍāgārika, Agga Mahāpaṇḍita, Adhidhaja Mahāraṭṭhaguru.

Cuốn I, phần I này được xuất bản vào ngày 1 tháng 11 năm 1990
trong dịp mừng sinh nhật lần thứ 79 của Trưởng lão. Về cuốn
Anudīpanī này, chúng tôi đã cố gắng xuất bản để mừng sinh nhật thứ

80 của Đại trưởng lão. Đó là lễ mà chư Tăng và Phật tử khắp nước Miến Điện đều tham dự.

Cuốn sách này giải thích cặn kẽ tất cả những điểm giáo lý ở phần trước của cuốn I phần I mà đoạn cuối của nó là câu chuyện về Đạo sĩ Sumedha. Những sự quán niệm của vị ấy về các pháp Ba-la-mật và sự đi vào khu rừng lớn của dãy Hy-mã-lạp-sơn với quyết tâm mạnh mẽ là tu tập và thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật.

Đặc biệt cuốn sách này bàn luận rất sâu về mỗi pháp trong mười
pháp Ba-la-mật, có trích dẫn tất cả những pháp khổ hạnh được ghi lại
trong Tam tạng. Mười pháp Ba-la-mật dành cho vị Bồ-tát có nguyện

vọng chứng đắc các quả vị giải thoát như Phật quả, Bích chi quả và Thinh văn quả. Chúng tôi hy vọng rằng qua cuốn sách này, quý vị sẽ tìm thấy sự hữu dụng đặc biệt dành cho những người đang tu tập Bát chánh đạo nhưng chưa có căn bản về Phật pháp.

Vào chính ngày khánh hỉ này, là ngày sinh nhật lần thứ 80 của Đại
trưởng lão, chúng tôi rất hoan hỷ được tôn vinh Trưởng lão bằng bản
dịch tiếng Anh từ bộ Đại Phật Sử do chính Trưởng lão đã biên soạn.

Chúng tôi muốn lập lại lời cầu chúc của chúng tôi đã được trình bày ở lời nói đầu trong phần trước của cuốn này:

“Cầu chúc Trưởng lão an khang trường thọ để có thể tiếp tục làm
những thiện sự cao quý ngõ hầu đem lại lợi ích và hạnh phúc cho tất

cả nhân loại.”

10-11-1991

U-Ko-Lay & U-Tin-Lwin

 

 

LỜI MỞ ĐẦU

Anudīpanī là chữ Pāli thuần túy, anu nghĩa phụ thêm và dīpanī
nghĩa là “sự giải thích”. Anudīpanī nghĩa là “sự giải thích thêm” điều
gì chưa rõ ràng ở bản gốc. Sau khi Đại đức Ledi Sayadaw đã biên
soạn tác phẩm luận giải Paramattha dīpanī cho bộ Abhidhamma
Saṅgaha, Ngài biên soạn một tác phẩm khác nhan đề là Anudīpanī để
giải thích thêm những điều chưa sáng tỏ ở trong bộ Paramatthadīpanī.

Tương tự, một tác phẩm biên soạn có nhan đề Anudīpanī để giải
thích một số chữ và đoạn văn của bộ Đại Phật Sử, và tác phẩm này

được xem như là Phụ chú giải. Nếu những bài giải thích được bao
gồm trong tác phẩm gốc, người đọc sẽ thấy rằng chánh văn và ý nghĩa
khá khó hiểu. Do đó cần phải biên soạn thêm những chú thích cho
những điều giáo lý quan trọng và những đề tài trong kinh văn như là
phần Phụ chú giải Anudīpanī, để đem lại lợi ích cho người nghiên cứu
bộ Đại Phật Sử.

Hy vọng rằng cuốn Anudīpanī sẽ giúp quý vị hiểu dễ dàng những vấn đề khó trong bộ Đại sử này và một số ý nghĩa thâm sâu sẽ trở nên rõ ràng hơn. Do đó, sau khi đọc bộ Đại Phật Sử, độc giả nên nghiên cứu kỹ lưỡng bộ Anudīpanī này. Chúc quý độc giả dễ dàng hiểu được những ý nghĩa sâu sắc và trọng yếu của bộ Đại Phật Sử.

 

 



 

98                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

 

 

 

 

ĐẠI PHẬT SỬ

PHỤ CHÚ GIẢI CHƯƠNG 1-2-3 ĐỊNH NGHĨA BA-LA-MẬT

Nhóm mười đức bao gồm: Bố thí, Trì giới, v.v...được gọi là Ba-la-
mật.

Vị Bồ-tát có 10 đức này như: Bố thí, Trì giới, v.v…, được gọi là
bậc tối cao về nhân cách phi thường “Parama”. Do đó, căn cứ vào nền
tảng này, từ nguyên của Ba-la-mật là:
Paramānaṃ bhāvo - tánh chất
của những nhân vật phi thường. Nó xuất phát từ hai pháp: Trí tuệ của
những người thấy và biết chúng như thật và lời nói của những người
thấy và biết như thật. Một từ nguyên khác là: Paramānaṃ kammaṃ
(công việc của những nhân vật phi thường). Do đó, con đường thực
hành của họ bao gồm: Bố thí, Trì giới, v.v... được gọi là Ba-la-mật.

Thứ tự của mười pháp Ba-la-mật cần biết rõ qua bài kệ sau đây:

Dānaṃ sīlañ ca nekkhammaṃ

paññā vīriyena pañcamaṃ
khantī saccaṃ adhiṭṭhānaṃ
mettupekkhā ti te dasa.

Bố thí, Trì giới, Xuất gia,

Trí tuệ, Tinh tấn là pháp thứ năm,

Nhẫn nại, Chân thật, Quyết định, Từ tâm và Hành xã.
Tất cả những pháp này làm thành mười (Ba-la-mật).

(Mỗi Ba-la-mật có ba loại là Pāramī - Ba-la-mật thông thường, Upa-pāramī - Ba-la-mật bậc cao và Paramattha-pāramī - Ba-la-mật tối cao. Ví dụ: Bố thí có 3 loại:

(1)   Dāna pāramī: Bố thí Ba-la-mật thông thường.

(2)   Dāna upapāramī: Bố thí Ba-la-mật bậc cao.

(3)   Dāna paramatthapāramī: Bố thí Ba-la-mật bậc tối cao.

Giới Ba-la-mật và những Ba-la-mật còn lại cũng có 3 loại như thế. Như vậy, chi tiết thì có tất cả 30 Ba-la-mật.

Sự khác nhau giữa Pāramī - Upapāramī - Paramatthapāramī

Nói về ba loại này: (1) những tài sản riêng của một  người như
vàng, bạc v.v... và những thành viên trong gia đình, vợ và con cái của
người ấy. (2) những chi thể lớn nhỏ của người ấy như tay, chân v.v...
và (3) mạng sống của người ấy trước tiên. Như vậy, về Bố thí thì: (1)
vật thí về tài sản là dāna-pāramī, (2) vật thí về chi thể lớn nhỏ là
dāna-upapāramī    và (3)    vật    thí    về    sinh    mạng    là    dāna-
paramatthapāramī.

Tương tự: (1) Hy sinh của cải để bảo vệ Giới, (2) Hy sinh chi thể
lớn nhỏ để bảo vệ Giới, và (3) Hy sinh mạng sống để bảo vệ Giới. Ba
pháp trên là Sīla-pāramī, Sīla-upapāramī, Sīla-paramatthapāramī.
Tám Ba-la-mật còn lại cũng được phân loại như thế. Muốn biết quan
điểm khác nhau của các nhà Chú giải, hãy tra cứu ở bài trình bày về
chữ “
ko vibhago” trong bộ luận Pakiṇṇaka kathā của Chú giải Hạnh
tạng - Cariyā Piṭaka .

Thắng giải tử - Adhimuttimaraṇa

Sự mạng chung tự nguyện do quyết định tâm của chính mình được gọi là Thắng giải tử - loại tử xảy ra ngay khi vị Bồ-tát khởi quyết định hay phát nguyện: “Xin cho cái chết đến với tôi.” Cái chết như vậy chỉ có thể xảy ra đối với chư vị Bồ-tát mà thôi. Những hạng chúng sanh khác thì không thể được.

Một vị Bồ-tát tái sanh, khi vào cõi chư thiên hoặc Phạm thiên nơi
có thọ mạng rất lâu dài nên vị ấy thấy rằng sống ở cõi trời sẽ không có
cơ hội để thực hành các pháp Ba-la-mật, và cảm thấy đời sống lâu dài

như vậy trong cõi chư thiên thật là buồn chán. Thế nên sau khi đi vào
cung điện chư thiên của mình, vị ấy nhắm mắt lại và phát nguyện:
“Cầu cho mạng quyền của ta chấm dứt ở đây,” ngay tức thì vị ấy tiếp
cận với cái chết và mạng chung từ cõi chư thiên ấy. Thật vậy, quyết
định của vị ấy thành hiện thực, một phần do vị ấy vì không còn hứng
thú với thân nên đã đặc biệt tạo duyên cho dòng sống của thân bằng
cách đạt đến Trí tuệ bậc cao (nghĩa là muốn sanh vào cõi nào thì tích
cực tạo những nghiệp thích hợp để được sanh vào cõi ấy dễ dàng),
phần khác là do quyết định của vị ấy dựa trên lòng đại bi ngập tràn đối
với chúng sanh - là quyết định có sức mạnh và thuần tịnh.

Vị ấy kiểm soát tâm như thế nào cũng kiểm soát hành động như thế
ấy. Do đó khi mạng chung bằng cái chết tự nguyện như vậy, vị ấy tái
sanh vào cõi người làm thái tử, Bà-la-môn theo ý thích để vị ấy có thể
viên mãn bất cứ pháp Ba-la-mật nào vị ấy muốn. Bồ-tát Gotama của
chúng ta đã sống rất nhiều kiếp ở cõi Phạm thiên mà thiền chứng của
Ngài không bị hoại, Ngài chỉ sống một thời gian ngắn ở cõi Phạm
thiên để sanh về cõi người và trau dồi các pháp Ba-la-mật.

Đại Kiếp - Kappa

Chữ kappa được nói đến trong bài kinh Buddhavaṃsa như sau: Kappe ca satasahasse, caturo ca asankhiye” v.v...

Thời gian của một đại kiếp không thể tính bằng số năm tháng được.
Nó chỉ được biết bằng sự suy luận. Giả sử có một cái kho ngũ cốc bề
dài, rộng và cao đều 1 do-tuần, chứa đầy hạt cải. Một trăm năm người
ta lấy đi một hạt, cho đến khi số hạt cải đã lấy đi hết sạch, nhưng thời
gian của một đại kiếp vẫn chưa hết. Như vậy, có thể suy luận rằng đại
kiếp là một thời gian vô cùng dài. Nhưng ngày nay cách nghĩ về đại
kiếp như vậy đã bị quên lãng, thay vào đó, người ta suy luận một đại
kiếp bằng số hạt bụi trên quả đất.

Phân loại đại kiếp

Kappa có 6 loại: Mahā kappa, Asaṅkheyya kappa, Antara-kappa, Āyukappa, Hāyana-kappa, Vaddhana-kappa.

 

Một đại kiếp (Mahā-kappa) gồm có 4 A-tăng-kỳ kiếp (Asaṅkheyya-
kappa
).

(1) Hoại kiếp (Saṃvaṭṭa-kappa)

(2) Hoại trụ kiếp (Saṃvaṭṭaṭṭhāyī-kappa)

(3) Thành kiếp (Vivaṭṭa-kappa)

(4) Thành trụ kiếp (Vivaṭṭaṭṭhāyī-kappa)

Như   vậy   bốn   A-Tăng-kỳ-kiếp   này   được   gọi   là   Saṃvaṭṭa-

asaṅkheyya-kappa,      Saṃvaṭṭaṭṭhāyī-asaṅkheyya-kappa,                                   Vivaṭṭa-

asaṅkheyya-kappa, Vivaṭṭaṭṭhāyī-asaṅkheyya-kappa, tất cả hình thành một Mahā-kappa.

Trong 4 A-tăng-kỳ-kiếp này:

Hoại kiếp là thời gian bắt đầu từ trận mưa lớn báo trước sự tiêu hoại của kiếp, cho đến khi các ngọn lửa tắt hết nếu kiếp bị hoại do lửa; hoặc cho đến khi các cơn lũ rút hết nếu kiếp bị tiêu hoại do nước; hoặc cho đến khi các cơn bão chấm dứt.

Hoại trụ kiếp là thời gian bắt đầu từ lúc thế giới đã bị hoại cho đến khi có trận mưa lớn báo trước sự hình thành một thế giới mới.

Thành kiếp là thời gian bắt đầu từ đám mưa lớn báo trước sự hình thành một thế giới mới cho đến khi xuất hiện mặt trời, mặt trăng, sao và các hành tinh.

Thành trụ kiếp là thời gian bắt đầu từ sự xuất hiện của mặt trời, mặt trăng, sao và các hành tinh cho đến khi có đám mưa lớn báo trước sự tiêu hoại của thế giới.

Như vậy có hai loại mưa hoại kiếp:

Loại thứ nhất là đám mưa lớn ở bất cứ kiếp nào khi kiếp sắp tiêu
hoại do lửa, nước hoặc gió. Trước hết có một đám mưa lớn xối xả trút
xuống khắp vũ trụ sắp bị hoại. Sau cơn mưa lớn ấy, dân chúng bắt đầu

 

trồng trọt... Khi cây mọc đủ lớn cho gia súc có thể ăn thì mưa mới tạnh hẳn. Đó là đám mưa báo trước sự tiêu hoại của kiếp.

Loại thứ hai cũng là một đám mưa lớn nhưng nó trút xuống khi một kiếp sắp bị hoại bởi nước. Nó không phải là đám mưa bình thường, mà là một đám mưa rất khác thường, vì nó có công năng phá tan cả một ngọn núi đá hóa thành tro bụi.

(Một bài mô tả tỉ mỉ về sự tiêu hoại của kiếp do lửa, nước hoặc gió
được  nêu  ra  ở  chương  Pubbenivāsā-nussati  Abhiññā  trong  bộ
Visuddhimagga). Bốn A-tăng-kỳ trên có chiều thời gian dài bằng
nhau, nhưng không thể lấy năm để tính được. Đó là lý do khiến chúng
có tên là A-tăng-kỳ kiếp (những kiếp có chiều thời gian không tính
được).

Bốn A-Tăng-kỳ kiếp này hình thành một đại kiếp (Mahā kappa).
                          
Trung kiếp - Antara-kappa

Vào lúc bắt đầu của Thành trụ kiếp (lúc bắt đầu của thế giới) con
người sống đến vô số tuổi (asaṅkheyya). Dần dà tâm của họ bị chế
ngự bởi các pháp ô nhiễm như tham, sân v.v... và kết quả là thọ mạng
của họ dần dần giảm xuống chỉ còn 10 tuổi. Khoảng thời gian giảm
dần tuổi thọ như vậy được gọi là Hāyana kappa - Suy kiếp.

Ngược lại, do sự sanh khởi và Tăng trưởng của các thiện pháp như
Tứ vô lượng tâm, tức là từ, bi, v.v ... thọ mạng các thế hệ con cháu của
họ dần dần Tăng lên đến vô số tuổi (A-tăng-kỳ tuổi). Thời kỳ gia tăng
thọ mạng từ mười tuổi đến A-tăng-kỳ tuổi được gọi là
Vaddhana-
kappa - Tăng thịnh kiếp (Muốn biết thêm chi tiết về loại thời kỳ Tăng
thịnh của loài người, hãy xem bài kinh Cakkavatti trong phẩm Pāthika
Vagga
của Trường bộ kinh).

Hai thời kỳ suy và thịnh về tuổi thọ của con người gọi  là một Trung kiếp - Antara-kappa.

Ba loại Antara-kappa

 

Vào lúc bắt đầu của thế giới, khi thọ mạng của loài người từ A-
tăng-kỳ tuổi xuống còn mười tuổi, một sự thay đổi của kiếp (kappa) xảy ra. Nếu sự suy giảm do trạng thái Tham, đặc biệt trội hơn các trạng thái khác thì nạn đói xảy ra và tất cả những người ác sẽ chết trong 7 ngày cuối cùng của kiếp Suy. Vòng thời gian như vầy gọi là Kiếp đói (Dubbhikkhantara-kappa).

Nếu sự suy giảm do bởi trạng thái hoang mang đặc biệt lấn lướt, thì những loại bệnh dịch sẽ xảy ra và tất cả những người ác sẽ chết trong vòng 7 ngày của kiếp Suy. Vòng thời gian như vậy được gọi là Bịnh Kiếp (Rogantara-kappa).

Nếu sự suy giảm thọ mạng do bởi trạng thái “sân hận” đặc biệt lấn lướt, nạn binh đao chém giết lẫn nhau sẽ xảy ra và tất cả những người ác sẽ chết trong những ngày cuối cùng của kiếp Suy. Vòng thời gian như vậy được gọi là Đao trượng kiếp (Satthantara-kappa).

Tuy nhiên, theo bộ Visuddhimagga Mahāṭika thì Bịnh kiếp do bởi trạng thái tham lấn lướt. Đao trượng kiếp do trạng thái sân lấn lướt và Cơ kiếp (kiếp Đói) do trạng thái hoang mang lấn lướt.

Giai đoạn Trung kiếp được giải thích một cách khác: trước khi tất cả bị hoại do lửa, nước và gió ở cuối thời kỳ Thành trụ kiếp và bất kỳ khi nào thọ mạng còn 10 năm, tất cả những kẻ ác sẽ bị diệt bởi nạn đói, bệnh và binh đao.

Tai họa xảy ra trong 7 ngày cuối cùng của một trung kiếp, các tên
Bịnh kiếp, Đao trượng kiếp được đặt ra cho thời bất hạnh xảy đến với
những người ác có thọ mạng mười tuổi (không phải toàn thế giới) ở
một xứ sở nào đó như một thị trấn hay một ngôi làng. Nếu bệnh dịch
xuất hiện, chúng ta nói rằng Bệnh kiếp xảy ra ở vùng đó. Nếu xảy ra
chiến tranh, chúng ta nói rằng Đao trượng kiếp xảy ra ở vùng đó. Nếu
xảy ra nạn đói, chúng ta nói rằng Cơ kiếp xảy ra ở vùng đó. Khi cầu
nguyện, người ta nêu ra ba loại nạn kiếp và cầu nguyện thoát khỏi ba
đại nạn này.

 

Trải qua 64 trung kiếp (mỗi trung kiếp gồm có một kiếp tăng và
một kiếp giảm), Thành trụ kiếp chấm dứt. Vì không có chúng sanh
nào (cõi người và các cõi chư thiên) trong suốt kiếp hoại, kiếp hoại

trụ, và kiếp thành nên những kiếp này không được xem là trung kiếp.
Nhưng cần chú ý rằng mỗi A-tăng-kỳ kiếp này lâu bằng 64 trung kiếp.

Thọ kiếp - Āyu kappa

Thọ kiếp nghĩa là thời kỳ được tính theo thọ mạng của thời kỳ ấy. Nếu thọ mạng là một trăm năm thì một thế kỷ là một thọ kiếp. Nếu một ngàn năm thì một thiên niên kỷ là một thọ kiếp.

Khi Đức Phật nói: “Này Ānandā, Ta đã tu tập Tứ thần túc (Iddhipadas), nếu muốn Ta có thể sống hết một kiếp hoặc lâu hơn.” Kiếp ở đây được xem là thọ kiếp, là thọ mạng của con người sống trong thời kỳ ấy. Bộ Aṭṭhakathā Nipāta của Chú giải Tăng chi bộ giải thích rằng Đức Phật tuyên bố như vậy nghĩa là Ngài có thể sống đến một trăm năm hay lâu hơn một ít, nếu Ngài muốn vậy.

Tuy nhiên, trưởng lão Mahāsiva lại nói rằng: “Thọ kiếp - āyukappa ở đây được xem là đại kiếp (Mahā-kappa) gọi là bhaddaka. Vị ấy nói như vậy vì vị ấy cho rằng nghiệp (kamma) dẫn đến sự tái sanh trong kiếp cuối cùng của một vị Phật, có năng lực kéo dài thọ mạng của vị Phật ấy đến vô số năm hay A-tăng-kỳ tuổi và trong các bài kinh Pāli có nêu ra rằng Āyupālakaphalasamāpatti - Quả chứng tạo điều kiện và kiểm soát danh mạng quyền được gọi là thọ hành (āyusaṅkhāra) có thể xua tan tất cả mọi điều nguy hại. Nhưng quan điểm của Trưởng lão không được các nhà Chú giải công nhận.

Bộ Saṅkhabhedakkakkhandhaka của Tiểu Phẩm Luật tạng (Vinaya
Cūlavagga) giải thích rằng: “Vị tỳ khưu phạm tội chia rẽ Tăng bị tái
sanh vào địa ngục, nơi mà khổ dồn dập tiếp nối và phải thọ khổ ở
trong đó suốt kiếp.” Kiếp ấy là thọ mạng của A tỳ địa ngục, là cõi thấp
nhất bị khổ liên tục. Câu này được giải thích từ Chú giải. Thọ mạng
của chúng sanh ở địa ngục A-tỳ bằng một phần tám mươi của 1 đại
kiếp (
Mahā-kappa) theo bộ Terasakaṇḍa-Tika, là Phụ chú giải nhiều

 

tập của Luật tạng. Cũng theo tác phẩm ấy, một phần tám mươi của thời gian dài ấy nên được xem là một trung kiếp của chúng sanh ở địa ngục A-tỳ. Như vậy một đại kiếp gồm 80 trung kiếp theo cách tính của chúng sanh ở địa ngục A-tỳ.

Có thể phân loại như sau:

-  Một đại kiếp gồm 4 A-tăng-kỳ kiếp.

- Một A-tăng-kỳ kiếp gồm 64 trung kiếp. Cho nên một đại kiếp
tương đương với 256 trung kiếp (64 x 4) theo cách tính ở cõi người.

Nếu lấy 256 / 80 = 32. Như vậy một trung kiếp của chúng sanh ở
địa ngục A-tỳ tương đương với 32 trung kiếp của chúng sanh cõi
người (ở địa ngục A-tỳ không có kiếp thành và kiếp hoại như ở cõi
người bởi vì đó là cõi luôn luôn khổ nên cuối của mỗi trung kiếp
không có ba đại nạn: đói, dịch hoặc binh đao. Một phần tám mươi của
đại kiếp là trung kiếp của chúng sanh ở cõi A-tỳ địa ngục, cũng là thọ
mạng của chúng sanh. Do đó, một trung kiếp của địa ngục A-tỳ bằng

32 trung kiếp của chúng sanh ở cõi người.

Bằng cách này, có thể nói rằng một A-tăng-kỳ kiếp bằng 64 kiếp
của nhân loại và 20 trung kiếp của chúng sanh ở địa ngục A-tỳ. Do đó,
như một số bộ kinh Pāḷi (Như bộ
Visuddhimagga Mahātīkā, v.v...) nói
rằng một A-tăng-kỳ kiếp chứa 64 hoặc 20 trung kiếp, nhưng con số đó
không khác nhau. Điểm khác biệt của hai con số trên chỉ nằm ở cách
tính mà thôi. Nên nhớ rằng hai con số ấy có thời gian như nhau.

Một điều đáng chú ý là câu nói trong bộ Sammohavinodanī, Chú
giải của bộ Abhidhamma Vibhaṅga. Trong bài Chú giải của bộ Ñāṇa-
vibhaṅga
, có đoạn nói rằng: “Chỉ có Saṅghabhedaka-kamma (Nghiệp
chia rẻ Tăng) mới dẫn đến khổ quả trong suốt kiếp. Nếu một người
mang tội như vậy mà đọa vào địa ngục A-tỳ vào lúc bắt đầu, hoặc vào
chặng giữa của kiếp (kappa) thì người ấy ra khỏi địa ngục chỉ khi nào
kiếp tiêu hoại. Nếu tái sanh vào cõi khổ ấy ngày hôm nay và nếu kiếp

tiêu hoại vào ngày mai, như thế người ấy thọ khổ chỉ một ngày thôi và

 

sẽ được thoát địa ngục vào ngày mai. Nhưng không có khả năng như
vậy.

Do câu nói này, có một số người đưa ra ý kiến rằng “Nghiệp chia rẽ
Tăng dẫn đến địa ngục suốt cả đại kiếp. Người phạm tội này thoát
khỏi  địa  ngục  chỉ  khi  nào  kiếp  tiêu  hoại.  Sự  thật  thì  câu  nói

kappaṭṭhitiyo (kéo dài suốt kiếp) được giải thích trong bộ Chú giải
Vibhaṅga chỉ là cách nói chung chung; không nhấn mạnh chữ mahā -
kappaṭṭhitiyo (kéo dài suốt đại kiếp). Sự diễn đạt kappaṭṭhitiyo dựa
trên câu kệ trong Vinaya Cūlavana như vầy: “Sau khi phá hoại sự hòa
hợp của Tăng, người kia thọ khổ trong địa ngục suốt kiếp”. Do đó
kiếp ở đây được xem là Thọ kiếp (Āyukappa) chứ không phải Đại kiếp
(Mahākappa). Ở chương 13 của bộ Chú giải (Kathāvatthu), khi đề cập
về kiếp có đoạn nói rằng: “Câu kệ được biên soạn liên quan đến Thọ
kiếp của chúng sanh ở địa ngục A-tỳ là một phần tám mươi của đại
kiếp.”

Phân loại đại kiếp (Mahā-kappa)

Đại kiếp được phân chia thành hai loại:

1. Suñña-kappa: Không kiếp là kiếp mà chư Phật không xuất hiện -
tức là kiếp không có Phật

2. Asuñña-kappa: Phi không kiếp là kiếp có chư Phật xuất hiện

Dù chư Phật không xuất hiện ở Không kiếp nhưng vẫn có xuất hiện chư Phật Độc giác và các vị  Chuyển luân vương. Điều này suy ra từ bài kinh Upāli Thera ở phần đầu của bộ Tỷ Dụ (Apadāna).

Trong bài kinh Upāli Thera và Chú giải của kinh nói rằng hai đại
kiếp trước kiếp này, hoàng tử Khattiya, con trai của vua Añjasa - trên
đường đi từ ngự viên, đã xúc phạm Đức Phật Độc Giác Devila. Không
có bộ kinh nào đề cập đến sự xuất hiện của Đức Phật Toàn Giác trong
kiếp đó. Chú giải của bài kinh
Bhaddaji Thera của bộ Apadāna, cũng
nói rằng trưởng lão đã từng dâng vật thực đến năm trăm vị Phật Độc
Giác trong thời kỳ Không kiếp. Qua những bộ kinh này, điều rõ ràng

là chư Phật Độc Giác xuất hiện trong thời kỳ Không kiếp. Lại nữa, bài
kinh
Kusumā Sariya Thera của bộ Apadāna nêu ra rằng: “Ngay sau
đại kiếp đó, Kusumāsaniya đương lai sanh làm Chuyển luân vương.”
Bài kinh Tiṇasanthara Thera của bộ kinh ấy cũng nói rằng: “Trong
đại kiếp thứ hai trước đại kiếp này, trưởng lão Tiṇasanthara đã sanh
làm Chuyển luân vương tên là Migasammata”. Như vậy, trong những
Không kiếp cũng xuất hiện các vị Chuyển luân vương.

Phi không kiếp, kiếp mà chư Phật xuất hiện được phân thành năm loại:   (a)   Sāra   kappa,   (b)   Maṇḍa   kappa,   (c)   Vara-kappa, (d) Saramaṇḍa kappa, (e) Bhadda kappa.

Trong năm loại này:

a. Sāra-kappa: kiếp chỉ có một vị Phật xuất hiện.

b. Maṇḍa-kappa: kiếp có hai vị Phật xuất hiện.

c. Vara-kappa: kiếp có ba vị Phật xuất hiện.

d. Sāramaṇḍa-kappa: kiếp có bốn vị Phật xuất hiện.

e. Bhadda-kappa: kiếp có năm vị Phật xuất hiện.

Kiếp mà Đạo sĩ Sumedha sanh vào dòng Bà-la-môn là kiếp có tên
Sāramaṇḍa kappa - có bốn vị Phật xuất hiện trong đại kiếp ấy. Thành
phố Amaravati được thành lập sau sự xuất hiện của ba vị Phật, đó là
Taṇhaṅkara. Medhaṅkara Saranaṅkara. Vị Phật xuất hiện sau đó
Dīpaṅkara.

Amaravatī

Amara có nghĩa là “Chư thiên” (chúng sanh bất tử) và vatī nghĩa là “sự sở hữu”. Như vậy Amaravatī nghĩa là thành phố do chư thiên sở hữu hay thành phố của chư thiên.

Trong bộ Bhesajjakkhandhaka của Đại phẩm Luật tạng (Vinaya
Mahāvagga) và một số chỗ khác giải thích rằng, ngay khi hai vị Bà-la-
môn Sunidha và Vassakāra ra kế hoạch thành lập thành phố thì chư
thiên
Pātaliputta đến trước và phân chia các lô đất cho nhau. Những

 

lô đất do chư thiên có quyền lực lớn chiếm hữu thì trở thành chỗ ngụ
của các vị hoàng tử, các vị quan thần và những vị trưởng giả có địa vị
cao; những lô đất do chư thiên có quyền lực bực trung chiếm hữu thì
trở thành chỗ ngụ của những người có địa vị bậc trung; những lô đất
do chư thiên có ít quyền lực chiếm hữu thì trở thành chỗ ngụ cho
những người có địa vị thấp.

Từ câu nói này, có thể cho rằng chư thiên đã đến từng đoàn để lập
nên những chỗ ngụ cho họ và chiếm hữu nơi mà đại kinh đô sẽ được
thành lập. Amaravatī có tên như vậy để nói lên sự có mặt của chư
thiên trong thành phố và sự bảo vệ của họ đối với những nơi họ cư
ngụ.

Chữ Pāḷi “vatī” có nghĩa là sở hữu nhiều. Trong thế gian này, những người ít tài sản không được gọi là những người giàu có, chỉ những người có nhiều tài sản hơn kẻ khác được gọi như vậy. Do đó, tên Amaravatī cho thấy rằng vì nó là đại kinh đô, nên nó được chiếm ngụ và được bảo vệ bởi số đông chư thiên có quyền lực lớn.

 

 

 

 

 

 

 

PHỤ CHÚ GIẢI CHƯƠNG 4 SỰ XUẤT GIA CỦA SUMEDHA

Năm Khuyết Điểm Của Con Đường Kinh Hành:

1. Đường gồ ghề lởm chởm đá làm đau chân những người đi trên đó. Kết quả là người đi hành thiền trên đó khó an trú vào đề mục. Ngược lại, con đường bằng phẳng và có đất mịn ở trên mặt sẽ tiện lợi và dễ dàng cho việc hành thiền. Do đó, gồ ghề là khuyết điểm thứ nhất của con đường kinh hành.

2. Nếu có cây cối ở bên trong hoặc ở giữa hoặc ở ven đường kinh hành, người đi trên đó nếu lỡ hôn trầm hoặc thiếu cẩn thận sẽ va đầu vào cây. Do đó, cây mọc trong lối đi là khuyết điểm thứ hai.

3. Nếu đường kinh hành có nhiều bụi rậm, lúc tối trời người đi trên
đó sẽ giẫm lên những côn trùng và làm chết chúng (dầu không cố ý).
Do đó, bụi rậm là khuyết điểm thứ ba của con đường kinh hành.

4. Khi làm con đường kinh hành, điều quan trọng là nó phải có ba lối, lối chính nằm giữa phải thẳng và dài 60 hắc tay, bề rộng một hắc tay rưỡi; hai lối nhỏ hơn ở hai bên mỗi lối rộng một hắc tay. Nếu lối đi giữa quá hẹp, nghĩa là rộng một hoặc nửa hắc tay, có thể gây ra thương tích ở chân hoặc tay do tai hạn. Do đó, quá hẹp là khuyết điểm thứ tư của con đường kinh hành.

5. Nếu bước đi trên con đường quá rộng, ta dễ bị phân tâm: Tâm trí không tập trung được. Do đó, quá rộng là khuyết điểm thứ năm của con đường kinh hành.

Tám điều lợi ích của vị Sa-môn

 

Tám điều lợi ích của vị Sa-môn (samanasukha) hay tám phước lành của vị Sa-môn (samanabhadra) được nêu ra trong bổn sanh Sonaka của bộ Satthi Nipāta. Câu chuyện được kể tóm tắt như sau:

Một thuở nọ Bồ-tát sanh làm thái tử Arindama, con trai của vua Magadha, nước Rājagaha. Sonaka, con trai của vị quốc sư, cũng sanh cùng ngày hôm ấy.

Hai đứa bé được nuôi dưỡng chung và khi lớn khôn, cùng nhau đến
học tại Taxila. Sau khi học xong, họ rời khỏi Taxila và tiếp tục chuyến
hành trình dài để thâu thập kiến thức, thực nghiệm sâu rộng hơn về
các ngành nghệ thuật và các phong tục của địa phương. Một hôm nọ,
họ đến vườn ngự uyển của vua nước Bārāṇasi (Ba-la-nại) và vào thành
phố ngày hôm sau.

Trong ngày hôm ấy có tổ chức lễ hội tụng kinh Phệ Đà gọi là
Brahmaṇavācaka. Cơm sữa đã được chuẩn bị và các chỗ ngồi được
sắp xếp cho lễ hội. Vào thành phố, hoàng tử Arindama và bạn của vị
ấy được mời vào một nhà nọ và ngồi vào chỗ đã sắp sẵn. Thấy rằng
chỗ ngồi dành cho hoàng tử được trải bằng tấm vải màu trắng, trong
khi đó tấm vải màu đỏ dành cho chỗ của mình, Sonaka biết được qua
điềm tướng ấy rằng: “Ngày hôm nay bạn Arindama của ta sẽ được lên
làm vua nước Bārāṇasi và ta sẽ được phong làm tướng quân.”

Sau bữa ăn, đôi bạn trở về vườn ngự uyển. Đó là ngày thứ bảy sau
khi đức vua băng hà và triều thần đang tìm kiếm một người xứng đáng
để tôn vương, bằng cách để chiếc long xa có ngựa kéo chạy đi tự do
tìm người như thế. Chiếc xe rời khỏi kinh đô, hướng đến vườn ngự
uyển và dừng lại ở lối vào. Lúc đó hoàng tử Arindama đang nằm ngủ
trên chiếc trường kỷ kiết tường bằng đá, đầu đắp kín và Sonaka thì
ngồi bên cạnh. Vừa nghe tiếng nhạc, Sonaka tự nghĩ “Chiếc long xa
đến rước Arindama. Ngày hôm nay vị ấy sẽ lên ngôi vua và sẽ phong
cho ta làm quan tể tướng. Ta thực sự không muốn địa vị ấy. Khi
Arindama rời khỏi khu vườn, ta sẽ xuất gia làm đạo sĩ.” Vị ấy đi đến
góc vườn và ẩn mình ở đó.

Vị quốc sư và triều thần nước Bārāṇasi làm lễ tôn vương cho hoàng
tử Arindama ngay trên chiếc trường kỷ bằng đá, và với lễ nghi long
trọng rước vị ấy vào kinh đô. Như vậy hoàng tử Arindama đã trở
thành vua của nước Bārāṇasi. Được lên làm vua một cách đột ngột
như vậy với đông đảo quần thần và tùy tùng vây quanh hầu hạ, vị ấy
quên mất Sonaka.

Khi vua Arindama đã vào kinh đô, Sonaka ra khỏi nơi ẩn núp và
ngồi trên chiếc trường kỷ bằng đá. Sonaka trông thấy một chiếc lá sālā
đã khô đang rơi xuống trước mặt, Sonaka quán rằng: “Giống như
chiếc lá sālā này, thân của ta chắc chắn sẽ già lão, bị tuổi già bức bách,
chắc chắn ta sẽ chết và cũng rơi xuống đất.” Đầy kinh cảm với suy
nghĩ như vậy, vị ấy khai triển tuệ quán và ngay trên chính chỗ ngồi
này, Tuệ giác của vị Độc giác Phật đã khởi sanh trong tâm của vị ấy
và vị ấy trở thành một vị Độc giác Phật. Tức thì, tướng mạo cư sĩ trên
người của vị ấy biến mất và thay vào đó là tướng mạo của một vị Sa-
môn. Sau khi thốt lên câu kệ hoan hỷ: “Giờ đây ta không còn tái sanh
nữa!” Vị ấy đi đến hang núi Nandamūlaka.

Ngược lại, đức vua Arindama vẫn còn say mê trong khoái lạc vương giả. Sau một thời gian khoảng bốn mươi năm, vị ấy chợt nhớ lại người bạn thời thơ ấu của mình. Rồi vị ấy tha thiết muốn gặp người bạn cũ, lòng mãi băn khoăn, tự hỏi không biết người bạn ấy giờ này đang ở đâu. Sau khi truyền lịnh tìm kiếm khắp nơi mà chẳng nhận được tin tức hay một manh mối nhỏ nào về dấu vết của người bạn chí thân chí thiết, đức vua bèn đọc lên câu  kệ sau:

“Trăm đồng tiền vàng sẽ được ban đến cho người nào nghe và đem
đến cho ta tin mừng về Sonaka. Ai đích thân thấy Sonaka và nói cho
ta biết đã gặp vị ấy như thế nào thì ta sẽ thưởng một ngàn đồng tiền
vàng. Ôi! Có ai đây, trẻ cũng được, già cũng được, đến báo tin về
người bạn Sonaka của ta, người bạn đã từng chơi với ta suốt thời thơ
ấu?”

 

Bài kệ ấy đã biến thành bài hát trong dân gian và mọi người đều hát nó, tin rằng nó sẽ đem đến vận may cho họ.

Sau 50 năm, đức vua có nhiều người con, người con lớn nhất là
Dīghāvu. Lúc bấy giờ Đức Phật Độc Giác Sonaka suy nghĩ: “Vua
Arindama đang mong mỏi gặp ta. Ta sẽ đến gặp vị ấy và đem cho vị
ấy một món quà bằng những bài pháp khích lệ tâm, nói về những nguy
hại của dục lạc và những lợi ích của sự xuất ly để vị ấy chuyên tâm
hướng về cuộc đời của một vị Sa-môn. Do đó, Đức Phật Độc Giác vận
thần thông bay đến vườn ngự uyển. Sau khi nghe cậu bé vừa đốn củi
vừa hát bài kệ của đức vua, Ngài bèn dạy cho nó một bài kệ phúc đáp.

Cậu bé đi đến đức vua và đọc bài kệ phúc đáp tiết lộ về chỗ ngụ
người bạn Sonaka của vua. Đức vua khởi giá đi đến vườn ngự uyển và
làm lễ Đức Phật Độc Giác. Nhưng vì bị dục lạc của thế gian che mờ,
đức vua tỏ thái độ xem thường vị Phật Độc giác và nói rằng: “Ôi, bạn
thật là kẻ bần cùng, sống cuộc đời đơn độc thảm hại.” Đức Phật Độc
Giác bác bỏ lời phê phán của đức vua bằng cách đáp lại rằng: “Người
nào có thân lẫn tâm thấm nhuần an lạc của Pháp trong chánh đạo
không bao giờ là người bần cùng! Chỉ có những ai sống ngoài Pháp và
không thực hành chánh đạo mới là người bần cùng! Ngoài ra người ấy
còn là kẻ ác và làm nơi nương tựa cho những kẻ ác khác.”

Rồi đức vua báo cho Đức Phật Độc Giác biết tên của mình là
Arindama và được tất cả mọi người biết đến là một vị vua xứ Kāsī và
hỏi Đức Phật Sonaka sống có được hạnh phúc không. Đức Phật Độc
Giác nói lên tám câu kệ tán dương tám điều hạnh phúc của vị Sa-môn:

1. Tâu đại vương, một vị Sa-môn đã từ bỏ đời sống gia đình, sống
không gia đình, thoát khỏi sự bận tâm về của cải sẽ cảm thấy hạnh
phúc bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu. Tâu đại vương, vị Sa-môn như
vậy không biết giữ ngũ cốc trong kho hoặc trong các thùng chứa. Vị
Sa-môn sống bằng vật thực bố thí của mọi nhà với hạnh khất thực. Vị
ấy độ thực trong chánh niệm (đây là hạnh phúc do không cất giữ của
cải và ngũ cốc).

2. (Có hai loại vật thực đáng chê trách (savajjapinda) như đã đề cập trong tạng Luật. Loại thứ nhất là vật thực kiếm được bằng phương tiện bất chánh như chữa bệnh, v.v... hoặc bằng một trong năm pháp tà mạng. Loại thứ hai là vật thực dùng mà không quán tưởng dù kiếm được một cách chân chánh).

“Tâu đại vương, vị thánh Sa-môn chánh niệm trong khi độ vật thực
kiếm được một cách trong sạch. Nhờ chánh niệm trong khi thọ thực,
vị ấy không bị tham luyến trong bất cứ hình thức ngũ dục nào. Không
tham luyến trong ngũ dục là loại hạnh phúc thứ hai của vị Sa-môn.”

3. (Vật thực kiếm về một cách chân chánh và dùng nó trong chánh niệm do một vị phàm Sa-môn có thể được xem là “Tịnh thực” -
Nibbutapinda), nghĩa là vật thực không làm khởi sanh ái dục. Tuy nhiên trên thực tế, chỉ có vật thực của vị A-la-hán mới “Tịnh” mà thôi, tức là nó không làm khởi sanh ái dục

“Tâu đại vương, vị thánh Sa-môn chỉ thọ tịnh thực. Nhờ vậy vị ấy
không bị tham nhiễm bởi bất cứ hình thức dục lạc nào. Thoát khỏi dục
nhiễm là hạnh phúc thứ ba của vị Sa-môn không có ham muốn hoặc lo
âu.”

4. Tâu đại vương, vị thánh Sa-môn đi khất thực trong làng mạc hay phố phường mà không luyến ái các thí chủ thì không chấp trước tham sân. Thóat khỏi sự chấp thủ như vậy là hạnh phúc thứ tư của vị Samôn không có sự tham muốn hoặc lo âu.

5. Tâu đại vương, vị Sa-môn mà có vật dụng thừa, chưa dùng tới,
bèn gửi chúng cho một thí chủ nào đó. Về sau, nghe tin nhà của người
thí chủ ấy bị cháy thì vị ấy rất phiền não, tâm bất an. Ngược lại, một vị
Sa-môn khác chỉ có những vật dụng ở bên mình, đi đâu mang theo
như con chim bay đi luôn luôn mang theo đôi cánh bên mình. Vị ấy
chẳng bao giờ bị mất mát gì dầu làng mạc hay phố phường bị cháy rụi.
Không bị mất mát vật dụng do lửa là hạnh phúc thứ năm của vị Sa-
môn.

6. Tâu đại vương, khi làng mạc hay phố phường bị bọn cướp tấn
công, một vị Sa-môn như tôi, luôn luôn mang theo những vật dụng

bên mình sẽ không bị mất gì cả (Trong khi những vị Sa-môn khác có
vật dụng dư thừa bị mất mát do bọn cướp và tâm không được an tịnh).
Thóat khỏi phiền não do phải chăm nom các vật sở hữu là hạnh phúc
thứ sáu của vị Sa-môn.

7. Tâu đại vương, vị Sa-môn chỉ có tám món vật dụng là vật sở hữu
của mình thì đi đâu cũng tự do, không bị ngăn chặn, tra hỏi hay bắt
giữ trên đường đi có bọn cướp mai phục hay quan binh tuần tra. Đây
là hạnh phúc thứ tám của vị Sa-môn - đi tự do trên mọi nẻo đường.

8. Tâu đại vương, một vị Sa-môn chỉ có tám món vật dụng là
những vật sở hữu của mình, có thể đi đâu tùy thích mà chẳng lưu
luyến nhìn lại (chỗ cũ của mình). Khả năng đi lại như vậy là hạnh
phúc của vị Sa-môn vô sản - đi tự do mà không lưu luyến chỗ cũ.

Vua Arindama cắt ngang thời pháp của Đức Phật Độc giác Sonaka
về các điều hạnh phúc của một vị Sa-môn và hỏi rằng: “Tuy Ngài nói

những lời tán dương về những điều hạnh phúc của một vị Sa-môn,
trẫm không thể thưởng thức chúng được vì trẫm luôn nắm giữ dục lạc.
Dục lạc ở trong cõi nhân loại và chư thiên trẫm đều yêu thích. Bằng
cách nào để trẫm đạt được các kiếp sống của nhân loại và chư thiên?”
Đức Phật Độc giác đáp lại rằng những ai mê say dục lạc sẽ bị tái sanh
vào các khổ cảnh, chỉ những người từ bỏ nó mới thoát khỏi khổ cảnh.
Để chứng minh, Đức Phật Độc Giác kể lại câu chuyện về con quạ bám
vào  xác chết của một con voi đang trôi vào đại dương và cuối cùng bị
mất mạng. Sau đó, Đức Phật Độc Giác nói về tội lỗi của dục lạc, rồi
Ngài bay đi qua hư không.

Kinh cảm trước những lời cảnh huấn của Phật Độc Giác, vua
Arindama bèn trao vương quyền cho người con trai trưởng Dīghāvu
và ra đi hướng về Hy-mã-lạp-sơn. Sau khi trở thành một vị Sa-môn
sống bằng trái cây, tu tập và đắc định nhờ pháp thiền Tứ vô lượng

tâm. Khi thân hoại mạng chung, đạo sĩ Arindama được sanh về Phạm thiên giới.

Chín điều bất lợi trong y phục của cư sĩ

1. Đắt giá.

2. Phải có người khác may mới dùng được.

3. Khi mặc vào dễ bị dơ.

4. Mau cũ rách vì hay giặt, nhuộm.

5. Khó kiếm cái mới để thay thế cái cũ.

6. Không thích hợp cho vị Sa-môn.

7. Phải đề phòng trộm cắp.

8. Có vẻ phô trương khi mặc vào.

9. Mang theo mà không mặc thì phiền toái, và khiến người ta trở
    
nên tham đắm.

12 điều lợi ích của chiếc y vỏ cây

1. Không đắt giá, lại tốt.

2. Có thể tự mình làm ra nó.

3. Khó bị dơ, dễ làm sạch.

4. Dễ dàng vứt bỏ, khi bị cũ rách không cần khâu vá.

5. Tìm cái mới để thay cái cũ không khó.

6. Thích hợp cho vị Sa-môn.

7. Không phải canh chừng kẻ cắp.

8. Không có tính cách phô trương khi mặc vào.

9. Không phiền toái khi mang theo hoặc mặc nó.

10. Không dính mắc với y phục.

11. Chỉ cần đập vỏ cây để làm nó, như vậy nó kiếm được một cách
        
đúng pháp, trong sạch.

12. Không tiếc khi nó bị mất hoặc bị tiêu hoại.

Y vỏ cây

Y vỏ cây là y làm bằng những sợi lấy từ một loại cỏ và được bện lại với nhau (mô tả trong bộ Aṭṭhasālinī).

Theo bộ Hsutaunggan Pyo (Miến Điện), những sợi bện nối lại nhau
vẫn chưa thành tấm y hoàn hảo. Nó phải được đập cho mềm và nhẵn.

Y vỏ cây có cái tên Pāḷi là vākacīra, vakkala, và tirīṭaka.

Vākacīra nghĩa là chiếc y làm bằng cỏ. Do đó nó phải được dịch
đúng là “y cỏ”, nhưng các vị A-xà-lê xưa đã dịch chữ ấy là “y vỏ cây”.

Hai tên còn lại của nó, vakkalatirīṭaka chỉ về chiếc y làm bằng
những sợi lấy từ “vỏ cây”. Nó không có nghĩa là cái vỏ cứng dày ở
bên ngoài cây mà là những lớp bên trong, tạo thành những sợi thớ bao
bọc lõi cây. Nên lưu ý rằng, vì những sợi như vậy được bóc ra rồi bện

và đập cho mềm nhẵn, nên tấm y như vậy được gọi là y vỏ cây. Tuy
vākacīra có nghĩa là “y cỏ” nhưng quá trình làm y từ thứ cây thông
dụng hơn cỏ và tên “y vỏ cây” đúng hơn cách gọi “y cỏ”.

Cái giá ba chân bằng gỗ

Giá ba chân bằng gỗ (tidaṇda hay tayosūlī) là vật dụng của vị ẩn sĩ.
Nó là vật đứng có 3 chân, dùng để đặt chậu nước hay bình nước lên
đó.

Bình nước và đòn gánh

Bình nước là một loại vật dụng khác của vị ẩn sĩ. Khārikāja nghĩa là cái đòn gánh. Các vị thầy xưa cho rằng chữ ấy được kết hợp bởi hai chữ khārikāja, cả hai đều có nghĩa như nhau: cái sào cong. Một cách giải thích khác: khāri là bộ vật dụng của vị ẩn sĩ gồm có đá lửa, kim, quạt, v.v… Dịch tổng hợp lại thì khārikāja được xem là cái đòn gánh để gánh những vật dụng của vị ẩn sĩ.

 

Tấm da của con sơn dương đen (ajinacamma)

Tấm da của con sơn dương đen có đầy đủ móng được gọi là ajina
camma, cũng là một trong những vật dụng của vị ẩn sĩ, có thể giải rõ
như sau:

Chữ Pāḷi ajinacamma đã được các vị học giả xưa nhất trí dịch ra là “Tấm da của con sơn dương đen”. Trong bộ Amarakosa Abhidhāna, chữ ajina được giải thích là “tấm da”, đồng nghĩa với chữ camma. Cách giải thích của bộ Amarakosa là đáng lưu ý.

Trong bộ Aṭṭhasālinī và những bộ Chú giải khác có một sự diễn đạt mang ý nghĩa là “Tấm da đủ các móng của con sơn dương đen” trông như luống hoa punnāga.

Câu nói “đủ các móng” (sakhuraṃ) cho thấy rằng đó là tấm da của
con vật có móng. Còn câu nói “như luống hoa punnāga”, chúng ta có
thể đoán ra rằng nó ám chỉ màu sắc hoặc tính chất mềm mại của tấm
da. Hoa punnāga đặc biệt không mềm mượt như các loại hoa khác.
Nếu chỉ xác định là tấm da giống hoa punnāga đặc biệt không mềm
mượt hơn các loại hoa khác. Nếu chỉ xác định là tấm da giống hoa
punnāga về màu sắc thì này tấm da không phải của con sơn dương

đen.

Một số học giả xưa đã dịch chữ ajina là “con báo đen”, nghĩa đích thực của nó là “chiếc áo khoác của con thú” và đồng nghĩa với chữ camma như trong câu ajinamhi haññate dīpi”(con báo được giết để lấy chiếc áo khoác của nó) từ hai câu chuyện bổn sanh JanakaSuvaṇṇasāma. Chú giải của bổn sanh cũng giải thích ajina là đồng nghĩa với camma do câu nói “ajinamhīti cammaṭṭhāya cammakaranā” (để lấy chiếc áo khoác của nó, nghĩa là để lấy tấm da của nó). Trong tiếng Pāḷi, chỉ có hai chữ dīpisaddūla mang ý nghĩa là con báo; ajina không được tìm thấy trong nghĩa này.

Bộ kinh Buddhavaṃsa cũng nói rằng: “Kese muñcitvā haṃ taṭṭha
vākacīrañ ca cammakaṃ.” Khi Sumedha nằm sấp trước Đức Phật
Nhiên Đăng cúng dường thân mạng của mình để làm chiếc cầu, vị ấy

buông xõa búi tóc của mình, trải chiếc y vỏ cây và tấm da thú trên vũng lầy. Chữ Pāḷi được dùng ở đây là cammaka, giống như chữ ajina camma đã được nói ở trên.

Tất cả điều này cho thấy rằng ajina camma không phải là chiếc áo
khoác của con thú có vuốt như cọp, báo hoặc mèo và nhóm tính từ “đủ
các móng vuốt” cho thấy rằng đó là chiếc áo khoác của con thú có
móng như nai... Chiếc áo khoác có màu của luống hoa punnāga như
đã nêu ra trong bộ
Aṭṭhasālinī. Nó cũng rất mềm. Những con vật như
loài nai được tìm thấy ở những vùng quanh Hy-mã-lạp-sơn, da của nó
nhẵn mịn, rất đẹp và hiếm, nên người ta quý và xem nó như một vật may
mắn.

Khi Bồ tát Siddhattha ra đời thì Tứ đại thiên vương ở bốn góc đỡ
lấy  Ngài  từ  tay  của  các  vị  Phạm  thiên  của  cõi  Tịnh  cư  thiên
(
suddhāvāsa) bằng tấm da thú đặc biệt này, có lông mịn và thường
được xem là biểu tượng may mắn. Phần này được nói đến trong bài
giới thiệu của Chú giải bổn sanh cũng như trong Chú giải của bộ
Buddhavaṃsa.

Tóc búi (jatā) và vòng đội đầu bằng tóc (jatāmaṇḍala)

Cần hiểu rõ sự khác biệt giữa tóc búi và vòng đội đầu bằng tóc. Tóc
búi là một phần trên người vị ẩn sĩ. Để khỏi gặp vấn đề trong việc giữ
cho tóc gọn gàng và  sạch sẽ, vị ẩn sĩ búi mái tóc của mình thật chắc.

Một trong những vật dụng được tạo ra và để lại trong thảo am do vị
chư thiên
Vissukamma như đã nêu ra trong bộ Atthasālinī, là vòng đội
đầu bằng tóc có tên
jātamaṇḍala. Đây là vật ở ngoài thân của vị ẩn sĩ.
Từ câu nói “Vị ấy đội cái khăn trùm đầu trên búi tóc và cài nó lại bằng
cái trâm ngà voi,” điều rõ ràng là cái khăn trùm đầu là một vật tách
biệt với búi tóc của vị ẩn sĩ Sumedha, khăn trùm đầu giữ cho búi tóc
khỏi bị bụi và rác rưởi bám vào.

Tám loại đạo sĩ

Chữ “đạo sĩ” ám chỉ những người ở ngoài giáo pháp của Đức Phật.
Tuy nhiên, họ nên được xem là những bậc phạm hạnh của thời ấy.

Chú giải của bài kinh Ambattha trong phẩm Sīlakkhandha Vagga có kể ra tám loại đạo sĩ như sau:

1.  Saputtabhariya.

2.  Uñchācariya.

3.  Anaggipakkika.

4.  Asāmapāka.

5.  Ayamuṭṭhika (Asamuṭṭhika).

6.  Dantavakkalika.

7.  Pavattaphalabhojana

8.  Paṇḍupalāsika.

 

 

1.   Supattabhanga là vị đạo sĩ tích lũy của cải và sống cuộc đời của

một gia chủ (ở đây tác giả đưa ra ví dụ về ông Keniya thời Đức
Phật).

2.   Uñchācariya là vị đạo sĩ không tích lũy của cải và không sống

cuộc đời của gia chủ, nhưng quyên góp lúa nơi người tại gia ở những chỗ đập lúa và đem về nấu thành vật thực cho mình.

3.   Anaggipakkhika  là vị đạo sĩ quyên góp gạo từ những người tại

gia ở trong các làng mạc và đem về nấu thành vật thực cho mình. Vị ấy nghĩ rằng làm công việc giã gạo thì không xứng đáng là vị đạo sĩ.

4.   Asamapāka là vị đạo sĩ đi vào làng và xin cơm. Vị ấy cho rằng

nấu ăn không phải là công việc của vị đạo sĩ.

5.   Ayamuṭṭhika (hay Asamuṭṭhika) là vị đạo sĩ dùng dụng cụ bằng

đá hoặc bằng kim loại để bóc vỏ cây làm vật thực. Vị ấy cho rằng đi xin vật thực mỗi ngày sẽ mệt sức.

6.   Dantavakkalika là vị đạo sĩ bóc vỏ cây bằng răng của mình để

làm vật thực. Vị ấy cho rằng mang theo dụng cụ bằng đá hoặc bằng kim loại sẽ mất công phí sức.

7.   Pavattaphalabhajana  là vị đạo sĩ sống bằng trái cây rơi xuống

bằng cách ném đá hoặc dùng cây sào . Vị ấy cho rằng đi lấy vỏ cây sẽ mất công.

8.   Paṇḍupalāsika là vị đạo sĩ chỉ sống bằng lá, hoa và trái cây đã

rụng tự nhiên.

Hạng đạo sĩ Paṇḍupalāsika được phân thành ba loại:

1.  Ukkaṭṭha-paṇḍupalāsika: người chỉ ngồi mà không đứng dậy và
     
sống bằng lá, hoa và trái cây rụng trong tầm với.

2.  Majjhuṃ-paṇḍupalāsika: người không di chuyển từ cây này đến
      cây khác và sống lây lất bằng lá, hoa và trái cây rụng từ một

cây duy nhất.

3.  Muduṃ-paṇḍulāsika: người di chuyển từ cây này đến cây khác
     
để kiếm lá, hoa và trái cây rụng tự nhiên để duy trì mạng sống.

Ngoài ra tác giả cũng đưa ra một cách liệt kê mới khác từ Chú giải của bài kinh Hiri của bộ Sutta Nipāta.

1.  Saputtabhariya

2.  Uñchācariya.

3.  Sampaṭṭakālika.

4.  Anaggipakkika.

5.  Ayamuṭṭhika.

6.  Dantaluyyaka.

7.  Pavattaphalika

8.  Vaṇṭamuttika.

 

 

1.   Saputtabhiya là vị đạo sĩ sống đời gia chủ, kiếm sống bằng nghề

nông, buôn bán, v.v... như Keniya và những người khác.

2.   Uñchācariya là vị đạo sĩ sống gần cổng thành, dạy học cho trẻ

con dòng Khattiya (Sát-đế-lỵ) và các gia đình Bà-la-môn, chỉ nhận gạo và nông sản, không nhận vàng bạc

3.   Sampattakālika là vị đạo sĩ chỉ sống bằng vật thực kiếm được

trong giờ thọ thực.

4.  Anaggipakka là vị đạo sĩ chỉ sống bằng rau quả tươi sống.

5.   Ayamuṭṭhika là vị đạo sĩ đi ta bà chỗ này đến chỗ khác, mang

theo dụng cụ bằng đá hoặc kim loại để bóc vỏ cây làm vật thực
khi nào thấy đói, và cũng thọ trì các giới cấm, tu thiền Tứ-vô-
lượng-tâm.

6.   Dantahuyyaka là vị đạo sĩ đi ta bà chỗ này chỗ kia, dùng răng

để bóc vỏ cây khi nào thấy đói và cũng thọ trì các giới cấm, tu thiền Tứ vô lượng tâm.

7.   Pavattaphalika là vị đạo sĩ sống dựa vào hồ thiên nhiên hoặc

rừng cây, không đi đâu khác, sống lây lất bằng ngó sen và rau củ trong hồ hoặc bằng hoa và trái cây trong rừng hoặc ngay cả vỏ cây, thọ trì các giới cấm và tu thiền Tứ-vô-lượng-tâm.

8.   Vaṇṭamuttika là vị đạo sĩ sống bằng lá rụng tự nhiên, thọ trì các

giới cấm, tu thiền Tứ vô lượng tâm.

Sumedha thuộc loại đạo sĩ thứ tư (theo bảng liệt kê nêu ra trong bộ
Chú giải
Sīlakkhandha), tức là loại đạo sĩ đi khất thực và sống chỉ

bằng vật thực nấu chín. Qua những ngày sau trở đi, vị ấy là vị đạo sĩ
thuộc loại thứ tám, tức là Paṇḍupalāsika, người sống chỉ bằng lá, hoa
và trái cây rụng tự nhiên. Theo bảng liệt kê nêu ra trong Chú giải của
bộ
Sutta Nipata, vị ấy thuộc loại thứ tám - Vaṇṭamuttika, là đạo sĩ chỉ
sống bằng lá rụng tự nhiên, thọ trì các giới cấm và tu thiền Tứ-vô-
lượng-tâm.

Ba hạng người được gọi là bậc xuất  gia (theo Myanmar)

Chữ “Pabbajjā” đã được các vị A-xà-lê xưa dịch ra “ra đi làm vị Sa-môn” tức là “từ bỏ cuộc đời thế tục”, có ba hạng xuất gia:

1.  Isi-pabbajjā: Từ bỏ cuộc đời thế tục và trở thành một vị ẩn sĩ.

2.  Sāmana-pabbajjā: Từ bỏ cuộc đời thế tục và trở thành một vị
     
Sa-môn (samaṇa).

3.  Sāmaṇera-pabbajjā: Từ bỏ cuộc đời thế tục và trở thành một vị
    
Sa-di.

Do đó, có ba hạng người đáng kính trọng và được gọi là bậc xuất gia: ẩn sĩ (isi), Sa-môn (samana) và Sa-di (sāmaṇera).

Tám điều bất lợi của thảo am (chòi lá)

1.    Thảo am đòi hỏi người trú ngụ phải ra sức kiếm cây và những

vật liệu khác để xây dựng nó.

2.    Người trú ngụ phải thường xuyên chăm sóc, bảo trì và tu sửa

khi mái lá và vách bị mục nát, xiêu vẹo.

3.    Người trú ngụ phải dành chỗ thích hợp cho các vị lớn hơn khi

họ viếng thăm bất cứ lúc nào, nên vị ấy không nhập định được.

4.    Vì được che mưa che nắng nên người trú ngụ trở nên yếu ớt.

5.    Nhờ có mái che và vách ngăn củng cố địa vị của người chủ. Nó

giúp người trú ngụ có chỗ kín đáo để làm điều ác, đáng chê trách.
6. Nó làm cho người trú ngụ có tâm bám chấp rằng: “Đây là chỗ
     ngụ của ta.”

7.    Quen sống thoải mái trong đó khiến người trú ngụ có vẻ như

đang sống cuộc đời gia chủ chung với gia đình.

8.    Người trú ngụ phải đối diện với những sinh vật gây phiền phức

như rệp, thằn lằn, v.v...

Đây là những điều bất lợi của thảo am mà đạo sĩ Sumedha đã quán thấy và khiến vị ấy từ bỏ thảo am.

Mười lợi ích của cội cây

1.    Cội cây không bắt buộc người trú ngụ phải kiếm về vật liệu xây

dựng, đã có sẵn chỗ do thiên nhiên cung cấp.

2.    Nó không đòi hỏi người trú ngụ phải thường xuyên chăm sóc và

bảo trì.

3.    Nó không đòi hỏi người trú ngụ phảỉ dành chỗ cho những đạo sĩ

trưởng lão viếng thăm.

4.    Nó chẳng đem lại địa vị trưởng chủ cũng không cho người trú

ngụ chỗ kín đáo để làm điều tội lỗi.

5.    Người trú ngụ ở đó không bị tê cứng chân tay vì không gian

rộng rải.

6.    Người trú ngụ không sở hữu cội cây ấy làm của riêng.

7.    Người trú ngụ có thể từ bỏ cội cây không chút cảm nghĩ bám

víu như “Đây là chỗ ngụ của ta”.

8.    Người trú ngụ không phải yêu cầu kẻ khác đi ra khỏi chỗ ngụ để

quét dọn.

9.    Nó là chỗ ở thoải mái.

10. Vì người trú ngụ dễ dàng tìm thấy những chỗ ngụ giống như
    
vậy, bất cứ chỗ nào người ấy đi đến, nên không bám chấp nó như

“Chỗ ngụ của ta.”

 

 

PHỤ CHÚ GIẢI CHƯƠNG 5 THỌ KÝ

 

Trong bộ kinh Buddhavaṃsa có đoạn nói về sự suy xét của đạo sĩ Sumedha như sau:

Kim me ekena tiṇṇena: có nghĩa là: “Có lợi ích gì cho việc giải thoát luân hồi cho riêng ta”.

Khi trích dẫn câu này, người ta nói pha chút khinh khi rằng:

“Trong thế gian này, người ta không nên vị kỷ. Người vị kỷ là người chỉ tìm lợi ích cho riêng mình. Người chỉ tìm lợi ích cho riêng mình là người vô dụng.”

Nhưng nếu đọc tiếp câu ấy, họ sẽ thấy:
Purisena thamadassina - ám chỉ rằng:

“Trong khi ta là bậc Thượng nhân biết rõ sức mạnh về trí tuệ, niềm tin và sự tinh tấn của ta.”

Câu này bổ nghĩa cho câu trước. Tất cả điều này cho thấy rằng chỉ
những ai có khả năng mà vẫn vì mình, không sống vì kẻ khác thì đáng
bị chê trách. Và những ai không có khả năng như vậy mà nói rằng:
“Tôi sẽ sống cho kẻ khác” thì không thành thật với lời nói của mình,
đáng bị xem thường vì họ không biết khả năng có giới hạn của mình.

Thực tế, những ai không có khả năng lo cho kẻ khác thì nên chăm lo cho lợi ích của chính mình. Điều này đã được Đức Phật dạy trong bộ kinh Pháp cú, chương thứ 20, phẩm Atta vagga.

Attadatthaṃ paratthena bahunā’ pi na hāpaye
attadatthaṃ abhiññāya sadatthapasuto siyā.

Đừng hy sinh lợi ích của chính mình mà sẵn lòng sống nhiều cho kẻ khác

 

Biết rõ khả năng giới hạn của mình thì nên sống vì lợi ích của chính mình.

Câu Pháp cú này hàm ý rằng: “Người không đủ khả năng sống cho
kẻ khác mà nói là mình có khả năng, thì không thể đem lại lợi ích cho
kẻ khác, cũng không thể làm lợi ích cho chính mình; như vậy người ấy
đánh mất cả hai. Do đó, người không đủ khả năng sống cho kẻ khác,
thì nên tìm lợi ích cho chính mình và chỉ sống cho chính mình. Người
biết đích xác khả năng giới hạn của mình và chỉ sống cho chính mình
(không đáng bị chê trách là người vị kỷ) mà được xem là người tốt,
biết làm điều gì trong giới hạn khả năng của chính mình. Ngược lại,
người có đặc tánh như Sumedha là phục vụ kẻ khác, lại chỉ lo cho
riêng mình, không quan tâm đến lợi ích của kẻ khác thì quả thực đáng
bị kết án là con người hoàn toàn vị kỷ.

Trái lại, chúng ta nên giúp đỡ kẻ khác nếu có khả năng. Nếu không
được, thì nên lo cho chính mình để không bị mất lợi ích của mình.
Người tìm lợi ích cho mình nhưng làm ra vẻ quan tâm đến lợi ích của
kẻ khác thì đích thực là con người ác, xảo quyệt và bất lương.

Ni-liên-thiền (Nerañjarā)

Nerañjarā là tên một con sông do chữ Nelajala mà ra. Nelanghĩa là “không khuyết điểm” và “jala là “nước”. Nerañjarā có nghĩa là “Con sông có nước thuần trong”.

Một từ gốc khác là Nīlajala: nīla là ‘màu xanh’ và jala là ‘nước’. ‘Nước xanh’ tức là ‘nước trong’. ‘Con sông có nước trong xanh’.

Vẫn còn một từ gốc khác là ‘nari jarā’ là một loại nhạc cụ tạo ra âm thanh như nước chảy.

Những điều chú thích trong phần Thọ ký

Qua đề tài này, tác giả không những bàn về sự thọ ký (tiên tri) mà
còn bàn về các từ ngữ hoặc các nhóm từ. Chữ ‘Thọ ký’ thường được
xem là xuất phát từ tiếng Pāḷi -
byādita. Nhưng trong tiếng Pāli lại

 

 

không có chữ byādita như vậy. Theo tác giả, có lẽ các học giả xưa đã nhại ra từ ngữ byākarana hoặc byākata.

Về nhóm chữ “Bước ra ngoài bằng bàn chân phải của Ngài và tôn vinh vị ấy bằng tám nắm hoa”, tác giả giải thích như sau:

“Bước ra ngoài bằng bàn chân phải của Ngài được dịch ra từ nhóm chữ Pāḷi - dakkhinaṃ pādaṃ uddhari - Đức Phật Nhiên Đăng không chỉ bắt đầu bước bằng bàn chân phải của Ngài mà bên phải Ngài nghiêng về Sumedha. Cách từ giã như vậy là tục lệ rất cổ xưa của Ấn Độ để tỏ sự kính trọng sâu sắc trước một người đáng kính.

“Tôn  kính  vị  ấy  bằng  tám  nắm  hoa.”  Câu  Pāḷi  là:  Aṭṭhahi
pupphamuṭṭhīhi   pūjetvā   trong   Chú   giải   Jataka   và   Chú   giải
Buddhavaṁsa. Qua câu này, một cuộc tranh luận khởi lên là phải
chăng một vị Phật sống nên sự tôn kính đến một vị Bồ-tát sẽ thành
Phật sau nhiều đại kiếp. Có người lý luận rằng Đức Phật Nhiên Đăng
không phải tỏ sự tôn kính đến con ngườì của đạo sĩ Sumedha, mà sự
tôn kính đến Nhất Thiết trí sẽ được chứng đắc bởi Sumedha. Lý luận
này không thể chấp nhận được, không thích hợp đối với  một Bậc
đang sở hữu Nhất thiết trí lại tôn kính đến Nhất thiết trí mà vị Bồ-tát
chưa chứng đắc.

Toàn bộ vấn đề tranh cãi nằm ở phần diễn dịch của chữ pūjetvā liên quan đến chữ pūjā: Chú giải bộ Khuddakapātha giải thích rằng pūjā có nghĩa là sakkāra (đối xử tốt), mānana (giữ sự kính trọng), và vandāma (sự tôn kính, sự kính lễ). Tác giả đưa ra quan điểm của mình rằng qua việc tôn kính đạo sĩ Sumedha bằng tám nắm hoa, Đức Phật không cúi đầu kính lễ (vandanā), Ngài chỉ đối xử tốt (sakkāra) và tỏ thái độ tôn trọng (mānana) vị ấy mà thôi.

Bộ kinh nói về sự thọ ký xảy ra vào ngày mà sao Visākhā liên hợp
với trăng tròn. Đó là ngày rằm ngày tháng Kason (tháng 4 theo lịch
của Myanma). Ngày này được xem là ngày tốt lành, ngày rằm tháng
đầu năm mới.

 

 

Tất cả chư vị Bồ-tát đều được thọ ký vào ngày rằm tháng tư. Thế nên khi Sumedha được thọ ký trong ngày may mắn ấy thì chư thiên và Phạm thiên đều hoàn toàn tin tưởng để công bố rằng Sumedha chắc chắn sẽ thành Phật.

Tác giả cũng đề cập thêm rằng ngày rằm tháng tư không chỉ là ngày thọ ký mà còn là ngày chư Bồ-tát thọ sanh kiếp cuối cùng trong nhân loại, và cũng là ngày các Ngài thành Phật và nhập Niết bàn.

 

 



 

PHỤ CHÚ GIẢI CHƯƠNG 6 CÁC PHÁP BA-LA-MẬT (PĀRAMĪ)

 

 

A.      BỐ THÍ BA-LA-MẬT (DĀNA  PĀRAMĪ)

Nói về pháp Bố thí Ba-la-mật, trong kinh tạng Pāḷi liên quan đến
lịch sử chư Phật có đề cập rõ ràng là Bồ-tát Sumedha đã tự khuyên
mình nên bắt đầu với sự thực hành pháp Bố thí Ba-la-mật, bởi vì chư
Bồ-tát quá khứ đã từng làm như vậy. Do đó điều dễ thấy là trong mười
pháp Ba-la-mật, Bố thí là pháp cần phải thực hành trước nhất.

Nhưng  trong  phẩm  Sagāthā  của  Tương  ưng  bộ  (Saṁyutta
Nikāya), chúng ta tìm thấy câu kệ “
Sīle patiṭṭhāya naro sapañño...”
Trong đó, Đức Phật giải thích rằng, khi một người có trí tuệ chín muồi
thuộc hạng tam nhân (
tihetu-patisandhika - là người khi tục sanh có ba
nhân: vô tham, vô sân, vô si đi kèm ), khéo an trú trong giới, nhiệt tâm
tu định và tuệ quán, người ấy có thể thoát khỏi mạng lưới ái dục chằng
chịt. Ở đây, Đức Phật chỉ đề cập ba pháp tu: Giới (
Sīla), Định
(Samādhi), Tuệ (Paññā). Không một chút gợi ý về sự thực hành pháp
Bố thí.

Hơn nữa Chú giải bộ Thanh Tịnh Đạo (Visudhimagga) trong
phần giải thích về câu kệ trên cũng không nói đến vấn đề bố thí, và vì
Bát chánh đạo dẫn đến Niết bàn chỉ bao gồm con đường liên quan đến
Giới, Định và Tuệ mà không có con đường đạo nào trong đó bao gồm

sự bố thí. Vì thế, một số người hiểu lầm rằng Bố thí không được Đức
Phật xem là trọng yếu, rằng nó không dẫn đến sự chứng đắc Niết bàn,
nó chỉ làm cho luân hồi nhiều hơn và vì vậy bố thí không đáng được
tu tập.

Liên quan đến câu kệ trên, người ta nên hiểu đúng ý nghĩa như
sau: Bài pháp này do Đức Phật thuyết vì lợi ích của những người
thượng sanh có khả năng đoạn tận phiền não, chứng đắc A-la-hán
trong kiếp hiện tại, không còn tái sanh luân hồi. Nếu những người
thượng sanh như vậy, thực sự phấn đấu để chứng đắc đạo quả A-la-
hán ngay trong kiếp hiện tại này; và do kết quả nỗ lực phấn đấu, nếu
họ trở thành vị A-la-hán thì sự chuẩn bị tư lương cho kiếp sống mới

đối với họ không cần thiết. Với người bẻ gãy bánh xe sanh tử trong
chính kiếp sống này, tức là họ sẽ không còn tái sanh nữa. Vì không
còn kiếp sống mới để gặt hái quả phước của sự bố thí nên việc bố thí
đối với vị ấy là không cần thiết. Đó là lý do Đức Phật thuyết bài pháp
này trong Tương ưng bộ. Ngài thuyết vì lợi ích của những người
thượng sanh, chủ yếu nói về Giới, Định và Tuệ - quan trọng hơn pháp
Bố thí vì ba pháp tu này trực tiếp đoạn tận phiền não. Đức Phật chẳng

bao giờ nói không nên thực hành pháp Bố thí.

Bố thí có đặc tánh làm cho tâm ý trở nên nhu nhuyến, dễ thích
ứng với thiện pháp. Khi người ta đã bố thí một cái gì đó thì chính hành
động bố thí ấy sẽ là Cận y duyên (
Upanissaya paccaya), là sự hỗ trợ
quyết định làm cho tâm mềm mại hơn và sẵn sàng đi vào sự thực hành
Giới, Đinh, Tuệ trong pháp thiền Minh sát. Theo kinh nghiệm, người
Phật tử khi đến chùa hoặc bảo tháp mà không cúng dường gì thường
cảm thấy vụng về và lúng túng, không có tâm sẵn sàng nhanh nhẹn để
thọ giới, nghe pháp hoặc hành thiền. Do đó các vị thánh đệ tử như tín
nữ Visākhā có thông lệ mang theo lễ vật cúng dường như cơm, đồ

ngọt hoặc trái cây để dâng cúng vào buổi sáng, hoặc các thứ nước uống và các chế phẩm dược để dâng cúng vào buổi chiều, bất cứ khi nào bà đến viếng Đức Phật.

Những ai chưa trở thành vị A-la-hán trong kiếp sống này đều
phải trải qua nhiều kiếp luân hồi. Cho nên nếu không thực hành pháp
Bố thí trong kiếp hiện tại này thì sẽ rất khó khăn cho họ, để có được
những điều kiện tốt đẹp trong kiếp sống mới. Dù họ có được sự tái
sanh tốt, họ sẽ thấy mình thiếu thốn về của cải do không có chúng họ
không thể làm những việc phước. (Trong trường hợp ấy, người ta có
thể lý luận rằng họ có thể chuyên tâm vào việc thực hành Giới, Định,
Tuệ. Nhưng nói dễ hơn làm. Quả thật, chỉ có sự hỗ trợ từ quả của
những hành động bố thí trong kiếp quá khứ thì việc tu tập Giới, Định,
Tuệ mới có thể thành công được). Do đó, điều quan trọng nhất cho
những người còn phải đi tiếp chuyến hành trình dài trong luân hồi là
trau dồi pháp Bố thí. Chỉ khi nào người ta đã chuẩn bị sẵn tư lương
cho chuyến hành trình dài, tức pháp Bố thí, người ấy mới có thể đạt
đến kiếp sống tốt đẹp. Và ở kiếp sống đó, nhờ có tài sản, của cải là
quả của sự bố thí trong những kiếp quá khứ, người ấy mới có thể
chuyên tâm thực hành bất cứ loại phước nào theo ý muốn.

Trong số những lữ hành trong vòng luân hồi, chư Bồ-tát là những nhân vật vĩ đại nhất.

Sau khi được thọ ký thành Phật, vị Bồ-tát tiếp tục thực hành các
pháp Ba-la-mật để chứng đắc Nhất thiết trí trải qua bốn A-tăng-kỳ và
một trăm ngàn đại kiếp. Vị Độc giác Phật thì hai A-tăng-kỳ và một
trăm ngàn đại kiếp. Do đó, đối với vị Bồ-tát, bậc đại lữ hành của vòng
luân hồi, thì pháp Bố thí Ba-la-mật có tầm quan trọng hàng đầu.

Như vậy bài kinh trong Tương ưng bộ được  Đức Phật thuyết dành cho những kẻ đã đủ nhân duyên để chứng đắc đạo quả A-la-hán. Những ai chưa thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật thì không nên cho rằng bố thí là không quan trọng.

Có một số người thắc mắc rằng liệu có thể chứng đắc Niết bàn
không nếu chỉ thực hành pháp Bố thí. Xin thưa rằng, chỉ thực hành
một pháp Ba-la-mật thôi thì dầu bố thí hoặc trì giới, hoặc tu thiền cũng
sẽ không đem lại kết quả chứng đắc Niết bàn được. Thực hành riêng
pháp Bố thí, nghĩa là không có sự trì giới hoặc tu thiền đi kèm.

Tương tự, thực hành riêng pháp tu thiền nghĩa là không có sự hỗ
trợ của Giới và Bố thí. Nếu không có pháp thu thúc bằng Giới, người
ta dễ rơi vào những việc ác. Nếu một người có những thói xấu lại
không ngăn trừ mà cố gắng hành thiền thì cố gắng của người ấy sẽ trở
nên vô ích, giống như hạt giống tốt được gieo trên thanh sắt nóng đỏ,
không thể nào nẩy mầm mà chỉ thành tro than. Như vậy, nên lưu ý
rằng không thích hợp để nói:  “chỉ thực hành pháp Bố thí.”

Nhưng trong bài kinh Dakkhināvibhaṅga của Majjhima Nikāya
(Trung bộ kinh), Đức Phật dạy về bảy loại vật thí dâng cúng chư Tăng
và mười bốn loại vật thí bố thí đến từng nhân vật. Về mười bốn loại
vật thí bố thí đến từng các nhân, nội dung chỉ phước Tăng dần theo
thứ bậc của người thọ thí, bắt đầu từ súc vật đến chúng sanh cao quý
nhất. Dĩ nhiên vật thí có phước báu lớn nhất là được dâng đến chư
Tăng.

Lại nữa, trong câu chuyện Aṅkura Peta của bộ Ngạ quỷ sự (Peta
Vatthu
), chúng ta thấy câu chuyện về hai vị thiên. Khi Đức Phật đang
ngồi trên chiếc ngai vàng của Đế Thích ở cõi trời 33 (Tam thập Tam
thiên) thuyết giảng Abhidhamma, thì hai vị thiên Indaka và Ankura
đến nghe pháp. Bất cứ khi nào có chư thiên nhiều oai lực đến thì
Ankura phải nhường chỗ cho họ và lùi ra xa đến độ vị ấy cách Đức
Phật đến mười do tuần; còn Indaka thì ngồi yên chỗ cũ, vị ấy không
phải di chuyển. Lý do như sau: Vào thời kỳ thọ mạng của loài người
là mười ngàn tuổi, Ankura là một đại phú gia. Suốt kiếp sống ấy,
Ankura bố thí vật thực đến rất nhiều người dân thường, sai nấu vật
thực trên những cái lò trải dài mười hai do tuần. Do kết quả của việc
phước ấy, Ankura được sanh làm chư thiên. Còn Indaka được sanh

làm chư thiên chỉ nhờ cúng dường một vá cơm đến vị A-la-hán Anuruddha.

Tuy vật cúng dường của Indaka là một vá cơm, nhưng người thọ
nhận là một vị A-la-hán, nên quả phước đem lại cho Indaka rất lớn và
cao quý. Là một vị thiên có oai lực ngang hàng với những vị khác,
Indaka không phải nhường chỗ cho họ. Ngược lại, dù Ankura bố thí
vật thực rất dồi dào trong thời gian rất dài, nhưng kẻ thọ lãnh chỉ là
những người phàm phu và kết quả là phước phát sanh không đem lại
địa vị cao, và vị ấy phải nhường chỗ mỗi khi có một vị thiên nhiều oai
lực đến. Do đó, chúng ta tìm thấy lời khuyên trong Kinh tạng như sau:

Viceyya dānaṃ databbaṃ yathā dinnaṃ mahapphalaṃ,” nghĩa là
“Khi thực hiện việc bố thí cúng dường, phải chọn người thọ lãnh có
khả năng đem lại cho mình quả phước lớn nhất.”

Xem ra có sự mâu thuẫn giữa bộ kinh Pāḷi về Phật sử và những
bài kinh Pāḷi khác như Dakkhinā Vibhaṅga v.v... Sự mâu thuẫn dường
như sẽ dễ dàng giải quyết nếu người ta nhớ lại bài kinh như kinh
Dakkhinā Vibhaṅga dành cho những người bình thường và chư thiên.
Những lời bàn trong bộ Phật sử chỉ hướng đến chư Bồ-tát mà mục tiêu
của các Ngài là chứng đắc Nhất Thiết Trí hay Trí tuệ của một vị Phật.
Trí tuệ này duy nhất có một loại, không có cao, thấp hay trung bình.
Vị Bồ-tát phải bố thí bất cứ cái gì Ngài có,  đến bất cứ ai đến thọ lãnh
chúng, không phân biệt địa vị của họ là cao, thấp hay trung bình. Vị
ấy không phải suy xét rằng: “Người thọ lãnh này thuộc hạng thấp -
nếu ta bố thí đến người này thì về sau ta chỉ chứng đắc được Nhất
Thiết Trí bậc thấp. Người này thuộc hạng trung, nếu bố thí đến họ, về
sau ta chỉ chứng được Nhất Thiết Trí bậc trung.” Do vậy, bố thí bất cứ
cái gì có được, đến bất cứ ai thọ lãnh mà không phân biệt, là truyền
thống thực hành của chư vị Bồ-tát thí có nguyện vọng thành đạt Nhất
Thiết Trí.

Ngược lại, mục đích của những kẻ phàm phu,  nhân loại hoặc
chư thiên, khi thực hành bố thí là đạt được những lợi ích như ý thuộc

 

về thế gian. Vì vậy, lẽ đương nhiên là họ sẽ chọn lựa đối tượng thọ lãnh tốt nhất để nhận vật thí của họ.

Tóm lại, có thể kết luận rằng không có mâu thuẫn giữa những bài
kinh trong bộ Phật sử dành cho những vị Bồ-tát và những bài kinh như
kinh Dakkhinā Vibhaṅga dành cho những người bình thường và chư
thiên.

Ý nghĩa Pāramī

Những ý nghĩa có thể chấp nhận về chữ pāramī đã được giải thích nhiều cách trong chú giải của bộ Hạnh Tạng (Cariyā-pitaka).

Pāramī được kết hợp bởi ‘parama’ và ‘ī’. Parama:      ‘tối thắng’,
được dùng ở đây trong ý nghĩa về các vị Bồ-tát, là những bậc Tối
thắng.

Hoặc pāramī có ngữ căn ‘para’ với tiếp vĩ ngữ ‘ma’. Ngữ căn para có nghĩa là ‘thực hành viên mãn’ hoặc ‘hộ trì’. Bởi vì các Ngài thực hành viên mãn và hộ trì những pháp như bố thí (dāna),  v.v... nên các vị Bồ-tát được gọi là parama.

Hoặc tiếp đầu ngữ para được gắn liền với ngữ căn mava ‘thắt chặt’. Bởi vì các Bồ-tát cư xử tựa như các Ngài kết thân tình cảm và thu hút mọi người đến với các Ngài bằng những pháp Ba-la-mật nên các Ngài được gọi là parama.

Hoặc tiếp đầu ngữ paraṁ kết hợp với ngữ căn maja ‘trong sạch’,
paraṁ có nghĩa là ‘hơn’. Vì chư Bồ-tát thoát khỏi trạng thái ô nhiễm
và trong sạch hơn những người khác, nên các Ngài được gọi là
parama.

Hoặc tiếp đầu ngữ paraṁ kết hợp với ngữ căn maya ‘đi’, paraṃsiêu việt’. Vì chư Bồ-tát đi đến trạng thái cao siêu của Niết bàn một cách đặc biệt nên các Ngài được gọi là parama.

Hoặc tiếp đầu ngữ paraṃ kết hợp với ngữ căn mu ‘quyết định’. Bởi
vì chư Bồ-tát quyết định kiếp sống kế tiếp của các Ngài, như các Ngài

quyết định trong kiếp hiện tại, nên các Ngài được gọi là parama.nghĩa là vì các vị Bồ-tát có thể quyết định chính xác làm điều gì để kiếp hiện tại được vui sướng và không khuyết điểm, nên các Ngài cũng có thể làm như vậy trong kiếp sống kế tiếp. Nghĩa là các Ngài có khả năng cải thiện các kiếp sống của mình).

Hoặc tiếp đầu ngữ paraṃ kết hợp với ngữ căn mi nghĩa là ‘gieo
vào’; paraṃ nghĩa là ‘hơn’. Vì chư Bồ-tát ‘gieo vào’ càng lúc càng
nhiều đức hạnh như giới v.v…trong lộ trình tâm, nên các Ngài được
gọi là parama.

Hoặc tiếp đầu ngữ paraṃ nghĩa là ‘khác với’ hay ‘đối nghịch với’ với ngữ căn ‘’ có nghĩa là ‘nghiền nát’. Bởi vì chư Bồ-tát nghiền nát tất cả mọi kẻ thù là những pháp ô nhiễm, khác với hoặc đối nghịch với tất cả những thiện pháp, nên các Ngài được gọi là parama.

Hoặc danh từ pāra kết hợp với ngữ căn maja ‘làm trong sạch’, pāra
nghĩa là ‘bờ bên kia’. Ở đây vòng luân hồi được xem là ‘bờ bên này’ và
Niết bàn là ‘bờ bên kia’. Bởi vì chư Bồ-tát làm thanh tịnh chính mình
và kẻ khác ở bờ bên kia Niết bàn nên các Ngài được gọi là paramī.

Hoặc danh từ pāra kết hợp với ngữ căn mava ‘buộc chặt’ hoặc ‘đặt chung với nhau’. Vì chư Bồ-tát đi đến bờ bên kia Niết bàn nên các Ngài được gọi là pāramī.

Hoặc ngữ căn là maya, nghĩa là ‘đi’. Vì chư Bồ-tát đi đến bờ bên kia Niết bàn nên các Ngài được gọi là parami.

Hoặc ngữ căn là ‘mu’, nghĩa là ‘hiểu biết’. Vì chư Bồ-tát hiểu biết như thật bờ bên kia Niết bàn nên các Ngài được gọi là parami.

Hoặc ngữ căn ‘mi’, nghĩa là “đặt vào”. Vì chư Bồ-tát đặt chúng
sanh vào và đưa họ đến bờ bên kia Niết bàn nên các Ngài được gọi là
parami.

Hoặc ngữ căn là ‘mi’, nghĩa là ‘nghiền nát’. Bởi vì chư Bồ-tát nghiền nát và đoạn tận tất cả ô nhiễm ở Niết bàn, chúng là kẻ thù của chúng sanh nên các Ngài được gọi là pāramī.

 

(Những ý nghĩa trên được trình bày đúng với từ nguyên học -
sabhavanirutti)

Paramānaṃ ayaṃ pāramī: Pāramī nghĩa là tài sản dưới dạng
những pháp hành của chư Bồ-tát; hoặc paramānaṁ kammaṁ pāramī;
pāramī có nghĩa là những phận sự của chư Bồ-tát. Paramissa bhāvo
pāramitā paramissa kammaṁ pāramitā: những phận sự đem lại trí tuệ
nên được gọi là Bồ-tát.

Ý nghĩa trên được đúc kết như sau: một loạt phận sự như bố thí và những phận sự khác được chư Bồ-tát thực hành viên mãn thì được gọi pāramī (hay pāramitā).

Trong Phụ chú giải của bộ Jinalaṅkāra có nói rằng: “Pārāṁ nibbānaṁ ayan ti gacchanti etāhi ti pāramiyo nibbānasādhakā hi dānacetanādayo dhammā pāramī ti vuccanti,” nghĩa là “Dānacetanā hay tác ý bố thí v.v... hình thành con đường dẫn đến Niết bàn, bờ bên kia của luân hồi nên được gọi là pāramī.”

Trong   chú   giải   Hạnh   tạng   (Cariyāpitaka)   cũng   nói   rằng:

taṇhāmānadiṭṭhīhi       anupahatā       karun’ūpāyakosalla-pariggahita

dānādayo gunā pāramiyo.

Pāramī được tạo thành bởi những pháp như bố thí v.v... có thể thấy được qua sự thể hiện của từ bi và trí tuệ. Lòng bi mẫn được thể hiện nơi những chúng sanh không bị nhiễm trước ái dục, ngã mạn và tà kiến. Trí tuệ là trí tầm cầu con đường và phương tiện được hướng đạo bởi lòng bi mẫn và trí tuệ nên được gọi là pāramī.

Upāya-kosalla-ñāṇa (Phương tiện thiện xảo trí): Đây là trí tuệ thiện xảo trong lúc làm các việc phước như bố thí, v.v… để chúng trở thành phương tiện cơ bản và trợ duyên cho việc chứng đắc Nhất thiết trí. Một người thuộc gia đình thuần thành, có nguyện vọng thành Phật nên chuyên tâm vào các việc phước như bố thí, trì giới, v.v… với mục tiêu duy nhất là chứng đắc Nhất thiết trí. Trí tuệ giúp người ấy hướng đến hoặc ao ước thành đạt Nhất thiết trí là Quả duy nhất của những việc phước thì được gọi là Phương tiện thiện xảo trí.

 

 

Mười pháp Ba-la-mật

Mười pháp Ba-la-mật là:

1.  Dāna - Bố thí

2.  Sīla - Trì giới

3.  Nekkhamma - Xuất gia

4.  Pañña - Trí tuệ

5.  Vīriya - Tinh tấn

6.  Khanti - Nhẫn nại hay Kham nhẫn

7.  Sacca - Chân thật

8.  Adhitthāna - Quyết định

9.  Mettā - Từ ái

10. Upekkhā - Hành xả

(Ý nghĩa đầy đủ của mười Ba-la-mật sẽ được giải thích rõ ràng trong những đoạn sau đây).

Về 10 pháp Ba-la-mật, trong chương nói về ‘Sự xuất hiện hy hữu
của một vị Phật’ có đề cập rằng có bốn cách tu tập tâm. Một trong bốn
pháp tu này bàn về sự kiện từ lúc chư Bồ-tát được thọ ký thành Phật
cho đến kiếp cuối cùng, là kiếp các Ngài thành Vô thượng Chánh đẳng
giác. Không có thời kỳ nào trong khoảng thời gian rất dài này mà các
Ngài không thực hành mười pháp Ba-la-mật, các Ngài không bỏ qua
việc thực hành Bố thí Ba-la-mật. Điều ấy khiến chúng ta phải thành
tâm, tỉnh trí để suy xét về những pháp hành cao quý mà chư Bồ-tát
hằng theo đuổi.

Đặc Tính, Chức Năng, Sự Hiện Khởi Và Nguyên Nhân Gần
                         Của Các Pháp Ba-La-Mật

Người thực hành pháp thiền Minh sát phải biết bản chất của Danh
và Sắc qua đặc điểm, phận sự, sự hiện khởi và nguyên nhân gần của

 

chúng. Tương tự, muốn hiểu rõ các pháp Ba-la-mật người ta cần phải tìm hiểu đúng qua bốn cách định nghĩa trên. Ở bộ Chú giải Hạnh Tạng có một chương riêng nói về đặc điểm, phận sự, sự hiện khởi và nguyên nhân gần của các pháp Ba-la-mật.

Điểm chung đối với tất cả 10 pháp Ba-la-mật là chúng có đặc điểm phục vụ cho lợi ích của những kẻ khác. Phận sự của chúng là:

a. Kiccarasa - Phục vụ kẻ khác.

b. Sampattirasa - có sự kiên định, sự viên thành. Sự hiện khởi của chúng là:

a. Khiến tâm của vị Bồ-tát luôn tầm cầu lợi ích và hạnh phúc cho chúng sanh hay

b. Sự hiện khởi xuất hiện trong tâm của vị Bồ-tát rằng nó là phương tiện hữu ích để vị Bồ-tát tiến gần với quả vị Phật.

Nguyên nhân gần của chúng là:

a. Tâm đại bi, hay

b. Tâm đại bi và sự thiện xảo về phương tiện.
Đặc tánh (
Lakkhana) có hai phương diện:

1. Samannasabhāva: đặc tánh chung là đặc tánh có thể áp dụng cho những pháp khác.

2. Visesasabhāva: đặc tánh riêng không áp dụng được cho những
pháp khác. Ví dụ: Địa đại trong bốn đại có hai đặc tánh là vô

thường và cứng.

Tánh vô thường có thể áp dụng cho cả ba đại còn lại, nhưng tánh
cứng là đặc tánh riêng của địa đại mà thôi. Ba đại còn lại không có

đặc tánh ấy.

Phận sự  (Rasa) cũng có hai phương diện:

1. Kiccarasa: phận sự phải được thực hiện.

2. Sampattirasa: phận sự thành tựu.

Ví dụ: Phước sanh khởi sau khi nó làm vô hiệu hóa hoặc tẩy sạch
tội. Như vậy khi người ta nói rằng “Phận sự của phước là vô hiệu hóa
tội. Sự thành tựu rốt ráo của hành động phước là sản sanh những kết
quả lợi ích. Như vậy phận sự của phước là thành đạt những quả lợi
ích.

Bất cứ khi nào người ta nghiền ngẫm về những cảnh pháp, trong
tâm của người ấy thường liên hệ đến tính chất của cảnh pháp cần suy
xét, liên hệ đến phận sự của nó, kết quả của nó. Những sự hiện khởi
mà xuất hiện như vậy trong tâm của người liên quan đến cảnh pháp
mà họ suy nghĩ đến, được gọi là sự hiện khởi của cảnh pháp. Ví dụ:

khi một người bắt đầu suy xét “Phước là gì?” thì nó sẽ xuất hiện trong
tâm của người ấy. Về đặc tánh: “Phước có đặc tánh trong sạch.” Về
phận sự: “Phước có phận sự tẩy sạch tội hay vô hiệu hóa tội.” Về
nguyên nhân: “Phước có thể khởi sanh chỉ khi nào người ta thân cận
với bạn tốt, có giới đức.” Về kết quả: “Phước có thể làm khởi sanh
những kết quả đáng ưa thích.”

Yếu tố trợ duyên trực tiếp và mạnh mẽ nhất cho sự khởi sanh của phước là nguyên nhân gần hay túc xứ. Ví dụ: Trong các yếu tố làm khởi sanh phước thì tác ý khéo léo hay thái độ đúng đắn, là yếu tố trợ duyên trực tiếp và mạnh mẽ nhất để phước khởi sanh; vì vậy nó được gọi là nguyên nhân gần hay túc xứ.

Một số nét đáng chú ý liên quan đến Dāna

Điều thiết yếu nhất liên quan đến chữ Dānapāramī (Bố thí Ba-la-
mật) là bất cứ cái gì được cho đi hay bất cứ hành động cho nào, đều được gọi là Dāna. Có hai loại bố thí.

1. Puññavisayadāna - Phước cảnh bố thí là bố thí như là một việc
    
phước

2. Lokavisayadāna - Thế gian cảnh thí là bố thí theo kiểu thế gian.

 

Bố thí với niềm tin trong sạch là những hành động phước và chỉ những sự bố thí như vậy mới tạo thành Bố thí Ba-la-mật.

Những vật thí được cho vì thương, giận, sợ hãi, hoặc ngu si...và ngay cả đưa ra hình phạt, đưa ra án tử là sự trao cho theo cách thế gian. Chúng không tạo thành Bố thí Ba-la-mật.

Dāna (Bố thí) & Pariccāga (Dứt bỏ hay Xả ly)

Liên quan đến việc bố thí, sẽ rất hữu ích nếu biết được điểm khác
nhau và điểm giống nhau giữa Bố thí (Dāna) và Dứt bỏ (Pariccāga).

Trong bổn sanh Mahāhaṃsa của bộ Asītinipāta có nêu ra mười phận sự của một vị vua, đó là bố thí, trì giới, dứt bỏ, chánh trực, hoà nhã, tự chế, vô sân, độ lượng, nhẫn nại và không độc tài. Trong đó chúng ta thấy rằng bố thí và dứt bỏ được liệt kê riêng.

Theo Chú giải bộ Jātaka, có mười vật thí: đồ ăn, thức uống, phương tiện đi lại (gồm có dù che, dép), hoa, bột thơm, dầu thơm, giường, chỗ ngụ và những vật tạo ra ánh sáng. Tác ý xui khiến cho những vật thí này tạo nên sự bố thí. Tác ý kèm theo sự cho đi bất cứ vật nào trong những vật thí này được xem là dứt bỏ. Như vậy sự khác biệt ở đây nằm ở những loại vật thí khác nhau.

Nhưng Phụ chú giải của bộ Jātaka, khi trích dẫn các quan điểm của
nhiều vị thầy đã nói rằng “Cho vật thí với ao ước được hưởng quả
lành trong những kiếp sống tương lai là Bố thí. Phát lương cho người
giúp việc hoặc người phục vụ, v.v… để đổi lấy lợi ích trong đời sống

hiện tại là dứt bỏ.

Câu chuyện chứng minh sự khác biệt giữa bố thí và dứt bỏ được mô
tả trong bộ Chú giải của Hạnh Tạng (Cariyāpitika) và trong bài Chú
giải của Bổn sanh Terasanipata được tóm tắt như sau: Bồ-tát có một
thời là vị Bà-la-môn uyên bác, tên là Akitti. Khi cha mẹ qua đời, vị ấy
được kế thừa nhiều của cải tích lũy. Đầy đạo tâm, vị ấy suy xét như
vầy: “Cha mẹ và tổ tiên của ta đã tích lũy số của cải to lớn như vậy mà
từ bỏ chúng và ra đi. Với ta, ta sẽ tập trung vào của cải này rồi ra đi.”

 

Sau khi được vua cho phép, vị ấy sai đánh trống khắp nơi công bố sẽ có cuộc bố thí vĩ đại suốt bảy ngày. Vị ấy đích thân cho đi tất cả của cải của mình nhưng vẫn còn lại khá nhiều.

Vị ấy thấy rằng không cần đứng ra để điều khiển cuộc bố thí. Thế
nên mở rộng cửa nhà, cửa kho báu và kho ngũ cốc để mọi người đến
lấy bất cứ thứ gì mà họ thích. Vị ấy từ bỏ đời sống thế tục và xuất gia.

Trong câu chuyện trên, sự phân phát của cải do Bồ-tát đích thân
làm trong bảy ngày đầu tiên là hành động bố thí, còn sự từ bỏ số của
cải còn lại là hành động dứt bỏ. Bốn điều kiện cần có để tạo thành sự

bố thí là:

(1)   Người cho.

(2)   Vật cho.

(3)   Người nhận.

(4)   Tác ý cho.

Sự phân phát vật thí của bậc trí tuệ Akitti trong bảy ngày đầu tiên đã hội đủ bốn điều kiện trên. Do đó nó được gọi là bố thí. Sau bảy ngày phân phát, vị ấy bỏ lại của cải để mọi người tự do đến lấy - cách cho như vậy mới được xem là dứt bỏ.

Trong công việc hằng ngày không phải là làm việc phước,  khi chúng ta cho cái gì đến ai đó, chúng ta chỉ nói rằng chúng ta “cho”, tiếng Pāḷi là “deti”. Nhưng khi chúng ta dứt ra một phần của cải của chúng ta với ý nghĩa rằng: “Ai muốn lấy nó thì cứ lấy, không muốn thì cứ để đó”. Đó không phải là sự cho đi mà là sự từ bỏ hay dứt bỏ, tiếng Pāḷi là cāga, không phải dāna.

Tóm lại, khi chúng ta trao quyền sở hữu tài sản của chúng ta cho
một người, nó được xem là cho đi hay hành động bố thí. Khi chúng ta
từ bỏ ước muốn sở hữu tài sản của chúng ta, nó được xem là sự dứt bỏ
hay từ bỏ (Như người ta dẹp bỏ cái gì đó mà không còn hữu dụng
nữa).

 

Một cách phân biệt khác nữa là: trao đến những bậc phạm hạnh là
bố thí; cho đến những người có địa vị thấp hơn là dứt bỏ. Như vậy khi
một vị vua thực hành10 phận sự hay 10 vương pháp, cúng dường vật
thí đến các vị tỳ khưu phạm hạnh, các Bà-la-môn, v.v… việc làm ấy là
bố thí. Khi vị ấy cho vật thí đến những người ăn xin thấp kém, nó
được xem là dứt bỏ.

Dāna và Pariccāga giống nhau điểm nào?

Dầu DānaPariccāga được kể riêng trong mười nhiệm vụ của một vị vua, nhưng theo sự thật rốt ráo thì hai từ này không khác nhau. Khi có dāna thì có thể có pariccāga. Khi có pariccāga thì có thể có dāna. Lý do, khi cho vật gì đến người nhận dầu người ấy ở gần hoặc xa, đó là hành động dāna. Khi ý nghĩa về quyền sở hữu bị loại bỏ trong tâm (vào lúc cho) thì sự từ bỏ này là pariccāga. Như vậy, bất cứ khi nào người ta cho một cái gì thì trước đó luôn có ý nghĩ “Ta sẽ không dùng nó nữa”, ám chỉ sự pariccāga. Do đó, trong các việc phước, pariccāga luôn luôn đi kèm với dāna.

Trong bộ Phật sử cũng vậy, bàn về 10 pháp Ba-la-mật, Đức Phật
chỉ đề cập Bố thí Ba-la-mật, không nói đến dứt bỏ Ba-la-mật, bởi vì
dứt bỏ được bao gồm trong bố thí. Vì bộ Phật sử chỉ bàn về Chân đế

(không xét đến những cách sử dụng Tục đế), việc bố thí đến người
nhận, bất kể địa vị bậc cao, trung bình hoặc thấp đều được xem là Bố
thí Ba-la-mật. Thật không thích hợp, khi nói rằng cúng dường đến bậc
phạm hạnh là bố thí và cho người có địa vị thấp hơn là dứt bỏ.

Tương tự, trong Tăng chi bộ và những bộ kinh Pāli khác, chúng ta tìm thấy sự liệt kê bảy đức tánh của một bậc Thánh như sau: Tín, Giới, Tuệ, Dứt bỏ, Đa văn, Tàm và Quý. Chỉ có, dứt bỏ (cāga) trong bản liệt kê mà không có đề cập đến bố thí ở đây. Vì nó được hiểu ngầm rằng bố thí được bao gồm trong dứt bỏ.

Đây là những ví dụ mà trong đó bố thí và dứt bỏ được đề cập đến mà không có sự phân biệt và với ý nghĩa đồng nhất.

Nơi mà ‘Dāna’ được gọi là ‘Pariccāga’

 

 

Dù hành động bố thí nào cũng có thể được mô tả chung là Bố thí Ba-la-mật, nhưng những sự bố thí vĩ đại (có đặc tính phi thường) được mô tả trong Kinh tạng là những sự Dứt bỏ vĩ đại - Mahāpariccāga. Những sự Dứt bỏ vĩ đại bao gồm năm loại từ bỏ vật sở hữu được liệt kê khác nhau trong các bộ Chú giải.

Các bộ Chú giải của các bộ kinh Sīlakkhandha, Mūlapaṇṇāsa và Aṅguttara (trong phần giải thích về ý nghĩa của chữ Tathāgata) đã liệt kê năm loại dứt bỏ vĩ đại như sau:

1. Dứt bỏ tứ chi.

2. Dứt bỏ mắt.

3. Dứt bỏ của cải.

4. Dứt bỏ vương quốc.

5. Dứt bỏ vợ con.

Chú giải bộ Mūlapaṇṇāsa (Trong bài nói về bài kinh Cūḷasīhanāda Sutta) nêu ra một bản liệt kê khác như sau:

1. Dứt bỏ tứ chi.

2. Dứt bỏ vợ con.

3. Dứt bỏ vương quốc.

4. Dứt bỏ thân mạng.

5. Dứt bỏ mắt.

Phụ chú giải của bộ Visuddhimagga liệt kê như sau:

1. Dứt bỏ thân mạng.

2. Dứt bỏ mắt.

3. Dứt bỏ tài sản.

4. Dứt bỏ vương quốc.

5. Dứt bỏ vợ con.

Phụ chú giải của bộ Mahāvagga thuộc Dīgha Nikaya - Trường bộ
kinh (Trong phần giải thích về bài kinh Mahāpadāna) đã liệt kê như
sau:

1. Dứt bỏ tứ chi.

2. Dứt bỏ mắt.

3. Dứt bỏ thân mạng.

4. Dứt bỏ vương quốc.

5. Dứt bỏ vợ con.

Chú giải của bộ Itivuttaka (trong phần giải thích bài kinh đầu tiên của phẩm Dukanipāta, Dutiyavagga) đã liệt kê như sau:

1. Dứt bỏ tứ chi.

2. Dứt bỏ thân mạng.

3. Dứt bỏ của cải.

4. Dứt bỏ vợ con.

5. Dứt bỏ vương quốc.

Chú giải của bộ Buddhavaṁsa liệt kê như sau:

1. Dứt bỏ tứ chi.

2. Dứt bỏ thân mạng.

3. Dứt bỏ của cải.

4. Dứt bỏ vương quốc.

5. Dứt bỏ vợ con.

Chú giải của bộ Vessantara Jātaka liệt kê như sau:

1. Dứt bỏ của cải.

2. Dứt bỏ tứ chi.

3. Dứt bỏ con.

4. Dứt bỏ vợ.

5. Dứt bỏ thân mạng.

Trong Phụ chú giải của bộ Jinālaṅkāra cũng liệt kê như vậy, nhưng khác về thứ tự.

Tuy mỗi cách liệt kê ở trên có khác nhau chút ít về đối tượng dứt
bỏ, nhưng điều cần lưu ý là những điểm quan trọng thì giống nhau, đó
là những vật ngoài thân và thân mạng của chính mình. Trong những
vật ngoài thân, chúng ta thấy những vật tách biệt với thân, đó là sự dứt
bỏ của cải, dứt bỏ vợ con rất yêu dấu với chính mình. Dứt bỏ vương
quốc là kho báu quan trọng nhất của chính mình. Về sự dứt bỏ thân
thể, có hai cách: Cách không gây nguy hiểm tính mạng, tức là sự dứt
bỏ tứ chi (
aṅgapariccāga) và cách còn lại nguy hiểm đến tính mạng,
tức là sự dứt bỏ mắt (nayanapariccāga) hay sự dứt bỏ cuộc sống
(jivitaparaccāga) và sự từ bỏ thân mạng (attapariccāga). Ở đây việc
bố thí mắt hoặc cho cả thân thể đều được xem là bố thí thân mạng.

Sự bố thí vĩ đại của vua Vesantara gồm bảy loại vật thí, mỗi loại có số lượng một trăm, được Chú giải mô tả là Đại thí (Mahādāna), không phải Đại dứt bỏ (Mahāpariccāga). Nhưng người ta có thể lý luận rằng sự bố thí vĩ đại này có thể được xem là một trong năm sự từ bỏ vĩ đại, tức là sự từ bỏ vĩ đại về của cải.

Những chú thích phụ về các phương diện khác của Dāna

Để mở mang thêm kiến thức cho những người có nguyên vọng thành Phật Chánh Đẳng Giác hoặc Độc Giác Phật hoặc Thinh Văn Phật, chúng tôi đưa ra thêm những lời Chú giải phụ về những phương diện khác nhau của bố thí, và một trong những điều kiện để thành đạt giác ngộ. Những điều chú thích này được nêu ra dưới dạng những câu trả lời cho những câu hỏi sau đây:

1) Những pháp nào được gọi là Dāna?

2) Tại sao chúng được gọi là Dāna?

3) Đặc tánh, phận sự, sự hiện khởi và nguyên nhân gần của Dāna
    
là gì?

4) Có bao nhiêu loại Dāna?

5) Những yếu tố nào làm cho kết quả của sự Dāna mạnh lên?

6) Những yếu tố nào làm suy yếu kết quả của sự Dāna?

 

 

1. NHỮNG PHÁP NÀO ĐƯỢC GỌI LÀ DĀNA?

Câu trả lời tóm gọn là “ Cetana -Tác ý” cho vật thí thích hợp được gọi là Dāna. Ý nghĩa sẽ rõ ràng hơn trong những đoạn sau đây.

 

 

2. TẠI SAO CHÚNG ĐƯỢC GỌI LÀ DĀNA?

Tác ý được gọi là Dāna (Bố thí) vì nó có trách nhiệm tạo ra hành động bố thí. Có thể không có bố thí nếu không có tác ý cho, hành động bố thí có thể xảy ra chỉ khi nào có tác ý cho.

Về điểm này, tác ý muốn nói ở đây là:

1. Tác ý vào lúc cho - gọi là muñca-cetanā, tác ý dứt bỏ, muñca
   
nghĩa là sự dứt bỏ. Chỉ tác ý này đi kèm với hành động dứt bỏ

mới tạo thành yếu tố thực sự của bố thí.

2. Tác ý khởi sanh vào lúc dự định trước khi bố thí được gọi là “tư
   
tiền” (Pubba cetana). Loại tác ý này cũng có thể được xem là bố

thí miễn là vật được cho có sẵn vào lúc khởi lên ý định “Ta sẽ cho vật này”. Nếu không có vật được cho thì ý nghĩ cho có thể được gọi là “pubba-cetanā” nhưng không thể mang tính chất bố thí. Nó chỉ có thể là ý nghĩa thiện mà thôi.

Tác ý được xem là đồng nghĩa với bố thí vì nó dựa trên định nghĩa: Dīyāti anenāti dānam, sự xúi dục hành động cho là bố thí (ở đây tác ý rõ ràng là nguyên nhân quyết định của hành động cho).

Những vật được cho cũng có thể gọi là bố thí do định nghĩa: Dīyāti dānaṃ, nghĩa là những vật được cho là vật thí.

Theo sau những định nghĩa này, những bộ Kinh tạng có nêu ra hai
loại bố thí - Tác ý bố thí và Vật bố thí. Về điểm này những câu hỏi đã
được đặt ra - lý do tại sao những vật cho đi được gọi là
dāna, vì chỉ có
tác ý mới có khả năng sanh ra kết quả, còn vật thí thì không. Sự thật là
chỉ có tác ý mới sanh kết quả vì tác ý là hành động thuộc tâm. Nhưng
như đã giải thích ở trên, tác ý chỉ được gọi là
dāna nếu nó khởi sanh
vào lúc có vật thích hợp để cho. Do đó vật bố thí cũng là yếu tố đóng
góp quan trọng cho hành động bố thí để hình thành pháp dāna.

Ví dụ chúng ta nói “Cơm được nấu chín nhờ củi”. Thực tế thì lửa
nấu chín cơm. Như vậy lửa cháy do củi và cơm được nấu chín do lửa.
Qua ví dụ trên, không phải không đúng khi nói rằng: “Cơm được nấu
chín do củi đốt”. Tương tự, chúng ta có thể nói rằng: “Kết quả lợi ích

có được là do vật thí.”

Trong những hành động bố thí, vật cho đi có đặc điểm quan trọng
nên các bộ Kinh nêu ra những loại bố thí khác nhau, tùy thuộc vào
những vật thí khác nhau. Như vậy trong những bài Chú giải về Tạng
Luật, có bốn loại bố thí, đó là bố thí thực phẩm, y phục, trú xứ và
thuốc men.

Sự phân loại trong phần giải thích của bộ Abhidhamma, mọi thứ trong thế gian đều nằm trong 6 mục tương ứng với sáu cảnh. Có 6 loại bố thí là: sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp.

Sự phân loại của bộ Suttanta, có mười loại bố thí - thực phẩm, thức uống, phương tiện đi lại, hoa, bột thơm, dầu thơm, giường, chỗ ngụ và những vật cho ánh sáng.

Tóm lại, câu kết luận cho phần này là: Tác ý là bố thí vì nó thúc
dục hành động cho đi; vật thí là bố thí vì nó là vật thích hợp để cho đi.

3.  ĐẶC TÁNH, PHẬN SỰ, SỰ HIỆN KHỞI VÀ NGUYÊN
                          NHÂN GẦN CỦA DĀNA

(a)  Bố thí có đặc tánh là từ bỏ (lakkhaṇa)

(b) Phận sự của nó (kicca-rasa) là tiêu diệt sự tham luyến đối với
    
vật bố thí, hay nó đặc tính của sự hoàn hảo (sampatti-rasa).

(c)  Sự hiện khởi của nó là không luyến ái, tức là trạng thái không
      tham xuất hiện trong tâm của người bố thí hoặc biết rằng bố

thí đưa đến tái sanh thiện thú và sự giàu sang.

(d) Nguyên nhân gần của bố thí là có vật thí (tài sản để cho đi).
     
Nếu không có vật thí, thì không có bố thí.

4.  CÓ BAO NHIÊU LOẠI DĀNA?

Bố thí Nhóm Hai

Loại bố thí được xếp thành những nhóm hai.

1.  Āmisa-dāna  / Dhamma-dāna (Bố thí tài vật / Pháp thí )

a) Āmisa-dāna (Bố thí tài vật - Tài thí) gồm có cơm v.v... cũng
được gọi là Bố thí tứ sự (paccaya dāna) (khi những vật thí là vật dụng
của Sa-môn).

Giảng dạy Pháp trong hình thức thuyết giảng v.v… là việc bố thí
Pháp. Đức Phật dạy rằng - việc bố thí Pháp là loại bố thí cao thượng
nhất trong tất cả các loại bố thí. (Sự phân loại bố thí theo hai nhóm)

Có câu hỏi được đặt ra là xây chùa và dựng tượng Phật thuộc loại bố thí nào?

Có một số người cho rằng xây chùa và dựng tượng Phật tuy bao
gồm sự từ bỏ số lớn của cải, nhưng nó không phải là hành động bố thí.
Vì họ nói rằng một hành động cho mà trở thành sự
dāna phải tròn đủ
ba điều kiện: người nhận, người cho và vật cho. Dựng tượng và xây
chùa rõ ràng là có người cho nhưng ai nhận vật thí của người ấy? Nếu
không có người nhận vật thí thì làm sao có hành động dāna?

 

 

Theo quan điểm của họ, chùa và tượng Phật không phải là vật thí. Hơn nữa, chùa và tượng Phật là đối tượng để niệm tưởng về ân đức của Phật. Người xây chùa, dựng tượng thì trong tâm của họ không có người nhận đặc biệt nào để cho đi. Người ấy xây dựng chùa để giúp tạo ra hình ảnh sống động về Đức Phật ở trong tâm của người chiêm bái, giúp người kia thực hành pháp, niệm tưởng về ân Đức Phật. Do vậy, theo họ việc xây chùa dựng tượng có liên quan đến pháp thiền niệm Phật, không phải là hành động bố thí .

Lại nữa, một số người cho rằng vì người xây chùa và tôn trí tượng
Phật làm những công việc này để tỏ sự tôn kính nhất đến Đức Phật,
nên hành động của người ấy phải được xem là hành động tôn kính
(apacāyana), là một trong mười điều phước (puññakiriya-vatthu). Họ
nói thêm rằng bởi vì loại phước này - là tôn kính những bậc đáng tôn
kính, là pháp hành về giới (cāritta-sīla), nó thuộc về sự thọ trì giới,
không phải pháp thiền niệm Phật. Nhưng không phải phước của sự

niệm Phật cũng chẳng phải phước của sự tôn kính liên quan sự từ bỏ
vật thí. Trong khi đó, xây chùa và tôn trí tượng Phật đòi hỏi một số
tiền chi phí lớn. Do đó những việc phước này phải được xem là thuộc
về sự bố thí.

Ở đây, câu hỏi có thể đặt ra “Nếu nó thuộc về sự dāna, phải chăng
đó là hành động
dāna khi không có người nhận?” Theo các bộ Kinh,
việc cho được xem là hành động
dāna hay không thì phải được phán
xét qua bốn định nghĩa: đặc tính, phận sự, sự hiện khởi và nguyên
nhân gần. Chúng tôi đã nêu ra bốn định nghĩa ở trên rồi. Bây giờ ứng
dụng vào vấn đề hiện tại. Chúng ta thấy đặc tính là sự từ bỏ vì người
xây chùa và tôn tạo tượng Phật có sự từ bỏ một số tiền lớn. Về phận
sự, có sự tiêu diệt luyến ái đối với vật cúng dường. Người bố thí biết
rằng hành động bố thí của vị ấy sẽ đem lại kết quả là được sanh vào
cõi người hoặc cõi chư thiên và có được tài sản lớn. Và cuối cùng về
nguyên nhân gần, có vật cho. Như vậy bốn đặc điểm cần thiết đối với
việc cho để thực sự trở thành hành động
dāna đều hiện hữu ở đây và

do đó chúng ta có thể kết luận rằng xây chùa và tôn trí tượng Phật thực sự là hành động dāna.

Về câu hỏi: Ai nhận vật thí? Tất cả chư thiên và nhân loại đến lễ bái ở chùa tháp và tượng Phật để niệm tưởng ân Đức Phật là những người nhận. Tất cả mọi thứ trong thế gian đều được dùng theo nhiều cách khác nhau tùy theo đặc tính của chúng. Vật thực được dùng để ăn; y phục dùng để mặc; vật thờ cúng dùng để tôn kính lễ bái.

Nếu hồ nước và giếng được đào ở gần đường công cộng thì dân chúng có thể đến lấy nước đem về uống, giặt rửa. Người đào giếng, hồ (tức là người bố thí) khi cho đào chúng, trong tâm của người ấy sẽ không có người nhận cụ thể nào. Khi khách lữ hành đi qua con đường ấy, dùng vật thí (nước), không ai có thể nói rằng vật thí của người đào giếng không phải là hành động bố thí.

Kết luận, thật thích hợp để nói rằng người xây chùa tôn trí tượng Phật là người dāna - chùa và tượng Phật là vật thí, chư thiên và nhân loại đến lễ bái là những người thọ nhận vật dāna.

Liệu lễ rót nước có cần thiết cho việc bố thí để được gọi là hành
                                         động bố thí

Vấn đề cần xét ở đây là có cần tổ chức lễ rót nước để hình thành
hành động dāna? Thực ra, trong các bộ kinh không thấy đề cập đến
yêu cầu này. Tuy nhiên, sự thực hành ấy có truyền thống lâu dài.

Trong phần Chú giải về chương Cīvarakkhandhaka của bộ Vinaya
Mahāvagga, chúng tôi tìm thấy việc đề cập đến truyền thống rót nước.
“Có một sự chia rẽ giữa chư Tăng trong tịnh xá xảy ra trước thời gian
dâng y. Khi đến ngày làm lễ, Phật tử dâng y đến một nhóm tỳ khưu
kia, y chồng chất lên, làm lễ rót nước, họ tác bạch rằng: “Chúng con
dâng đến nhóm tỳ khưu kia.” Nói về cách phân phối y trong chư Tăng,
bộ Đại chú giải nói rằng, nếu đó là nơi mà mọi người không coi trọng
lễ rót nước thì số y thuộc về nhóm tỳ khưu được thí chủ dâng cúng
trực tiếp. Nhóm tỳ khưu chỉ nhận lễ rót nước không có quyền đòi hỏi

y. Nhưng nếu đó là nơi mà mọi người coi trọng lễ rót nước thì nhóm

tỳ khưu nhận lễ rót nước có quyền yêu cầu về y, vì lễ rót nước được tổ
chức cho họ. Nhóm tỳ khưu nhận y trực tiếp từ thí chủ cũng có quyền
đòi hỏi được chia phần, vì họ đã sở hữu những chiếc y ấy rồi. Do đó,
hai nhóm tỳ khưu phải chia đều cho nhau. Phương pháp phân phối này
là truyền thống thực hành ở những vùng nằm bên kia đại dương.

Những vùng nằm bên kia đại dương, đối với Sri lanka ám chỉ “Xứ Jampudīpa, tức là Ấn Độ.” Do đó nên chú ý rằng lễ rót nước là lối thực hành theo truyền thống của người Ấn Độ.

Khi xét đến ý nghĩa - có những vùng mà người ta xem trọng lễ rót
nước và có những vùng mà người ta không xem trọng lễ rót nước. Thế
nên, không thể nói rằng việc cúng dường tạo thành hành động bố thí
chỉ khi có lễ rót nước. Lễ này chỉ quan trọng đối với những người thực
hành theo truyền thống rót nước. Điều rõ ràng, đối với những người
không thực hành theo truyền thống này thì lễ rót nước không cần thiết.
Vì vậy, cần lưu ý rằng lễ rót nước không phải là yếu tố tiên quyết để
thành tựu hành động bố thí.

b)  Dhamma-dāna (Pháp thí): ngày nay có những người không có
khả năng thuyết pháp nhưng vì muốn làm Pháp thí, đã mua kinh sách

và bố thí. Dù sự bố thí kinh sách như vậy không thực sự là Pháp thí,
nhưng người đọc sẽ được lợi ích nhờ đọc được những pháp hành và
lời chỉ dẫn đưa người ta đến Niết bàn, nên người bố thí có thể được

xem là người bố thí Pháp.

Như trường hợp người không có thuốc để đến người bịnh, chỉ có
toa thuốc trị bệnh. Khi thuốc được mua về theo toa và uống thì bịnh
khỏi. Người kia không trực tiếp cho thuốc, nhưng nhờ toa thuốc của

anh ta có hiệu nghiệm, anh ta đáng được xem là người chữa trị. Cũng
vậy, người bố thí kinh sách dù không trực tiếp thuyết pháp nhưng
cũng giúp người đọc đạt được trí tuệ của Pháp và như vậy đáng được
xem là người bố thí Pháp.

Kết luận phần này, hai loại bố thí được nêu ra ở trên - Tài thí
(Amisa-dāna) và Pháp thí (Dhamma-dāna) cũng có thể được gọi là

Amisa-pūja - Sự cúng dường bằng tài vật, và Dhamma-pūja - Sự cúng dường bằng thuyết giảng.

Chữ ‘Pūjā’ nghĩa là ‘tôn kính’ và thường được áp dụng khi một người nhỏ cúng dường đến người lớn hơn về tuổi tác hoặc địa vị. Dựa vào cách xử dụng này một số người đã giải thích rằng dāna (bố thí) nên được phân chia thành “Pūjadāna” và “anuggahadāna”. Pūjadāna (bố thí cúng dường) - người nhỏ tuổi hoặc địa vị thấp cúng dường đến người lớn tuổi hoặc có địa vị cao hơn. Và anuggahadāna  (bố thí giúp đỡ) - do thiện cảm của người lớn tuổi hoặc người có địa vị cao bố thí đến người nhỏ tuổi hoặc có địa vị thấp.

Nhưng trong chương “Thọ ký”, chữ pūjā được dùng cho cả cao lẫn
thấp và chữ anuggaha cũng được áp dụng cho cả hai trường hợp. Nói
chung, “anuggaha” được dùng khi những người lớn tuổi hoặc có địa
vị cao thực hiện sự bố thí đến những người nhỏ tuổi, địa vị thấp hơn.
Tuy nhiên, chúng ta phải nhờ những cách dùng của “āmi-sānuggaha
và “dhammānuggaha” để mô tả sự giúp đỡ và ủng hộ cho sự tiến bộ
và phát triển giáo pháp của Đức Phật. Ở đây, chữ anuggaha được ứng
dụng dành cho giáo pháp cao cả và thánh thiện nhất của Đức Phật.
Như vậy cần nhớ rằng sự phân chia thành pujadānaanuggahadāna
không phải là sự phân chia tuyệt đối thành hai phương diện của sự bố
thí, đúng hơn chỉ là sự phân chia dành cho cách dùng thông thường.

 

 

2. Ajjhattika-dāna / Bāhira-dāna

(Nội đích bố thí / Ngoại phần bố thí)

Ajjhattika-dāna (Nội đích bố thí / Bố thí chính con người của mình ) là cho mạng sống và tứ chi của chính mình. Bāhira-dāna (Ngoại phần bố thí / Bố thí của cải ngoài thân) bao gồm cho tất cả những vật sở hữu ở ngoài thân của người bố thí.

Ngày nay chúng ta đọc báo thấy những tin tức nói về sự cúng
dường tứ chi ở chùa hoặc đốt thân cúng dường. Có một số bình luận

về những việc bố thí cúng dường như vậy bao gồm tứ chi. Theo những
bài bình luận ấy, sự cúng dường mạng sống và tứ chi như vậy là
những hành động chỉ những Đại Bồ tát mới làm được, chứ không phải
của những người tầm thường. Người ta nghi ngờ rằng liệu những sự
cúng dường như vậy mà do người bình thường thực hiện có đem lại
phước báu nào không?

Chúng ta hãy xét xem những quan điểm như vậy là đúng hay sai?
Không phải vì một hành động cao cả nào đó mà nói rằng người ấy là
một vị Bồ-tát; chỉ sau khi thực hành các pháp Ba-la-mật với hết khả
năng của mình từng bước một, dần dần tiến hóa cho đến mức độ chín
muồi người ta mới có thể trở thành vị Bồ-tát. Có một vị văn hào thuở

xưa đã viết như vầy: “Chỉ do sự mạo hiểm người ta mới nắm chắc sự
tiến bộ liên tục trong những kiếp tái sanh về sau.” Do đó chúng ta
đừng vội vàng kết án những người bố thí một phần thân thể của họ
hoặc cả thân mạng. Nếu một người do tác ý kiên cường (Tư) và niềm
tin vững chắc, thật can đảm mới dám bố thí thân mạng của mình, chí
đến dứt bỏ cả mạng sống, vị ấy thật sự đáng được tán dương là người
Bố thí thân mạng - Ajjhattika-dāna.

 

 

3. Vatthu-dāna / Abhaya-dāna ( Vật chất bố thí / Vô úy thí)

Vatthu-dāna (Vật chất bố thí) thì liên quan đến sự bố thí tài sản vật chất và Abhaya-dāna (Vô uý thí) là cho sự an ổn về tính mạng hoặc tài sản. Pháp bố thí này thường là sự thể hiện  lòng khoan dung, độ lượng của các vị vua.

 

4. Vattanissita-dāna / Vivattanissita-dāna (Hữu lậu bố thí / Vô lậu bố thí)

Vattanissita-dāna (Hữu lậu bố thí) là sự bố thí với tâm mong cầu
được tài sản và niềm vui thích trong kiếp sau nghĩa là khổ đau trong

luân hồi. Vivattanissita-dāna (Vô lậu bố thí) là bố thí với ước nguyện chứng đắc Niết bàn, giải thoát sanh tử.

 

 

5. Sāvajja-dāna / Anavajja-dāna

(Tội nhiễm bố thí / Vô tội nhiễm bố thí)

Sāvajja-dāna (Tội nhiễm bố thí), ví dụ bố thí món thịt lấy từ sự giết chết con vật và Anavajja-dāna (Vô tội nhiễm bố thí) là bố thí vật thực không do giết thịt để làm vật thực bố thí.

Chúng ta thấy trường hợp một số người đánh cá kiếm tiền từ sự bắt cá, họ quyết định bỏ nghề với suy nghĩ:

“ Ta sẽ bỏ nghề đánh cá tội lỗi này và kiếm sống bằng nghề lương thiện”. Nhưng khi bắt tay làm những nghề khác, họ thấy tài sản của họ bị suy giảm, trở lại nghề cũ thì việc làm ăn của họ phát đạt. Đây là ví dụ về Tội nhiễm bố thí đã được làm trong những kiếp quá khứ cho quả trong kiếp hiện tại. Vì hành động bố thí ấy có kèm theo hành động sát sanh, vào lúc cho quả cũng vậy, sự thành công chỉ đạt được khi được kết hợp với hành động sát sanh (bắt cá). Nếu không được kết hợp với hành động sát sanh thì Tội nhiễm bố thí trong kiếp quá khứ không thể cho quả và tài sản của anh ta cũng suy giảm.

 

 

6. Sāhatthika-dāna / Anattika-dāna

(Trực tiếp bố thí / Gián tiếp bố thí)

Sāhatthika-dāna (Trực tiếp bố thí) là sự bố thí bằng chính tay người
cho và Anattika-dāna (Gián tiếp bố thí) là sự bố thí do người đại diện
làm. (Theo bài kinh Tệ túc (
Payasi) trong Đại Phẩm (Mahā Vagga),
Trường bộ kinh (Dīgha Nikāya), Trực tiếp bố thí có quả báu nhiều
hơn Gián tiếp bố thí).

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                153

7. Sakkacca-dāna / Asakkacca-dāna

(Cẩn trọng bố thí / Bất cẩn bố thí)

Sakkacca-dāna (Cẩn trọng bố thí), ví dụ như bố thí hoa. Sau khi hái
hoa đem về, người bố thí kết chúng thành tràng hoa và sắp xếp rất
công phu để  trông cho đẹp, xinh xắn rồi đem cúng dường  và
Asakkacca-dāna (Bất cẩn bố thí) là bố thí không có sự chuẩn bị cẩn
thận. Khi hoa được hái về, bố thí đem dâng liền mà không có sự sắp
xếp vì anh ta nghĩ rằng những bông hoa tự nó là vật thí cũng đủ rồi.

 

8. Ñāṇasampayutta-dāna / Ñāṇavippayutta-dāna (Hợp trí bố thí / Ly trí bố thí)

Ñāṇasampayutta-dāna (Hợp trí bố thí) là sự bố thí được kết hợp với
trí hiểu biết rõ ràng về những hành động có tác ý và kết quả do chúng

tạo ra và Ñāṇavippayutta-dāna (Ly trí bố thí) là hành động bố thí
được thực hiện mà không có sự hiểu biết như vậy, chỉ theo những
người bố thí khác mà làm. Vấn đề là biết rõ nguyên nhân và kết quả
chắc chắn của nó trong khi bố thí được thực hiện, cũng đủ để tạo nên
hành động Hợp trí bố thí. Về vấn đề này, cần có sự giải thích qua
những lời khuyên sau đây: “Bất cứ khi nào thực hiện một việc bố thí,
cần phải có Tuệ quán (Vipassanā-ñāṇa) đi kèm theo như vầy: ‘Ta,
người cho vật thí thì vô thường, vật thí cũng vô thường và người thọ
thí cũng mang tính chất vô thường.’ Bạn nên quán như vậy bất cứ khi
nào thực hành bố thí.”

Lời khuyên này được áp dụng chỉ để khuyến khích thực hành pháp Minh sát mà thôi. Không nên hiểu sai rằng nếu không thực hành pháp Quán như vậy, thì việc bố thí sẽ không có trí đi kèm.

Trên thực tế bất cứ ai muốn tu tập pháp Minh sát trước hết phải loại
bỏ ý niệm về cái Ta, người kia, đàn ông, đàn bà tức là ảo tưởng về Ta,
ảo tưởng về ngã và phải thấy rằng chúng chỉ là những khối vật chất và
tinh thần mà thôi. Sau đó phải tiếp tục quán niệm để giác ngộ ra rằng

những danh uẩn và sắc uẩn này đều có đặc tánh vô thường, bất toại
nguyện và vô ngã. Nếu không có sự phân tích danh sắc uẩn này, mà
chỉ quán theo quan niêm thông thường rằng: ‘Ta là vô thường, vật thí
là vô thường và người thọ thí là vô thường’ thì không thể có Tuệ quán
thực sự.

 

 

9.  Sasaṅkhārika-dāna / Asaṅkhārika-dāna

(Hữu trợ bố thí / Vô trợ bố thí)

Sasaṅkhārika-dāna (Hữu trợ bố thí) là sự hối thúc hoặc tha thiết nài
xin một người nào đó bố thí khi người kia đang do dự hoặc làm nhưng
miễn cưỡng. Một sự yêu cầu đơn giản không nên xem đó là sự hối
thúc.
Asaṅkhārika-dāna (Vô trợ bố thí), ví dụ một người chưa có
quyết định gì mà có người đến quyên góp từ thiện và anh ta bằng lòng
cho ngay không do dự: “Đây là sự bố thí tự nguyện để đáp lại một sự
yêu cầu đơn giản. Cũng trường hợp như vậy, nhưng ở đây, người cho

lúc đầu chần chừ và từ chối. Nhưng khi lời yêu cầu được lập lại với sự
khẩn nài: “Xin hãy bố thí đừng ngần ngại,”  anh ta mới đóng góp. Sự
bố thí của anh ta được làm sau khi có sự hối thúc, nên nó được xem là
Hữu trợ bố thí. Trong trường hợp, không có người đến yêu cầu bố thí,

người kia đầu tiên suy nghĩ sẽ bố thí rồi sau đó rút lại ý nghĩ ấy,
nhưng sau khi tự thuyết phục, tự động viên, cuối cùng mới bố thí thì
sự bố thí của anh ta thuộc loại Hữu trợ.

 

 

10. Somanassa-dāna / Upekkhā-dāna (Hoan hỷ bố thí / Xả bố thí)

Somanassa-dāna (Hoan hỷ bố thí)  là bố thí với tâm hoan hỷ và vui vẻ và Upekkhā-dāna (Xả bố thí)  là bố thí với tâm không vui cũng không buồn, bình thản.

11. Dhammiya-dāna / Adhammiya-dāna

(Hợp pháp bố thí / Phi pháp bố thí)

Dhammiya-dāna (Hợp pháp bố thí) sự bố thí tài vật kiếm được
đúng pháp bằng phương tiện chân chính và Adhammiya-dāna (Phi
pháp bố thí) là sự bố thí tài vật kiếm được bằng phương tiện bất chính
như trộm cắp, cướp đoạt. Tuy việc kiếm của cải bằng phương tiện phi

đạo đức, không hợp pháp, tuy nhiên sự bố thí của cải dồi dào vẫn là
việc phước. Nhưng kết quả phát sanh từ loại bố thí này không thể lớn
bằng kết quả của sự bố thí hợp pháp, giống như hai loại cây mọc lên
từ hạt giống tốt và hạt giống xấu.

12. Dasa-dāna / Bhujissa-dāna (Nô lệ bố thí / Vô câu thúc bố thí)

Dasa-dāna (Nô lệ bố thí) là bố thí với ước vọng thành tựu dục lạc trần gian. Sự bố thí làm cho người ta bị nô lệ. Là kẻ nô lệ cho tham ái, người ta thực hiện loại bố thí này để phục vụ cho ông chủ của họ - ái dục, muốn thỏa mãn những ước muốn của nó và Bhujissa-dāna (Vô câu thúc bố thí) là bố thí với ước nguyện chứng đắc Đạo Quả, Niết bàn - sự bố thí với quyết tâm đoạn diệt ái dục.

Chúng sanh trong vòng luân hồi vô tận thường muốn thọ hưởng những dục lạc khả ái về (sắc, thinh, hương, vị, xúc), ước muốn được thọ hưởng dục lạc được gọi là ái dục. Vì cứ mãi chạy theo ái dục như vậy, nên người ta trở thành nô lệ của nó.

Suốt cuộc đời làm nô lệ cho ái dục mà vẫn không thỏa mãn, chúng ta bố thí để kiếp sau có được cuộc sống sung sướng. Loại bố thí này có kèm theo ước muốn mãnh liệt được thọ hưởng dục lạc liên tục trong những kiếp sau nên được gọi là Nô lệ bố thí.

Nhưng khi chúng ta được may mắn nghe pháp của Đức Phật, chúng
ta hiểu sức mạnh của ái dục này, sự mong muốn vô bờ bến của nó, sự
đau khổ mà chúng ta phải thọ lãnh khi chạy theo nó. Đến lúc ấy,
chúng ta mới lập quyết tâm: “Tôi sẽ không bao giờ làm nô lệ cho ái
dục kinh khủng này nữa. Tôi quyết tâm không làm thỏa mãn những

mong muốn của nó. Tôi sẽ tiêu diệt nó.” và để đoạn tận ái dục này,
người ta bố thí với ước nguyện chứng đắc Đạo Quả, Niết bàn. Sự bố
thí với ước nguyện như vậy được gọi là Vô câu thúc bố thí hay Giải
thoát bố thí.

 

 

13. Thāvara-dāna / Athāvara-dāna

(Định lập bố thí / Bất định lập bố thí)

Thāvara-dāna (Định lập bố thí)  là bố thí những vật thí có tính chất
trường cửu, bất động như chùa tháp. tịnh xá, nhà nghỉ và đào giếng,
đào hồ... Athāvara-dāna (Bất định lập bố thí)  là bố thí những vật thí
có tính chất di động, sử dụng tạm thời như vật thực, y phục, v.v...

 

 

14. Saparivāra-dāna / Aparivāra-dāna

Saparivāra-dāna là sự bố thí gồm cả vật chính và vật phụ ví như
trong việc bố thí y áo gồm có y và những vật phụ thuộc khác.
Aparivāra-dāna là bố thí chỉ gồm có vật chính mà không có vật phụ
thuộc đi kèm.

Những tướng đặc biệt trên thân của chư Bồ-tát là kết quả phát sanh từ Saparivāra-dāna.

 

 

15. Nibaddha Dāna / Anibaddha Dāna

(Định kỳ bố thí  / Ngẫu nhiên bố thí)

Nibaddha-dāna (Định kỳ bố thí)  là sự bố thí thường xuyên và đều
đặn như bố thí vật thực đến chư Tăng. Anibaddha-dāna (Ngẫu nhiên
bố thí) là bố thí không thường xuyên, không định kỳ, chỉ ngẫu nhiên
tùy hứng.

 

 

16. Paramattha Dāna / Aparamattha Dāna

 

(Thủ trước bố thí / Vô thủ trước bố thí)

Paramattha-dāna (Thủ trước bố thí) là sự bố thí bị ô nhiễm bởi ái
dục và tà kiến và Aparamattha-dāna (Vô thủ trước bố thí) là sự bố
thí không bị ái dục và tà kiến làm ô nhiễm. Theo Tạng Abhidhamma,
người bị lầm lạc chỉ do tà kiến, nhưng tà kiến lại luôn ở chung với ái
dục. Khi tà kiến nhiễm vào tâm và dẫn dắt người ta đi sai đường thì
tham ái cũng có tham dự. Cho nên cả tham ái và tà kiến đều được nêu
ra ở trên. Sau khi thực hiện một việc bố thí, nếu người ta tha thiết
nguyện rằng: “Cầu cho tôi sớm chứng đắc Đạo Quả và Niết bàn do
nhờ quả phước thanh cao này” thì sự bố thí sẽ thuộc loại Vô lậu bố thí
và nó sẽ làm duyên để chứng đắc Đạo Quả và Niết bàn. Nhưng nếu
không nguyện như vậy mà nguyện với tâm bị ô nhiểm bởi tham ái và
tà kiến rằng: “Do quả phước này cầu cho tôi trở thành một vị thiên tối
thắng như Đế Thích, vua của Đạo lợi thiên hay một vị thiên ở những
cõi trời có thọ mạng lâu dài” thì sự bố thí của người ấy không thể làm
duyên để chứng đắc Đạo Quả và Niết bàn. Đó là Thủ trước bố thí.

Nhiều việc thiện có thể được thực hiện bên ngoài giáo pháp của Đức Phật nhưng sự bố thí thường là Thủ trước bố thí. Chỉ trong giáo pháp của Đức Phật mới có Vô thủ trước bố thí. Thế nên, khi chúng ta may mắn gặp được giáo pháp của Đức Phật, chúng ta nên cố gắng thực hành loại Vô thủ trước bố thí (Aparamattha-dāna).

 

 

17. Ucchiṭṭha-dāna / Anucchiṭṭha-dāna

(Tàn thực bố thí  / Bố thí những thứ còn mới mẻ)

Ucchiṭṭha-dāna (Tàn thực bố thí)  là bố thí đồ dư thừa, phẩm chất
xấu. Anucchiṭṭha-dāna (Bố thí những thứ còn mới mẻ), ví dụ trong
khi dọn ra các món vật thực cho bữa ăn, mà có người xin xuất hiện,
người kia cho trước một ít vật thực từ đó, sự bố thí ấy được xem là Tối
thượng thí (
Agga-dāna) và nó cũng là Anucchiṭṭha-dāna, bởi vì vật
cúng dường không phải là thức ăn dư thừa. Nếu người xin đến khi chủ
nhà đang ăn và chủ nhà bố thí vật thực từ bàn ăn ấy, sự bố thí ấy cũng

được xem là Anucchiṭṭha-dāna - được xem là vật thí quý báu. Sau khi
người ta ăn xong, bố thí bằng vật thực dư thừa gọi là Tàn thực thí. Tuy
nhiên cần lưu ý rằng, sự bố thí khiêm nhường của một người không có
gì khác để cho ngoài đồ tàn thực, cũng được gọi là
Anucchiṭṭha-dāna.
Khi nào người cho có khả năng cho vật thí tốt hơn mà không cho thì
được gọi là Ucchiṭṭha-dāna.

 

 

18. Sajīva-dāna / Accaya-dāna

Sajīva-dāna là sự bố thí được thực hiện trong khi người ta đang còn
sống.
Accaya-dāna là sự bố thí được thực hiện sau khi người ta chết
theo lời di chúc: “Tôi sẽ cho cái này đến người này sau khi tôi chết,
người được chỉ định trong di chúc sẽ được thừa hưởng nó.” Vị tỳ khưu
không được phép thực hiện sự bố thí
Accaya-dāna, nghĩa là vị ấy
không thể để dành tài sản của mình để cho kẻ khác sau khi vị ấy chết.
Nếu vị tỳ khưu ấy có làm như vậy thì cũng không thành tựu việc bố
thí. Người thọ lãnh sau này cũng không có quyền sở hữu di sản ấy.
Nếu trong khi còn sống, vị tỳ khưu cho tài sản của mình đến một vị tỳ
khưu khác, thì người thọ lãnh có quyền thừa hưởng di sản được cho.
Hoặc khi vị tỳ khưu còn sống, một số tỳ khưu thường sống chung với
vị ấy (
Vissāssagaha) có thể lấy chia ra mà dùng. Hoặc nếu vị ấy cùng
xài chung một vật gì đó với một vị tỳ khưu khác, khi vị ấy chết thì vị
tỳ khưu còn sống trở thành chủ nhân duy nhất. Nếu không có những lý
do này, thì tài sản của vị tỳ khưu trở thành tài sản của Tăng khi vị ấy
chết. Do đó, di chúc bố thí chỉ hợp pháp và khả thi đối với người tại
gia cư sĩ mà thôi.

 

 

19. Puggalika-dāna / Saṅghadāna-dāna

(Cá nhân tuyển thí / Tăng thí)

Puggalika-dāna (Cá nhân tuyển thí) là bố thí đến riêng một người
hoặc hai người. Saṅghadāna (Tăng thí) là bố thí đến toàn thể hội

chúng tỳ khưu Tăng có nghĩa là nhóm tập thể hay hội chúng. Ở đây
Tăng ám chỉ toàn thể hội chúng Thánh đệ tử của Đức Phật. Khi có ý
định bố thí đến Tăng, người thí chủ không được mang ý nghĩ riêng về
những vị Thánh đệ tử trong Tăng chúng mà phải nghĩ về toàn thể
chúng Tăng. Chỉ khi đó sự cúng dường của vị ấy mới thuộc loại Tăng
thí.

Bài kinh Dakkhināvibhaṅga (của Majjhima Nikāya - Trung bộ kinh) có kể ra 14 loại Cá nhân Tuyển thí và 7 loại Tăng thí.

14 loại Puggalika-dāna (Cá nhân tuyển thí) 1. Bố thí cúng dường đến một vị Phật (Budha).

2.   Bố thí cúng dường đến một vị Độc giác Phật (Paccekabuddha).

3.  Bố thí cúng dường đến vị A-la-hán (Arahat).

4.   Bố thí cúng dường đến bậc đang trên đường chứng đắc Đạo

Quả A-la-hán (arahatta-phala hay arahatta-magga).

5.  Bố thí cúng dường đến bậc A-na-hàm (anāgāmi).

6.   Bố thí cúng dường đến bậc đang trên đường chứng đắc Đạo

Quả A-na-hàm (anāgāmi-phala).

7.  Bố thí cúng dường đến bậc Tư-đà-hàm (sakadāgāmi).

8.   Bố thí cúng dường đến bậc đang trên đường chứng đắc Đạo

Quả Tư-đà-hàm (sakadāgāmi-phala).

9.   Bố thí cúng dường đến bậc Tu-đà-hườn (sotāpatti).

10. Bố thí cúng dường đến bậc đang trên đường chứng đắc Đạo

Quả Tu-đà-hườn (sotāpatti-phala).

11. Bố thí cúng dường đến các Sa-môn (ở ngoài giáo pháp của Đức

Phật hoặc khi giáo pháp chưa bị tiêu hoại) đã chứng thiền hoặc thần thông.

12. Bố thí cúng dường đến người cư sĩ có giới.

 

13. Bố thí đến người thế gian không có giới.

14. Bố thí đến súc vật.

Trong 14 loại Cá nhân tuyển thí này, sự bố thí một bửa ăn đầy đủ
đến một con vật sẽ đem lại những quả thiện như: sự trường thọ, sắc
đẹp, thân an vui, sức mạnh và trí tuệ trong một trăm kiếp. Như vậy,

theo thứ tự đi lên, bố thí một bửa ăn đầy đủ đến người kém giới sẽ
đem lại những quả thiện này trong 1000 kiếp. Bố thí đến người có giới
trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật chưa bị tiêu hoại và người có
giới kia chưa quy y Tam bảo sẽ được phước một trăm ngàn kiếp. Đến
những Sa-môn và đạo sĩ đã chứng đắc thiền hưởng phước 10 tỷ kiếp.
Đến người cư sĩ hoặc Sa-di (trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật
chưa bị hoại diệt) đã quy y Tam bảo và cúng dường đến bậc Thánh đã
chứng đắc Tu-đà-hườn đạo, được hưởng phước một A-tăng-kỳ kiếp;
và đến những bậc thánh cao hơn lên đến Đức Phật thì phước báu vô
lượng (Theo Chú giải, ngay cả người chỉ quy y Tam bảo cũng được
xem là người đang thực hành Pháp để giác ngộ Tu-đà-hườn quả -

sotāpatti-phala).

Trong 14 loại Cá nhân Tuyển thí này, không đề cập đến những vị tỳ
khưu giới luật lỏng lẻo. Sự mô tả của Đức Phật về người không có
giới, chỉ liên quan đến thời kỳ giáo pháp của Đức Phật. Vì những lý
do này, có khuynh hướng cho rằng sự bố thí cúng dường đến những vị
tỳ khưu có giới hạnh không trong sạch trong thời kỳ giáo pháp của
Đức Phật là đáng chê trách. Nhưng nên ghi nhớ rằng “Bất cứ ai trở
thành người tu thì tối thiểu họ cũng quy y Tam bảo.” Và Chú giải
cũng nói rằng bất cứ ai đã quy y Tam bảo, đều là người đang hành đạo
để giác ngộ Tu-đà-hườn quả (
sotāpatti-phala). Hơn nữa, sự bố thí đến
người thế tục không có Giới (trong khi giáo pháp chưa hoại diệt) cũng
có nhiều lợi ích.

Lại nữa, trong bộ kinh Milinda-Pañha (Mi-lin-đà vấn đạo), Đại Đức
Na Tiên giải thích rằng một vị tỳ khưu không có giới vẫn tốt hơn
người thế tục về mười phương diện như sự tôn kính đến Đức Phật, sự

tôn kính đến Đức Pháp, sự tôn kính đến Đức Tăng, v.v... Như vậy theo bộ Milinda-Pañha, vị tỳ khưu không có giới, và theo Chú giải vì vị ấy được liệt vào hạng người đang hành đạo để giác ngộ Tu-đà-hườn quả (sotāpatti-phala). Thế nên, đừng bảo rằng bố thí đến vị tỳ khưu không có Giới là đáng chê trách và không có kết quả.

Còn một quan điểm khác liên quan đến vấn đề này. Vào thời kỳ không có giáo pháp của Đức Phật, những vị tỳ khưu không có giới, không thể gây tai hại gì đến Giáo pháp. Nhưng khi Giáo pháp tồn tại, họ có thể làm hại Giáo pháp. Vì lý do ấy, không nên hộ độ cho những vị tỳ khưu không có giới trong thời kỳ Giáo pháp của Đức Phật. Tuy nhiên, quan điểm này không vững chắc.

Vào lúc kết thúc thời pháp nói về bảy loại Tăng thí, Đức Phật dạy
Ānanda rằng: “Này Ānanda, sau này sẽ có những vị tỳ khưu ác.
Không có giới, chỉ có danh nghĩa tỳ khưu thôi, sẽ quấn y quanh cổ.
Với tâm bố thí cúng dường đến Tăng đoàn, sự bố thí sẽ được thực
hiện đến những vị tỳ khưu phi giới này. Tuy vậy, sự bố thí này vẫn gọi
là Tăng thí. Như Lai khẳng định rằng phước ấy cũng đem lại những
lợi ích vô lượng.”

Vẫn còn một quan điểm khác cần xét đến. Trong 4 loại Thanh tịnh
thí (Dakkhinā-Visuddhi), Tịnh thí thứ nhất là: dù người thọ lãnh không
có giới nhưng người cho có giới, sự bố thí được thanh tịnh do sự thanh
tịnh của người cho. Vì vậy không nên nói rằng vị tỳ khưu phi giới
không phải là người thọ thí và không lợi ích trong việc bố thí đến vị tỳ
khưu ấy.

Do đó, nên lưu ý rằng chỉ đáng trách khi chúng ta bố thí với ý định xấu, như khuyến khích và khen ngợi những hành động sái quấy của vị tỳ khưu phi giới. Ngược lại nếu chúng ta cúng dường với tâm thanh tịnh chỉ nghĩ rằng “Nên bố thí khi có người đến xin.” Điều ấy hoàn toàn không đáng chê trách.

Bảy loại Saṅghika-dāna (Tăng thí)

 

1. Bố thí đến cả hai hội chúng tỳ khưu và tỳ khưu ni do Đức Phật lãnh đạo, trong khi Đức Phật còn đang sống.

2. Bố thí đến cả Tăng lẫn Ni sau khi Đức Phật viên tịch.

3. Bố thí đến Tăng chúng.

4. Bố thí đến Ni chúng.

5. Bố thí đến nhóm tỳ khưu và tỳ khưu ni đại diện cho chúng Tăng
     Ni (với tác ý đến toàn thể Tăng chúng). Sự bố thí như vậy được

thực hiện khi thí chủ không đủ khả năng bố thí đến hết thảy tỳ khưu và tỳ khưu ni. Thí chủ đi đến Tăng và yêu cầu các Ngài cử ra một số Tăng thọ lãnh vật thí.

6. Bố thí đến một nhóm tỳ khưu (với tác ý đến toàn thể chư Tăng)
    
sau khi yêu cầu Tăng cử ra số tỳ khưu vừa với khả năng dâng

cúng của thí chủ.

7. Có câu hỏi đặt ra rằng: Sau khi Đức Phật đã viên tịch liệu có thể
    thực hiện cách bố thí thứ nhất không? Câu trả lời: Được. Nghĩa

là sự bố thí được thực hiện như sau: Sau khi đặt tượng Phật có đựng Xá lợi của Ngài trước mặt hội chúng Tăng Ni tham dự lễ, sự cúng dường diễn ra với câu tác bạch rằng:

“Con xin cúng dường tất cả vật thí này đến chúng Tăng có Đức Phật chủ tọa.”

Chư Tăng và chư Ni đã được thọ nhận lễ vật cúng dường rồi, còn
Đức Phật tức là tượng Phật có chứa Xá lợi của Ngài thì lễ vật nào sẽ

dành cho Ngài? Cũng như tài sản của người cha theo lệ thường thì để
lại cho đứa con trai, lễ vật dâng đến Đức Phật sẽ truyền lại cho  vị tỳ
khưu làm phận sự tu tập theo di huấn của Ngài hoặc truyền lại cho
Tăng. Đặc biệt, nếu những lễ vật dâng cúng như dầu, thục tô, v.v...
húng sẽ được dùng để đốt đèn cúng dường Đức Phật. Những tấm vải
trong lễ vật cúng dường sẽ được dùng làm cờ xí để tôn vinh Đức Phật.

Trong thời Đức Phật tại tiền, dân chúng thường không dính mắc cá
nhân các vị tỳ khưu. Tâm của họ nghiêng về tập thể chúng Tăng và
nhờ vậy, họ có thể bố thí dồi dào đến chúng Tăng. Kết quả là nhu cầu
của các vị tỳ khưu được đáp ứng nhờ sự phân phối lợi hòa của Tăng.
Các ngài có ít nhu cầu để phải lệ thuộc vào các thí chủ nam nữ, nên ít
luyến ái đối với họ như: “Thí chủ của chùa tôi, thí chủ dâng y của
chùa tôi, v.v...” Như vậy, các vị tỳ khưu có thể thoát khỏi sợi dây
luyến ái.

Lược truyện về gia chủ Ugga

Những ai muốn cúng dường loại Tăng thí Thanh tịnh thì nên bắt chước theo gương của gia chủ Ugga. Câu chuyện về gia chủ Ugga được  tìm  thấy  trong  phẩm  Gahapati  Vagga,  Aṭṭhakanipāta  của Aṅguttara Nikāya (Tăng chi bộ).

Một thuở nọ, khi Đức Thế Tôn đang ngụ ở ngôi làng Voi, trong xứ
Bạt kỳ (Vajjī), Đức Thế Tôn dạy các tỳ khưu: “Này các tỳ khưu, các
ngươi nên xem vị gia chủ Ugga của làng Voi là người có 8 đức tánh

kỳ diệu.” Với lời dạy tóm tắt như vậy, Đức Phật đi vào bên trong tịnh
xá.

Một buổi sáng nọ, có vị tỳ khưu đi đến nhà gia chủ Ugga và nói với
ông ta rằng: “Này gia chủ, Đức Thế Tôn nói rằng ông là người có 8
đức tánh kỳ diệu. Tám đức tánh kỳ diệu mà Đức Thế Tôn nói về ông
là gì vậy?”

“Bạch Đại đức, tôi không dám quả quyết về tám đức tánh đặc biệt mà Đức Phật nói là tôi có. Nhưng xin hãy chú ý nghe tôi kể về tám đức tánh kỳ diệu mà tôi thực sự có”. Rồi ông ta mô tả đầy đủ về tám đức tánh kỳ diệu như sau:

1.  Lần đầu tiên tôi trông thấy Đức Phật là lúc mà tôi đang ăn uống
    
vui chơi trong rừng hoa Thiết Mộc. Vừa khi tôi trông thấy Đức

Phật đang đi đến từ xa thì tôi tỉnh rượu và lòng tịnh tín đối với các

ân đức của Phật khởi sanh trong tâm tôi. Đây là điều kỳ diệu thứ
nhất.

2. Vào lúc gặp Đức Phật lần đầu tiên ấy, tôi đã quy y Phật và nghe
    
Ngài thuyết pháp. Kết quả là tôi chứng đắc quả thánh Nhập lưu và

an trú trong Ngũ phạm hạnh giới (Brahmacariya-pañcama-sīla). Đây là điều kỳ diệu thứ hai.

(Ngũ phạm hạnh giới tương tự như Ngũ giới mà người cư sĩ thọ trì hằng ngày. Ngũ giới ‘tránh xa việc tà dâm’ là tránh xa việc quan hệ tình dục với bất cứ ai, trừ vợ của mình. Ngũ phạm hạnh giới: ‘Tôi tránh xa bất cứ hình thức quan hệ tình dục nào’ nghĩa là hoàn toàn tránh xa việc quan hệ, ngay cả với vợ của mình).

3. Tôi có 4 bà vợ. Ngay khi trở về nhà, tôi nói với họ rằng tôi đã thọ
    
trì Ngũ phạm hạnh giới. Ai muốn ở lại trong ngôi nhà này thì được

phép sử dụng tài sản của tôi tùy thích và dùng nó để làm các việc
phước. Còn ai muốn về nhà cha mẹ thì được tự do, ai muốn lấy
chồng khác thì tôi sẽ cưới cho. Bà vợ cả trong bốn bà vợ của tôi đã
nói ra tên một người đàn ông nọ mà bà ta muốn lấy làm chồng. Tôi
cho mời người đàn ông ấy đến rồi tay trái dắt vợ, tay phải tôi cầm
bình nước và tôi đã gã bà vợ cả cho người đàn ông ấy. Khi đem gã
vợ của tôi cho người đàn ông kia, tôi hoàn toàn bình thản, không
xúc động. Đây là điều kỳ diệu thứ ba.

4.  Tôi đã quyết định sử dụng tất cả tài sản của tôi chung với những
    
người có thiện giới tánh. Đây là điều kỳ diệu thứ tư.

5.  Tôi luôn đi đến vị tỳ khưu với tâm tôn kính đúng mức, không bao
     giờ bất kính. Nếu vị tỳ khưu thuyết pháp đến tôi thì tôi tôn kính

lắng nghe, không chểnh mãng. Nếu vị tỳ khưu không thuyết pháp
đến tôi, thì tôi thuyết pháp đến vị ấy. Đây là điều kỳ diệu thứ năm.

6. Bất cứ khi nào tôi thỉnh chư Tăng về nhà để cúng dường, chư thiên
     thường đi trước và báo cho tôi biết rằng: “Này gia chủ, các vị tỳ

khưu này là những bậc Thánh, những vị phạm hạnh. Các vị tỳ

khưu này là những người phàm có giới. Những vị tỳ khưu này
không có giới.” Chuyện chư thiên đến báo tin cho tôi như vậy là
bình thường. Điều kỳ diệu là khi tôi cúng dường vật thực hay tứ sự
đến chư Tăng thì những ý nghĩ như “Tôi sẽ cũng dường đến vị này
nhiều, vì vị ấy có giới đức. Hoặc tôi sẽ cúng dường đến vị này ít,
vì có giới hạnh kém.” Những ý nghĩ như vậy, không bao giờ khởi
sanh trong tâm tôi. Thực tế thì tôi dâng cúng đến mỗi vị chẳng hề

có sự phân biệt thánh hay phàm, hữu giới hay phi giới. Đây là điều
kỳ diệu thứ sáu.

7. Bạch đại đức, chư thiên đến và nói rằng pháp của Đức Phật được
    
khéo thuyết giảng. Điều này không khiến tôi ngạc nhiên. Điều kỳ

diệu là trong vài trường hợp tôi đã đáp lại với chư thiên rằng: “Hỡi
chư thiên, dầu các vị có nói với tôi như vậy hoặc không phải như
vậy, quả thật pháp của Đức Phật đã được khéo thuyết giảng (ông ta
tin tưởng rằng pháp của Đức Phật được khéo thuyết giảng không
phải do chư thiên nói cho ông ta biết, mà do tự ông ta biết như
vậy). Tuy tôi đã liên lạc với chư thiên như vậy, tôi không cảm thấy
ngã mạn về việc chư thiên đến với tôi và việc tôi nói chuyện với
họ. Đó là điều kỳ diệu thứ bảy.

8.  Cũng không có điều gì ngạc nhiên, nếu tôi chết trước Đức Thế Tôn
     và Ngài sẽ nói trước rằng: “Gia chủ Ugga đã hoàn toàn đoạn diệt

năm hạ phần kiết sử dẫn đến tái sanh trong cõi dục. Ông ta là một
vị A-na-hàm. Ngay trước khi Đức Phật tiên tri, tôi đã trở thành một
vị A-na-hàm rồi, và tôi đã biết điều này rồi. Đây là điều kỳ diệu
thứ tám.

Trong tám điều kỳ diệu do gia chủ Ugga mô tả, điều kỳ diệu thứ
sáu liên quan đến việc bố thí không phân Thánh hay phàm, người có
giới hay không giới. Điều cần thiết là nên giữ tâm vô tư trong những
hoàn cảnh như vậy. Thái độ vô tư có thể hiểu theo cách này “Vì tôi đã
thỉnh với ý định cúng dường đến Tăng, toàn thể Tăng. Khi tôi cúng
dường đến bậc Thánh, tôi cũng giữ thái độ cúng dường đến Tăng -
toàn thể Thánh thinh văn đệ tử của Đức Phật. Và khi tôi cúng dường

 

đến người không có giới, tôi sẽ không nghĩ vị ấy là như vậy. Tôi chỉ
nghĩ rằng mình đang cúng dường đến Tăng, toàn thể Thánh thinh văn
đệ tử của Đức Phật. Đây là điều cần thiết để thực hiện sự bố thí đến
Tăng.”

Khi làm một việc bố thí đến Tăng theo gương của gia chủ Ugga,
người không nên để ý riêng đến đối tượng thọ lãnh. Hãy dẹp bỏ ý nghĩ
riêng tư về đối tượng và cố gắng vững tâm, chỉ nghĩ đến toàn thể chư
Tăng để sự bố thí của mình trở thành Tăng thí cao quí. Đức Phật đã
chỉ dạy rõ ràng trong bài kinh Dakkhinā-vibhaṅga - sự bố thí thuộc
loại Tăng thí, được thực hiện khi tâm của người thí chủ hướng đến
toàn thể chúng Tăng và kết quả của việc phước ấy đem lại lợi ích vô
lượng, vô song cho người thí chủ, cho dù người thọ lãnh là người
không có giới. Sự bố thí là Tăng thí khi nó được thực hiện vớí tâm tôn
kính đầy đủ đến Tăng. Nhưng làm như vậy không phải luôn dễ dàng.
Giả sử có người muốn thực hiện Tăng thí, sau khi đã sửa soạn các lễ
vật cúng dường cần thiết, người ấy đi đến tịnh xá và tác bạch với các
vị tỳ khưu như vầy: “Kính bạch chư đại đức Tăng, con muốn tổ chức

một lễ cúng dường đến chư Tăng, cầu xin chư Tăng cắt cử một người
nào đó đại diện cho chư Tăng.” Nếu các vị tỳ khưu cử một vị Sa-di đại
diện cho chư Tăng thì thí chủ có thể không hoan hỷ. Nếu Tăng chọn
một vị trưởng lão cao hạ đại diện, thì thí chủ có thể rất hoan hỷ vui
mừng nghĩ rằng: “Người thọ lãnh của ta là một vị trưởng lão cao hạ -
Sự bố thí bị ảnh hưởng bởi nhân cách của người thọ thí như vậy không
thể là một Tăng thí hoàn hảo.

Chỉ khi nào người ta chấp nhận người đại diện do Tăng cắt cử mà không chút ngờ vực và không quan tâm đến người thọ lãnh là sa-di hay tỳ khưu, tỳ khưu trẻ hay tỳ khưu già, tỳ khưu dốt hay tỳ khưu giỏi, và cúng dường với tâm chỉ nghĩ rằng: “Ta đang cúng dường đến Tăng” với sự tôn kính đầy đủ đến chư Tăng, chỉ khi ấy người kia mới thực hiện sự bố thí cúng dường Tăng.

Câu chuyện về thí chủ dâng cúng tịnh xá

Câu chuyện xảy ra ở bên kia đại dương, tức Ấn Độ. Một vị trưởng
giả nọ sau khi đã dâng cúng tịnh xá, bèn tổ chức một cuộc bố thí cúng
dường đến chư Tăng. Sau khi sắm sửa các lễ vật cúng dường, ông ta
đi đến chúng Tăng và tác bạch với các Ngài như vầy: “Bạch hóa chư
đại đức Tăng, cầu xin các Ngài cử ra một vị nào đó để thọ lãnh lễ vật
cúng dường của con đến Tăng.” Đặc biệt người được chỉ định để đại
diện Tăng thọ lãnh vật thí là một vị tỳ khưu không có giới. Dầu vị
trưởng giả biết rõ vị tỳ khưu được chỉ định không có giới, nhưng ông
ta đối xử với vị ấy một cách tôn kính hết mức - chỗ ngồi dành cho vị
tỳ khưu được sửa soạn rất trang trọng với một chiếc lọng che ở trên,
lại có hoa thơm và các hương liệu khác, ông ta rửa chân cho vị tỳ
khưu kia rồi thoa dầu thơm với cử chỉ rất tôn kính tựa như ông ta đang
hầu hạ kim thân của Đức Phật. Rồi ông ta cúng dường vật thí đến vị tỳ
khưu với lòng tôn kính sâu sắc đến chúng Tăng.

Chiều hôm ấy, vị tỳ khưu phi giới đến nhà của ông ta, đứng trước
cửa nhà hỏi mượn cái cuốc để làm việc chùa. Vị thí chủ của tịnh xá
chẳng thèm đứng dậy khỏi chỗ ngồi, ông ta dùng chân hất cái cuốc tới
trước mặt vị tỳ khưu. Những người trong gia đình tò mò hỏi ông ta:
“Thưa ông chủ, sáng nay ông đã tôn kính vị tỳ khưu này biết bao. Bây
giờ ông lại cư xử với vị ấy chẳng chút tôn kính nào cả. Tại sao ông có

những thái độ trái ngược như vậy đối với vị tỳ khưu này?” Vị gia chủ
đáp lại rằng: “Này các con thân, sáng nay ta đã tỏ sự tôn kính đến
Tăng chứ không phải đến vị tỳ khưu phi giới này.”

Một số điểm đáng chú ý về Puggalika-dāna (Cá nhân thí)
                      và Sanghika-dāna (Tăng thí)

Có một số người chủ trương rằng khi có vị tỳ khưu đi khất thực trước nhà một Phật tử mà người Phật tử này đã biết vị tỳ khưu kia không có giới, hạnh kiểm xấu thì sẽ không cúng dường đến vị tỳ khưu kia. Vì sự cúng dường cho vị tỳ khưu không có giới cũng giống như bón phân tưới nước cho cây độc.

 

Nhưng không thể nói rằng mọi hành động bố thí có tác ý đến những
người phi giới là đáng trách. Điều cần xét đến ở đây là sự tác ý của
người cho. Nếu người cho tán thành những thói xấu của người thọ thí,
và cho với chủ ý ủng hộ và khích lệ những pháp hành phi đạo đức của
người thọ thí, chỉ khi ấy sự bố thí của ông ta mới giống như vun phân,

tưới nước vào cây độc. Nếu người cho không tán thành những thói
xấu của người thọ thí, và không có tâm khuyến khích vị ấy tiếp tục
những pháp hành tà vạy. Nếu người thí chủ thực hiện sự bố thí cúng
dường theo cách của người thí chủ dâng cúng tịnh xá như đã mô tả
trên, thì nó trở thành Tăng thí đúng nghĩa, không có sự chê trách nào
đối với sự bố thí cúng dường như vậy.

Lại nữa, có một số người chủ trương rằng người thọ thí có giới hành tốt hay xấu, thì chẳng liên quan gi đến sự bố thí của thí chủ. Nó chỉ liên quan đến người thọ thí. Do đó cứ giữ tâm không phân biệt đối với hạnh kiểm của người thọ thí, dù tốt hay xấu, người cho chỉ bố thí với tâm như vầy: “Đây là một bậc Thánh.” Họ cho rằng sự bố thí ấy vô tội và có kết quả dồi dào y như sự bố thí cúng dường đến một vị A-
la-hán. Quan điểm này không đứng vững.

Các đệ tử của các vị thầy không có khả năng biết được vị thầy có phải là Thánh hay A-la-hán không? Nhưng cứ mù quáng tin vào ông thầy của họ là bậc Thánh, bậc A-la-hán.

Loại tà kiến này được gọi là Tà kiến Thắng giải (Micchādhimokkha

- sự quyết đoán hay kết luận sai lầm). Kết luận sai lầm hay quyết định sai lầm quả thật là tội lỗi. Là quyết định sai lầm nếu người ta nuôi ý nghĩ rằng: “Đây là những bậc Thánh, bậc A-la-hán đã giác ngộ.” trong khi người ta biết rằng họ không phải như vậy.

Khi đối mặt với những người thọ thí như vậy trong lúc bố thí cúng
dường, thái độ thích hợp trong tâm là: “Các vị Bồ-tát khi thực hành bố
thí Ba-la-mật không phân biệt các hạng người có địa vị bậc cao, bậc
trung hoặc bậc thấp. Ta cũng theo gương các vị Bồ-tát ấy và bố thí
một cách không phân biệt đến bất cứ ai đến xin vật thí của ta. Bằng

 

cách này, sự bố thí sẽ không có khuynh hướng ủng hộ và cổ vũ những
pháp hành xấu ác và cũng sẽ không bị xem là “ Quyết định sai lầm đối
với người thọ thí.” Hành động bố thí như vậy sẽ không lỗi lầm hay
đáng chê trách.

Nhiều điểm tranh luận và nhiều vấn đề sanh khởi trong những
trường hợp bố thí đến cá nhân bởi vì có nhiều loại cá nhân khác nhau,
tốt hoặc xấu. Trong trường hợp cúng dường đến Tăng - Tăng thí, chỉ
có một loại Tăng, không có tốt và xấu. (Ở đây những vị Thánh Thinh
văn đệ tử của Đức Phật được ám chỉ đến). Trong số Thánh Tăng,
không có sự phân biệt cao, trung hoặc thấp. Tất cả các Ngài đều cao
quí như nhau. Do đó, theo như đã giải thích ở trên, bất cứ khi nào có
một người khất thực xuất hiện, không cần xét đến hạnh kiểm của
người thọ thí, ta nên bố thí cúng dường với ý nghĩ rằng: “Ta bố thí
cúng dường đến các đệ tử của Đức Phật, hội chúng tỳ khưu bậc
Thánh.” Khi ấy sự bố thí những thuộc loại Tăng thí và người thọ thí là
Tăng. Người thọ thí ấy nói đúng hơn chỉ là người đại diện của Tăng.
Dù người thọ thí có giới hạnh thấp như thế nào chăng nữa, người thọ
thí vẫn là Thánh Tăng. Và vì thế, đây thực là sự bố thí cao quí. Có một
số người cho rằng rất khó thực hành theo lời khuyên là đừng quan tâm
đến nhân cách của người thọ thí phi giới đang xuất hiện trước mặt
mình, và bố thí chỉ nghĩ tới Tăng mà không nghĩ tới vị ấy, chỉ xét vị
ấy là đại diện của Tăng. Điều khó khăn là người ta chưa quen với cách
thực hành như vậy. Như khi tụng kinh lễ bái trước tượng Phật, người
ta xem pho tượng ấy tượng trưng cho Đức Phật thực sự, và sự lễ bái
cúng dường đến pho tượng như đến Đức Phật, thật sự là điều quen
thuộc, không khó khăn gì.

Cũng như gia chủ Ugga trong thời Đức Phật và như người dâng cúng tịnh xá Jambu Dipa đã quen bố thí cúng dường đến vị tỳ khưu phi giới mà vẫn duy trì được ý nghĩ đó là đại diện của Đức Phật. Cũng vậy những người Phật tử hiện nay nên rèn luyện cách suy nghĩ cho quen với thái độ như vậy.

Bốn loại Tăng thí được mô tả trong tạng Luật (Vinaya Pitaka)

 

Bốn loại Tăng thí được mô tả trong tạng Luật ở đây không liên quan đến thí chủ thuộc hàng cư sĩ tại gia. Chỉ có bảy loại Tăng thí ở trên dành cho họ mà thôi. Sự phân loại của tạng Luật, dành cho chư Tăng để các Ngài biết cách phân chia vật cúng dường trong các thành viên của Tăng. Bốn loại Tăng thí này là:

(a) Sammukhībhūta Saṅghika (Hiện tiền Tăng già): Những vật
cúng dường được phân phối trong chúng Tăng có mặt tại chỗ. Giả sử
có một lễ dâng y ở một nơi nào đó trong thị trấn hoặc làng mạc. Ở đó
có một số tỳ khưu tụ hội, và lễ cúng dường được thực hiện đến toàn
thể Thánh Tăng bằng câu nói: “Con xin cúng dường đến Tăng.” Rất
khó để trao đến tất cả chư Tăng ở trong thị trấn hoặc làng mạc. Do đó,
sự phân phối được thực hiện cho chúng Tăng có mặt tại chỗ.
(Sammukhībhūta: có mặt tại chỗ;  Saṅghika:thuộc về Tăng.)

(b)   Ārāmaṭṭha Saṅghika (Già lam Tăng già): Vật thí được phân
phối trong chúng Tăng ngụ trong toàn thể khu vực của tịnh xá. Giả sử
có một thí chủ vào bên trong khu vực của tịnh xá và cúng dường y
phục đến một vị tỳ khưu hoặc các vị tỳ khưu mà ông ta gặp với lời tác
bạch rằng: “Con xin cúng dường đến Tăng.” Vì sự cúng dường được
thực hiện bên trong khu vực của tịnh xá, không phải đến tất cả các vị

tỳ khưu ở vùng chung quanh. (Ārāmaṭṭha: nơi cư ngụ; Saṅghika:
thuộc về Tăng)

(c)    Gatagata Saṅghika (Đáo lai Tăng già): Vật thí thuộc về chư
Tăng tại bất cứ chỗ nào mà họ đến. Giả sử có một thí chủ đi đến tịnh

xá, nơi mà chỉ có một vị tỳ khưu trú ngụ và cúng dường một trăm bộ y
với lời tác bạch rằng: “Con xin dâng đến Tăng.” Nếu vị tỳ khưu rành
Luật, vị ấy có thể sở hữu tất cả y cúng dường ấy cho mình bằng sự
nhận xét như vầy: “Hiện tại, ở tịnh xá này, ta là Tăng duy nhất. Do đó
tất cả một trăm bộ y này thuộc về ta và ta sở hữu chúng.” Theo Luật
thì vị ấy có quyền làm như vậy, vị ấy không phạm lỗi là độc chiếm đồ
cúng dường đến Tăng. Nếu vị tỳ khưu không rành Luật, vị ấy sẽ
không biết cách làm như vậy, quyết định đại rằng “Ta là chủ nhân duy
nhất. Ta sở hữu chúng.” Giả sử vị ấy đi đến một nơi khác mang theo

 

bên mình những bộ y ấy và các vị tỳ khưu mà vị ấy gặp sẽ hỏi vị ấy tại
sao có nhiều y như thế. Nếu các vị tỳ khưu kia biết được vấn đề và đòi
chia y, nói rằng: “Chúng tôi cũng có phần” và kết quả là tất cả y được
chia đến tất cả các vị tỳ khưu. Khi ấy sự chia y này được xem là
phương pháp tốt. Giả sử vị tỳ khưu kia không chia mà vẫn đi tiếp và
gặp những vị tỳ khưu khác. Những vị tỳ khưu này cũng đòi chia y. Cứ
như vậy vị tỳ khưu mang y đến đâu cũng bị các vị tỳ khưu ở đó đòi
chia y. (
Gatagata: bất cứ chỗ nào mà người ta đến, saṅghika: thuộc về
Tăng.)

(d)   Catuddisā Saṅghika (Tứ phương Tăng già): Vật cúng dường thuộc về tất cả tỳ khưu đến từ bốn phương. Những vật cúng dường như vậy bao gồm những vật thí nặng và quan trọng, cần phải xử lý bằng nhiều cách khác nhau, ví dụ: các tịnh xá. Các tịnh xá không được phân chia mà để chư Tăng từ bốn phương đến ở. (Catuddisā: từ bốn phương, Saṅghika: thuộc về Tăng)

Không quan tâm đến bốn cách này đã được nêu ra trong Tạng luật để
có biện pháp phân biệt sở hữu chủ và phân phối những vật cúng
dường đến Tăng, một số tỳ khưu đã sử dụng những vật cúng dường
theo Luật này khi những thiện tín cúng dường. Ví dụ: giả sử có một số
thí chủ khởi tâm tịnh tín đến một vị tỳ khưu nọ, đã xây dựng nên một
tịnh xá không có ý định dành cho vị tỳ khưu kia mà dành cho toàn thể
Tăng. Trong lễ rót nước bố thí, vị thí chủ thỉnh mười vị tỳ khưu gồm
cả vị tỳ khưu kia. Sau thời tụng kinh Paritta, đến lúc thí chủ nói lời tác
bạch, vị tỳ khưu muốn thí chủ dâng nó đến cá nhân nhưng thí chủ
muốn dâng nó đến Tăng vì vị ấy tin rằng sự cúng dường như vậy thù
thắng hơn và phước báu nhiều hơn. Hội chúng bèn giải quyết sự bất
đồng ý kiến giữa thí chủ và vị tỳ khưu kia bằng cách yêu cầu thí chủ
dâng cúng với lời tác bạch rằng: “Con xin dâng tịnh xá này đến Tăng
có mặt ở đây và bây giờ (
Sammukhibhūta Saṅghika).” Rồi chín vị tỳ
khưu trong hội chúng nói với vị tỳ khưu còn lại rằng: “Chúng tôi từ bỏ
tất cả quyền sở hữu của chúng tôi đối với tịnh xá và xin dâng lại cho
Ngài,” nhường lại tịnh xá cho vị tỳ khưu ấy và ra đi.

 

Theo cách này, những thủ tục như vậy có thể được thực hiện, tin
rằng ước nguyện làm Tăng thí của thí chủ được thành tựu và người
thọ nhận muốn sở hữu riêng cũng hoan hỷ, vì chín vị tỳ khưu có cùng
quyền sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu tịnh xá và trao quyền sở hữu độc
nhất cho vị tỳ khưu ấy.

Nhưng trên thực tế, thủ tục như vậy không hợp pháp và không nên
làm theo. Vật thí về tịnh xá là vật quan trọng. Mười vị tỳ khưu được
thí chủ dâng tịnh xá đến không được phép chỉ định cho bất cứ vị tỳ
khưu nào trong nhóm. Vật thí của thí chủ là vật thí dâng đến mười vị
tỳ khưu đang hiện diện trong trường hợp đó mà thôi, chứ không phải

toàn thể chư Tăng.

 

 

20. Akāla-dāna /  Kāla-dāna (Bất định kỳ bố thí/ Định kỳ bố thí)

Akāla-dāna (Bất định kỳ bố thí) là tất cả những sự bố thí được thực hiện tùy hứng không liên quan đến thời gian đặc biệt nào.

Kāla-dāna (Định kỳ bố thí) là sự bố thí xảy ra trong những trường hợp đặc biệt.

Sự cúng dường y Kaṭhina suốt một tháng sau mùa an cư kiết hạ của chư Tăng, cúng dường y bắt đầu mùa an cư, bố thí vật thực riêng dành cho tỳ khưu bịnh, tỳ khưu ở phương xa đến, tỳ khưu lên đường đi xa là những sự bố thí xảy ra trong những trường hợp đặc biệt với mục đích đặc biệt  được gọi là Định kỳ bố thí.

Định kỳ bố thí có phước lớn hơn Bất định kỳ bố thí bởi vì sự bố thí ấy đáp ứng được nhu cầu đặc biệt trong thời gian đặc biệt. Nhân của Định kỳ bố thí sẽ cho quả đặc biệt vào lúc người ta cần đến. Ví dụ: Nếu người thí chủ muốn ăn một món đặc biệt nào đó thì ước muốn của ông ta sẽ được thành tựu ngay. Cũng vậy, nếu ông ta muốn có y phục đặc biệt để mặc thì ông ta sẽ nhận được chúng.

 

21. Paccakkha Dāna / Apaccakkha Dāna

(Sự bố thí có mặt thí chủ / Sự bố thí vắng mặt thí chủ)

Paccakkha-dāna (Sự bố thí có mặt thí chủ): Chữ Pāḷi - Paccakkha do
hai chữ patiakkha kết hợp - pati nghĩa là theo hướng, akkha nghĩa
là ngũ căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Dù chữ paccakkha thường được
hiểu là “trước mắt”, nghĩa đầy đủ của nó là “có thể biết được bằng các
căn”. Như vậy paccakkha-dāna có nghĩa rộng hơn, không chỉ là loại
bố thí mà thí chủ thấy tận mắt mà còn kể luôn cả những căn khác,
nghĩa là nghe được, ngửi được và sờ mó được nó. Về vấn đề này, cần
lưu ý rằng những sự bố thí có mặt thí chủ, paccakkha-dana, không
hẳn giống như sự bố thí tận tay (sāhatthika-dāna). Apaccakkha-dāna
(Sự bố thí vắng mặt thí chủ) là những sự bố thí có mặt thí chủ, theo
yêu cầu của thí chủ mà không do chính tay thí chủ cúng dường là
thuộc loại anattikadāna, sự bố thí theo yêu cầu của thí chủ.

 

 

23. Sadisa-dāna / Asadisa-dāna (Đẳng thí / Vô song thí)

Sadisa-dāna (Đẳng thí) là sự bố thí mà người khác cũng có thể làm. Asadisa-dāna (Vô song thí) là sự bố thí mà không ai có thể theo kịp. Khi những sự bố thí được thực hiện trong tinh thần tranh đua, các thí chủ thường ra sức làm trội hơn vị thí chủ trước về lượng cũng như về chất. Trong những cuộc bố thí thi đua như vậy, những sự bố thí tỏ ra vô song, không ai theo nổi thì được gọi là Vô song thí.

Theo Chú giải Pháp cú kinh như đã giải thích trong câu chuyện về
Vô song thí ở phẩm Lokavagga, chỉ một thí chủ làm được Vô song thí
trong suốt thời kỳ của mỗi vị Phật. Câu chuyện được kể ra như sau:

Một thời nọ, Đức Thế Tôn sau khi đi chu du hoằng pháp, có 500 vị
A-la-hán tháp tùng, đã về lại Jetavana Tịnh Xá. Vua Pasenadi của
nước Kosala tỏ sự tôn kính Đức Thế Tôn và 500 đệ tử của Ngài bằng
cách thỉnh Đức Thế Tôn và chúng Thinh văn đệ tử đến hoàng cung và
cúng dường long trọng đến các Ngài. Vua cũng cho mời dân chúng ở

thành Sāvatthi đến dự lễ cúng dường của nhà vua để họ có thể xem và
tùy hỷ với phước báu của vua. Ngày hôm sau, dân chúng của thành
Sāvatthi vì muốn trội hơn đức vua, bèn đem tất cả những thứ quí giá
nhất trong khắp thành phố và tổ chức một lễ bố thí cúng dường vượt

trội những vật thí của đức vua dâng đến Đức Phật và chúng Tăng. Họ
mời đức vua đến dự lễ của họ để quan sát và tùy hỉ việc phước của họ.
Chấp nhận sự thách thức của dân chúng, ngày hôm sau đức vua tổ
chức một cuộc lễ cúng dường khác trội hơn. Dân chúng cùng đức vua
cứ thi đua nhau như vậy, tổng cộng đã có sáu lễ bố thí cúng dường mà
vẫn chưa đến hồi kết thúc.

Đến vòng thi thứ bảy, đức vua suy nghĩ một cách tuyệt vọng: “Thật
rất khó để vượt trội sự cố gắng của dân chúng trong vòng thi thứ bảy
này, và đời sống sẽ trở nên vô nghĩa nếu ta, người cai trị toàn xứ sở
mà để thua những người ở dưới quyền cai trị của mình. Để an ủi đức
vua, hoàng hậu Mallikā đã nghĩ ra một phương sách bố thí cúng
dường mà dân chúng không thể nào địch lại được. Nàng cho dựng lên
một cái giả ốc lớn: 500 vị A-la-hán đại đệ tử của Đức Phật sẽ ngồi
trong giả ốc ấy có 500 vị hoàng tử đứng quạt hầu và tưới nước thơm
trong khắp giả ốc. Ở sau lưng 500 vị A-la-hán sẽ có 500 con voi đang
quì và dùng vòi giữ 500 cái lọng che cho các Ngài.

Theo sự sắp xếp trên, người ta thấy thiếu một con voi thuần hóa
mới đủ 500 con. Vì vậy, họ để một con voi hoang, hung dữ ở sau lưng
tôn giả Aṅgulimāla và bắt nó giữ cái lọng trắng như những con voi
khác. Mọi người đều ngạc nhiên, sửng sốt khi thấy con voi dữ này
cũng tham dự trong cuộc lễ và cầm chiếc lọng che tôn giả Aṅgulimāla
một cách ngoan ngoãn.

Sau khi dâng cúng vật thực đến chúng Tăng, đức vua tuyên bố rằng: “Trẫm đã cúng dường tất cả mọi thứ trong cái giả ốc này, những thứ được phép và những thứ không được phép.” Nghe lời tuyên bố này, dân chúng phải chấp nhận thua cuộc vị họ không có các hoàng tử, lọng trắng và những con voi như thế.

Như vậy thí chủ của Vô song thí trong thời kỳ của bậc Tối thượng
trong ba cõi - Đức Phật Gotama, là vua Pasenadi của nước Kosala.
Cần lưu ý rằng mỗi vị Phật khác cũng có một thí chủ Vô song thí.

Chấm dứt Chương về Bố thí gồm những Nhóm Hai



Bố thí Nhóm Ba

1) Bố  thí  cũng  có  thể  chia  làm 3  bực:  Hạ  (Hīna),  Trung
(Majjhima) và Thượng (Paṇīta). Mức độ của hành động thiện tùy
thuộc vào sức mạnh của ý định (chanda), trạng thái tâm (citta), sự tinh
tấn (
viriya) và trí suy xét hay tư duy (vimaṃsā) trong hành động thiện
ấy. Khi bốn yếu tố này yếu thì sự bố thí được xem là thuộc bậc hạ.
Khi chúng ở mức trung bình thì sự bố thí thuộc bậc trung. Khi tất cả
các yếu tố đều mạnh, sự bố thí được xem là thuộc bậc thượng.

2) Khi hành động bố thí được thúc đẩy bởi ước muốn được danh
tiếng và sự khen ngợi, nó thuộc bậc hạ. Khi mục đích của sự bố thí là
được cuộc sống hạnh phúc trong cõi người hoặc cõi chư thiên thì nó
thuộc bậc trung. Nếu sự bố thí được làm để tôn kính các bậc Thánh
hoặc chư vị Bồ-tát về gương bố thí của các Ngài thì đó là sự bố thí thù
thắng thuộc bậc thượng.

Có nhiều bài kinh trong kinh tạng Pāḷi đã nêu ra những công viên
và những tịnh xá được đặt tên của thí chủ. Ví dụ: Jetavana - khu vườn
của  hoàng  tử  Jeta;  Anāthapiṇḍikārāma -  tịnh  xá  do  trưởng  giả
Anāthapiṇḍika  dâng  cúng;  Ghositārāma -  tịnh  xá  do  trưởng giả
Ghosita dâng cúng. Hệ thống tôn danh này được các vị trưởng lão
trong cuộc Kiết tập lần thứ nhất chấp hành, với ý định khích lệ những
người khác theo gương những vị thí chủ ấy và gặt hái phước báu cũng
dồi dào như vậy. Thế nên, các thí chủ thời nay khi làm những việc bố
thí như vậy, thường khắc tên của họ trên những tấm đá. Nhờ vậy, họ
luôn được nhắc nhở và có chánh niệm, không phải vì muốn được danh
tiếng mà để làm gương cho người khác noi theo.

3) Khi thí chủ nguyện được cuộc sống hạnh phúc trong cõi người hoặc cõi chư thiên, sự bố thí của ông ta thuộc bậc hạ. Khi ước nguyện là sự chứng đắc pháp Giác ngộ của vị Thinh văn hay Độc giác Phật thì sự bố thí thuộc bậc trung. Khi ước nguyện của thí chủ là Nhất thiết trí, sự bố thí của người ấy thuộc bậc thượng. Chữ Giác ngộ - Bodhi: Trí của một trong bốn thánh đạo. Các bậc trí ngày xưa đã khuyên rằng, sự bố thí giúp thành tựu sự giải thoát luân hồi (Vivattanissita).  Ta đừng bao giờ bố thí cho qua mà không có ước nguyện đi kèm. Nên phát nguyện thành tựu một trong ba loại giác ngộ.

4) Lại nữa có ba hình thức bố thí khác, đó là Nô lệ bố thí (Dāna-
dāsa
),  Bằng hữu bố thí (Dāna-sahāya) và Cung kỉnh bố thí (Dāna-
sāmi).

Trong đời sống hằng ngày, người ta thường dùng những thứ tốt và
cho người hầu kẻ hạ những thứ xấu hơn. Cũng thế, nếu người ta bố thí
những thứ có phẩm chất kém hơn thứ mà người ta dùng cho chính
mình thì sự bố thí ấy thuộc bậc hạ - Nô lệ bố thí (
Dāna-dāsa). Trong
đời sống hằng ngày, người ta thường tặng bạn bè những thứ mà họ
đang sử dụng, nếu bố thí những thứ có phẩm chất bằng với những
món đồ mình đang sử dụng thì sự bố thí ấy thuộc bậc trung - Bằng

hữu bố thí (Dāna-sahāya). Trong đời sống hằng ngày, người ta dâng
tặng đến những bậc trưởng thượng các món quà có phẩm chất tốt hơn
những thứ họ thường dùng. nếu người ta dâng vật thí có phẩm chất
như thế thì sự bố thí ấy thuộc bậc thượng - Cung kỉnh bố thí (Dāna-
sāmi).

5) Có ba loại pháp thí - Dhamma-dāna (sự phân loại dựa vào ý
nghĩa của chữ pháp Dhamma dành cho mỗi loại): Loại pháp thứ nhất -
Dhamma” được kết hợp với Āmisa dhamma-dāna, tức là Pháp thí.
Đó là những cuốn sách chứa lời kinh hay những ngọn lá bối có ghi lời
kinh. Trong sự phân loại này, “Pháp” chính là những bài kinh, là giáo
pháp (Pariyatti Dhamma) được Đức Phật giảng dạy và được ghi lại
trên những lá cọ hay những cuốn sách. Do đó, Pháp thí ở đây có nghĩa
là sự giảng dạy những bài kinh hoặc trao kiến thức trong những lời

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                177

dạy của Đức Phật đến mọi người. Pariyatti là vật thí, là cái được cho
đi, người nghe là người thọ lãnh và người thuyết giảng là người bố thí.

(Trong loại pháp thí thứ hai, chữ “dhamma” ám chỉ đến pháp được
bao gồm trong sự phân loại của tạng Abhidhamma về các sự bố thí
thành sáu loại, đó là rūpa-dāna, sadda-dāna, gandha-dāna, rasa-
dāna, phoṭṭhabba-dāna, dhamma-dāna. Chữ dhamma trong trường
hợp đặc biệt này được giải thích là tất cả mọi thứ hình thành đối tượng
của tâm, gọi là cảnh pháp. Cảnh pháp gồm có: (1) ngũ căn (
pasāda-
rūpa), (2) mười sáu loại sắc vi tế (sukhuma-rūpa), (3) tám mươi chín
loại tâm (citta), (4) năm mươi hai sở hữu tâm (cetasika), (5) Niết bàn
và (6) các khái niệm hay pháp chế định (paññatti). Trong kinh
Pariyatti dhamma, chữ dhamma nghĩa là “cao quí hay thánh thiện”. Ở
đây nó có nghĩa là “sự thực cùng tột”.

Pháp thí thuộc loại này được làm bằng cách giúp đỡ những người
có vấn đề về các căn. Ví dụ: Thị lực yếu, thính lực yếu, giúp người ta
phục hồi thị lực là cakkhu (dhamma) dāna, giúp họ phục hồi thính lực
sota (dhamma) dāna, v.v... Sự bố thí nổi bậc nhất trong loại này là
jīvita-dāna - làm Tăng tuổi thọ cho kẻ khác. Những sự bố thí còn lại
cũng tương tự như vậy, như gandha, rasa, phoṭṭhabba dhamma.

Trong loại pháp thí thứ ba, chữ dhamma ở đây ám chỉ Pháp bảo
trong Tam bảo, tức là Phật, Pháp và Tăng. Như ở loại pháp thí thứ hai,
Pháp ở đây nghĩa là lời dạy của Đức Phật. Trong khi đó ở loại thứ hai,
“Pháp” là vật thí, người nghe pháp là kẻ thọ lãnh. Ở loại thứ ba này,
Pháp là một phần trong Tam bảo, là người thọ nhận những lễ vật cúng
dường như hương hoa, dầu, đèn, v.v... Khi Phật bảo và Tăng bảo trở
thành những người thọ nhận, thì Pháp bảo cũng trở thành người thọ
nhận những lễ vật cúng dường.

Câu chuyện sau đây là một ví dụ: Thuở Đức Phật ngụ tại Jetavana
tịnh xá trong thành Savatthi. Lúc bấy giờ, một vị trưởng giả nọ có
niềm tin với Giáo pháp, ông ta tự nghĩ: “Ta đã thường xuyên cúng
dường vật thực, y phục, v.v… đến Đức Phật và chư Tăng, nhưng ta

 

chưa bao giờ dâng lễ vật cúng dường đến Pháp bảo. Bây giờ là lúc để ta cúng dường Pháp.” Với ý nghĩ như vậy, ông ta đi đến Đức Phật và hỏi cách cúng dường Pháp.

Đức Thế Tôn đáp lại rằng: “Nếu ông muốn cúng dường Pháp, ông nên dâng vật thực, y phục, v.v… đến vị tỳ khưu đã rành mạch trong Pháp mà vị ấy đã giác ngộ.”

Khi vị trưởng giả hỏi Đức Thế Tôn xem vị tỳ khưu nào thích hợp
để thọ lãnh sự cúng dường như vậy, Đức Phật bảo ông ta hãy hỏi chư
Tăng. Chư Tăng bảo ông ta cúng dường đến tôn giả Ānanda. Thế nên,
ông ta thỉnh tôn giả Ānanda về nhà để cúng dường vật thực, y phục,
v.v… với ý nghĩ cúng dường Pháp mà tôn giả Ānanda đã giác ngộ.
Câu  chuyện  này  được  mô  tả  trong  phần  giới  thiệu  Bổn  sanh

Bhikkhāparampara, Bổn sanh thứ mười ba của Pakinnaka Nipāta.

Theo câu chuyện ấy, vị trưởng giả là thí chủ, vật thực, y phục,
v.v… là vật thí và Pháp ở trong người tôn giả Ānanda là kẻ thọ nhận
vật thí.

Vị gia chủ này không chỉ là người duy nhất đã cúng dường như
vậy. Trong thời của Đức Phật, với tâm nghĩ đến pháp là người thọ

nhận lễ vật cúng dường, Kinh tạng cũng có kể về đại đức Sirī
Dhammāsoka (Asoka), là người đã tỏ sự tôn kính pháp bằng cách xây
dựng 84 ngàn tịnh xá, mỗi tịnh xá cúng dường đến một pháp môn
(Dhammakkhandha) trong 84 ngàn pháp môn hình thành Giáo pháp
của Đức Phật.

Sau khi nghe cuộc bố thí vĩ đại của vua Asoka, nhiều người ao ước
bắt chước nhà vua trong việc cúng dường như vậy. Theo gương nhà
vua một cách phù hợp là quan trọng, động cơ thật sự của vị vua này
không chỉ cúng dường các tịnh xá mà còn là việc đảnh lễ nhóm Pháp
bảo một cách cá nhân. Đối với nhà vua xây dụng tịnh xá chỉ là cách
cúng dường vật thí. Những đại thí chủ ước theo gương của nhà vua

Asoka, nhớ rằng khi xây dựng tịnh xá không chỉ cúng dường vật thí
hay ý muốn danh tiếng - mục đích duy nhất là đảnh lễ Tam bảo.

Ý nghĩa của những Pháp thí này sẽ rất bổ ích nếu người ta nhớ đến
tầm quan trọng của Pháp. Nhà Chú giải vĩ đại, đại đức Mahā
Buddhaghosa đã kết luận trong tác Phẩm Aṭṭhasālinī của Ngài, Chú
giải của bộ Dhamma-saṅganī, bộ sách thứ nhất của tạng Abhidhamma.
bằng nguyện vọng: “Cầu mong Chánh pháp tồn tại lâu dài. Cầu mong
tất  cả  chúng  sanh  đều  tôn  kính  Chánh  pháp -
 Ciraṃ  tiṭṭhatu
saddhammo,  dhamme  hotu  sagāravā,  sabbepi  sattā.”  Ngài  ước
nguyện như vậy vì Ngài đã biết rất rõ vai trò quan trọng của chánh
pháp. Ngài giác ngộ ra rằng chừng nào Giáo pháp còn tồn tại thì lời
dạy của Đức Phật không thể bị phai mờ quên lãng và mọi người tôn
kính Pháp sẽ tỏ sự tôn kính Giáo pháp và thực hành theo. Và Đức Phật
đã dạy rằng: “Chỉ những ai thấy Pháp mới thấy Như Lai.” Và gần cuối
cuộc đời, Đức Phật đã dạy rằng: “Sau khi Như Lai viên tịch, giáo pháp
sẽ là Đạo sư của các ngươi -
So vo mamaccayena satthā.”

Do đó mọi người nên cố gắng trau dồi loại Bố thí pháp (Dhammadāna) thứ ba này.

6) Ba loại bố thí khác là Dukkara-dāna - Nan hành thí (sự bố thí khó làm); Mahā-dāna -  Đại thí ; Sāmaññā-dāna - Bình thường thí  những sự bố thí không quá khó làm cũng không quá phi thường).

Sự bố thí của Dārubhaṇḍaka Tissa là ví dụ về Dukkara-dāna được kể lại trong Chú giải của phẩm thứ 28 thuộc Ekadhammajhāna, Ekakanipāta, Tăng chi bộ.

Câu chuyện về sự bố thí của Dārubhaṇḍaka

Có một người đàn ông nhà nghèo nọ sống tại ngôi làng Mahāgāma
của nước Sri Lanka, và kiếm sống bằng nghề đốn củi. Tên của ông ta

là Tissa, nhưng vì ông ta sống bằng nghề đốn củi nên người ta gọi ông
ta là Dārubhaṇḍaka Tissa (Tissa, người có tài sản duy nhất là củi).

Một hôm nọ, ông ta nói với vợ rằng: “Cuộc sống của chúng ta quá
nghèo khổ, thấp thỏi. Dầu Đức Phật đã giảng dạy về những lợi ích của
sự bố thí đều đặn (
nibaddha-dāna) nhưng chúng ta không làm sao có
thể thực hành cho được. Tuy nhiên, chúng ta có thể làm được một việc

là bố thí định kỳ mỗi tháng hai lần, và khi chúng ta có khả năng nhiều
hơn  thì  chúng  ta  sẽ  cúng  dường  vật  thực  tốt  hơn  bằng  thẻ
(salākabhatta).” Vợ của ông ta đồng ý với đề nghị của chồng và họ
bắt đầu bố thí vật thực trong ngày hôm sau theo khả năng của họ.

Thời ấy người ta cúng dường vật thực tốt đến các vị tỳ khưu rất dồi
dào. Một số tỳ khưu trẻ và Sa-di nhận vật thực từ hai vợ chồng ông
Dārubhaṇḍaka Tissa, nhưng ngay sau đó họ quăng nó đi trước mặt hai
vợ chồng. Người vợ nói với chồng: “Họ đã quăng bỏ vật thực cúng
dường của chúng ta rồi.” Nhưng bà ta không bao giờ có ý nghĩ phật
lòng đối với sự kiện ấy.

Sau đó, Dārubhaṇḍaka Tissa lại bàn với vợ: “Chúng ta quá nghèo,
không thể dâng vật thực làm hài lòng các bậc Thánh. Chúng ta phải
làm gì để làm thỏa mãn các Ngài.” “Những người có con cái thì không
nghèo.” Bà vợ nói như vậy để an ủi, khích lệ người chồng và khuyên
ông ta cho cô con gái đi làm thuê để kiếm ít tiền, Dārubhaṇḍaka nghe
lời khuyên của vợ. Ông ta nhận được mười hai đồng tiền vàng và với
số tiền ấy, ông ta đã mua một con bò sữa. Do tác ý thiện lành của họ,

con bò đã cho rất nhiều sữa.

Vào buổi chiều, họ lấy sữa đem nấu thành sữa và bơ, còn sữa lấy được vào buổi sáng thì vợ ông ta nấu cháo sữa và đem món cháo ấy cùng sữa đặc và bơ, họ cúng dường đến chư Tăng. Bằng cách này, họ cúng dường được món vật thực mà chư Tăng rất hoan hỷ thọ nhận. Từ dạo đó trở đi, vật thí salākabhatta của Dārubhaṇḍaka chỉ dành cho các bậc Thánh có pháp chứng cao.

Một hôm Dārubhaṇḍaka nói với vợ rằng: “Nhờ đứa con gái của
chúng ta mà chúng ta kiếm được một số tiền từ sự tủi nhục này.
Chúng ta đã trở thành hạng thí chủ cúng dường vật thực đến các bậc
Thánh, đem sự hài lòng lớn đến các Ngài. Bây giờ đừng quên phận sự
cúng dường vật thực đều đặn suốt thời gian tôi vắng nhà. Tôi sẽ đi
kiếm việc làm. Tôi sẽ trở về sau khi chuộc lại đứa con gái của chúng

ta.” Rồi ông ta đi làm việc sáu tháng ở một nhà máy đường và dành dụm được mười hai đồng đem về chuộc lại đứa con gái.

Khi khởi sự lên đường vào lúc sáng sớm, ông ta trông thấy đại đức
Tissa  đang  trên  đường  đến  hành  lễ  ở  một  ngôi  chùa  tại  làng
Mahāgāma. Vị tỳ khưu này thực hành hạnh đầu đà đang đi khất thực.
Dārubaṇḍhaka chạy theo vị tỳ khưu, đi sau lưng vị ấy và nghe vị ấy
nói pháp. Khi đến ngôi làng, Dārubaṇḍhaka trông thấy một người đàn
ông đang đi và xách theo một mo cơm. Dārubaṇḍhaka đề nghị ông ta
bán mo cơm với giá một đồng.

Người đàn ông nhận ra rằng chắc phải có một lý do đặc biệt nào đó,
khiến người đàn ông kia mua mo cơm của mình với giá một đồng mà
đáng ra nó không đáng giá một phần mười sáu của một đồng, nên từ
chối không bán với giá một đồng. Dārubaṇḍhaka trả lên hai đồng, ba
đồng và cứ thế cuối cùng ông ta trả hết số tiền có được, nhưng người

đàn ông kia vẫn làm ra vẻ chưa chịu bán (nghĩ rằng Dārubaṇḍhaka vẫn
còn tiền trong người).

Cuối cùng, Dārubaṇḍhaka giải thích với người đàn ông kia rằng:
“Tôi không còn đồng nào ngoài vỏn vẹn mười hai đồng tiền này. Nếu
tôi có nhiều hơn thì tôi cũng cho ông luôn. Tôi mua mo cơm này
không phải cho tôi. Vì muốn cúng dường để bát, tôi đã thỉnh vị tỳ
khưu chờ tôi ở dưới bóng cây kia. Vật thực này sẽ được dâng đến vị tỳ
khưu ấy. Hãy bán mo cơm cho tôi với giá mười hai đồng tiền này và
ông cũng sẽ được phước.”

Cuối cùng, người đàn ông đồng ý bán mo cơm và Dārubaṇḍhaka
cầm mo cơm đi đến vị tỳ khưu với lòng tràn đầy sung sướng. Khi cầm
lấy bát từ tay vị tỳ khưu, Dārubaṇḍhaka đặt phần cơm vào trong đó,
nhưng vị trưởng lão chỉ nhận một nửa phần cơm. Dārubaṇḍhaka khẩn
nài vị tỳ khưu: “Bạch đại đức, phần ăn này chỉ đủ cho một người mà
thôi. Con sẽ không ăn chút nào đâu. Con mang phần ăn này với ý định
dâng hết cho Ngài. Xin Ngài mở lòng bi mẫn nhận hết phần vật thực

 

này.” Nghe vậy, vị trưởng lão để cho Dārubaṇḍhaka trút hết phần vật thực vào trong bát.

Sau khi vị trưởng lão thọ thực xong, họ cùng nhau đi tiếp và vị tỳ
khưu hỏi thăm về Dārubaṇḍhaka. Ông ta kể lại mọi chuyện về ông ta
với vị tỳ khưu một cách rất thật thà. Vị trưởng lão rất kinh cảm trước

lòng tịnh tín mãnh liệt của Dārubaṇḍhaka và vị ấy tự nghĩ: “Người
này đã thực hiện Dukkara-dāna (nan hành thí - sự bố thí khó làm). Sau
khi đã dùng bữa ăn do ông ta dâng cúng trong những hoàn cảnh khó
khăn như vậy, ta đã nợ ông ta rất nhiều và để đáp lại ta phải tỏ lòng tri
ân. Nếu ta có thể tìm một nơi thích hợp, ta sẽ cố gắng hành pháp để
chứng đắc đạo quả A-la-hán trong oai nghi ngồi. Dầu cho tất cả da
thịt, máu của ta khô cạn hết, ta sẽ không rời khỏi tư thế ngồi này cho
đến ta chứng đắc mục tiêu.” Khi họ đến ngôi làng Mahāgāma thì mỗi
người đi theo con đường riêng của họ.

Khi đến tại tịnh xá Tissa Mahāvihāra, trưởng lão được chỉ định một
căn phòng. Ở đó trưởng lão thể hiện sự tinh tấn vượt bực của mình,
quyết tâm không đứng dậy khỏi chỗ ngồi cho đến khi Ngài đoạn diệt
tất cả ô nhiễm và trở thành vị A-la-hán. Vị ấy không đứng dậy đi khất
thực, kiên quyết chuyên tu cho đến rạng sáng của ngày thứ bảy và trở
thành bậc A-la-hán với đầy đủ bốn Tuệ phân tích (Patisambhidā). Rồi
trưởng lão tự nghĩ: “Thân của ta đã yếu quá rồi. Ta không biết còn
sống được bao lâu.” Bằng năng lực thần thông, Ngài biết rằng danh
sắc cấu tạo nên tấm thân này sẽ không còn tiếp tục được bao lâu. Khi
sắp xếp mọi thứ ngăn nắp trong chỗ ngụ, Ngài ôm bát và Tăng-già-lê
đi đến Tăng đường ở trung tâm của tịnh xá và đánh trống triệu tập các
vị tỳ khưu.

Khi tất cả chúng tỳ khưu cu hội lại, vị Tăng trưởng dò hỏi ai đã
triệu tập chúng Tăng. Đại đức Tissa, người thực hành pháp đầu đà (chỉ
đi khất thực), đáp: “Bần Tăng đã đánh trống, thưa Ngài.” “Tại sao
hiền giả làm như vậy?” “Bần Tăng chẳng có mục đích nào khác,
nhưng có vị tỳ khưu nào trong chúng Tăng mà nghi ngờ các pháp

chứng về Đạo và Quả, bần Tăng mong họ hãy nêu ra câu hỏi với bần
Tăng.”

Vị Tăng trưởng bảo với đại đức Tissa rằng không có câu hỏi nào cả
và hỏi lại lý do nào khiến đại đức nhiệt tâm kiên trì, liều cả thân mạng

của mình để thành đạt pháp chứng. Đại đức Tissa kể lại tất cả mọi
chuyện đã xảy ra và công bố rằng Ngài sẽ viên tịch trong ngày hôm
ấy: “Tôi nguyện quan tài của tôi sẽ ở yên bất động cho đến khi người
thí chủ dâng cúng vật thực của tôi, ông Dārubaṇḍhaka, đến và nhấc nó
lên bằng đôi tay của ông ta.” Sau đó trưởng lão viên tịch.

Đức vua Kākavaṇṇatissa quang lâm và truyền lịnh cho những người mai táng của hoàng gia đặt thi thể vào quan tài và khiêng nó lên giàn hỏa táng ở bãi thiêu xác, nhưng họ không thể di dời được nó. Sau khi dò hỏi nguyên nhân, đức vua cho mời Dārubaṇḍhaka đến, cho ông ta mặc y phục xinh đẹp và bảo ông ta nhấc quan tài lên.

Câu chuyện đã kể rõ đầy đủ chi tiết về cách mà Dārubaṇḍhaka dùng thân nhấc bổng quan tài đưa lên đầu và quan tài tự bay bổng lên và đáp xuống giàn hỏa.

Sự bố thí của Dārubaṇḍhaka bao gồm sự hy sinh mười hai đồng tiền một cách dứt khoát, số tiền mà đáng ra được dùng để chuộc lại đứa con gái khỏi thân phận nô tỳ và phải mất sáu tháng mới kiếm được số tiền ấy, quả thật là một việc khó làm và sự bố thí ấy được gọi là Nan hành thí - Dukkara-dāna.

Một ví dụ khác về loại bố thí này được tìm thấy trong câu chuyện
về sa-di Sukha, ở phẩm thứ mười của Chú giải Pháp cú. Trong một
kiếp quá khứ, Sukha là một dân làng nghèo muốn ăn một bữa ăn hảo
hạng của một vị phú hộ. Vị phú hộ Gandha bảo ông ta làm công trong
ba năm để đổi lấy một bữa ăn như vậy. Do vậy, ông ta đã làm công
cho vị phú hộ ròng rã ba năm và có được bữa ăn mà ông ta rất khao

khát. Khi ông ta sắp ăn thì Đức Phật Độc giác xuất hiện. Chẳng chút
do dự, ông ta dâng bữa ăn quí giá ấy đến Đức Phật Độc giác, một bữa

ăn mà ông ta đã từng rất thèm khát và phải bỏ ra ba năm làm công để đổi lấy nó.

Một ví dụ khác được rút ra từ Bổn sanh Ummādantī của bộ Paññāsa Nipāta. Đó là câu chuyện về một cô gái nghèo làm việc trong ba năm để kiếm một bộ áo quần hoa mà nàng rất ao ước. Khi nàng sắp mặc vào người thì một đệ tử của Đức Phật Kassapa đi ngang qua, vị tỳ khưu ấy chỉ che trên người bằng một mớ lá vì y của vị ấy đã bị bọn cướp lấy mất. Nàng đã dâng đến vị tỳ khưu kia bộ y phục mà nàng rất thích, bộ y phục mà nàng phải đi làm công ba năm mới kiếm được. Sự bố thí ấy được gọi là Dukkara-dāna - Nan hành thí.

Những sự bố thí có tầm cỡ lớn, làm khởi dậy sự kinh cảm, đó là
Đại thí - Mahā-dāna. Sự bố thí tám mươi bốn ngàn tịnh xá của đại đế
Sirīdhammasoka để cúng dường tám mươi bốn ngàn pháp môn trong
giáo pháp của Đức Phật được xem là Đại thí. Về vấn đề này, đại đức

Mahāmoggaliputta Tissa đã nói rằng: “Trong thời kỳ giáo pháp của
Đức Phật hoặc ngay cả lúc Đức Phật còn tại tiền, không có ai ngang
bằng đại vương về sự bố thí bốn món vật dụng. Sự bố thí của đại
vương là vĩ đại nhất.”

Dầu đại đức Mahāmoggaliputta Tissa đã nói như vậy, nhưng những
sự bố thí của vua Asoka được làm theo sự chủ động của vị ấy, không
có sự thi đua nên không cần phải phân loại chúng là Sadisa-dāna hoặc
Asadisa-dāna. Sự bố thí của vua Pasenadi Kosala được làm để thi đua
với những người dân trong thành Xá vệ, nên nó được gọi là Asadisa-
dāna (Vô song thí).

Tất cả những sự bố thí khác có tánh chất bình thường, không khó làm cũng không có quy mô lớn, chỉ là những sự bố thí thông thường, được gọi là Samañña-dāna.

Lại nữa, có ba loại pháp thí khác được mô tả trong các bộ luật Vinaya Parivāra và Chú giải của các bộ ấy, đó là:

1.  Cúng dường đến Tăng những vật thí với lời tác bạch dâng cúng
    
đến Tăng.

2. Dâng đến chùa những vật thí với lời tác bạch dâng cúng đến
    
chùa.

3. Cúng dường đến cá nhân những vật thí với lời tác bạch dâng
    
cúng đến cá nhân.

Những sự bố thí này được gọi là Dhammika-dāna - Những vật thí
được dâng cúng liên quan đến Pháp (chi tiết về những loại bố thí này
sẽ được tìm thấy dưới đây về chín loại vật thí của Adhammika-dāna).

 

 

Bố thí Nhóm Bốn

Các bộ kinh không nêu ra loại bố thí nào có bốn chi. Nhưng tạng Luật có liệt kê bốn loại vật dụng được xem như là những vật thí của thí chủ dâng cúng:

1. Cīvara-dāna - Vật thí về y phục

2. Pindapāta-dāna - Vật thí về đồ ăn

3. Senāsana-dāna  - Vật thí về chỗ ngụ

4. Bhesajja-dāna - Vật thí về thuốc chữa bệnh

Bố thí cũng có thể phân thành bốn loại tùy theo sự trong sạch của thí chủ và người thọ thí.

(1)  Sự bố thí mà trong đó thí chủ là người có giới còn người thọ
       
thí thì không.

(2) Sự bố thí mà trong đó người thọ thí có giới còn người bố thí
     
thì không.

(3) Sự bố thí mà trong đó cả thí chủ và người thọ thí đều không có
     
giới.

(4)  Sự bố thí người trong đó cả thí chủ và người thọ thí đều có
       
giới.

 

 

Bố thí Nhóm Năm

Bài kinh Kāladāna  trong phẩm Sumana-vagga, Pañcaka Nipāta, Aṅguttara Nikāya kể về năm loại bố thí hợp thời như sau:

1. Bố thí cho khách mới đến.

2. Bố thí đến người sắp đi xa.

3. Bố thí đến người bịnh.

4. Bố thí trong thời kỳ khan hiếm.

5. Bố thí những thứ trong vụ mùa mới thâu họach đến những bậc có giới đức.

Asappurisa-dāna  -  Năm loại Ác tri thức thí

Có năm loại bố thí được làm bởi những người không có giới đức:

1. Dāna được làm mà không có sự xem xét cẩn thận rằng vật thí
    
được dâng, có sửa soạn đúng pháp hay không, có tươi sạch và

bổ dưỡng không.

2. Dāna một cách hời hợt, hay thiếu tôn kính đúng mức.

3. Dāna không được trao bằng chính tay của mình (Ví dụ: Sự bố thí
     của vua Pāyāsi là sự bố thí không có mặt vua, cho vị quan hầu là

Uttara đứng ra dâng cúng).

4. Dāna như quăng bỏ đồ thừa, và

5. Dāna không có trí hiểu biết rằng, việc thiện được làm bây giờ
    
chắc chắn sẽ cho quả lành trong tương lai (kammassakata ñāṇa).

Sappurisa-dāna - Năm loại Thiện tri thức thí

Có năm loại vật thí được làm bởi những người có giới đức:

1.  Dāna được xem xét cẩn thận và đúng pháp, tươi sạch và bổ
    
dưỡng.

2. Dāna được thực hiện với sự tôn kính đúng mức.

3. Dāna được thực hiện bằng chính đôi tay của mình.

4. Dāna được thực hiện với sự quan tâm đúng mức, không phải như
    hành động quăng bỏ đồ thừa, và

5. Dāna được thực hiện với sự hiểu biết rằng, việc thiện được làm bây
    giờ chắc chắn sẽ cho quả lành trong tương lai.

Hai nhóm bố thí năm chi này được mô tả trong bài kinh thứ bảy của phẩm Tikaṇḍa Vagga, Pañcaka Nipāta, Aṅguttara Nikāya.

Năm loại bố thí khác của bậc thiện tri thức (Sappurisa-dāna)

1. Saddhā-dāna là bố thí được thực hiện với niềm tin nhân quả.

2. Sakkacca-dāna là bố thí được thực hiện sau khi xem xét cẩn thận
    rằng vật thí được dâng cúng có chuẩn bị đúng pháp, tươi sạch và

bổ dưỡng.

3. Kāla-dāna là bố thí được thực hiện đúng lúc, hợp thời  (vật thực
    bố thí được dâng cúng vào giờ ăn, y được dâng cúng trong mùa

Kaṭhina).

4. Anuggaha-dāna là bố thí được thực hiện với tâm tế độ, giúp đỡ.

5. Anupaghāta-dāna là sự bố thí không ảnh hưởng đến lòng tự
   
trọng của chính mình và kẻ khác.

Tất cả năm loại bố thí này đều làm sanh khởi của cải to lớn, sự giàu
có và phát đạt. Saddha-dāna cho kết quả là sắc đẹp, duyên dáng.
Sakkacca-dāna khiến cho có tùy tùng trung thành, biết vâng lời. Kāla-
dāna
khiến cho quả phước trổ đúng thời và dồi dào. Anuggaha-dāna
làm cho người ta thích hưởng quả phước của mình và có thể hưởng
một cách trọn vẹn. Kết quả của Anupaghāta-dāna là tài sản có được sẽ
được bảo vệ một cách vững chắc, không bị năm đại họa tiêu diệt

(nước, lửa, vua quan, trộm cướp và kẻ thù). Sự phân chia năm loại bố thí này từ bài kinh thứ tám của bộ kinh trên.

Những pháp bố thí đối nghịch với năm loại này không thấy kể ra trong các bộ kinh, nhưng có thể nói rằng năm pháp bố thí đối nghịch do những người không có giới đức làm gồm có như sau:

(1) Asaddhiya-dāna: Dāna mà không tin luật nhân quả, chỉ bắt chước
    
làm theo kẻ khác hoặc để khỏi bị chỉ trích, chê bai (những sự bố thí

như vậy cũng đem lại của cải và sự giàu sang cho thí chủ nhưng không đem lại sắc đẹp).

(2) Asakacca-dāna: Dāna không xem xét cẩn thận rằng vật thí có
    
được dâng hợp pháp hay không, có tươi sạch và bổ dưỡng không

(của cải và sự thịnh đạt sẽ phát sanh từ những sự bố thí như vậy
nhưng thí chủ sẽ không nhận được sự kính nể và vâng lời của
người dưới).

(3) Akāla-dāna: Dāna phi thời  sẽ đem lại của cải nhưng lợi ích
    
không dồi dào và sẽ không trổ quả vào lúc cần đến.

(4) Ananuggaha-dāna: Dāna như là trách nhiệm, không có tác ý giúp
     đỡ hay tôn kính người thọ nhận. Người bố thí có thể được giàu

sang do những sự bố thí như vậy, nhưng người này sẽ không thích thọ hưởng của cải của mình.

(5) Upaghātadāna-dāna: Dāna làm tổn thương chính mình và kẻ
    
khác. Sự giàu sang có thể phát sanh từ những sự bố thí như vậy

nhưng chúng sẽ bị tiêu diệt bởi năm loại kẻ thù.

Giải thích về sự Bố thí Phi thời, ví dụ: vào lúc ban ngày, trời còn sáng mà đốt đèn cúng dường ánh sáng đến Đức Phật, hoặc dâng cúng vật thực đến các vị tỳ khưu sau giờ ngọ.

Năm loại Bố thí Phi đạo đức

Bộ Parivāra của tạng Luật nêu ra năm loại bố thí mà người ta quen gọi là những việc phước, nhưng đó chỉ là những hình thức bố thí tai hại và tổn đức.

Đó là:

1. Majja-dāna - Bố thí chất say.

2. Samajja-dāna - Tổ chức tiệc nhậu.

3. Iṭṭhi-dāna - Nữ thí.

4. Usabha-dāna - Cho bò đực đến với bò cái.

5. Cittakamma-dāna - Vẽ hoa hoặc cho những bức tranh                                                                                             khiêu dâm, hội họa thí.

Đức Phật mô tả những sự bố thí này là phi đạo đức, tội lỗi bởi vì chúng không thể có ý định tốt đi kèm. Một số người nghĩ rằng cho thuốc phiện đến người nghiện sắp chết là hình thức cai nghiện, là cho sự sống, là việc phước. Thực tế thì đây không phải là việc phước, vì tánh chất của thuốc phiện là kéo dài sự nghiện ngập, chính tâm bất thiện thúc đẩy người ta cho thuốc phiện.

Chú giải Bổn sanh có nêu ra chi tiết về chuyện cho rượu của Bồ-tát Vessantara như là một đại thí - Mahā-dāna.

Một số người cố gắng thanh minh rằng, việc bao gồm những chất
say là những vật thí của Bồ-tát Vessantara, cho rằng Bồ-tát không có ý
định cho rượu đến những người nghiện rượu. Rằng Thái tử Vessantara
không muốn ai uống chất say nên ý định bất thiện không có trong đó.
Thái tử chỉ muốn tránh những lời đàm tiếu của những người nghiện
rượu, cho rằng đại thí của thái tử mà không có những vật thí bao gồm
chất say.

(Nhưng lý luận như vậy không đứng vững) Các bậc đại nhân như
vua Vessantara không quan tâm đến sự phê phán của kẻ khác, đặc biệt
là sự phê phán lại không đúng. Vấn đề là lỗi lầm là việc uống. Nếu

 

190                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

chất say ấy được dùng làm thuốc thoa bóp thì không có tội. Do vậy, chúng ta nên nghĩ rằng sự bố thí của vua Vessantara mà bao gồm cả chất say, chỉ nhằm mục đích như vậy thôi.

Năm loại Mahā-dāna - Đại thí

Trong bài kinh thứ chín của Phẩm thứ tư thuộc Aṭṭhaka Nipāta,
Aṅguttara Nikāya, có nêu ra đầy đủ về năm điều học bắt đầu bằng
những chữ “Pañcimāni bhikkhave dānāni mahādānāni”, mô tả năm
điều học như là năm loại Đại thí. Nhưng đừng hiểu lầm rằng sīla
(giới) là dāna (bố thí) chỉ vì năm điều học được mô tả như là năm loại
đại thí trong bài kinh trên. Đức Phật không có ý nói rằng sīla không
khác với dāna hoặc cả hai là một. Sīla là sự thu thúc thân và khẩu, còn
dāna là sự cho đi vật thí, và không nên xem hai pháp trên là một.

Khi một người thọ trì giới không sát sanh, từ bỏ sự sát sanh, vị ấy
thực sự bố thí đến chúng sanh Pháp vô uý (abhaya-dāna). Bốn giới
còn lại cũng được ứng dụng theo cách như vậy. Như vậy khi tất cả
năm giới được thọ trì một cách hoàn hảo bằng sự thu thúc ấy, người
có giới đang cho đến chúng sanh vật thí là sự vô hại, sự thoát khỏi tai
họa, lo sợ và những điều phiền toái khác. Chính trong ý nghĩa này mà
Đức Phật dạy ở đây rằng sự thọ trì Ngũ giới hình thành năm Đại thí.

Chấm dứt Bố thí nhóm Năm



Bố thí Nhóm Sáu

Pháp bố thí sáu chi không được tìm thấy trực tiếp trong các bộ kinh.
Tuy nhiên, bộ Atthasalinī, chú giải của bộ Dhammasangani, bộ đầu
tiên của Abhidhamma, có kể về sáu loại bố thí mà trong đó sáu cảnh

vật thí: màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị, vật xúc chạm và đối tượng
của tâm.

 

Bố thí Nhóm Bảy

Tương tự, cũng không có mô tả những loại bố thí bảy chi nhưng bảy loại Tăng thí được mô tả ở trên có nhan đề “Những loại bố thí được kể theo cặp”, phụ đề “Những sự bố thí đến Tăng” có thể được xem là đại diện cho loại bố thí này.

 

 

Bố thí Nhóm Tám

(A)  Đức Phật giảng dạy về nhóm tám loại bố thí trong bài kinh đầu
       
tiên của Phẩm Thứ Tự, Aṭṭhaka Nipāta, Aṅguttara Nikāya.

*  Tám pháp dāna này là:

(1)    Dāna không chần chừ, do dự khi có người đến xin

(2)    Dāna do sợ chỉ trích hoặc do sợ sanh vào các cõi khổ.

(3)    Dāna vì người xin trong quá khứ đã từng cho đến mình.

(4)    Dāna với hy vọng rằng sau này người thọ thí sẽ cho lại mình.

(5)    Dāna với ý nghĩ rằng cho là một việc thiện.

(6)    Dāna với ý nghĩ rằng: “Ta là gia chủ tùy thích sắm sửa và nấu

nướng vật thực. Thật không thích hợp nếu ta độ thực mà
không bố thí đến những người mà không được phép sửa soạn
và nấu nướng vật thực cho chính họ, tức là những vị tỳ
khưu.”

(7)    Dāna với ý nghĩ rằng: “Vật thí mà ta cho đi sẽ đem lại danh

thơm, tiếng tốt rộng xa.”

(8)    Dāna với ý nghĩ rằng nó sẽ là trợ duyên giúp người ta đắc

định trong lúc thực hành thiền Chỉ và thiền Quán.

Trong tám loại dāna này, loại cuối cùng là tốt nhất, cao quí nhất vì
đây là pháp, làm khởi sanh hỉ trong người đang thực hành thiền Chỉ và
Quán, và giúp ích rất nhiều trong sự tinh tấn của người ấy. Bảy loại bố

thí đầu không làm sanh khởi và khích lệ tâm trong việc thực hành thiền Chỉ và Quán. Và trong bảy pháp ấy, pháp thí thứ nhất và pháp thí thứ năm thù thắng hơn (panīta). Loại thứ bảy thuộc bực thấp (hīna), trong khi loại thứ 2,3,4 và 6 thuộc loại bực trung.

Tám loại bố thí có thể được phân thành hai nhóm:

- Puññavisaya-dāna - Phước cảnh thí: Sự bố thí thuộc phạm vi cho trong ý nghĩa làm phước.

- Lokavisaya-dāna - Thế gian cảnh thí: Sự bố thí thuộc phạm vi của người thế gian.

Loại 1, 5 và 8 là Puññavisaya-dāna, những loại còn lại thuộc về Lokavisaya-dāna.

(B) Lại nữa, bài kinh thứ ba trong phẩm Dāna Vagga của Aṭṭhaka
       
Nipāta, Aṅguttara Nikāya có nêu ra một sự liệt kê khác về tám

loại bố thí.

(1)  Dāna do bị tác động.

(2) Dāna trong những hoàn cảnh không thể tránh được, làm với thái
      độ miễn cưỡng, bực tức.

(3) Dāna với tâm trạng mù mờ, ngu dốt, không hiểu luật nhân quả.

(4) Dāna do sợ bị chỉ trích, sợ tái sanh vào các cõi khổ, sợ người
     
xin sẽ làm hại.

(5) Dāna với ý nghĩ rằng: “Vì tổ tiên ta đã có truyền thống bố thí,
     
nay ta tiếp tục truyền thống ấy.”

(6) Dāna với mục đích được sanh vào cõi chư thiên.

(7) Dāna với hy vọng được hoan hỷ, vui sướng với tâm trong sạch,

(8) Dāna với ý nghĩ rằng nó sẽ trợ duyên giúp ta đắc định trong lúc thực hành thiền Chỉ và Quán.

Trong tám loại bố thí này cũng vậy, chỉ có loại thứ tám là cao quí
nhất, loại thứ sáu và thứ bảy thuộc Puññavisaya-dāna (Phước cảnh

thí), năm loại còn lại thuộc bậc thấp Lokavisaya-dāna (Thế gian cảnh
thí).

(C) Lại nữa, trong bài kinh thứ năm của phẩm Dāna Vagga, Aṭṭhaka
     
Nipāta, Aṅguttara Nikāya, Đức Phật đã giảng dạy đầy đủ về chủ

đề “Sự tái sanh do quả của pháp bố thí” (dānupapatti - thí sanh). Theo tám loại tái sanh có thể đạt được trong kiếp sau, các sự bố thí được phân chia thành tám loại:

(1) Thấy cảnh hạnh phúc của những người giàu có và thịnh đạt trong
      kiếp sống này, người ta bố thí với mong ước có được kiếp sống

như vậy trong tương lai, đồng thời dẫn đến dời sống có giới hạnh.
Sau khi chết, ước muốn của người ấy được thành tựu, người kia
được tái sanh vào cõi người trong những hoàn cảnh giàu sang,
sung sướng.

(2) Nghe rằng chư thiên trong cõi Tứ thiên vương (Catumahārājika) là
    
những chúng sanh có oai lực, sống cuộc sống nhàn nhã và đầy đủ

dục lạc, người ta bố thí đồng thời với trì giới,  mong ước có được
kiếp sống như vậy trong cõi (Tứ thiên vương). Sau khi chết ước
muốn của người ấy được thành tựu, người kia được tái sanh vào

cõi Tứ thiên vương.

(3) Nghe rằng chư thiên trong cõi Đao lợi (Tāvatimsa) là ... được tái
     
sanh trong cõi Đao lợi.

(4) Nghe rằng chư thiên trong cõi Dạ ma (Yāmā) là ... được tái sanh
    
vào cõi Dạ ma.

(5) Nghe rằng chư thiên trong cõi Đâu suất đà (Tusitā) là ... được tái
    
sanh trong cõi Đâu suất đà.

(6) Nghe rằng chư thiên trong cõi Hóa lạc thiên (Nimmānarati) là ...
     
được tái sanh trong cõi Hóa lạc thiên.

(7) Nghe   rằng   chư   thiên   trong   cõi   Tha   hóa   tự   tại   thiên
     
(Paranimmitavasavattī) là  ... được tái sanh trong cõi Tha hóa tự

tại thiên.

(8)   Nghe rằng Phạm thiên (Brahma) có thọ mạng rất lâu dài, có thể
       
hình xinh đẹp và hưởng cuộc sống an lạc, hạnh phúc, người ta bố

thí với mong ước tái sanh vào cõi Phạm thiên và đồng thời cũng quan tâm đến đời sống đạo đức. Sau khi chết, người ấy được tái sanh vào cõi Phạm thiên như ý.

Từ câu nói trên, không nên kết luận rằng chỉ riêng bố thí mà được
tái sanh vào cõi Phạm thiên. Có hai pháp chính mà một người muốn
sanh vào cõi Phạm thiên phải thực hành: một là bố thí để tâm trở nên
mềm mỏng, nhu nhuyến, hai là phải tu thiền đến đắc định bằng đề
mục Tứ Vô lượng Tâm, đó là Từ (Mettā), Bi (Karunā), Hỉ (Muditā) và
Xả (
Upekkhā).

(D) Lại nữa, trong bài kinh thứ bảy của phẩm Dāna Vagga có liệt kê
     
tám pháp bố thí của bậc Chân nhân (sappurisa-dāna):

1) Cho vật thí đã được làm trong sạch và hấp dẫn.

2) Cho vật thí có phẩm chất hảo hạng.

3) Cho vật thí đúng thời.

4) Cho vật thí thích hợp với người xin.

5) Bố thí sau khi chọn lựa kỹ người thọ thí và vật thí (viceyya-
   
dāna). Khi loại trừ những người không có giới hạnh ra, những

người thọ thí được chọn lựa phải là những người có giới, thực
hành theo giáo pháp của Đức Phật. Còn vật thí, phải chọn loại có
phẩm chất tốt.

6) Cho vật thí theo khả năng thường có của mình.

7) Cho vật thí với tâm thanh tịnh.

8) Cho vật thí với tâm hoan hỷ sau khi làm.

Trái ngược với tám pháp bố thí của bậc chân nhân là tám pháp bố thí của kẻ ác tri thức (Asappurisa-dāna) không được ghi ra trong nội dung nhưng có thể ước đoán chúng như sau:

1) Cho vật thí không trong tinh khiết, không hấp dẫn.

2) Cho vật thí chất lượng thấp kém.

3) Cho vật thí không hợp thời và không đúng lúc.

4) Cho vật thí không thích hợp với người xin.

5) Cho vật thí mà không lựa chọn kỹ lưỡng người thọ thí và vật thí.

6) Chỉ thỉnh thoảng cho vật thí mặc dù có khả năng làm việc này
    
liên tục.

7) Cho vật thí với tâm không thanh tịnh.

8) Cho vật thí với tâm hối tiếc sau khi làm.

Chấm dứt các pháp Bố thí nhóm Tám



 

 

Bố thí Nhóm Chín

Bộ Luật Parivāra kể ra chín loại bố thí do Đức Phật chỉ dạy những là Bố thí Phi pháp (Adhammika-dāna). Chú giải bộ kinh trên giải thích về chín loại bố thí này như sau:

Vật thí mà thí chủ định dâng đến nhóm Tăng này bị bắt buộc:

1.  dâng đến nhóm Tăng khác,

2. dâng đến một ngôi chùa khác,

3. dâng đến một cá nhân.

Vật thí mà thí chủ định dâng đến một ngôi chùa nọ lại bị bắt buộc

4. dâng đến một ngôi chùa khác,

5. dâng đến chúng Tăng

6. dâng đến một cá nhân.

Vật thí mà thí chủ có ý định dâng đến một cá nhân nọ lại bị ép:

7. dâng đến một cá nhân khác,

8. dâng đến chúng Tăng,

9. dâng đến chùa.

Ở đây vật thí được thí chủ cúng dường là tứ sự như y áo, thực phẩm, trú xứ và thuốc men và những món cần thiết mà tín thí đã cam kết cúng dường cho chúng Tăng, hay chùa, hay cá nhân.

Câu chuyện này nêu lên lý do Đức Phật dạy chín loại Bố thí phi pháp (adhammika-dāna) được ghi lại trong Pārajika kaṇḍa và văn bản Pācittiya Pāḷi theo Vinaya Pitaka.

Một lần Đức Phật đang ngụ tại Jetavana tịnh xá ở Sāvatthi. Rồi một
nhóm người quyết định cúng dường thực phẩm và y cho chúng Tăng.
Họ chuẩn bị đầy đủ và thực phẩm cùng y để cúng dường. Một nhóm
tỳ khưu phi giới đến gặp nhóm thí chủ và buộc họ, thay vì thế thì cúng
dường cho nhóm tỳ khưu phi giới này. Vì bị buộc bố thí y cho nhóm
tỳ khưu phi giới, nhóm thí chủ chỉ còn lại thực phẩm dâng cúng chư
Tăng. Biết được việc này, nhóm tỳ khưu có giới chỉ trích nhóm tỳ
khưu phi giới và bạch với Đức Phật những điều đã xảy ra. Khi đó,
Đức Phật đã chế giới: “ Bất cứ vị tỳ khưu nào thọ lãnh những vật thí
đã được tác ý cúng dường chúng Tăng thì phạm Ưng xã đối trị
(
Nissaggiya Pācittiya Āpatti).”

Trong điều luật Ưng xả đối trị (Nissaggiya Pācittiya Āpatti), Đức
Phật giải thích rằng: “Nếu vật thí được tác bạch dâng đến Tăng thì
không thích hợp cho cá nhân, người thọ lãnh bị phạm Ưng xả đối trị
(Nissaggiya Pācittiya Āpatti). Nếu ý định của thí chủ dâng vật thí đến
Tăng mà bị buộc dâng đến chùa thì người gây ra phạm tội Tác ác
(Dukkaṭa Āpatti). Biết rõ vật thí được tác bạch dâng đến một ngôi
chùa nọ mà lại đem dâng đến một ngôi chùa khác hoặc đến Tăng hoặc
đến một cá nhân thì phạm tội Tác ác (Dukkaṭa Āpatti). Biết rõ vật thí
được tác bạch dâng đến một cá nhân nọ mà lại đem dâng đến một cá

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                197

nhân khác, hoặc đến Tăng, hoặc đến chùa thì phạm tội Tác ác (Dukkaṭa Āpatti).”

Câu chuyện trên được ghi lại để minh họa tác ý phước báu tốt đẹp
của thí chủ có thể hư hoại do sự can thiệp của người trung gian xấu
tính và do sự can thiệp của họ đã biến phước thí hợp pháp hóa thành
phi pháp (adhammika-dāna). Đức Phật giải thích 9 cách thọ nhận phi
pháp (adhammika paṭiggaha) của 9 cách bố thí phi pháp (adhammika-
dāna) và 9 cách sử dụng  đúng  (adhammika paribhoga) các vật dụng
cúng dường đúng pháp.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, không phải mọi hình thức sang đoạt vật thí từ người nhận gốc qua một người nhận khác đều là phi pháp bố thí (adhammika-dāna). Chính thí chủ có thể thay đổi ý định đầu tiên, vì một lý do tốt nào đó hoặc có thể một bậc trí nào đó thuyết phục thí chủ thay đổi đối tượng, để được phước nhiều hơn.

Một ví dụ chứng minh cho điều trên được tìm thấy trong câu chuyện về Mahā Pajāpati, là người đã sắm sửa một bộ y mới với ý định dâng đến Đức Phật. Đức Phật khuyên bà nên dâng y đó đến Tăng. Nếu đó là tội thì Đức Phật đã không cho lời khuyên. Sự thật thì Đức Phật đã biết rằng bà Mahā Pajāpati sẽ được phước lớn hơn nhiều, nhờ dâng bộ y ấy đến Tăng có Đức Phật chủ tọa.

Trong một thí dụ khác, Đức Phật thuyết phục vua Pasenadi của
nước Kosala thay đổi ý định cho phép ngoại đạo xây dựng một ngôi
tịnh xá gần tịnh xá Jetavana. Đức vua đã bị bọn ngoại đạo hối lộ để
cho đất xây dựng tịnh xá của chúng. Vì biết rằng những cuộc tranh
luận không hồi kết thúc sẽ xảy ra sau này, trước hết Đức Phật bảo tôn
giả Ānanda cùng một số tỳ khưu đi thuyết phục, và sau đó bảo hai vị
Thượng thủ Thinh văn, tôn giả Sāriputta và tôn giả Moggallāna đi
thuyết phục đức vua đừng nhận của hối lộ cho họ xây dựng tịnh xá.
Đức vua đã cáo lỗi để tránh gặp các vị Đại đệ tử. Kết quả là Đức Phật
phải đích thân đi đến đức vua và kể cho vị ấy nghe câu chuyện về vua
Bharu mà được kể lại trong bộ Duka Nipāta, là người cũng ở trong

hoàn cảnh tương tự như vậy, đã gây ra nhiều đau khổ do nhận hối lộ.
Sau khi thông tình đạt lý, đức vua đã sám hối với Đức Phật, rút lệnh
cho đất và tịch thu tất cả vật liệu xây dựng tịnh xá đã được ngoại đạo
đem đến chỗ đất ấy. Rồi đức vua truyền lịnh lấy những vật liệu xây
dựng đấy, để làm một tịnh xá tại nơi đó và dâng nó đến Đức Phật.

Như đã giải thích ở trên, không hề có tội khi thí chủ thay đổi ý định
đầu tiên của mình vì một lý do tốt và đem vật thí đến một người khác.

Điều này ám chỉ trực tiếp đến người có những đức tính của Thánh
Tăng. Nếu một thí chủ sắm sửa các vật thí để cúng dường các vị tỳ
khưu và sẽ đến thăm các vị ấy. Nhưng nếu trong lúc đó, các vị tỳ khưu
khéo an trú trong pháp bậc cao và là những thành viên của Thánh
Tăng xuất hiện trước mặt vị thí chủ ấy, thí chủ có thể thay đổi ý định
và dâng vật thí đến những vị Tăng khách mới để được lợi ích nhiều
hơn. Các Ngài cũng có thể dùng những vật thí được thọ lãnh như vậy.
Các Ngài xứng đáng thọ lãnh những vật thí mà lúc đầu thí chủ dự định
dành cho những vị khách viếng thăm, là một ân đức của Tăng -

Pāhuneyya.

Chấm dứt các pháp Bố thí nhóm Chín



Bố thí Nhóm Mười và Nhóm Mười Bốn

Như trong trường hợp bố thí nhóm bốn, sáu, hoặc nhóm bảy, không có đề cập loại bố thí nhóm mười trong các bộ kinh. Nhưng các bộ Chú giải có cung cấp một bài liệt kê về mười loại vật thí.

Bài kinh Dakkhina Vibhaṅga cũng liệt kê các loại bố thí thuộc
nhóm mười bốn, Cá nhân tuyển thí (xem mục 19, loại bố thí nhóm
hai).

Chấm dứt Chương nói về các loại Bố thí



 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                199

5. NHỮNG YẾU TỐ NÀO LÀM CHO KẾT QUẢ CỦA DĀNA
       
MẠNH LÊN?

6.  NHỮNG YẾU TỐ NÀO LÀM CHO KẾT QUẢ CỦA DĀNA
       
YẾU ĐI?

Kinh Dāna, bài kinh số bảy của phẩm Devatā Vagga, trong Chakka
Nipāta, Aṅguttara Nikāya, giải rõ những yếu tố làm Tăng cường
những kết quả lợi ích của sự bố thí và những yếu tố làm suy yếu

chúng. Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang trú tại tịnh xá Jetavana ở
Savatthi, bằng thiên nhãn, Ngài trông thấy một tín nữ nọ, tên là
Nandamāta, đang thực hiện công việc cúng dường to lớn đến chư
Tăng do hai vị đại đức Sāriputa và Moggalāna dẫn đầu, ở thị trấn xa
xôi xứ Velukandali. Sự cúng dường của nàng là sự cúng dường của
một thí chủ có ba đặc tánh đặc biệt về sự thanh tịnh của tác ý, đó là:

(a) Cảm thọ hạnh phúc trước khi bố thí.

(b) Có tâm trong sạch lúc bố thí và

(c)  Vui sướng sau khi bố thí.

Và người thọ nhận cũng có ba đặc tính thanh tịnh của tâm, đó là:

(a) Không luyến ái hoặc đang thực hành pháp đoạn diệt luyến ái.

(b) Không sân hoặc đang thực hành pháp đoạn diệt sân.

(c) Không si hoặc đang thực hành pháp đoạn diệt si.

“Này các tỳ khưu, cũng như nước trong đại dương bao la không thể
đo lường được, lợi ích phát sanh từ sự bố thí có sáu đặc tánh ưu việt
cũng vô lượng. Thật ra, các ngươi nói về nước trong đại dương là một
khối nước khổng lồ, không thể đo lường được. Cũng vậy, các ngươi
nói về sự bố thí như vậy có sáu đặc tánh ưu việt, là sự bố thí sẽ đem

lại phước báu vô lượng.”

Theo bài kinh Pāli này, có thể thấy rằng ba đặc tánh mà người thí
chủ có được và ba đặc tánh của người thọ nhận, hình thành sáu nhân

tố làm lớn mạnh quả phước của sự bố thí. Nếu những đặc tánh trên càng ít, thì quả phước cũng giảm theo.

Trong Bổn  sanh  thứ  chín  về  Mahādhammapāla  trong  Dasaka
Nipāta của bộ Jātaka - kể rằng trong một kiếp quá khứ nọ, vua
Suddhodana là một vị Bà-la-môn. Vị đại giáo sư của trường Texila mà
vị Bà-la-môn gởi con trai đến học, đã hỏi vị Bà-la-môn tại sao những
người trong gia hệ của ông không bị chết yểu, tất cả đều được sống
đến hết tuổi thọ.

Vị Bà-la-môn trả lời bằng câu kệ sau đây:

Pubbeva dānā sumanā bhavāma
dadampi ve attamanā bhavāma
datvāpi ve nānutappāma pacchā

tasmā hi amham dahara na mīyare. Trước khi bố thí hân hoan,

Trong khi bố thí lòng càng sướng vui, Sau khi phước thí làm rồi,

Nỗi niềm sung sướng liên hồi khởi sanh
Không hối tiếc đối với việc lành
Được ba nhân ấy gia đình sống lâu.

Từ câu chuyện này, người ta có thể suy ra rằng một sự bố thí được làm với đầy đủ ba đặc tánh kể trên thì lợi ích phát sanh từ đó sẽ là sự trường thọ trong kiếp sống hiện tại.

Lại nữa, trong bộ Atthasālinī và bộ Chú giải Pháp cú có nêu ra bốn
nhân tố đem lại kết quả lợi ích trong kiếp sống hiện tại từ sự bố thí:

1. Paccayānaṃ dhammikata - Vật thí đúng pháp.

2. Cetanā mahattā - Có kèm theo niềm tin nhân quả và sự hoan hỷ
    
trong 3 thời.

3. Vatthusampatti - Người thọ thí phải là người có pháp chứng bậc
    
cao, vị A-la-hán hay A-na-hàm (anāgāmin)

4. Guṇatire-katā   -   Người   thọ   thí   vừa   xuất   khỏi   thiền   diệt

(nirodhasamāpatti).

Những sự bố thí cho quả trong hiện tại như thế này là bố thí của Puṇṇa, Kākavaliya và cô gái bán tràng hoa Sumanā.

Trong bộ Atthasālinī, bốn điều này được gọi là bốn pháp Thanh
tịnh của sự bố thí (Dakkhinā visuddhi - Thanh tịnh thí). Trong Chú
giải Pháp cú, chúng được gọi là “Bốn pháp thành tựu” (Sampadā).

Lại nữa, có một sự liệt kê khác về bốn Thanh tịnh thí (dakkhina
visuddhi
) trong bài kinh Dakkhinā Vibhaṅga của bộ Uparipannāsa
Pāḷi, đó là:

1) Sự bố thí được thanh tịnh do thí chủ, không phải do người thọ

thí (cho dù người thọ thí không có giới - dussīla). Nếu người thí chủ có giới đức và cho vật thí hợp pháp với chủ ý thiện và trong sạch trước khi, đang khi và sau khi bố thí, lại có niềm tin nhân quả, thì sự bố thí được thanh tịnh do bởi người thí chủ và nó sẽ đem lại lợi ích lớn.

2) Sự bố thí được thanh tịnh bởi người nhận, chứ không phải do

thí chủ (cho dù thí chủ không có giới và cho vật thí kiếm được
một cách phi pháp, không có chủ tâm thiện và thanh tịnh trước
khi, đang khi và sau khi bố thí, lại không có niềm tin nhân quả,

nhưng nếu người thọ thí là bậc có giới đức, thời sự bố thí được thanh tịnh do bởi người thọ thí và sẽ đem lại lợi ích lớn).

3) Sự bố thí không thanh tịnh do bởi người cho hoặc người nhận,

(khi thí chủ là người không có giới, cho vật thí kiếm được một
cách bất chánh đến người thọ thí cũng không có giới, và không
có chủ ý thiện và thanh tịnh trước khi, đang khi và sau khi bố

thí, lại không có niềm tin nhân quả, sự bố thí sẽ không đem lại kết quả lớn cũng như hạt giống được gieo trên đất xấu).

4) Bố thí được thanh tịnh cả bên thí chủ lẫn người thọ thí, (khi thí

chủ là người có giới đức, cho vật thí kiếm được một cách hợp

pháp, với chủ tâm thanh tịnh và thiện trước khi, trong khi và
sau khi bố thí đến người thọ thí có giới đức, sự bố thí sẽ dem
lại kết quả lợi ích to lớn như hạt giống tốt được gieo trên mảnh
đất mầu mỡ).

Qua những điều đã trình bày, có thể kết luận rằng có năm nhân tố làm cho quả phước của sự bố thí được lớn mạnh:

1. Thí chủ có thọ giới và có hạnh kiểm tốt.

2. Người thọ thí cũng có giới hạnh tốt.

3. Vật cúng dường thí chủ kiếm được một cách chính đáng.

4. Sự cúng dường với niềm hạnh phúc trước khi làm, với sự thỏa
    
mãn thanh tịnh và vui mừng trong khi làm và tâm vui sướng sau

khi làm.

5. Người thí chủ có niềm tin đầy đủ về luật nhân quả.

Năm nhân tố này nên đi kèm với sự bố thí để có được lợi ích lớn nhất. Nếu chúng giảm, thì kết quả lợi ích cũng giảm theo.

Một số nhận xét về Đức tin - Saddhā

Điều quan trọng là hiểu rõ ý nghĩa đầy đủ về nhân tố thứ năm, đó là “Niềm tin nhân quả”. Phân tích theo văn phạm, saddhā có nghĩa là ‘khéo gìn giữ’.

Cũng như nước trong đã lắng hết các chất dơ bẩn xuống đáy, có thể giữ tốt hình ảnh của mặt trăng và mặt trời. Cũng vậy, niềm tin thanh tịnh mà không có các pháp ô nhiễm, có thể giữ chắc những ân đức của Đức Phật (dùng làm đề mục của pháp Niệm)

Một ví dụ khác, nếu một người không có đôi tay thì anh ta không thể cầm giữ vật trang sức. Nếu anh ta không có của cải, thì anh ta không thể sắm sửa các loại hàng hóa và vật dụng.

Không có hạt giống thì không có vụ mùa và ngũ cốc. Cũng vậy,
không có niềm tin chúng ta không thể có các báu vật của sự bố thí,

giới và thiền (và không thể có sự thọ hưởng dục lạc của cõi người và
cõi chư thiên hoặc hạnh phúc của Niết bàn). Do vậy, Đức Phật, qua
các bài pháp của Ngài, đã ví đức tin như đôi tay, của cải hoặc hạt
giống.

Trong bộ kinh Milindapañha Sở vấn và bộ Chú giải Aṭṭhasālinī, đức tin được ví như viên ngọc trên vương miện của vị Chuyển luân vương có công dụng làm cho nước trở nên trong sáng - cho dù viên ngọc được đặt vào nước dơ bẩn thế nào chăng nữa. Dường thế ấy, đức tin loại trừ tức khắc tất cả những ô nhiễm trong tâm và làm cho tâm trở nên thanh tịnh, trong sáng. Nếu tâm có đức tin thì không có chỗ dành cho các pháp ô nhiễm như sầu khổ, ưu bi, v.v…

Khó khăn như thế nào khi giữ tâm vững chắc trong pháp quán về
các ân đức của Đức Phật là kinh nghiệm của tất cả những người tu
Phật. Nói cách khác, giữ tâm trong niềm tin duy nhất không xen lẫn
các pháp ô nhiễm, quả thật không phải là vấn đề đơn giản. Nhưng qua
pháp  hành, người ta có thể duy trì tâm trong sáng thanh tịnh nhờ đức
tin trong những khoảng thời gian ngắn, đến khi niềm tin vững vàng,
người ta có thể thực hành như vậy trong khoảng thời gian dài.

Xét về vấn đề “có niềm tin nhân quả” như đã nêu ở trên, chúng ta
nên suy xét như vầy: “Tôi sẽ bỏ ra một số tiền để làm việc phước thí
này. Nó sẽ không vô ích. Qua hành động bố thí này, tôi sẽ trau dồi
pháp Tư (cetanā), pháp này quí giá hơn của cải, tiền bạc mà tôi đã bỏ
ra. Của cải của tôi có thể bị mất do năm loại kẻ thù, nhưng hành động

tạo phước này thì không gì phá hủy được, và sẽ theo tôi trải qua nhiều
kiếp luân hồi cho đến khi tôi chứng đắc Niết bàn.” Khả năng gìn giữ
tâm trong sáng và thanh tịnh theo cách này là phải có niềm tin nhân
quả. Và xét về kết quả phát sanh từ việc phước như vậy, chúng ta có
kết luận vững chắc và rõ ràng như vầy: “Do hành động tạo phước này,
tôi sẽ gặt hái những kết quả lợi ích trong suốt chuỗi dài luân hồi. Chắc
chắn như vậy.” Khi suy xét như vậy và cảm thọ niềm tịnh hỉ khởi lên
trong tâm tức là do có niềm tin nhân quả.

Như vậy điều quan trọng là phải tu tập đức tin bằng cách suy xét luật nhân quả để làm cho tâm được thanh tịnh, vì nó là nhân tố thứ năm làm lớn mạnh kết quả lợi ích của sự bố thí.

Chấm dứt Chương Bố thí Ba-la-mật

 



 

B. GIỚI BA-LA-MẬT (SĪLA-PĀRAMĪ)
           Con thú dũng cảm Cāmarī

Tác giả có một bài mô tả chi tiết về con thú Cāmarī mà chúng tôi đã dịch ở đây là “con bò Yak Tây Tạng”. Đây là một loại bò chở hàng ở Tây Tạng, nó cho sữa và thịt. Quạt làm bằng lông đuôi của nó là một trong những biểu tượng của vương quyền.

Loại bò này sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ cái đuôi của nó
dù chỉ một sợi lông. Sumedha đã tự khuyên mình bắt chước theo
gương của con bò Yak, mà giữ gìn sự trong sạch của giới dù phải hy
sinh cả tánh mạng.

Những điều cần lưu ý về các phương diện khác nhau của Giới

Những điều cần lưu ý sau đây ở dưới dạng trả lời những câu hỏi rút ra từ bộ Thanh tịnh đạo.

1) Giới là gì?

2) Tại sao được gọi là Giới?

3) Đặc tánh, phận sự, hiện khởi và nguyên nhân gần của Giới là gì?

4) Giới đem lại những lợi ích nào?

5) Có bao nhiêu loại Giới?

6) Những yếu tố nào làm ô nhiễm Giới?

7) Những yếu tố nào làm thanh tịnh Giới?

Diễn giải Giới

1. GIỚI LÀ GÌ?

Có nhiều yếu tố để định nghĩa Giới mà trong đó yếu tố chính là sở
hữu Tư (cetanā) hay sự chủ tâm khởi sanh trong người quyết tâm từ
bỏ các hành động sai trái về thân như sát sanh, v.v… hoặc khởi sanh
khi đang thực hành các phận sự đối với các bậc trưởng thượng, thầy
tổ, v.v...

Ba trạng thái tâm kiên tránh (virati) hay ba sở hữu giới phần là: chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng; vô tham (alobha hay anabhijjhā), vô sân (adosa hay abyāpāda) và vô si hay chánh kiến (amoha hay sammādiṭṭhi); năm pháp thu thúc (sẽ được mô tả đầy đủ) và sở hữu tâm bất phạm (avītikkamma).

Như vậy, Giới có thể được định nghĩa bằng năm phần sau đây:

1)  Sở hữu Tư đi kèm với người đang quyết tâm từ bỏ các hành
    
động sái quấy về thân hoặc khẩu, hoặc khi đang thực hành bổn

phận đối với các bậc trưởng thượng hoặc thầy tổ, v.v...

2) Ba Sở hữu Giới phần: chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.

3) Ba hành động chân chánh của tâm: vô tham (alobha), vô sân
   
(adosa) và vô si (amoha).

4) Năm điều kiện tránh hay năm pháp thu thúc (saṃvara), và

5) Sở hữu tâm (cetanā sīla) khởi sanh khi đang tránh những điều vi
   
phạm.

 

 

(a) Cetanā-sīla (Tư giới) &  (b) Virati sīla (Ly giới)

Ba ác nghiệp của thân là sát sanh, trộm cắp và tà dâm. Bốn ác
nghiệp về lời nói là nói dối, nói đâm thọc, nói lời thô lỗ, nói lời vô ích.
Hai loại ác nghiệp này có thể xảy ra trong việc nuôi mạng kiếm sống

(như nghề đánh cá hoặc săn thú) hoặc để vui chơi tiêu khiển (bẫy chim, bắn chim, câu cá, hội thi săn thú, v.v…)

Cũng vậy, sự kiêng tránh hai loại ác nghiệp này kết hợp hoặc không kết hợp với sự nuôi mạng. Sự kiêng tránh ba ác nghiệp về thân khi không kết hợp với sự nuôi mạng được gọi là sự kiêng tránh bằng chánh nghiệp (sammā kammantā virati); sự kiêng tránh bốn khẩu ác nghiệp khi không kết hợp với sự nuôi mạng được gọi là sự kiêng tránh bằng chánh ngữ (sammā vācā virati). Sự kiêng tránh hai loại ác nghiệp khi kết hợp với sự nuôi mạng, và nhiều loại tà mạng khác (đặc biệt những loại tà mạng đối với các vị tỳ khưu) được gọi là sự kiêng tránh bằng chánh mạng (sammā ājīva virati).

Ba sở hữu giới phần được nêu ra ở trên được gọi là ly giới (viratīsīla) và sở hữu tư (cetanā) đi kèm với chúng được gọi là tư giới (cetanā-sīla). Tư khởi sanh khi làm những việc phước to lớn đối với thầy tổ được gọi là tư giới (cetanā-sīla).

(c ) Anabhijjhādi sīla  (Vô tham giới)

Tâm tham khiến người ta thèm muốn tài sản của người khác với ý nghĩ rằng: “Nếu ta có được món đồ ấy thì tốt biết mấy,” được gọi là Tham ý ác hành (abhijjhā manoduccarita). Khi một người xua tan những ý nghĩ như vậy thì trong người ấy sanh khởi những trạng thái tâm cố ý xua tan (cetanā) và sự vô tham (alobha hoặc anabhijjhā). Những trạng thái tâm này được gọi là Giới.

Muốn hại một người nào đó thì trong tâm có sở hữu sân sanh khởi
và tâm ấy được gọi là Sân ý ác hành (byāpāda manoduccarita). Khi
một người muốn xua tan những ý nghĩ sân hại như vậy thì những
trạng thái tâm cố ý xua tan và trạng thái vô sân sanh khởi trong người
ấy (adosa hay abyāpāda). Những trạng thái tâm này được gọi là Giới.

Khi cho rằng không có cái gì gọi là bố thí và không có kết quả nào
phát sanh từ đó, người ấy chấp theo tà kiến và tâm như vậy được gọi
là Tà kiến ý ác hành (micchā diṭṭhi manoduccarita). Khi người kia
muốn xua tan những tà kiến ấy thì sự cố ý xua tan và tâm vô si

(amoha) hay chánh kiến (sammā-diṭṭhi) sanh khởi trong người ấy. Những trạng thái tâm này được gọi Giới.

Khi ba ý ác hành này (abhijjhā, byāpādamicchā-diṭṭhi) sanh khởi, người ta rất có thể phạm phải những ác nghiệp như sát sanh, v.v… là những hành động làm tiêu hoại giới. Khi tư và ba chánh nghiệp - Ý chánh hành sanh khởi trong người ấy thì anh ta không thể phạm phải những ác nghiệp như sát sanh, v.v... Do đó, ba ý chánh hành là vô tham, vô sân và chánh kiến được gọi là Giới.

Khi tâm sanh khởi thì luôn có tư hay trạng thái cố ý đi kèm. Tư ấy
có phận sự khiến tâm chú ý đến cảnh và làm vật nối giữa tâm và cảnh.
Nếu không có sự xui khiến của tư thì không có sự nối kết giữa tâm và
cảnh; tâm sẽ không trú vào cảnh và sẽ không biết cảnh. Chỉ qua sự
tham dự của tư, sự nối kết giữa tâm và cảnh mớí xảy ra. Như vậy,
chính Tư đi kèm với tâm trong mỗi hành động giới đức được gọi là
Giới.

(d) Saṃvara-sīla  (Thu thúc giới)

(e ) Avītikkama-sīla (Bất phạm giới)

Những loại Giới đã nêu trên đều ứng dụng cho cả hàng tại gia lẫn xuất gia. Nhưng có những loại giới khác chỉ áp dụng cho các vị tỳ khưu, đó là Thu thúc giới và Bất phạm giới.

(d) Saṃvara sīla (Thu thúc giới)

1) Pātimokkha Saṁvara - Giải thoát giới là sự thu thúc bằng
   
những giới căn bản dành cho các vị tỳ khưu. Sự thọ trì các giới

ấy giúp người thọ giới thoát khỏi những mối nguy hiểm của sự tái sanh trong các cõi khổ và nổi khổ triền miên.

2)  Sati Saṁvara - Niệm thu thúc là sự thu thúc bằng chánh niệm
     
nhiếp hộ năm môn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, để những tên

“ác nghiệp” không thể nhập vào tâm.

3)  Ñāṇa Saṁvara - Trí  thu thúc là sự thu thúc bằng Trí tuệ, nghĩa
    
là sự kiểm soát tâm bằng quán trí, để ngăn chặn sự trôi chảy liên

tục của các tâm phiền não, như ái dục, tà kiến và vô minh. Loại
thu thúc này bao gồm Tư cụ y chỉ giới (Paccayasannissita sīla),
là sự thực hành pháp hộ phòng trong lúc sử dụng các món vật
dụng.

4) Khanti Saṃvara - Nhẫn nại thu thúc là sự thu thúc bằng pháp
    
Nhẫn nại, nghĩa là sự kiểm soát tâm, để những tư tưởng ô nhiễm

không thể làm vấy đục tâm khi đang chịu đựng sự nóng nực hoặc lạnh rét.

5) Vīriya Saṃvara - Tinh tấn thu thúc là sự thu thúc bằng pháp
    
Tinh tấn, nghĩa là tinh tấn ngăn chặn những ý nghĩ ác - ý nghĩ về

dục lạc (dục tầm - kāma-vitakka), ý nghĩ sân hận (sân tầm -
byāpāda-vitakka), ý nghĩ độc hại (hại tầm - vihimsā-vitakka). Chánh mạng Thanh tịnh giới (ājivapārisuddhi-sīla) cũng được bao gồm trong phần này.

(e) Avītikkama sīla (Bất phạm giới)

Đây là loại Giới được tu tập bằng cách kiên tránh sự vi phạm về thân, khẩu và các điều học mà vị tỳ khưu đã nguyện thọ trì.

Từ năm loại Thu thúc giới và Bất phạm giới được mô tả ở trên, có
thể suy rằng về cơ bản thì Giải thoát thu thúc giới là một nhóm sở hữu
tâm bao gồm Tư (cetana) và ba ý chánh hành: vô tham, vô sân và vô
si. Niệm thu thúc nghĩa là sở hữu niệm có Tư đi kèm. Trí thu thúc
nghĩa là sở hữu trí tuệ có Tư đi kèm. Nhẫn nại thu thúc nghĩa là một
nhóm gồm tâm thiện và các sở hữu tâm dẫn đầu là vô sân, có đặc tánh
chế ngự cơn giận, nói cách khác, là sở hữu vô sân. Tinh tấn thu thúc là
sở hữu tinh tấn có Tư đi kèm.

Nói về Bất phạm giới trong ý nghĩa cùng tột, đó là một nhóm gồm tâm thiện và các sở hữu dẫn dắt người ta tránh vi phạm các điều học mà người ấy đã thọ trì. Trong trường hợp bố thí, Tư làm nền tảng của bố thí. Về Giới cũng vậy, Tư giữ vai trò chính, lại còn có nhóm tâm thiện và các sở hữu dẫn đầu là 3 sở hữu vô tham, vô sân và vô si, và 3 sở hữu Niệm, Tấn, Tuệ cũng có vai trò riêng của chúng.

 

Chấm dứt phần định nghĩa Giới



2.   TẠI SAO ĐƯỢC GỌI LÀ SĪLA?

Chữ Sīla trong tiếng Pāli có nghĩa là Giới. Sīla có hai nghĩa - nghĩa
thứ nhất là thói quen, hạnh kiểm. Chẳng hạn:
pāpakaraṇa-sīlo - người
có thói quen làm điều ác; dubbhāsana-sīlo - người quen thói nói dối;
abhivādana-sīlo - người thường hay tỏ sự tôn kính đến các bậc đáng
tôn kính; dhammakathana-sīlo - người hay thuyết giảng giáo pháp.

Sīla cũng được ứng dụng để mô tả hiện tượng tự nhiên: vassānasamaye rukkha ruhana-sīlā - cây cối thường mọc lên trong mùa mưa; gimhasamaye patta patina-sīla - lá thường rụng trong mùa hạ. Trong ý nghĩa thứ nhất này, sīla được ứng dụng để mô tả thói quen của những người có đạo đức và cả phi đạo đức. Và cũng nói về những hiện tượng tự nhiên không nằm trong lãnh vực thiện ác.

Nghĩa thứ hai là pháp hành thiện, giới đức, thuộc về bậc Thánh.
Đây là ý nghĩa được ứng dụng trong chương giới Ba-la-mật này. Và
trong ý nghĩa này, sīla cũng có hai nghĩa: (a) hướng, dẫn dắt và (b) hỗ
trợ.

(a) “Hướng” nghĩa là kiểm soát các hành động về thân và khẩu và
đưa chúng đi đúng hướng, để chúng không vượt ra ngoài tầm kiểm
soát.

Người không thọ giới, các hành động về thân và khẩu xảy ra một
cách bừa bãi, như sợi chỉ lỏng lẻo được cuộn lại một cách ẩu tả.
Nhưng người có thọ trì giới, nhiếp hộ các hành động về thân và khẩu
để chúng khởi lên một cách có trật tự dưới sự kiểm soát của người ấy.
Cho dù một người có tánh cáu kỉnh, dễ phật ý trước sự khiêu khích
nhỏ nhặt nhất, cũng có thể kiểm soát các hành động về thân và khẩu
nếu người ấy có thọ trì giới.

(b) Giới là sự “hỗ trợ” bởi vì không có việc thiện nào mà không có
giới đi kèm. Những hành động tạo phước chỉ có thể khởi sanh trong
những người có giới. Như vậy giới làm nền tảng cho mọi hành động

thiện. Giới làm cho các điều phước sanh khởi dễ dàng hơn, qua sự
thực   hành   các   việc   phước   dẫn   đến   tái   sanh   trong   bốn   cõi
(catubhūmaka): cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc và các trạng thái siêu thế
(cõi thánh).

Ở chương Giới Ba-la-mật này, nêu ra rằng ẩn sĩ Sumedha, sau khi
được thọ ký thành Phật, đã tự bảo mình trước nhất phải an trú trong
Bố thí Ba-la-mật. Nhưng điều này không ám chỉ rằng vị ấy nên thực
hành Bố thí trước mà không có sự thọ trì giới. Khi suy xét các yếu tố
thành Phật qua sự vận dụng Ba-la-mật Tư trạch trí (
Pāramī pavicaya
ñāṇa), chính Bố thí Ba-la-mật xuất hiện trước tiên trong con mắt tâm
của vị ấy, rồi đến Giới, Xuất gia, v.v... Thứ tự các pháp Ba-la-mật
được nêu ra trong kinh sách là thứ tự mà chúng xuất hiện trước con
mắt tâm của ẩn sĩ Sumedha. Không thể nào vị ấy thấy được cả mười
pháp Ba-la-mật cùng một lúc. Chúng được suy xét lần lượt từng pháp
và vì thế mới có thứ tự như vậy. Pháp Ba-la-mật đầu tiên được thấy là
Bố thí Ba-la-mật, nhưng điều này không có nghĩa rằng thứ tự trong
loạt liệt kê là thứ tự mà các pháp Ba-la-mật phải được tu tập.

Trong thực hành, sự bố thí chỉ được trong sạch khi thí chủ an trú trong giới. Sự bố thí có kết quả nhiều hơn khi có sự thọ trì giới trước. Đó là lý do khiến các vị tỳ khưu khi được mời dự lễ bố thí cúng dường thường khuyên thí chủ nên thọ trì giới trước.

Như vậy đối với câu hỏi: Tại sao được gọi là Sīla? Câu trả lời ngắn
gọn và đơn giản là: Được gọi là Sīla vì: (1) Sīla không để các hành
động thân khẩu diễn ra một cách phóng túng, thô bạo. Giới kiểm soát
và hướng dẫn thân khẩu được nhẹ nhàng và yên tĩnh. (2)
Sīla làm nền
tảng cho sự sanh khởi tâm thuộc về cõi sắc, cõi vô sắc và tâm siêu thế.

Ngoài những vấn đề bàn luận này còn khởi sanh những câu hỏi sau
đây: (1) Nếu Giới (
sīla) và Định (samādhi) đều làm công việc “hướng

dẫn” thì chúng có phận sự khác nhau như thế nào? Sīla đẩy mạnh sự
yên tịnh nhờ những hành động thân khẩu được kiểm soát đúng pháp.
Trong khi đó,
Samādhi ngăn chặn tâm và các sở hữu tâm mà kết hợp
với chúng, không cho tán loạn bằng cách hướng chúng tập trung vào

một đề mục. Bằng cách này, Sīla khác với Samādhi về phận sự
“hướng” của chúng.

(2) Nếu cả Giới và Địa đại (pathavī) đều làm công việc “nâng đỡ”
thì phận sự của chúng khác nhau ở chỗ nào? Giới là nguyên nhân cơ
bản làm sanh khởi bốn loại giới tâm, vì thế nó được xem là làm nền
tảng cho sự sanh khởi các loại giới tâm thuộc về cõi dục (giới tâm
thuộc về cõi sắc, sự tâm thuộc về cõi vô sắc và tâm siêu thế).

Cũng như bà nhũ mẫu giữ vị hoàng nhi trong đôi tay của bà để đứa
bé không bò quanh phòng, cũng vậy, địa đại giữ các đại khác mà khởi
sanh theo nó chung lại với nhau và ngăn chúng không cho tản mác đi
các hướng. Như vậy giới và địa đại khác nhau về phận sự hỗ trợ của
chúng. ( Phụ chú giải của Visuddhi-magga (Thanh tịnh đạo) - Chương
về Giới)

Bộ Thanh tịnh đạo chỉ nêu ra hai nghĩa ngữ pháp như đã giải thích
ở trên. Nhưng có những quan điểm khác nhau của những vị A-xà-lê
khác. Theo họ, chữ giới (
sīla) bắt nguồn từ chữ sira hay sisa, cả hai
đều có nghĩa là “cái đầu”. Khi cái đầu bị cắt đứt thì thân còn lại của

con người bị tiêu diệt. Cũng vậy, khi giới bị hoại thì tất cả mọi loại
phước đều bị hoại. Như vậy giới giống như cái đầu của thân phước

đức và được gọi là “sīla”, lấy từ chữ sira hay sisa và thay chữ “r” hay
“s” bằng chữ “l”.

Nhưng tác giả có ý kiến rằng quan điểm khác biệt này không tự
nhiên, vì nó được rút ra chỉ dựa vào các âm thanh tương tự từ các chữ
sira, sisa sila, và không bàn về ý nghĩa thực chất của chữ sīla như
đã định nghĩa trong câu kệ số 1092 của bộ Abhidānappadīpikā.

Vị  ấy  kết  luận  rằng  Giới  được  gọi  là  sīla  bởi  vì  theo  bộ Abhidānappadīpikā, nó mang hai ý nghĩa: (1) đặc tánh tự nhiên, (2) pháp hành thiện.

Dù đặc tánh tự nhiên mang ý nghĩa cả thiện lẫn ác như đã giải thích
ở trên, vì chúng ta đang bàn về thói quen và những pháp hành của
những bậc hiền trí ngày xưa hay của chư đương lai Phật, đương lai A-
la-hán, v.v… chúng ta nên nghĩ rằng sīla chỉ nói về những khía cạnh
thiện mà thôi. Ví dụ: Dhamma có thể là phước hoặc tội nhưng khi
chúng ta nói “Con xin quy y Pháp” thì Pháp ở đây là thiện pháp. Cũng
thế, dầu Saṅgha (Tăng) có nghĩa là “nhóm”, “quần hội” trong những
chữ như “manussa-sangha - nhóm người”, “sakuna-sangha - bầy
chim”, nhưng khi chúng ta nói “Con xin quy y Tăng” thì chữ Tăng chỉ
mang ý nghĩa là “Chúng tỳ khưu”.

Xét theo cách này, ý nghĩa của chữ sīla nên được dùng theo định
nghĩa của bộ Abhidānappadīpikā là “đặc tánh tự nhiên”. Như vậy, nên
giải thích rằng
sīla được gọi là Giới bởi vì đó là đặc tánh tự nhiên của
những vị hiền trí thuở xưa của chư đương lai Phật, A-la-hán, v.v...

3.  ĐẶC TÁNH, PHẬN SỰ, SỰ HIỂN LỘ VÀ

NHÂN GẦN CỦA SĪLA

Giới có đặc tánh kiểm soát những hành động về thân khẩu của người và hướng chúng đi theo con đường đúng. Giới cũng làm nền tảng cho tất cả mọi điều phước.

Phận sự của Giới là ngăn chặn không cho người ta phạm tội, do
những hành động thân khẩu không được kiểm soát. Giới giúp người ta
duy trì hạnh kiểm trong sạch, thoát khỏi sự chê bai của các bậc trí.

Sự hiện khởi của Giới là ý nghĩ, lời nói và việc làm được trong sạch. Khi các bậc trí suy xét về bản chất của Giới, họ thấy rằng nó là sự trong sạch của hành động về thân, sự trong sạch về lời nói và sự trong sạch của tâm.

Nguyên nhân gần cho sự sanh khởi của Giới là hổ thẹn (hiri) và ghê
sợ tội lỗi (
ottappa). Dù nghe pháp cũng làm sanh khởi Giới nhưng nó
chỉ là nguyên nhân xa. Chỉ qua hiriottappa, người ta mới thọ trì
giới.

4.  SĪLA CÓ NHỮNG LỢI ÍCH NÀO?

Người có giới hạnh được hưởng nhiều lợi ích như tâm vui sướng
dẫn đến hỷ lạc (pāmojja). Kết quả lợi ích của Giới theo thứ tự lần lượt,
đầu tiên là Hỷ (
pīti). Trong người cảm thọ hỷ, có sanh khởi sự vắng
lặng của thân và tâm (passaddhi - khinh an) để rồi lạc (sukha) sanh
lên. Trạng thái yên tịnh của thân và tâm dẫn đến định
(samādhi) và
định giúp người ta có thể thấy các pháp như thật (yathābhūtañāṇa).
Khi một người đạt được tuệ quán thấy các pháp như thật, người ấy trở
nên yểm ly đối với những cái khổ của luân hồi. Trong người ấy có
sanh khởi Lực tuệ (balava vipassanā-ñāṇa). Với tuệ quán này, người
ấy viễn ly ái dục và chứng đắc Đạo Tuệ dẫn đến giải thoát hoàn toàn
nhờ Quả Tuệ. Sau khi chứng đắc được Đạo Quả Tuệ, người ấy phát
triển Quán sát trí (paccavekkhaṇa-ñāṇa) là loại trí giúp hành giả thấy
rằng sự chấm dứt các pháp thuộc về danh sắc uẩn đã xảy ra trong tâm

của hành giả. Nói cách khác, hành giả đã chứng ngộ Niết bàn, hạnh
phúc tuyệt đối. Như vậy Giới có nhiều lợi ích, bao gồm sự chứng ngộ
Niết bàn.

Trong nhiều bài kinh, Đức Phật nêu ra năm lợi ích sau đây mà người thọ trì giới và an trú trong Giới có được:

(1)    Dựa vào chánh niệm nhờ Giới, người ấy có được tài sản lớn.

(2)   Được danh tiếng tốt.

(3)   Người ấy dù đi vào bất cứ hội chúng nào - bậc Thánh, Bà-la-
       
môn, gia chủ hay Sa-môn đều có sự tự tin hoàn toàn (sanh lên

từ giới), không chút mặc cảm tự ti.

(4)   Người ấy sống đến hết thọ mạng và chết với tâm không rối
       
loạn (người không giới lúc lâm chung ăn năn, hối tiếc rằng

mình đã không làm những việc phước trong khi còn sống.
Người thường xuyên thọ trì giới thì không bao giờ ăn năn, hối
hận khi cái chết đến với người ấy. Thay vào đó, ký ức về
những việc lành đã làm trước đây lần lượt hiện lên trong tâm,
khiến người này không sợ hãi, tâm tỉnh táo để đối mặt với cái
chết giống như một người sắp có được một hủ vàng, vui sướng
từ bỏ cái hủ đất.

(5)   Sau đó người ấy tái sanh vào nơi an vui thuộc cõi chư thiên
       
hoặc cõi người.

Trong bài kinh Ākaṅkheyya của Majjhima Nikāya, Đức Phật kể ra

13 lợi ích sanh lên từ sự thực hành Giới. Những lợi ích như vậy được liệt kê từ sự tôn kính, được thể hiện bởi những người tu Phật cho đến sự chứng đắc đạo quả A-la-hán.

 

 

5.  CÓ BAO NHIÊU LOẠI SĪLA?

Giới Nhóm Hai

1) Cāritta-sīla / Vāritta-sīla
(Tác trì giới /  Chỉ trì giới)

Trong hai loại này, Giới do Đức Phật ban hành rằng: “điều này nên làm” là cāritta-sīla. Ví dụ: Sự thực hành các phận sự đối với thầy hòa thượng (upajjhaya vatta) hay các phận sự đối với thầy A-xà-lê (ācariya vatta) là phận sự cāritta-sīla.

Không làm những điều mà Đức Phật đã cấm chế như:

“Điều này không nên làm” là sự thực hành vāritta-sīla. Ví dụ: sự
thọ trì các điều luật Bất cộng trụ (tỳ khưu tránh tà hạnh, đánh cắp, sát
sanh và không nói sai lạc về Tri kiến của đạo và quả) là thực hành
vāritta-sīla.

 

Một số người đã diễn dịch một cách sai lệch rằng cāritta-sīla là giới
dẫn đến sự vô tội nếu không thực hiện nhưng sự thọ trì giới ấy giúp
giới hạnh của người ta được trong sạch. Sự diễn dịch như vậy chứng
tỏ rằng, họ không có sự phân biệt giữa các vị tỳ khưu và hàng cư sĩ.

Thực tế, Đức Phật đã ban hành điều luật rõ ràng, liên quan các phận sự phải thực hành của người đệ tử đối với thầy hoà thượng hay thầy y chỉ. Bất cứ người đệ tử đồng cư nào mà không trú trong những điều học này, thì không những không làm tròn học giới cāritta-sīla mà còn phạm tội - vi phạm các điều học liên quan đến các phận sự bắt buộc phải thực hành (vatta bhedaka dukkata āpatti).

Như vậy, đối với các vị tỳ khưu và sa-di, không thể nói rằng việc
không thực hành học giới cāritta-sīla dẫn đến vô tội; vì đối với họ,
cāritta-sīla do Đức Phật ban hành là Giới bắt buộc phải thực hành.

Đối với hàng tại gia cư sĩ, có thể nói rằng sự kiên tránh các điều ác,
mà các điều ác này chắc chắn dẫn đến tái sanh khổ cảnh thuộc loại
Tác trì giới (cāritta-sīla). Nói cách khác, sự kiêng tránh những ác
nghiệp mà có  hoặc không cho quả tái sanh như vậy, được xếp vào
loại cāritta-sīla.

Ví dụ: Có năm giới mà người cư sĩ phải thọ trì, đó là không sát
sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối và uống chất say. Nếu cứ mãi đắm
chìm trong những ác nghiệp như vậy thay vì kiên tránh chúng, thì
chắc chắn sẽ bị tái sanh vào các khổ cảnh. Do đó Giới kiên tránh năm
ác nghiệp mà chắc chắn sẽ bị tái sanh các đọa xứ, được gọi là Chỉ-trì-

giới (vāritta-sīla) .

Người cư sĩ cũng có thể thọ trì tám giới bao gồm bốn Chỉ-trì-giới
(vāritta-sīla) là không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối và
không dùng các chất say, và thêm bốn giới khác là: không hành dâm,
không ăn sau khi mặt trời đứng bóng, không khiêu vũ hát hò, chơi
nhạc và thưởng thức chúng, và không nằm ngồi chỗ cao sang và xinh
đẹp.

 

Những nghiệp thuộc về bốn giới phụ này không nhất thiết dẫn đến
các  khổ  cảnh.  Những  cư  sĩ  bậc  thánh  như  các  vị  Tu-đà-hườn
(sotāpanna) và các bậc Nhất lai (sakadāgāmi) cũng vui thích quan hệ
tình dục hợp pháp với vợ chồng của họ, cũng ăn sái giờ, khiêu vũ, hát

hò, v.v… và ngủ ở trên giường cao và sang trọng. Nhưng họ làm với
tâm không kết hợp với tà kiến, nên những nghiệp ấy của họ không cho
quả tái sanh trong các khổ cảnh.

Nhưng một người phàm tục làm những việc này với tâm kết hợp
với tà kiến (diṭṭhi-sampayutta) hoặc không kết hợp với tà kiến (diṭṭhi-
vippayutta). Những nghiệp này có lẽ hoặc không dẫn đi tái sanh trong
các khổ cảnh. Do đó bốn Giới: không hành dâm, không ăn sái giờ,
không múa hát, thổi kèn, đánh đàn, xem múa hát, nghe đờn kèn, và
không nằm ngồi nơi các chỗ quá cao và xinh đẹp nên được xem là Tác
trì giới (
cāritta-sīla). Khi một người đã quy y Tam bảo và thọ trì Ngũ
giới một cách rất thận trọng, người ấy sẽ là một đệ tử tại gia của Đức
Phật, một cận sự nam. Nếu người ấy tinh tấn hơn nữa bằng cách thọ trì
Tám giới, sự thọ trì ấy nhằm mục đích thực hành đời sống phạm hạnh
ở mức độ cao của sự tinh tấn. Nhưng Đức Phật không hề nói rằng sự
thọ trì Tám giới sẽ giúp người ta thoát khỏi khổ cảnh, và cũng không

nói sự thọ trì riêng Năm giới không đủ an toàn để thoát khỏi mối hiểm
họa bị tái sanh vào khổ cảnh.

Do vậy, trong ý nghĩa này, bốn giới phụ trong Tám giới nên được
xem là thuộc loại Tác trì giới (cāritta-sīla). Đối với các vị tỳ khưu,
Đức Phật nghiêm cấm họ không được dể duôi với bốn giới này, cho
nên đối với các vị tỳ khưu, sự kiện tránh những hành động này là Chỉ
trì giới (vāritta-sīla).

Điều suy xét đặc biệt

Nếu đọc không kỹ về sự khác biệt của hai loại Giới: Tác trì
(cāritta-sīla) và Chỉ trì (vāritta-sīla) hoặc suy xét một cách hời hợt về
việc các đệ tử bực Thánh như tín nữ Visākhā vui thích trong quan hệ
tình dục hợp pháp, ăn sái giờ, múa hát đờn kèn, v.v… có thể khiến

người ta có suy nghĩ sai lệch. Người ta có thể dễ dàng nghĩ sai rằng tất
cả những hành động như vậy là vô tội. Khi ấy người ta có khuynh
hướng buông thả với những hành động như vậy sâu hơn với tà kiến đi
kèm. Điều quan trọng nhất, là không nên có ý nghĩ sai lạc như vậy.

Sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, và dùng những chất say, là
những ác nghiệp chắc chắn dẫn đến các khổ cảnh. Đó là lý do khiến
các bậc Thánh không bao giờ vi phạm những giới cấm ấy, dù có sự đe
dọa đến tính mạng. Họ sẵn sàng từ bỏ mạng sống chứ nhất quyết
không làm những hành động như vậy. Bằng Đạo Tuệ, họ đã đoạn diệt
tất cả những pháp ngủ ngầm xui khiến làm các ác nghiệp. Như vậy,
cách mà các bậc Thánh vui thích với các việc làm, như ăn sái giờ,
v.v… không giống như kẻ phàm phu.

Cái nhìn của các bậc Thánh về các dục lạc không giống như cái
nhìn của kẻ phàm phu, cách vui thích dục lạc của họ khác với kẻ phàm
phu.

Chú giải của Aṅguttara Nikāya (Tăng chi bộ) nói rằng thái độ của bậc Thánh đối với dục lạc giống như thái độ của vị Bà-la-môn thích sạch sẽ, bị voi rượt bèn tìm chỗ nương trú ở hố xí, rất nhờm gớm nhưng phải miễn cưỡng. Khi bị áp lực bởi tham dục - phiền não mà chưa được đoạn diệt bởi Đạo tuệ, các bậc Dự lưu hay Nhất lai hành xử với các dục lạc bằng tâm không có tà kiến đi kèm, chỉ để làm vơi dịu sự thiêu đốt của phiền não đó thôi.

Điều này rất đáng được suy xét cẩn thận. Khi vin vào gương của
các bậc thánh như tín nữ Visākhā, kẻ phàm phu có thể lầm lạc, cho

rằng các bậc Thánh vui thích dục lạc không khác gì họ. Như đã giải rõ
ở trên, các bậc Thánh hưởng dục lạc với tâm không câu hữu tà kiến,
mà chỉ để làm dịu dục vọng đốt cháy - là phiền não mà họ chưa đoạn
diệt bằng Đạo tuệ, trong khi đó kẻ phàm phu đắm chìm trong dục lạc

thường có tà kiến đi kèm.

Kết luận: Một người có thể có quan hệ tình dục với người bạn đời
của mình, ăn buổi chiều, múa hát, chơi nhạc và nằm ngồi chỗ quá cao

và xinh đẹp, v.v… với tâm câu hữu tà kiến, cho quả tái sanh vào khổ cảnh hoặc với tâm ly tà, không cho quả tái sanh vào khổ cảnh. Do đó sự kiên tránh bốn loại nghiệp này (những nghiệp có thể không dẫn đến khổ cảnh), nên được xếp vào loại Tác trì giới (cāritta sīla) chứ không phải Chỉ trì giới (vāritta sīla).

Sự phân chia Tám giới ra thành bốn Tác trì giới (cāritta sīla)  và
bốn Chỉ trì giới (vāritta sīla) chỉ đứng vững khi nào sự phát nguyện
thọ trì được thực hiện, nên kể riêng từng giới. Nhưng nếu kể chung cả
Tám giới như “Con nguyện thọ trì Bát quan trai giới” thì đó là sự thọ
trì Tác trì giới (cāritta sīla) vì tám giới hình thành loại giới mà người
ta có thể thọ trì hoặc không.

Còn về năm giới, dầu lời nguyện đối với chung cả năm hoặc riêng từng giới, sự thọ trì ấy hiển nhiên là Chỉ trì giới (vāritta sīla).

Trong hai loại giới này, sự thọ trì Tác trì giới (cāritta sīla) được
thành tựu chỉ khi nào người ta có đức tin và tinh tấn. Đức tin có nghĩa
là tin rằng kết quả thiện sẽ đi theo nghiệp thiện trong việc thọ trì giới,
và tinh tấn có nghĩa là sự cố gắng không thối chuyển đi kèm với niềm
tin như vậy.

 

2) Abhisamācārika-sīla (Đẳng Chánh hành giới) là nhóm giới đẩy
mạnh thiện hạnh và bao gồm tất cả mọi hình thức thực hành giới,
ngoài những giới thuộc loại Tám giới có chánh mạng là giới thứ tám
(Ājīvaṭṭhamaka-sīla). Tất cả mọi hình thức thực hành giới đã được
giảng dạy để thành tựu đạo quả đều thuộc sự phân loại này.

Bởi vì bộ Tám giới hình thành sự bắt đầu đời sống thanh tịnh ở đạo, nên bao gồm các pháp hành về chánh mạng (Ājīvaṭṭhamaka-sīla -
Chánh mạng Đệ bát giới), cũng được gọi là Căn bản Phạm hạnh giới (Ādibrahmacariyaka-sīla).

Chánh mạng Đệ bát giới (Ājīvaṭṭhamaka-sīla) gồm có ba thân
nghiệp giới: không sát sanh, không trộm cắp và tà dâm; bốn khẩu

nghiệp giới: không nói dối, không nói lời đâm thọc, không nói lời thô lỗ chửi mắng, không nói lời phù phiếm vô ích; cuối cùng là kiên tránh sự nuôi mạng không chân chánh.

Bộ Visuddhimagga (Thanh tịnh đạo) giải thích rằng Chánh mạng
Đệ bát giới (Ājīvaṭṭhamaka-sīla) cũng có thể được gọi là Căn bản
Phạm hạnh giới (Ādibrahmacariyaka Sīla) vì nó bao gồm những giới
phải được thực hành viên mãn trong giai đoạn đầu của sự tu tập Thánh
đạo.

Câu nói này rất có thể bị diễn dịch sai lạc bởi một số người cho
rằng Chánh mạng Đệ bát giới là giới phải được thọ trì đầu tiên trên
con đường đạt đến Đạo quả. Một nhóm người thì cho rằng Ngũ giới,
Bát giới và Thập giới, mà mọi người thường thọ trì trong thời này,
không phải là những giới được thọ trì đầu tiên cho sự chứng đắc Đạo
quả.

Nói cách khác, có một số người nói rằng họ chưa hề nghe loại giới
nào được gọi là Chánh mạng Đệ bát giới; giới này không phải do Đức
Phật giảng dạy. Giới  có lẽ về sau được bổ túc thêm, không có giá trị
đặc biệt.

Thực tế, Ājīvaṭṭhamaka-sīla - Chánh mạng Đệ bát giới chắc chắn là
giới được chính Đức Phật giảng dạy. Bộ Visuddhimagga trích dẫn
Hậu Phân Ngũ Thập Kinh, phẩm 5, bài kinh số 7 (Uparipaṇṇāsa Pāḷi,

5   Vagga,   7   Sutta)  như  sau:    Tenāha   pubbeva   kho   panassa kāyakammaṃ vācikammaṃ ājīvo suparisuddho hotī ti,” chỉ ra rằng Đức Phật đã giảng dạy Chánh mạng Đệ bát giới, là bộ giới mà Chánh mạng là giới thứ tám.

Đức Phật xuất hiện trong thời mà thế gian bị bao trùm bởi bóng tối
dày đặc của những ác lực. Đời sống con người bị suy đồi, không có
giới, chìm ngập trong những ý nghĩ, lời nói và hành động ác. Khi Đức
Phật muốn in sâu một nếp sống có đạo đức qua sự thực hành giới, vào

trong tâm trí của con người còn hoang dã như vậy, Ngài đã chọn ra
một loại giới mà thích hợp nhất với tâm còn thô thiển của họ. Ở những

giai đoạn đầu, Ngài đã dạy cho họ Chánh mạng Đệ bát giới -
Ājīvaṭṭhamaka-sīla. Khi những điều ác ở dạng thô thiển từ những thói quen của các chúng sanh đã được thuần hóa, đã được loại bỏ thì Đức Phật không còn dùng đến loại giới ấy nữa. Thay vào đó, Ngài dạy Ngũ giới và Bát quan trai giới.

Đức Phật loại bỏ Chánh mạng Đệ bát giới khi sự thanh tịnh về giới của mọi người đã đạt đến mức độ cần thiết, những vị thầy A-xà-lê từ thời Đức Phật cho đến nay không còn quan tâm đến Chánh mạng Đệ bát giới. Người cư sĩ cũng không còn thọ trì nó (vì Ājīvaṭṭhamaka-sīla đầu tiên chỉ dành cho những người có đạo đức suy đồi).

Một câu hỏi đặt ra là - vì Ājīvaṭṭhamaka-sīla là pháp hành đầu tiên
để đạt đến Đạo và vì nó được dùng vào thời điểm mà Đức Phật xuất
hiện đầu tiên, thế liệu nó có thích hợp để thọ trì trong thời hiện nay
không?

Câu nói “pháp hành đầu tiên để đạt đến Đạo” chỉ có thể được áp
dụng khi Ājīvaṭṭhamaka-sīla được thọ trì bởi những người chưa thọ trì
loại giới nào cả để đạt đến Đạo. Những người vừa từ bỏ tà kiến và bắt

đầu theo đạo Phật, không chút nghi hoặc, thì nên bắt đầu làm trong
sạch chính mình bằng cách thọ trì Ājīvaṭṭhamaka-sīla này. Nhưng khi
họ đã được tiến bộ trong giới thì nó không còn được gọi là ‘pháp hành
đầu tiên để đạt đến Đạo nữa”.

Nói cách khác, sự thọ trì Ājīvaṭṭhamaka-sīla là bước cần thiết mà
những người quen sống không đạo đức nên thọ trì để tự mình loại bỏ
những thói quen hoang dã, thấp kém. Nhưng đối với những người có

giáo dục bởi cha mẹ đang thực hành theo giáo pháp của Đức Phật, thì
điều rõ ràng là họ đã có phần nào giới hạnh rồi. Do đó họ không cần
thiết phải thọ trì Ājīvaṭṭhamaka-sīla. Điều đã nói ở trên cũng được áp
dụng trong thời hiện tại, khi giáo pháp của Đức Phật đã có mặt ở khắp
mọi nơi.

Tuy lớn lên trong gia đình theo đạo Phật, và được khuyên dạy tránh
xa những tà nghiệp thô thiển, nếu một người tự xét thấy mình còn

thiếu sót về giới hạnh và đã phạm phải những điều cấm kỵ quan trọng, người ấy không còn chọn lựa nào khác mà phải khởi sự bước thanh tịnh  đầu  tiên,  bằng  cách  thọ  trì  Chánh  mạng  Đệ  bát  giới -
Ājīvaṭṭhamaka-sīla để đạt đến Đạo quả.

Những người có tánh hơi bướng bỉnh có thể nhận ra Chánh mạng Đệ bát giới này hấp dẫn, nếu có người chỉ cho họ thấy rằng nếu thọ trì giới này, người ta không phải kiên tránh uống rượu, khiêu vũ, đàn hát, đi xem văn nghệ; sự thọ trì giới sẽ không khó khăn lắm, và nó còn làm nền tảng cho sự chứng đắc Đạo quả.

Điểm yếu của con người là muốn kiếm tiền bằng những công việc
nhẹ nhàng, nhàn nhã. Người ta đã quên hoặc không biết sự thực rằng,
dù làm việc siêng năng, vất vả cũng chưa chắc đạt được giấc mộng
giàu sang của mình. Nhiều người đã trở thành con mồi cho bọn lưu

manh lường gạt, huênh hoang rằng chúng có bí quyết làm cho của cải
người ta tăng lên bội phần. Vì muốn tìm phương tiện dễ dàng để trở
nên giàu có, người ta đã trở thành nạn nhân của chính họ do lòng tham
thái quá.

Ngoài đời có những kẻ lường gạt thế nào thì trong đạo cũng thế,
cũng có những kẻ dối trá đặc biệt liên quan đến sự chứng đắc Đạo
quả. Dĩ nhiên, để đạt được những pháp ấy không dễ dàng chút nào.
Nhiều người muốn tìm con đường tắt, nên đã nghe theo giáo lý hư
ngụy của những vị thiền sư giả dối, khoe khoang rằng sẽ giúp những
người theo họ đạt được ‘quả thánh Dự lưu’ trong bảy ngày hoặc ‘Nhất
lai’ nếu phát triển đầy đủ về trí tuệ. Sau khi hành xong khóa thiền bảy

ngày, thiền sư ấy thọ ký cho môn đồ của mình là ‘bậc Dự lưu’ hoặc
‘Nhất lai’, và dĩ nhiên người tín đồ kia cũng rất hoan hỷ với những
hạnh quả giả tạo của mình.

Ở đây, chúng tôi muốn đưa ra lời cảnh tỉnh. Như kim loại đồng, nếu
nó có thể được chế biến thành kim loại vàng quý báu thông qua thuật
chế kim, nó sẽ có 8 đặc tánh của vàng khác xa rất nhiều so với những
đặc tánh của kim loại đồng lúc ban đầu. Cũng vậy, một bậc Thánh mà

đã đạt được quả Thánh đầu tiên, tức là bậc Dự lưu, thì rất dễ phân biệt
với kẻ phàm phu về thái độ, lời nói, cử chỉ. Thay vì mù quáng chấp
nhận lời công bố của ông thầy là đã chứng đắc tầng thánh Dự lưu hoặc
Nhất lai - hãy bằng sự nội quán, người ấy nên tự xét lại bản chất chân
thật của mình để xem mình có tiến bộ hơn không, và thực sự có kết
quả qua khóa thiền 7 ngày hay không. Chỉ qua sự tự đánh giá theo
cách này, người ta mới có thể thoát khỏi sự dẫn dắt sai lạc của những
vị đạo sư đáng nghi ngờ này.

Như vậy, về mặt thọ trì giới hoặc về những mặt khác, không có con
đường tắt hay phương pháp dễ dàng nào để thành đạt mục tiêu ưa
thích của mình. Một người nghiện rượu sẽ không thể nào thọ trì ngay
cả Ngũ giới, đừng nói chi đến những pháp hành cao hơn như Bát giới

chẳng hạn.

Nhóm học giới ngoài Chánh mạng Đệ bát giới (Ājīvaṭṭhamaka-sīla) đều thuộc loại Đẳng chánh hành giới (Abhisamācārika-sīla), là những giới làm phát triển thiện hạnh. Ngay cả Ngũ giới cũng được xem là cao hơn Ājīvaṭṭhamaka-sīla.

Có thể nói rằng: “Làm sao Ngũ giới chỉ có một điều kiêng (tức là không nói dối) trong bốn điều kiêng về lời nói, lại có thể cao hơn Ājīvaṭṭhamaka-sīla, là giới có đến bốn điều kiêng về lời nói?”

Câu trả lời là: Trong bốn giới khẩu thì nói dối làm nền tảng cho sự
rạn nứt tất cả những điều kiêng về lời nói. Đức Phật dạy rằng đối với
người phạm tội nói dối thì không có điều ác nào mà người ấy không
thể không phạm, và người nào kiêng tránh được sự nói dối thì có thể
thọ trì những giới còn lại. Cho nên, người không nói dối thì làm sao có
thể dính vào tội nói đâm thọc, nói lời thô lỗ và nói lời vô ích. Điều này
giải thích lý do tại sao chỉ có giới không nói dối là giới chính về lời
nói   trong   Ngũ   giới,   và   như   vậy   hẳn   là   Ngũ   giới   cao   hơn

Ājīvaṭṭhamaka-sīla.

Lại có câu hỏi khác: Vì giới kiêng tránh tà mạng không nằm trong Ngũ giới, nó là giới thứ tám của Chánh mạng đệ bát giới. Vậy chắc chắn nó phải được xem là cao hơn Ngũ giới?

Câu trả lời tóm tắt là: Đối với người thọ trì Ngũ giới, họ không
dụng công để thọ trì thêm giới kiêng tránh tà mạng. Tà mạng là sự
nuôi sống bằng phương tiện bất chánh bao gồm sát sanh, trộm cắp và
nói dối. Do cẩn trọng thọ trì Ngũ giới, người ta tự nhiên đã kiêng tránh
sát sanh, trộm cắp và nói dối. Như vậy trong Chánh mạng Đệ bát giới,
dầu có chánh mạng giới cũng không thể nói rằng nó cao hơn Ngũ giới

được. Vấn đề này chỉ dành cho thiện nam và tín nữ mà thôi.

Đối với hàng Tăng lữ, giới luật mà Đức Phật đã ban hành được ghi lại trong tạng Luật, được gọi là điều học (Sikkhāpada). Tùy theo tánh chất của chúng, các tội được phân thành bảy loại:

(i)     Parājika - Bất cộng trụ

(ii)    Saṅghādisesa - Tăng tàn

(iii)   Thullaccaya - Trọng tội

(iv)   Pācittiya - Ưng đối trị

(v)    Patidesaniya - Ưng phát lồ

(vi)   Dukkata - Tác ác

(vii)  Dubbhāsita - Ác ngữ

Những tội ở loại thứ nhất (Parājika - Bất cộng trụ) và loại thứ hai (Saṅghādisesa -  Tăng  tàn)  được  xếp  loại  là  những  tội  trọng (Garukāpatti).

Năm loại tội còn lại được gọi là những tội nhẹ - khinh tội (Lahukāpatti).

Những giới mà các vị tỳ khưu thọ trì để tránh những giới khinh
(Lahukāpatti) thì được gọi là Đẳng chánh hành giới (Abhisamācarika-

sīla). Còn giới trọng (Garukāpatti) được xếp loại Căn bản phạm hạnh giới (Ādibrahmacariyaka-sīla).

Trong năm bộ sách của Tạng Luật, bộ Pārājika Pāli và bộ Pācittiya
Pāli gọi chung là bộ Ubhāto Vibhaṅga, bàn về những phần Luật thuộc
loại Căn bản phạm hạnh giới (Ādibrahmacariyaka-sīla). Bộ Mahā
Vagga Pāḷi và bộ Cūla Vagga Pāḷi, gọi chung là Khandhaka Vagga,
mô tả nhóm giới thuộc loại Đẳng chánh hành giới (Abhisamācarika-
sīla)
. (Bộ cuối cùng, Parivāra, đưa ra sự kết luận và sự phân loại các
điều luật trong bốn cuốn trước).

(Các  vị  tỳ  khưu  được  thành  tựu  Căn  bản  phạm  hạnh  giới -
Ādibrahmacariyaka Sīla chỉ sau khi hoàn thành việc thọ trì Đẳng
chánh hành giới - Abhisamācariya Sīla. Khi vị tỳ khưu đã nghiêm trì
giới luật nghiêm ngặt, không để phạm phải dầu một lỗi nhỏ, không
cần phải nói, vị ấy sẽ rất cẩn thận không để phạm phải những tội
trọng).

 

 

3. Virati-sīla / Avirati-sīla (Ly giới / Bất ly giới)

 

- Virati-sīla (Ly giới) là ba sở hữu giới phần câu sanh, tức là chánh
   
ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.

- Aviratī-sīla (Bất ly giới) bao gồm những giới kết hợp với nhiều sở
   
hữu câu sanh như Tư, v.v… ngoại trừ ba sở hữu giới phần.

 

 

4. Nissita Sīla / Anissita Sīla (Y chỉ giới / Bất y chỉ giới)

- Nissita-sīla (Y chỉ giới) là giới được thực hành dựa trên tham ái
   
hoặc tà kiến. Khi người ta thọ trì giới với mục đích đạt được một

kiếp sống hạnh phúc trong tương lai với đầy đủ của cải tiền bạc,
v.v… thì giới của người ấy được gọi là giới dựa trên nền tảng của
tham ái. Sự thọ trì các điều kiêng hoặc các giới điều (như bắt chước

theo cách sống của bò hoặc chó) với tà kiến cho rằng, họ đang đạt
đến sự thanh tịnh của tinh thần thì được gọi là giới dựa trên tà kiến.

Những người theo đạo Phật không thể nào thực hành giới dựa trên
tà kiến, nhưng họ phải cẩn thận không để rơi vào sự thực hành dựa
trên tham ái.

Anissita-sīla (Bất ly giới) là giới được thực hành không dựa trên ái
    dục hoặc tà kiến, chỉ với mục đích duy nhất là tu tập pháp hành của

bậc Thánh. Điều này có nghĩa là lấy pháp hành của phàm giới làm căn bản để đạt đến Thánh giới.

 

5. Kālapariyanta-sīla / Āpāṇakoṭika-sīla

(Thời hạn giới / Chung thân giới)

- Kālapariyanta-sīla (Thời hạn giới) là giới được thọ trì trong một thời gian nhất định.

- Āpāṇakoṭika-sīla (Chung thân giới) là giới được thọ trì trọn đời.
    Khi mô tả về
Kālapariyanta-sīla (Thời hạn giới), bộ Visuddhi- magga (Thanh tịnh đạo) chỉ đề cập chung về thời hạn thọ trì. Nhưng bộ Tīkā của bộ Thanh tịnh đạo, thì mô tả chi tiết hơn về thời hạn suốt ngày hoặc suốt đêm, v.v...

Ngày nay, nhiều người thọ giới mà không ấn định thời hạn. Sự thọ
trì ấy xem ra là trọn đời. Nhưng ý định  thọ trì một giới nào đó trong
một ngày hoặc chỉ một thời gian, đó là giới tạm thời. Theo Chú giải và
Phụ chú giải thì nghi thức nguyện thọ trì giới được nêu ra ở trên cần
phải nói rõ thời gian thọ trì, người thọ trì giới khi phát nguyện phải nói
rõ thời gian mà mình sẽ thọ trì. Tuy nhiên, nếu không làm vậy cũng
không lỗi lầm gì. Nó vẫn là sự thực hành giới tạm thời.

Ý định không nói ra vẫn thường được xem là suốt ngày hoặc suốt
đêm, hoặc suốt cả ngày lẫn đêm. Nhưng không cần thiết như vậy, vì

theo lời giải thích trong Chú giải của bộ Paṭisambhidā magga thì

người ta có thể thọ trì giới trong lúc đang ngồi, giống như những thiện
nam tín nữ đã quy y Tam bảo rồi, họ thọ trì giới trong thời gian cúng
dường vật thực đến một vị tỳ khưu ở nhà của họ. Họ thọ trì giới chỉ
trong thời gian trai Tăng mà thôi. Hoặc họ có thể nguyện thọ trì giới
suốt thời gian họ ở chùa một ngày, hai ngày hoặc lâu hơn. Tất cả
những hình thức thực hành này đều là sự thọ trì giới tạm thời.

Như vậy, theo bộ Chú giải này, dầu thọ trì giới trong một thời gian rất ngắn vẫn có kết quả lợi ích. Do đó, các vị thầy A-xà-lê giải thích rằng đối với trẻ em không thể nhịn ăn buổi chiều, có thể khuyên chúng thọ trì Bát quan trai giới chỉ trong buổi sáng thôi cũng được. Khi làm việc thiện, thọ trì giới luôn luôn có phước dù thời gian thọ trì giới ngắn ngủi bao nhiêu cũng được.

Hai câu chuyện trong Tiểu phẩm của bộ Ngạ quỉ (Peta vatthu) sự
chứng minh quan điểm này. Trong thời Phật tại tiền, ở thành Vương

Xá, có một người thợ săn ngày đêm săn nai để kiếm sống. Một người
bạn của ông đã quy y Tam bảo, là đệ tử của Đức Phật. Người bạn này

khuyên ông từ bỏ nghề săn thú, nhưng ông không quan tâm. Người
bạn vẫn không nản chí, đề nghị người thợ săn từ bỏ sát sanh tối thiểu
là ban đêm và thay vào đó chuyên tâm vào việc thọ trì giới. Người thợ
săn cuối cùng, đã nghe theo lời thuyết phục đầy kiên trì của người bạn
từ bỏ tất cả mọi công việc săn bắt ban đêm, ông ta chỉ chuyên tâm vào
việc thọ trì giới.

Sau khi chết, người thợ săn tái sanh ở gần thành Vương Xá, làm một ngạ quỷ tên là Vemanika, ban ngày thì thọ lãnh nhiều nỗi khổ to lớn, còn ban đêm sống hạnh phúc, thọ hưởng đầy đủ dục lạc.

Đại đức Nārada Thera trên đường châu du khất thực đã gặp ngạ quỷ
này. Ngài hỏi ngạ quỷ ấy về những phước nào mà hắn đã làm trong
kiếp trước. Ngạ quỉ kể lại cuộc đời làm thợ săn của mình, cách kiếm
sống bằng nghề săn thú, chuyện người bạn đã quy y Tam bảo khuyên
hắn từ bỏ lối sống tà mạng, chuyện hắn từ chối lời khuyến thiện của
người bạn lúc ban đầu và cuối cùng miễn cưỡng nghe theo, bằng cách

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                227

từ bỏ sự săn bắt thú vào ban đêm và chuyên tâm vào thiện nghiệp thọ trì giới. Do ác nghiệp mà hắn đã làm ban ngày, nên suốt ngày hắn chịu khổ cùng cực, nhưng ban đêm hắn sống hạnh phúc với một cuộc sống đầy đủ dục lạc của chư thiên.

Câu chuyện ngạ quỷ thứ hai cũng tương tự như vậy. (Nhưng câu chuyện liên quan đến một vị trưởng giả ngày đêm ham mê săn thú như một trò tiêu khiển, không phải để kiếm sống). Vị ấy cũng không chịu nghe lời khuyến thiện của người bạn. Cuối cùng nhờ một vị A-la-hán đến khất thực ở nhà người bạn và vị trưởng giả được thuyết phục thọ trì giới vào ban đêm. Sau khi chết, vị trưởng giả tái sanh làm ngạ quỷ, cũng đồng cảnh ngộ như ngạ quỷ Vemanika.

Từ hai câu chuyện này, chúng ta rút ra được bài học rằng dầu chỉ
thọ trì giới trong thời gian ngắn ngủi vào ban đêm, chúng ta vẫn gặt

hái kết quả lợi ích. Do vậy, chúng ta nên tinh tấn thọ trì giới bất cứ lúc
nào có thể và thời gian ngắn ngủi bao nhiêu cũng phải tranh thủ.

 

 

6. Sapariyanta-sīla / Apariyanta-sīla

(Hữu chế hạn giới / Vô chế hạn giới )

- Sapariyanta-sīla - Hữu chế hạn giới là giới mà sự thọ trì bắt buộc
phải kết thúc trước thời hạn đã nguyện ra lời vì một lý do nào đó,

ví như bị thuyết phục hoặc xúi dục bởi lời đề nghị sẽ được tặng

tiền bạc, của cải hoặc tôi tớ để phá bỏ sự thọ trì của mình. Trong
loại giới này, cần lưu ý rằng dù sự thọ trì bị kết thúc do sự cản trở
ở bên ngoài. Tuy nhiên phước đã có được, tương xứng với những
giới đã thọ trì của người ấy. Giới đã được thọ trì trước khi kết
thúc, cũng có kết quả.

- Apariyanta-sīla - Vô chế hạn giới là giới mà sự thọ trì không bị
cắt ngang bởi bất cứ ảnh hưởng bên ngoài nào, nó vẫn được duy

trì đến hết thời gian đã nguyện.

7. Lokiya-sīla / Lokuttara-sīla (Phàm giới / Thánh giới)

- Lokiya-sīla - Phàm giới là giới ở trong các lậu hoặc (āsava) như
   
dục lậu, hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu.

- Lokuttara-sīla - Thánh giới là giới không câu hữu với các lậu
hoặc.

Phàm giới (lokiya-sīla) dẫn đến sự tái sanh hạnh phúc trong tương
lai (như người hoặc chư thiên) và cũng là điều kiện tiên quyết để thoát
khỏi vòng luân hồi. Thánh giới (lokuttara-sīla) đem lại sự giải thoát
luân hồi. Nó cũng là đối tượng thiền quán của Tuệ quán sát trí
(
Paccavekkhana-ñāṇa).

Chấm dứt Giới nhóm Hai



Giới Nhóm Ba

1. Hina-sīla / Majjhima-sīla / Paṇita-sīla

(Liệt giới / Trung giới / Thắng giới)

Khi bốn yếu tố: Dục (Chanda), Tinh tấn (Viriya), tâm (Citta) và Thẩm sát tuệ (Vimaṃsā ñāṇa) đi cùng với giới thọ trì có phẩm chất bậc thấp thì nó được gọi là Liệt giới. Khi chúng có phẩm chất bậc trung thì giới ấy được gọi là Trung giới. Khi chúng có phẩm chất bậc cao thì giới ấy là Thắng giới.

a. Hīna-sīla - Liệt giới  là giới được thọ trì với ước muốn được
   
danh tiếng. Sự thọ trì như vậy là hành động đạo đức giả, không

có chủ tâm trong sạch đối với sự làm phước thật sự. Do đó nó có tánh chất liệt hạ.

b. Majjhima-sīla -  Trung giới  là sự thọ trì giới với mong ước
   
được tái sanh tốt đẹp, dĩ nhiên có đi kèm một phần nào tham

muốn, nhưng đó là ước muốn thiện, muốn việc thiện có kết quả

lợi ích  kết hợp với tư và tín. Thế nên nó cao quí hơn sự thọ trì giới vì danh tiếng.

Nói cách khác, vì động lực vẫn còn bị ô nhiễm bởi mong ước được lợi ích từ việc phước của mình, nên nó không được xếp hạng bậc cao, chỉ ở hạng bậc trung.

c. Paṇīta-sīla - Thắng giới là giới được thọ trì không phải với
ước muốn được danh tiếng hay được kết quả lợi ích mà được

thọ trì với sự hiểu biết rằng, thọ trì giới là pháp hành cao quí
cho đời sống thanh tịnh, và cũng từ sự nhận biết rằng chúng ta
nên tu tập ba pháp hành này vì sự cao quí của chúng. Giới có
phẩm chất bậc cao được thọ trì với tư ý thiện, không câu hữu

với bất kỳ hình thức tham muốn nào, chỉ giới ấy mới được xem
là Giới Ba-la-mật.

Khi vị Bồ-tát sanh làm rồng, suốt hai kiếp làm rồng Campeyya
và Bhuridatta, Ngài không thể tinh tấn thực hành giới bậc cao,
mà chỉ thọ trì giới với hy vọng được tái sanh làm người. Trong ý
nghĩa ấy, giới mà Ngài thọ trì có phẩm chất bậc trung. Tuy
nhiên, vì Ngài không làm hư hoại giới, trái lại kiên quyết thọ trì
chúng cho dù phải mất mạng, sự tinh tấn của Ngài được xem là
sự thực hành Giới Ba-la-mật.

Lại nữa:

a. Khi giới bị ô nhiễm bởi những ý nghĩ bất thiện có nội dung tự tán
thán và xem thường người khác, như: “Ta có giới. Những người

khác không có giới và thấp hơn ta”. Đó là giới bậc hạ.

b. Giới không bị ô nhiễm như vậy nhưng là giới hiệp thế thì thuộc
    
loại trung giới.

c. Khi giới thoát khỏi mọi ô nhiễm và kết hợp với thánh Đạo và
    
thánh Quả thì nó thuộc loại Thánh giới.

Lại nữa:

a. Hina-sīla (Liệt giới) là giới được thọ trì với quan điểm, sẽ đạt
    
được những kiếp tái sanh hạnh phúc.

b. Majjhima-sīla (Trung giới) là giới được thực hành, để giải thoát
     chính mình ra khỏi luân hồi như sự thực hành của các vị đương

lai Thinh văn hoặc đương lai Độc giác Phật.

c. Paṇita-sīla (Thắng giới) là giới thực hành của chư vị Bồ-tát với
     mục đích cứu độ chúng sanh thoát khỏi luân hồi, và nó có đặc

tánh là Giới Ba-la-mật. (Lời chú giải này chỉ liên quan đến loại
giới cao quý nhất. Nó không hàm ý rằng chỉ có giới của riêng
các vị Bồ-tát mới có đặc tánh như vậy. Giới thuộc về chư Độc
giác Phật và chư Thinh văn đệ tử Phật, dù nó không phải loại
cao quý nhất cũng được công nhận là Giới Ba-la-mật).

 

 

2. Attādhipateyya / Lokādhipateyya / Dhammādhipateyya-sīla

( Ngã / Thế gian / Pháp Tăng thượng giới)

a.  Attādhipateyya-sīla (Ngã Tăng thượng giới) là giới được thọ trì
     do lòng tự trọng, và để thỏa mãn ý thức mình bằng cách từ bỏ

điều gì không thích hợp và không lợi ích.

b.  Lokādhipateyya-sīla (Thế gian Tăng thượng giới) là giới được
    thọ trì vì xem trọng thế gian, và để tránh sự chỉ trích của mọi

người.

c.  Dhammādhipateyya-sīla (Pháp Tăng thượng giới) là giới được
   
thọ trì để tôn kính oai đức giáo pháp của Đức Phật. Người ta thực

hành giới này vì tin rằng pháp thoại của Đức Phật nói về Đạo, Quả và Niết bàn, quả thực chỉ ra con đường dẫn đến giải thoát sanh tử luân hồi và cách duy nhất để tỏ sự tôn kính và cúng dường Pháp là sự thọ trì giới .

 

 

3. Parāmaṭṭha-sīla / Aparāmaṭṭha-sīla/ Patippassaddha-sīla

(Chấp thủ giới / Vô chấp thủ giới / An tức giới)

a.  Parāmaṭṭha-sīla (Chấp thủ giới) cũng giống như Y chỉ giới
     
(Nissita sīla). Sự thọ trì nó dựa trên ái dục hoặc tà kiến. Do ái dục,

người ta hài lòng với ý nghĩ rằng giới của họ sẽ cho kết quả tái
sanh vào cõi hạnh phúc mà họ ao ước và giới ấy cao hơn giới của
kẻ khác. Do tà kiến, người ta chấp rằng giới của họ là ‘linh hồn
hay tự ngã’. Trong cả hai trường hợp, giới ấy đều thuộc loại Chấp
thủ giới .

(Ngay cả khi thực hành nó, giới này bùng cháy do những ngọn lửa
ái dục và tà kiến. Lửa ái dục và lửa tà kiến không chỉ bùng cháy

khi người ta thọ hưởng dục lạc mà ngay cả khi đang thực hành

pháp bố thí và trì giới. Chỉ khi nào sự thực hành các việc thiện đạt
đến trạng thái của thiền, nó mới thoát khỏi sự đốt cháy của những
ngọn lửa này. Qua pháp hành thiền Minh sát cho đến khi người ta

giác ngộ rằng thân này không phải ta, chỉ là hiện tượng của danh
và sắc, chỉ khi ấy người ta mới thoát khỏi những ngọn lửa thân
kiến).

b.  Aparāmaṭṭha-sīla (Vô chấp thủ giới) là giới được thọ trì bởi kẻ
    
phàm phu có giới đức, đã quy y Tam bảo và đã bắt đầu tu tập Bát

thánh đạo với nguyện vọng chứng đắc Đạo Quả. Đây cũng là giới
của bậc Hữu học (sekkha) là người qua sự tu tập Bát thánh đạo, đã
chứng đắc một trong bốn thánh Đạo hoặc một trong ba Quả đầu
tiên, nhưng còn phải tu tập để đạt đến mục tiêu rốt ráo là Thánh
quả thứ tư.

c.  Patippassaddha-sīla (An tức giới) là giới được thanh tịnh do sự
     
chứng đắc bốn Thánh quả (sotāpanna, sakadāgāmi, anāgāmi và

arahatta).

 

 

4. Visuddha-sīla / Avisuddha-sīla / Vematika-sīla

(Tịnh giới / Bất tịnh giới /  Si tưởng giới)

a.  Visuddha-sīla (Tịnh giới) là giới của vị tỳ khưu chưa phạm một
    
tội nào trong bộ Luật của tỳ khưu, hoặc có phạm nhưng đã sám

hối.

b.  Avisuddha-sīla (Bất tịnh giới) là giới của vị tỳ khưu đã phạm tội
     
nhưng chưa sám hối tội ấy.

c. Vematika-sīla (Si tưởng giới) là giới của vị tỳ khưu hoài nghi về
    vật thực mà vị ấy đã thọ lãnh (không biết đó là thịt gấu bị cấm

dùng hay thịt heo được phép dùng). Là người đã hoài nghi về tội
mà vị ấy đã phạm (không biết đó là tội Ưng đối trị hay tội Tác ác)
và là người có sự phân vân về hành động vị ấy đã làm, có phạm
tội hay không.

(Vị tỳ khưu chuyên tâm hành thiền thì nên cố gắng thanh lọc giới
của mình nếu nó chưa trong sạch. Nếu vị ấy phạm một tội nhẹ (tức là
một trong 92 tội
pācittiya), vị ấy nên đối trị nó bằng cách sám hối với
một vị tỳ khưu và nhờ vậy mà làm thanh tịnh được giới của vị ấy. Nếu
vị ấy phạm tội nặng (tức là một trong mười ba tội Tăng tàn), vị ấy nên
đi đến Tăng chúng, trước hết vị ấy nên thọ trì hành phạt
parivāra
(sống biệt trú trong nhiều ngày lâu bằng thời gian mà vị ấy đã giấu
tội). Cuối thời kỳ biệt trú, vị ấy phải trải qua một thời gian hình phạt
khác gọi là mānatta. Mānatta là thời gian hình phạt trong sáu ngày để
được sự đồng ý của Tăng, sau đó vị ấy thỉnh cầu Tăng cho phép được
trở lại địa vị hợp pháp của vị tỳ khưu. Và sau đó vị ấy phải chịu hình
phạt
mānatta. Chỉ khi đó, giới của vị ấy mới trở nên trong sạch và vị
ấy có thể tiếp tục pháp thiền của mình. Nếu vị ấy có nghi ngờ về đặc

tánh của vật thực, vị ấy nên cẩn thận xem xét kỹ lưỡng vật thực ấy, rồi
tham khảo ý kiến với một vị tỳ khưu rành Luật và nhờ vậy mà đoạn
diệt những hoài nghi và làm trong sạch giới của mình).

5. Sekkha-sīla / Asekkha-sīla / Nevasekkha nāsekkha-sīla
    
(Hữu học giới / Vô học giới / Phi hữu học phi vô học giới)

a. Sekkha-sīla (Hữu học giới) là giới được thọ trì bởi người còn phải tu tập. Đó là giới của những bậc đã chứng đắc bốn thánh Đạo và một trong ba thánh Quả.

b. Asekkha-sīla (Vô học giới) là giới của bậc không còn phải tu tập gì nữa. Đó là giới của những vị A-la-hán.

c. Nevasekkha nāsekkha-sīla (Phi hữu học phi vô học giới)  là giới của
những người chưa trở thành Hữu học hoặc Vô học, là giới của kẻ
phàm phu.

Chấm dứt Giới nhóm Ba



 

 

Giới Nhóm Bốn

1.  Hānabhāgiya-sīla / Thitibhāgiya-sīla

Visesabhāgiya-sīla / Nibbedhabhāgiya-sīla

a. Hānabhāgiya-sīla (Thối phân giới) là giới chắc chắn bị suy thối. Vị
    tỳ khưu sống chung với những người không có giới và không thân

cận với những bậc có giới. Vị ấy không biết hoặc không thấy mình đang đi trên con đường phạm tội. Vị ấy thường trú trong những ý nghĩ bất thiện và không hộ phòng các căn. Giới của vị tỳ khưu như vậy không tiến bộ, thay vào đó nó dần dần suy thối.

b. Thitibhāgiya-sīla (Trụ phân giới) là giới đứng một chỗ. Vị tỳ khưu
    chìm đắm trong sự thỏa mãn giới mà vị ấy đã an trú và không muốn

hành thiền để tiến bộ xa hơn. Vị ấy rất thỏa mãn với giới mà không cố gắng tu tập cho tiến bộ hơn. Giới của vị ấy không tiến bộ cũng không suy thối, chỉ đứng yên.

c.  Hānabhāgiya-sīla (Thắng phân giới) là giới sẽ đạt được pháp đặc
    biệt. Vị tỳ khưu sau khi đã an trú trong giới, không bằng lòng với

mức độ của giới mà cố gắng để tiến tới Định. Giới của vị tỳ khưu

ấy được gọi là Thắng phân giới hay giới sẽ đạt lợi ích đặc biệt của pháp định tâm.

d. Nibbedhabhāgiya-sīla (Quyết phân giới) là giới đi sâu vào và đánh
    tan bóng tối của pháp ô nhiễm. Vị tỳ khưu không những bằng lòng

với giới mà còn cố gắng nỗ lực để đạt Lực quán tuệ (Balavipassana ñāṇa), là tuệ nhàm chán những cái khổ của vòng luân hồi sanh tử. Giới của vị tỳ khưu ấy là giới xuyên thấu và loại trừ bóng tối ô nhiễm qua đạo và quả.

 

 

2.  Bhikkhu-sīla / Bhikkhunī-sīla /

Anupasampanna-sīla / Gahaṭṭha-sīla

aBhikkhu-sīla (Tỳ khưu giới) là những điều luật được Đức Thế Tôn
     ban hành dành cho các vị tỳ khưu và những điều luật mà các vị tỳ

khưu cũng phải thọ trì dù chúng được ban hành dành cho các tỳ
khưu ni.

b.  Bhikkhunī-sīla (Tỳ khưu kheo ni giới)  là những điều luật được
     
ban hành dành cho các Tỳ khưu kheo ni và những điều luật mà

các tỳ khưu ni cũng phải thọ trì dù chúng được ban hành dành cho các vị tỳ khưu.

c.  Anupasampanna-sīla (Vị cụ túc giới) là mười điều học do các vị
      sa-di (
samanera)  và sa-di-ni (samaneri) thọ trì. (Những người

không phải là tỳ khưu thì được gọi là Vị cụ túc. Theo định nghĩa
này, những người cư sĩ cũng được xem là Vị cụ túc, nhưng họ sẽ

được phân loại riêng là cư sĩ (gahaṭṭha) và do đó không được bao
gồm ở đây). Chỉ những vị sa-di và sa-di-ni mới được xem là
anupasampanna.  Tuy  nhiên  có  một  loại  khác  được  gọi  là
sikkhāmana (thức-xoa-ma-na). Thức-xoa-ma-na là những vị sa-di
tu lâu năm hoặc đã lớn tuổi đang đi vào khóa tu học đặc biệt để
trở thành tỳ khưu ni. Họ không được kể riêng ra ở đây mà được

liệt vào loại sa-di ni.

dGahaṭṭha-sīla (Tại gia giới) là giới được thọ trì bởi người tại gia
     
cư sĩ.

Xét về Tại gia giới, bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) nói rằng:
   
Upāsaka upāsikānaṃ niccasīlavasena pañcasikkhāpadāni sati vā ussāhe dasa uposathaṅga vasena aṭṭhati idaṃ gahaṭṭha-sīlaṃ”

“Năm giới là pháp thọ trì thường xuyên, mười giới thọ trì khi nào
có thể và tám giới thọ trì đặc biệt vào những ngày Bố tát (Uposatha),
chúng thuộc về Tại gia giới mà các thiện nam và tín nữ cần phải thọ
trì.”

Có nhiều quan điểm về nhóm chữ Pāḷi “sati vā ussāhe - khi nào có thể” trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

Một vị thầy A-xà-lê cho rằng không chỉ năm giới mà mười giới
cũng phải được thọ trì trọn đời. Họ đã áp dụng sai về thập giới là đặc
tánh của thường giới, “thường giới” chỉ có nghĩa cho ngũ giới mà thôi.

Theo những vị A-xà-lê này, “Việc thọ trì ngũ giới, không cần phải
xét người đó có khả năng hay không. Người ấy nên thọ trì ngũ giới
trọn đời. Về thập giới, cho dù có sự thuyết phục rằng mười giới nên
được thọ trì như là thường giới, tuy nhiên, chỉ những người có khả
năng mới nên thọ trì chúng. Khả năng ở đây có nghĩa là khả năng từ
bỏ của cải về vàng và bạc không chút luyến tiếc. Từ bỏ những vật sở
hữu của mình theo cách này, vị ấy nên thọ trì mười giới suốt trọn đời,
không phải chỉ vài ngày hoặc vài tháng. Nếu ý định của vị ấy là không
cầm giữ vàng bạc chỉ trong thời gian thọ trì giới, và dùng chúng trở lại
sau đó, thời vị ấy không nên thọ trì chúng chút nào cả.”

Lại nữa, có một số người suy nghĩ sai lạc và nói rằng “Thật khó để
người ta từ bỏ những vật sở hữu của mình về vàng và bạc, vì thế
người   cư   sĩ   không   nên   thọ   trì   mười   giới”.   Cũng   theo   bộ
Visuddhimagga Mahātikā, chữ “dasa - mười” nên được xem là mười
giới của những vị sa-di. Lại nữa, sīla ở đây giống như giới được thọ trì
bởi người thợ gốm Ghatika và những người khác. Lời Chú giải này

càng làm rối rắm hơn trong quan điểm lầm lạc của những người này.
Họ có quan điểm cực đoan rằng nếu người ta chỉ từ bỏ của cải mới
kiếm được và mới thọ lãnh thì chưa đủ. Họ còn phải từ bỏ tất cả
những gì mà họ đã sở hữu, giống như Ghatikāra trong bài kinh
Ghatikāra (Rājavagga, Majjhimapaṇṇāsa) đã từ bỏ việc dùng xài vàng
bạc suốt đời. Và chỉ khi nào họ giống như Ghatikara về mặt này, họ
mới có thể an trú đầy đủ trong thập giới. Như vậy họ đã đưa ra lời
phát biểu phóng đại thiếu suy nghĩ.

Để làm sáng tỏ:

Quan điểm của họ là như thế này - chỉ khi nào người ta có thể “từ
bỏ tài sản vàng và bạc của mình mà không chút luyến tiếc”, người ấy
mới nên thọ trì thập giới. Điều ấy bị hiểu sai vì nó khởi sanh liên quan
đến điều học jātarūpa sikkhāpada trong thập giới. Theo sự diễn giải
này, chỉ khi nào người ta có thể từ bỏ tất cả của cải mà họ sở hữu
không chút luyến ái, họ sẽ an trú đầy đủ trong các điều học. Ghatikara
là một vị A-na-hàm, bậc Bất lai, là người đã từ bỏ tất cả tài sản của
mình không chút luyến ái. Ngày nay dù người cư sĩ không kiếm được
tài sản mới vào ngày thọ trì Thập giới, nhưng họ đã tích lũy ở nhà và ở
nơi khác tất cả của cải của họ đã kiếm được trước kia, như vậy nó đi
ngược với điều học
jātarūpa sikkhāpada. Cho nên họ không nên thọ
trì mười điều học trừ khi họ từ bỏ tất cả tài sản của mình mà không
chút luyến ái. Ngay cả nếu họ nguyện thọ trì thập giới, họ cũng không
được giữ chúng.

Sự diễn dịch của những vị A-xà-lê này không thể đứng vững bởi vì
đối với các vị tỳ khưu thì rūpiyasikkhāpada, liên quan đến việc cầm
giữ và sở hữu tiền, nó còn vi tế và cao quý hơn điều học jātarūpa
sikkhāpada của người tại gia. Theo điều học ấy, vị tỳ khưu không nên
thọ lãnh tiền hoặc bảo người khác nhận lãnh giùm. Nếu nó được để lại

gần vị ấy, chỗ không có người nhận, thì vị ấy không nên tự mãn mà
phải có thái độ không chấp nhận bằng cách nói rằng: “Các vị tỳ khưu
không được phép thọ lãnh vàng bạc. Chúng tôi không muốn nhận nó.”
Nếu vị ấy không nói lên lời phản kháng nào thời vị ấy bị phạm tội, và

vàng bạc cũng phải được vị ấy xả bỏ. Đây là điều luật được Đức Thế Tôn ban hành.

Giả sử có người hộ độ (dāyaka) đến với vị tỳ khưu và dâng tiền, dù
vị tỳ khưu làm theo luật, ngăn cản người kia và từ chối nhận nó.
Nhưng người hộ độ kia để món tiền ấy lại và bỏ đi. Nếu có một vị
thiện tín đi đến và vị tỳ khưu nói với người kia về món tiền và người
thiện tín nói rằng: “Vậy để con giữ giùm cho.” Vị tỳ khưu có thể đi
lên tầng thứ bảy của tịnh xá, dẫn theo người thiện tín ấy và nói rằng:
“Đây là chỗ an toàn.” Nhưng vị ấy không được nói: “Hãy giữ nó ở
đây.” Tuy nhiên, khi người thiện tín đi khỏi sau khi đã cất giữ an toàn
số tiền ấy tại nơi mà vị tỳ khưu đã chỉ, vị tỳ khưu có thể đóng cửa
phòng cẩn thận và canh giữ nó. Làm như vậy, vị tỳ khưu không phạm
tội về bất cứ điều học nào. Đây là lời giải thích của Chú giải về điều
học rūpiya sikkhāpada.

Nếu sự sở hữu vàng bạc là không được phép đối với người cư sĩ
đang thọ trì điều học jātarūpa sikkhāpada, thì sẽ không có lý do gì để
cho phép vị tỳ khưu đang thọ trì các điều học vi tế và cao quý hơn lại

được giữ vàng bạc. Như vậy cần lưu ý rằng nếu vị tỳ khưu như vậy
mà không phạm tội, thì đối với người cư sĩ đang thọ trì điều học
jātarūpa sikkhāpada, việc sở hữu tài sản được để chỗ an toàn cũng
không phạm tội.

Trong bộ Visuddhimagga Mahātikā, tấm gương của người thợ gốm
Ghatikāra không phải được dẫn chứng để kết luận rằng: “Người tại gia
thọ trì thập giới chỉ khi nào họ có thể từ bỏ tất cả tài sản của họ mà
không chút luyến ái giống như Ghatikāra.” Thực tế thì tấm gương
Ghatikāra, con người tối thắng trong việc thọ trì thập giới, được dẫn
chứng ở đây để sách tấn mọi người đừng thỏa mãn với việc thọ trì
thập giới tầm thường của họ, mà họ nên cố gắng hơn nữa để trở thành
người thọ trì bậc cao theo gương của Ghatikāra. Ngay cả họ không thể
bằng vị ấy, sự dẫn chứng cũng có lợi ích là khuyến khích họ bắt chước
theo gương của Ghatikāra càng nhiều càng tốt.

Bằng  chứng  của  lời  nhận  xét  này  là:  Sīlamayanti  niccasīla
uposatha niyamādivasena    pañca    attha    dasa    vā    sīlāni
samādiyantassa
”,   như   đã   được   bình   giải   trong   bộ   Itivuttaka
Aṭṭhakathā   do   Ācariya   Dhammapāla   Thera,   tác   giả   của   bộ
Visuddhimagga Mahātikā, bộ Chú giải đề cập ba loại giới, đó là (i)
Ngũ giới được thọ trì thường xuyên (nicca sīla), (ii) Tám giới được
thọ trì vào ngày Bố tát
(uposattha sīla), (iii)  Mười giới thỉnh thoảng
được thọ trì (niyama sīla). Rõ ràng là theo bộ Chú giải này, mười giới
không được thọ trì thường xuyên, chúng được thọ trì thỉnh thoảng.

Lại  nữa,  trong  bộ  kinh  Sagāthāvagga  Saṃyutta  Pāli,  Sakka
Saṃyutta, chúng ta thấy câu chuyện sau đây: Sakka, vua của chư
thiên, từ cung điện Vejayanta đi đến khu vườn ngự uyển, khi vị ấy sắp
bước vào chiếc xe của mình, vị ấy lễ bái tám hướng. Rồi chư thiên
Mātali nói rằng: “Thưa thiên chủ, Ngài đang lễ bái ai vậy?” Sakka bèn
nói rằng:

Ye gahaṭṭhā puññakarā. sīlavanto upāsakā,

dhammena dāraṃ posenti,
te mamassāmi Mātali.

Này Mātali, một số người thực hành các việc phước, họ cũng có giới; họ quy y Tam bảo: Phật, Pháp và Tăng, và họ nuôi dưỡng vợ con một cách chánh đáng. Ta lễ bái đến những người ấy.

Chữ “sīlavanto” trong câu trả lời của Sakka được giải thích bởi nhà
Chú giải như sau: “Sīlavanto ti upāsakatthe patiṭṭhāya pañcahi pi
dasahi pi sīlehi samannāgatā - Những người có giới là những người
quy y Tam bảo và an trú trong Ngũ giới và Thập giới.” (Theo bộ Chú
giải này, rõ ràng là những người mà Thiên vương Sakka lễ bái là
những người sống với gia đình của họ, thọ trì Ngũ giới và Thập giới).

Cũng trong bộ Phụ chú giải của bộ Saṁyutta, có đoạn bình giải như
vầy:
niccasīlavasena pañcahi niyamavasena dasahi - Ngũ giới nên

được thọ trì như là Thường giới (Nicca-sīla) , Thập giới như là Hạn định giới (Niyama-sīla).

Niyama Sīla (Hạn định giới)

Trong tự điển Magadha, câu kệ 444, chữ Niyama Sīla được định
nghĩa tóm tắt như sau: Giới phải được thọ trì vĩnh viễn là Yama Sīla.
Giới không được thọ trì vĩnh viễn mà chỉ thỉnh thoảng là Niyama Sīla.
Cách gọi tên Yama SīlaNiyama Sīla có nguồn gốc ở Bà-la-môn
giáo (không sát hại, không nói dối, không trộm cắp, không tham đắm
trong tình dục thấp hèn, không thọ lãnh vật thực bố thí - năm điều này
Yama Sīla, phải được thọ trì trọn đời. Thanh lọc, dễ nuôi, khổ hạnh,
tụng kinh Phệ đà, niệm tưởng Phạm thiên - năm điều này là Niyama
Sīla, nên được thọ trì thỉnh thoảng) (Amarakosa Brahmana Vagga, v.
49).

Theo bộ Saṁyutta Pāli và Chú giải của bộ này, điều rõ ràng là ngay
cả những người đang chăm sóc gia đình bằng chánh mạng cũng có thể
thọ trì thập giới. Do vậy, quan điểm: “Những người nên thọ trì thập
giới chỉ khi nào họ có thể từ bỏ vàng bạc của họ mà không chút luyến
ái như người thợ Ghatikara,” không phải là quan điểm đúng. Đó chỉ là
câu nói cường điệu.

Hơn nữa, trong mười phận sự của vị vua, được nêu ra trong
Mahāvaṁsa Jātaka của Asīti Nipāta, Chú giải nói rằng chữ “sīla” hàm
nghĩa cả Ngũ giới lẫn Thập giới. Do đó, điều rõ ràng là các vị vua
cũng thọ trì Thập giới như là một trong những phận sự của họ. Nếu
nói rằng “Mười giới nên được thọ trì chỉ khi nào chúng có thể được

thọ trì trọn đời,” thời các vị vua mà có các bà hoàng hậu, thứ phi, nữ
quí nhân và kho báu đầy vàng và họ sẽ không thể thọ trì Thập giới do
bởi sự phi phạm hạnh (abrahma-cariya) và các điều học về vàng và
bạc (jātarūpa sikkhā-pada). Nếu các vị vua không thể thọ trì, thì nhà
Chú giải  đã không bao gồm mười giới trong bài bình giải của vị ấy về
giới trong mười phận sự của vua. Nhưng nhà Chú giải đã nêu chúng ra
một cách khẳng định trong bài bình giải của vị ấy. Do đó mười giới

không phải là thường giới (nicca-sīla), chúng là giới được thọ trì khi nào người ta có thể.

Hơn nữa, bộ Chú giải Khuddakapātha giải thích về tám giới có
nguồn gốc từ mười điều học như sau: “Trong mười giới, hai giới đầu:
Pānātipātā Sikkhāpada (giới sát sanh) và Adinnādāna Sikkhāpada
(giới trộm cắp), được hàng cư sĩ và sa-di thọ trì như là Thường giới.
(Giới thứ ba: Abrahmacariya sikkhāpada - giới không hành dâm,
không được kể Thường giới (nicca-sīla) của người cư sĩ. Nó là giới
được thọ trì chỉ khi nào có thể). Lại nữa, từ mười giới, giới thứ bảy,

Naccagita Sikkhāpada (giới không xem ca vũ nhạc) và giới thứ tám,
Mālāgandha Sikkhāpada (giới không trang điểm..) được tính chung
thành một giới. Điều học cuối cùng Jātarūpa Sikkhāpada (giới không
giữ vàng bạc) không được tính.

Cũng theo bộ Chú giải này, những giới rút ra từ Thập giới mà
người cư sĩ nên thọ trì thường xuyên có bốn: không sát sanh, không
trộm cắp, không nói dối và không dùng các chất say. Người cư sĩ
không thể thọ trì thường xuyên điều học Abrahmacariya Sikkhāpada
(giới không hành dâm). Họ cũng không thể thọ trì thường xuyên các
điều học Vikālabhojana, Niccagīta, v.v... Như vậy, rõ ràng là tất cả
mười giới này thuộc loại Niyama sīla, được thọ trì chỉ khi nào có thể.

Mặc dầu trong bộ Chú giải Khuddaka Pātha có đề cập rằng
Jātarūpa Sikkhāpada là giới đặc biệt dành cho các vị sa-di, phạm giới
sẽ không bị trục xuất giới khỏi đời sống sa-di. Vì trong chương
Mahākhandhaka của bộ Vinaya Mahāvagga Pāli, Đức Thế Tôn đã ban
hành mười điều trục xuất dành cho vị sa-di, trong đó năm giới đầu tiên
của thập giới được kể đến, còn năm giới sau không được kể đến. Do
đó, dầu phạm một trong năm giới sau vị sa-di cũng không bị trục xuất.
Vị ấy chỉ phạm tội làm hoen ố điều học, phải chịu hình phạt. Nếu vị
sa-di thực hiện hình phạt do ông thầy đưa ra như khiêng cát, gánh
nước, v.v… thời vị ấy sẽ trở lại thành vị sa-di tốt, hoàn toàn hết tội.

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                241

Như vậy, ngay cả những vị sa-di thọ trì Thập giới, tuy họ phạm điều học về vàng và bạc cũng không bị trục xuất khỏi đời sống sa-di. Do đó, rõ ràng là trong mười giới, năm giới sau không quan trọng như năm giới đầu. Như vậy thật không thích hợp khi nói và viết ra lời sách tấn nghiêm trọng  về sự thọ trì  nghiêm  ngặt điều học  jātarūpa sikkhāpada dành cho người cư sĩ, khi nó không được xem là quá quan trọng ngay cả đối với các vị sa-di.

Phải   công   nhận   rằng   bộ   Chú   giải   của   Visuddhimagga   và
Khuddakapātha đều do đại đức Mahā Buddhaghosa viết - hai bộ sách
trên được viết ra bởi cùng một tác giả, nên bài viết không thể khác.
Đoạn văn từ bộ Visuddhimagga: “Upasakanaṃnic sīlavasena pañca
sik-khāpadāni sati vā ussāhe dasa - mười giới đối với người cư sĩ
không phải là thường giới, chúng là Hạn định giới được thọ trì chỉ khi
nào  có  thể.”  Cần  lưu  ý  là  nó  phù  hợp  với  hai  bộ  Chú  giải
Khuddakapātha và Itivuttaka.

Nói về sự vi phạm các giới cấm, bộ Chú giải Khuddakapātha sau
khi bàn về các vấn đề liên quan đến các vị sa-di, đã giải thích rằng:
“Trường hợp của người cư sĩ, sau khi nguyện thọ trì năm giới, nếu
một giới nào đó bị hỏng, thì chỉ riêng giới ấy bị hỏng mà thôi. Và nếu
giới ấy được nguyện thọ trì lại thì năm giới được hoàn toàn trở lại.”
Nhưng có một số vị thầy A-xà-lê khẳng định như vầy: “Nếu năm giới
được nguyện thọ trì riêng từng giới, tức là giới này đến giới khác, thì
sự vi phạm một giới sẽ không ảnh hưởng những giới còn lại. Tuy
nhiên, nếu họ nói vào lúc bắt đầu nguyện thọ giới rằng: “Pañcaṅga
samannāgataṃ sīlaṃ samādiyāmi
- Con nguyện thọ trì trọn đủ năm
giới,” thì nếu một trong năm giới ấy bị phạm thì tất cả đều bị hỏng, vì
lời nguyện lúc ban đầu là thọ trì chung cả năm . Kết quả của sự vi
phạm các giới cấm, mỗi sự vi phạm sẽ có hậu quả riêng của nó, không
ảnh hưởng các giới khác.

Nhưng một số vị thầy lại biện minh cho quan điểm này, nói rằng
sau khi nguyện thọ trì cả năm giới, nếu một giới nào đó bị phạm thì

những giới còn lại không bị ảnh hưởng. Nếu chúng ta chấp nhận lời

biện luận như vậy, thời sẽ không có sự khác biệt nào cả trong những quan điểm của họ. Về điểm này, bộ Sikkhāpada Vibhaṅga của bộ Sammohavinodani giải thích rằng:

Gahattha  yam  yam  vītikkamanti,  tam  tadeva  khan-daṃ  hoti
bhijjati, avasesaṃ na bhijjati, kasmā gahattha hi anibaddhasilā honti,
yam yam sakkonti tam tadeva gopenti -  Sau khi nguyện thọ trì các
giới, nếu người cư sĩ phạm một trong những giới ấy thì chỉ có giới ấy
bị phạm, những giới còn lại thì không. Vì đối với người cư sĩ, không
có những giới bắt buộc phải thọ trì thường xuyên như các vị sa-di.
Trong năm giới, họ có thể thọ trì bất cứ giới nào mà họ có thể. Một,
hai hoặc ba, không cần thiết phải thọ hết cả năm. Chúng ta không nên
nói rằng chỉ vì họ thọ trì một số giới mà không phải cả năm giới nên
không thành tựu việc thọ giới, và họ sẽ không được chút phước nào
đối với việc thọ giới như vậy.”

Nên lưu ý rằng, cho dù người cư sĩ không thể thọ trì tất cả năm giới
mà chỉ một số giới nào đó, họ cũng có phước và giới của họ là có thật.

Về điểm này, bộ Chú giải Patisambhidāmagga bình luận về giới
Pariyanta Pārisuddhi Sīla (giới này được mô tả đầy đủ trong mục giới
nhóm năm). Có hai loại giới hạn liên quan đến giới, giới hạn về số
lượng các điều học được thọ trì và giới hạn về thời gian thọ trì. Các cư
sĩ thọ trì một, hay, hai, ba, bốn, năm, tám hay mười giới. Nhưng các vị
sa-di và sa-di-ni phải thọ trì đủ mười giới. Đây là giới hạn về số lượng
giới được thọ trì.

Ý nghĩa chính ở đây là: nếu người cư sĩ nguyện thọ trì một, hai, ba, bốn, năm, tám hoặc mười giới và thọ trì chúng một cách đàng hoàng thì giới của người ấy sẽ trở thành Sikkhāpada Pariyanta Pārisuddhi Sīla - Giới Thanh tịnh Hạn chế về số lượng.

Do đó, trong sự thực hành cư sĩ không nguyện thọ trì một, hai, ba,
bốn, mà cả năm giới, cũng không bắt buộc phải thọ trì tất cả năm giới.
Nếu họ có thể thọ trì chỉ hai giới, thì họ nên thọ trì hai giới ấy, v.v…

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                243

Có thể đặt ra câu hỏi - khi nào người cư sĩ có quyền thọ trì bất cứ
giới nào mà họ thích? Tại sao riêng năm giới lại được mô tả trong bộ
Thanh tịnh đạo như vầy: “Upāsakopasikānaṃ niccasīlavasena pañca
sikkhā-padāni?”

Câu trả lời là bộ Chú giải đề cập chủ yếu đến nguyên tắc của giới,
nghĩa   là   tất   cả   năm   giới   phải   được   thọ   trì   thường   xuyên,
Niccasīlavasena pañca sikkhāpadāni”. Chúng ta không có quyền bỏ
đi bất cứ giới nào mà chúng ta muốn. Sẽ có tội nếu phạm một trong
năm giới. Không chỉ bộ Visuddhimagga mà trong những bộ kinh khác
cũng thế, năm giới được xem là Thường giới (
Nicca Sīla) theo nguyên
tắc của giới.

Brahmacariya-Pañcama Sīla (Ngũ phạm hạnh giới)

Thêm vào Ngũ giới, Bát quan trai giới và Thập giới còn có Ngũ phạm hạnh giới, là giới dành cho người cư sĩ. Tuy nhiên, Ngũ phạm hạnh giới thực tế là Ngũ giới. Giới thứ ba trong năm giới gốc -
Kāmesu micchā cārā veramanī-sikkhāpadaṃ samādiyāmi” được thay thế bằng “Abrahmacariyā veramanī-sikkhāpadaṃ samādiyāmi”, được áp dụng trong Ngũ phạm hạnh giới.

Ngũ phạm hạnh giới do vị thiện nam Gavesi thọ trì, vào thời Đức Phật  Kassapa  (Ca-Diếp)  (Aṅguttara  Nipāta,  Pañcaka  Nipāta, 3. Upāsaka Vagga, 13. Gavesī Sutta).

Trong thời của Đức Phật Gotama, giới này được thọ trì bởi Ugga,
quan thủ quỷ của thành Vesāli và Ugga, người thủ quỷ của ngôi làng
Hatthigāma,  nước  Vajjī  (Aṅguttara  Nikāya,  Atthaka  Nipāta, 3.
Gahapati Vagga, I Sutta, và II Sutta). Hai vị Ugga nguyện thọ trì Ngũ
phạm hạnh giới từ Đức Thế Tôn và thọ trì chúng. Mỗi người có bốn
bà vợ, hai bà vợ cả của hai người được phép tái giá lấy chồng khác,
rồi lần lượt những bà vợ còn lại cũng như thế, và sau đó hai vị gia chủ
này sống độc thân. Họ là những vị “Bất lai” còn tại gia. Không nên
hiểu lầm rằng những người có gia đình trong thời hiện tại muốn thọ trì

Ngũ phạm hạnh giới, phải từ bỏ vợ mà không chút luyến ái. Nói cách
khác, không nên cho rằng họ không thể thọ trì giới này, trừ khi họ từ
bỏ những bà vợ trước của họ. Vì theo lời giải thích của bộ Chú giải
Khuddakapātha thì trong mười giới, chỉ có bốn giới là: Pānātipāta,
Adinnādāna, MusāvādaSurāmeraya được xem là Thường giới.
Cho nên, điều rõ ràng là giới không hành dâm (Abrahmacariyā
Sikkhāpada) và những giới còn lại như Vikālabhojana v.v... không
phải là Thường giới
(Nicca-sīla), chúng là Hạn định giới (Niyama-
sīla), được thọ trì thỉnh thoảng. Cho dù họ không thể thọ trì các giới
cấm đúng như người thợ gốm Ghatikara, họ cũng có thể thọ trì chúng
như là Hạn định giới được, chừng nào tốt chừng đó.

Cũng vậy, về Ngũ phạm hạnh giới (Brahmacariya-Pañcama Sīla),
hai vị Ugga, là những vị Bất lai, đã từ bỏ những bà vợ của họ mà
không chút luyến ai, và thọ trì giới trọn đời. Nếu những người khác có
thể thực hành theo gương của họ và thọ trì loại giới này thì tốt. Nhưng
nếu họ không thể bắt chước hoàn toàn, thì nên thọ trì giới chỉ theo khả
năng của mình.

Brahmacariya-pañcama Ekabhattika Sīla

(Ngũ phạm hạnh Nhất thực giới)

Hơn nữa, còn có một loại giới khác gọi là Ngũ phạm hạnh Nhất
thực giới hay Nhất thực giới (Ekabhattika Sīla). Ekabhattika nghĩa là
chỉ ăn mỗi ngày một bữa vào buổi sáng. Bởi vậy, nếu người cư sĩ
muốn thọ trì giới này thì sau khi nguyện thọ trì Ngũ phạm giới, họ các
nguyện  thêm  một  giới  nữa  như  sau:  Vikālabhojanā  veramanī-
sikkhāpadaṃ samādiyāmi. Hoặc nếu họ muốn nguyện thọ trì hết một
lần   thì   họ   có   thể   nguyện   như   sau:
Brahmacariya-pañcama
ekabhattikasīlaṃ samādiyāmi.
” Giới này được thọ trì bởi cận sự nam
Dhammika và cận sự nữ Nandamātā v.v... vào thời Đức Thế Tôn theo
bài kinh Dhammika của bộ Chú giải Suttanipāta. Vào thời Đức Phật
Kassapa, thiện nam Gavesī cũng thọ trì giới này; năm trăm người cư sĩ

cũng vậy. (Aṅguttara Nikāya pañcaka Nipāta, 3.Upāsaka Vagga, 10. Gavesī Sutta)

Aṭṭhaṅga Uposatha Sīla (Bát quan trai giới)

Về Ngũ giới, có thể hỏi rằng tại sao chỉ chữ “pañca” được dùng
đến, về Thập giới thì chữ “dasa” được dùng đến. Trong khi để mô tả
Tám giới, không riêng chữ “attha” mà chữ “uposatha” cũng được
dùng thêm vào?

Chữ Uposatha có năm nghĩa:

a. Sự tụng đọc Giới bổn (Pātimokkha).

b. Tên riêng dành cho loài người và thú vật.

c. Sự thọ trì.

d. Giới được thọ trì, và

e. Ngày thọ trì giới.

Trong năm nghĩa này, nghĩa thứ nhất (a) chỉ liên quan đến vị tỳ
khưu, và nghĩa thứ hai (b) là tên dành cho vị hoàng tử (tức là hoàng tử
Uposatha) hoặc tên của con voi (tức là voi Uposatha), v.v… không
liên quan đến chương nói về sīla. Chỉ ba ý nghĩa còn lại mới được xét
đến ở đây.

Ba nghĩa có nguồn gốc từ chữ Pāḷi “upavasa”, có nghĩa là sự thọ trì hay sự thực hành viên mãn các giới cấm. Ý nghĩa thứ ba (c) là hành động thọ trì giới. Ý nghĩa thứ tư (d) là giới, cần được thọ trì. Ý nghĩa thứ năm (e) là ngày thọ trì giới.

Về Ngũ giới và Thập giới, đối với những người giới đức trong quá khứ chẳng có ngày đặc biệt nào được định đặt ra cả. Chỉ có tám giới được thọ trì vào những ngày cố định đặc biệt. Do đó, chữ Uposathađây ám chỉ đến tám giới.

Có một điểm khác cần xét đến. Năm giới không nhiều như tám giới
và vì chúng được thọ trì hằng ngày nên không có ngày đặc biệt được

đặt tên cho sự thọ trì của chúng. Nhưng còn thập giới thì cao hơn tám
giới nên những bậc trì giới trong quá khứ đáng ra phải định ngày đặc
biệt để thọ trì chúng. Nhưng ở đây, tại sao họ không làm như vậy? Lý
do có thể chấp nhận là tám giới đặc biệt thích hợp cho người cư sĩ
trong khi mười giới thì không. Theo bộ Thanh tịnh đạo, mười giới

dành cho các vị sa-di và sa-di-ni. Bộ Chú giải Khuddakapātha cũng
giải thích rằng giới cuối cùng jātarūpa sikkhāpada, trong mười giới, là
giới đặc biệt dành cho các vị sa-di. Do đó, điều rõ ràng là mười giới
chỉ đặc biệt dành cho các vị sa-di, không dành cho người cư sĩ.

Do đó, những bậc trì giới và đa văn trong quá khứ đã chọn từ hai loại giới liên quan đến họ, chọn ra tám giới là giới cao hơn, được thọ trì vào ngày ấn định đặc biệt. Do đó, chỉ có tám giới được gọi là Uposatha như đã giải thích trong bộ Visuddhimagga.

Các bậc giới đức không chỉ thỏa mãn với việc thọ trì giới, họ cũng
muốn làm các việc phước qua việc bố thí mà cần phải mua sắm, kiếm

về những vật, những món để bố thí. Kết quả là họ không thể thọ trì
điều học jātarūparajata sikkhāpada cho đúng pháp được. Do đó,
người ta đã định đặt ngày đặc biệt cho việc thọ trì tám giới.

Navaṅga Uposatha (Cửu giới)

Trong bộ Aṅguttara Nikāya (Navaka Nipāta, 2. Siha-nāda Vagga, 8.
Sutta) có một bài nói về Cửu giới với lời mở đầu như sau: “Chín giới
có lợi ích, có phước báu, có quyền lực”. Khi kể ra các giới, Đức Thế

Tôn nói tám giới trước từ
Pānātipāta Sikkhāpada đến Uccāsayana-
Maha sayana Sikkhāpada, nhưng kết thúc bằng phương pháp thực
hành Bác ái như vầy: “Mettā sahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā
viharāmi - Tôi trú trong những ý nghĩ bác ái thấu đến tất cả chúng
sanh trong mười phương.”

Theo bài kinh này, để giữ chín giới này, sau khi nguyện thọ trì Bát
quan trai giới, người ta thọ trì thêm pháp thiền bác ái. Người thọ trì
tám giới không khuyết phạm và thọ trì tiếp pháp tu bác ái gọi là người
thọ trì Cửu giới. Bác ái được tu tập, còn giới thì được thọ trì. Do đó để

thực hành Cửu giới, người ta không cần đọc lên chín giới khi nguyện
thọ. Nguyện thọ trì Tám giới là đủ và tu tập pháp bác ái càng nhiều
càng tốt. Như vậy người ấy được xem là đang thực hành chín giới.

Về pháp bác ái, như Đức Thế Tôn đã đặc biệt nêu ra “ekaṃ disaṃ -
rải tâm bác ái đi một phương,” còn hơn là chỉ trú tâm bác ái mà không

rải đi. Người nên hướng tâm của mình đến tất cả chúng sanh trong
mười phương. (Bốn hướng chính, bốn hướng phụ, cộng thêm hướng
trên và hướng dưới), rải lần lượt từng hướng bắt đầu từ hướng nào
cũng được.

Cho dù có bốn pháp Vô lượng tâm (từ, bi, hỉ và xả), Đức Thế Tôn
chỉ chọn pháp từ ái và thêm nó vào tám giới, như vậy là đang mô tả
chín giới vì pháp bác ái có oai lực lớn. Đó là lý do khiến Đức Thế Tôn
thuyết giảng bài kinh Bác ái trong bộ Khuddakapātha và bộ Sutta-
nipāta.

Cũng vậy, trong Aṅguttara Nikāya (Ekadasa Nipāta, 2. Anussati Vagga, 5. Sutta) có đề cập mười một lợi ích phát sanh lập đi lập lại đến người tu tập pháp Bác ái.:

1. Ngủ an vui.

2. Thức dậy cũng được an vui.

3. Không thấy ác mộng.

4. Được mọi người thương mến.

5. Được phi nhân thương mến.

6. Được chư thiên bảo vệ.

7. Không bị lửa, thuốc độc và khí giới làm hại.

8. Tâm vào định dễ dàng.

9. Gương mặt tươi sáng và trầm tĩnh.

10. Người ấy chết với tâm không rối loạn, và

11. Nếu người ấy không thể thông đạt pháp bực cao, Đạo Quả A-la-
hán trong kiếp này, người ấy sẽ được tái sanh vào cõi Phạm thiên.

Như vậy điều rõ ràng là pháp Bác ái có oai lực nhiều hơn ba pháp vô lượng tâm kia.

Ba loại giới Uposatha Sīla

Uposatha Sīla có ba loại:

1) Gopāla Uposatha - Uposatha của người chăn bò

2) Nigantha Uposatha - Uposatha của đạo sĩ lõa thể

3) Ariya Uposatha - Uposatha của bậc Thánh

Ba loại giới này được Đức Thế Tôn thuyết giảng trong Aṅguttara Nikāya -   Tăng   chi   bộ   (Tikā   Nipāta, 2.   Mahā   Nagga, 10. Visākhuposatha Sutta).

Các ý nghĩa chính là:

1)  Uposatha Sīla được thọ trì bằng những ý nghĩ của người chăn
bò thì được gọi là Gopāla Uposatha. Sau khi lùa bò đi ăn cỏ suốt
ngày, người chăn bò lùa chúng về với chủ vào buổi chiều. Khi đến
nhà, anh ta chỉ suy nghĩ bằng cách này: “Ngày hôm nay ta đã lùa bò đi
ăn cỏ và dẫn chúng đi uống nước ở cánh đồng đó. Ngày mai ta sẽ lùa
chúng đến cánh đồng nọ để ăn cỏ và đến chỗ kia để uống nước.”
Tương tự, người thọ trì
Uposatha Sīla có những ý nghĩ tham đắm vật
thực, suy nghĩ rằng: “Hôm nay ta đã ăn loại vật thực này. Ngày mai ta
sẽ ăn loại vật thực kia”. Nếu người ấy cứ suốt ngày suy nghĩ như vậy
giống như người chăn bò, thì Uposatha của người ấy được gọi là
Uposatha của người chăn bò.

2) Uposatha Sīla được thọ trì bởi đạo sĩ lõa thể chấp theo tà kiến,
thì được gọi là Nigantha Uposatha. Ví dụ: Về giới không sát sanh đối
với họ, thì chúng sanh ở cách xa một trăm do tuần trở đi, về hướng
đông, hướng tây, nam, bắc, không được giết. Ở khoảng cách nào đó
thì được giết. Như vậy là tạo cơ hội để làm điều ác. Sự khác biệt giữa

những chỗ bị cấm và không cấm để làm điều ác là uposatha của họ. Uposatha được thực hành bởi những người có quan điểm như vậy được gọi là Nigaṇṭha Uposatha.

3) Nếu uposatha được thọ trì sau khi thanh lọc các pháp ô nhiễm trong tâm qua pháp niệm tưởng ân Đức Phật, v.v… thì nó được gọi là Ariya Uposatha. Lại nữa, Ariya Aposata có sáu loại:

 

a. Brahmuposatha

b. Dhammuposatha

c. Saṅghuposatha

d. Sīluposatha

e. Devatuposatha

f. Atthaṅguposatha

 

- Noble Uposatha

- Dhamma Uposatha

- Saṅgha Uposatha

- Sīla Uposatha

- Devatā Uposatha

- Uposatha with the eight precepts

 

 

a. Brahmuposatha uposatha được thực hành bằng cách nguyện
    
thọ trì tám giới và niệm ân Đức Phật như Arahaṃ v.v...

b. Dhammuposatha uposatha được thực hành bằng cách nguyện
   
thọ trì tám giới và niệm tưởng các ân đức của Pháp.

c. Sanṅatha uposatha được thực hành bằng cách nguyện thọ trì
    
tám giới và niệm các ân đức của Tăng.

d. Sīluposatha uposatha được thực hành bằng cách nguyện thọ
    
trì tám giới, thọ trì không khuyết phạm giới nào và niệm các ân

đức của giới.

e. Devatuposatha (ở đây devatā hàm ý chư thiên và Phạm thiên).
   
Người ấy thọ trì uposatha và so sánh mình với các vị chư thiên.

Quán niệm rằng: “Trong thế gian có những vị chư thiên và Phạm
thiên, là những bậc đã từng có những đức tánh cao quý như tín,
giới, đa văn, bố thí và trí tuệ trong những kiếp quá khứ của họ và

nhờ vậy họ được tái sanh vào cõi chư thiên và Phạm thiên. Những đức tánh như vậy cũng có trong ta.”

f. Atthanguposathauposatha được thọ trì theo cách sau với sự
quán niệm từng giới. Sau khi nguyện thọ trì Bát quan trai giới,

người ta quán niệm như vầy: “Cũng như các vị A-la-hán không
bao giờ giết hại một chúng sanh nào và luôn luôn có lòng bi mẫn
đối với tất cả chúng sanh. Ta cũng vậy, sẽ không giết hại chúng

sanh nào và có lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sanh. Do sự thực hành này, ta đang sống theo gương các vị A-la-hán.”

Cần lưu ý rằng sự phân chia uposatha thành ba loại và sáu loại theo
cách thọ trì nó. Tuy nhiên, cách phân chia đầu tiên về
uposatha là chỉ
có hai loại: Atthaṅga Uposatha SīlaNavañga Uposatha Sīla.

Ngày Uposatha có ba loại

1) Pakati Uposatha (Tự nhiên Bố tát)

2) Pāṭijāgara Uposatha

3) Pāṭihariya Uposatha

Sự phân loại này dựa theo Aṅguttara Nikāya, Tăng chi bộ (Tika Nipāta, 4. Devadutadvagga, 7. Raja Sutta, v.v...), trong đó nói rằng: Uposathaṃ upavasanti patijagaronti”

cātuddasiṃ pañcaddasiṃ,

yā ca pakkhassa atthamī,
pātihāriya pakkhañ ca,
atthaṅga susamāgataṃ.

1) Pakati Uposatha (Ngày Uposatha Thông thường)

Theo câu kệ Pāli trên, những dòng “Cātuddasiṃ pañcaddasiṃ yā
ca pakkhassa atthami” chỉ về những ngày Uposatha thông thường.
Theo nội dung này, mỗi nửa tháng thượng huyền và hạ huyền, có ba
ngày
Uposatha, đó là ngày thứ tám, ngày thứ mười bốn và ngày thứ
mười lăm. Do đó một tháng có sáu ngày Uposatha: mồng tám, mười

bốn, rằm, hai mươi ba, hai mươi chín và ba mươi. Tuy nhiên, trong
Chú giải, tháng thượng huyền có bốn ngày Uposatha, đó là mồng
năm, mồng tám, mười bốn, mười lăm. Tháng hạ huyền cũng có bốn
ngày Uposatha, (ngày 16 tính thành ngày mùng một, 17 là mùng hai,
v.v…). Cả thảy có tám ngày Uposatha trong một tháng. Tám ngày này
là những ngày
Uposatha thông thường mà người cư sĩ thường hay thọ
trì.

(Ngày nay, người cư sĩ chỉ thọ trì bốn ngày Uposatha trong mỗi tháng, bốn ngày ấy là mùng tám, rằm, 23 và mùng một).

2) Patijāgara Uposatha (Những ngày Uposatha Trước và Sau):
Patijāgara Uposatha nghĩa là tám ngày Uposatha thông thường cộng
thêm một ngày trước và một ngày sau của mỗi ngày trong tám ngày
ấy. (Pati nghĩa là ‘lập lại’, jāgara nghĩa là ‘tỉnh thức’. Do đó
Paṭijāgara Sīla có thể được diễn dịch là Giới tỉnh thức lập đi lập lại
trước giấc ngủ của các pháp ô nhiễm). Cách tính số ngày như sau:
ngày mùng năm thì có thêm mùng bốn đứng trước và mùng sáu đứng
sau; ngày mùng tám thì có ngày mùng bảy đứng trước và mùng chín
đứng sau; ngày mười bốn thì có ngày mười ba đứng trước (không có
ngày sau vì ngày 15 là ngày uposatha chính thức); ngày rằm không có
ngày trước mà chỉ có ngày sau là 16. Như vậy liệt kê theo thứ tự thì ta

có: mùng bốn, mùng năm, mùng sáu, mùng bảy, mùng tám, mùng
chín, mười ba, mười bốn, mười lăm và mười sáu. Như vậy mỗi nửa
tháng có mười ngày Uposatha. Một tháng có hai mươi ngày: Tám
ngày Pakati Uposatha và mười hai ngày Patijāgara Uposatha.

3) Paṭihariya Uposatha

Paṭihariya Uposatha là giới được thọ trì liên tục nên có oai lực
nhiều hơn Paṭijāgara Uposatha (vì Paṭijāgara Uposatha là giới được
thọ trì vào những ngày xen kẽ trong nửa tháng thượng huyền và nửa
tháng hạ huyền).

Nếu người cư sĩ muốn thọ trì Paṭihariya Uposatha thì nên thọ trì ba
tháng của mùa mưa (mùa an cư) mà không bị đứt đoạn. Nếu họ không

thể thọ trì trọn ba tháng thì họ nên thọ trì trong một tháng từ ngày rằm tháng Thadingyut (tức là tháng mười dương lịch) đến ngày rằm tháng Tazaungmon (tức tháng mười một dương lịch). Nếu họ không thể thọ trì trong một tháng thì họ nên thọ trì trong mười lăm ngày từ ngày rằm đến  mồng  một  tháng  Thadingyut.  Điều  này  được  nói  rõ  trong Aṅguttara Nikāya, Tăng chi bộ.

Tuy nhiên, theo bộ Sutta Nipāta Atthakatha (Bài kinh Dhammika
Sutta của Cūla Vagga), Uposatha được thọ trì trong năm tháng (Waso-
7,  Wagoung-8,  Tawthalin-9,  Thadingyut-10,  Tazaungmon-11)  mà
không đứt đoạn thì gọi là
Pāṭihariya Uposatha. Trong khi đó, những
vị A-xà-lê khác thì nói rằng Uposastha được thọ trì mỗi tháng trong
ba tháng Waso-7, Tazaungmon-11 và Tabaung-3 mà không bị đứt
đoạn thì gọi là Pāṭihariya Uposatha. Số A-xà-lê khác nữa thì cho
rằng, theo những bộ kinh Pāḷi, có ba ngày
Pakati Uposatha, đó là
ngày mồng tám, mười bốn và mười lăm của mỗi nửa tháng. Nếu cộng
thêm bốn ngày nữa vào ba ngày
Pakati Uposatha ấy, tức là mùng bảy
trước ngày mùng tám và mùng chín sau ngày mùng tám, mười ba
trước ngày mười bốn và mười sáu sau ngày mười lăm, nếu những

ngày như vậy được thọ trì thì gọi là Pāṭihariya Uposatha. Nhà Chú
giải nhận xét rằng vì lợi ích của những thiện nhân muốn gặt hái phước
báu thì tất cả những loại giới được nêu ra để họ có thể thọ trì bất cứ
loại giới nào mà họ thích.

Trong ba quan điểm được nêu ra trong bộ Suttanipāta Atthakathā,
quan điểm riêng của nhà Chú giải: “Uposatha được thọ trì trong năm
tháng là Pāṭihariya Uposatha”, phù hợp với nội dung của bộ Chú giải
Aṅguttara. Còn thời gian được thọ trì liên tục trong ba tháng và theo
bộ  Chú giải Suttanipāta thì năm tháng, đó chỉ là sự khác biệt.

Quan điểm thứ ba từ bộ Chú giải Suttanipāta là phù hợp với quan điểm của các bộ Chú giải của các bộ sách và bài kinh Nemi Jātaka, Vimānavatthu (Uttara Vimāna-vatthu), Theragāthā và Suruci Jātaka của bộ Pakiṇṇaka Nipāta.

Tuy nhiên, theo phẩm Sagathavagga của bộ Saṁyutta Aṭṭhakathā
(Indaka Vagga, 5.Sutta) thì Pāṭihāriya Upo-satha trong mỗi nửa tháng
là những ngày mùng 7, mùng 9, 13 và 16 hoặc mồng một của tháng
Thadingyut-10.

Ở đây, có một điều cần xét đến: mặc dầu các bộ Chú giải của các bộ Aṅguttara, Suttanipāta, Jātaka và bộ Saṁyutta được viết bởi cùng một tác giả, đại đức Mahā Buddhaghosa, nhưng tại sao chúng lại khác nhau về ngày Uposatha?

Theo bài kinh Visakh’uposath thì rõ ràng là Đức Phật có mô tả ba
loại Uposatha, nhưng không có bài kinh nào được Đức Phật thuyết mà
không nói đến những ngày
Uposatha đặc biệt, ba hoặc sáu. Ngày
Uposatha mười bốn, ngày Uposatha mười lăm, ngày Uposatha mồng
tám, ngày
Pāṭihariya Uposatha được nêu ra trước không phải do Đức
Thế Tôn mô tả. Thực ra, chính Sakka, vua của chư thiên, đã nói với
chư thiên ở cõi 33 rằng: “Các vị hãy thọ trì Uposatha vào ngày mười
bốn, mười lăm và mùng tám. Vào những ngày gọi là Pāṭihariya cũng
vậy, các vị hãy thọ trì Uposatha.” Tin này được Tứ đại Thiên vương
trình bạch lên Đức Thế Tôn và vị ấy đi quanh khắp cõi người để liệt

kê những người có giới đức. Đức Phật chỉ truyền lại những lời của
Sakka mà thôi. Sự phân loại những ngày Uposatha mười bốn, mười
lăm và mùng tám chỉ là câu nói về những ngày Uposatha do mọi
người thọ trì theo truyền thống. Không có bài kinh đặc biệt nào do
Đức Thế Tôn thuyết giảng có tánh cách áp đặt là Uposatha phải được
thọ trì vào những ngày này hay không được thọ trì vào những ngày
khác.

Như vậy, những ngày mười bốn, mười lăm và mùng tám là những
ngày thọ trì Uposatha do người xưa quy định. Bởi vậy, theo truyền
thống chỉ có ba ngày Pakati Uposatha nhưng về sau người ta cũng thọ
trì ngày mùng năm, cho nên mới có bốn ngày
Uposatha trong mỗi nửa
tháng. Như vậy ngày
Uposatha thứ năm được nêu ra trong bộ Chú
giải. Ngày nay người ta chỉ thọ trì bốn ngày Uposatha trong một
tháng.

 

Đức Phật không quy định ngày Uposatha đặc biệt nào cả vì mọi người có thể thọ trì bất cứ ngày nào mà họ thích . Khi đề cập những ngày PaṭijāgaraPaṭihāriya Uposatha là những ngày đặc biệt để thọ trì giới, các nhà Chú giải chỉ ghi lại những pháp hành khác nhau của mọi người theo truyển thống tập tục. Cho nên mới có những điểm khác biệt này trong các bộ Chú giải.

Hơn nữa, các bộ kinh Aṅguttara, Suttanipāta, Saṃyutta và Jātaka
nêu ra các bài trình bày về Giới được gọi là Suttanta Desanā. Chúng
cũng được gọi là Vohāra Desanā vì trong những bài kinh này, Đức
Phật là bậc vô song trong cách ứng dụng những thuật ngữ thế gian và
những cách nói của mọi người mà không bao giờ giống nhau.

Như vậy về những sự phân loại khác nhau của ngày Uposatha, vì tất cả đều nhắm đến việc tạo phước, nên không cần thiết để quyết định quan điểm nào là đúng, quan điểm nào là sai. Trong bộ Chú giải Suttantanipāta, ba quan điểm được mô tả là để khuyên độc giả muốn chọn cách nào tùy thích.

Người thọ trì giới chọn những ngày thích hợp mà họ thích và thọ trì
theo nhiều cách, và tất cả sự thọ trì của họ là làm Tăng trưởng phước
báu. Bởi vậy các nhà Chú giải viết ra để ghi lại những cách mà mọi
người đã áp dụng. Trong các bài kinh
Suttanta Desanā, ngay cả Đức
Phật cũng trình bày theo những cách ứng dụng của mọi người, Tại sao
Đức Thế Tôn lại thuyết giảng theo cách này? Bởi vì Ngài muốn họ
đừng phá bỏ những tục lệ truyền thống tốt đẹp của họ.

Mục đích chính của Đức Thế Tôn là thuyết giảng Thắng nghĩa pháp
hay thực tại cùng tột như Danh và Sắc để sự chứng đắc đạo quả và
Niết bàn được dễ dàng. Thuyết giảng bằng những từ khó hiểu như vậy
có thể đem lại lợi ích cho những người có sự hiểu biết đúng đắn,
nhưng nó có thể làm cho những người thiếu sự hiểu biết đúng đắn
phạm phải những ác nghiệp để rồi dẫn họ xuống bốn khổ cảnh.

Ví dụ: Những người có sự hiểu biết sai lạc về Danh và Sắc thường
nghĩ rằng: “Trong thế gian này chỉ có Danh Sắc mà thôi, không có ‘ta’

cũng không có ‘kẻ khác.’” Nếu không có kẻ khác thì sẽ vô hại khi giết
họ. Không có ‘cái của ta’ hoặc ‘cái của người khác’thì sẽ vô hại trong
việc trộm cướp, tà dâm, v.v... Bằng cách này, họ tự do phá hoại những
luật lệ của xã hội và làm những việc ác khiến họ phải tái sanh vào các
khổ cảnh đọa xứ.

Về Đệ nhất nghĩa đế (Paramattha Sacca), không có ‘ta’ cũng
không có ‘kẻ khác’, không có ‘đàn bà’, ‘đàn ông’ v.v… chỉ có các uẩn
của danh và sắc (
nāma-rūpa). Đối với những người không hiểu được
những thuật ngữ về chân lý cùng tột, Đức Phật áp dụng những thuật
ngữ về chân lý thông thường (Samuti Sacca) trong những thời pháp
của Ngài. Tuy tất cả đều là một khối gồm Danh và Sắc, dùng cách
thông thường thì hiểu được dễ dàng nên mới có sự chế định rằng khối
này là ‘tôi’, khối nọ là ‘chúng nó’, khối kia là ‘mẹ’, ‘cha’, v.v... Nếu
người ta đi ra ngoài các nguyên tắc đã được định đặt trong thế gian, họ
sẽ lầm lạc phạm vào những ác nghiệp. Để ngăn người ta đừng bị đọa
vào các khổ cảnh do kết quả những ác nghiệp của họ, Đức Phật thuyết
giảng những bài kinh, mà trong đó Ngài dùng những từ thông thường.

Tuy nhiên, nếu chỉ có những bài kinh như vậy, người ta sẽ nghĩ rằng những từ ‘tôi’, ‘anh’, ‘con trai của tôi’, ‘con gái của tôi’, ‘vợ của tôi’, ‘tài sản của tôi’ v.v… là những thực thể cùng tột và niềm tin của họ sẽ là thân kiến (tin vào sự thường tồn của cái ta). Thân kiến càng sâu nặng thì  Đạo Quả và Niết bàn càng xa vời.

Cho nên Đức Phật mới thuyết giảng về Nāma-rūpa Paramattha Dhamma.

Một số vị A-xà-lê viết rằng: “Trong tạng Luật, có điều luật dành
cho các vị tỳ khưu là không hành ‘bhikkhu uposatha’ (sự tụng đọc các
điều luật
paṭimokkha) vào những ngày không phải uposatha. Nếu làm
như vậy họ sẽ phạm tội Tác ác (Dukkaṭa Āpatti). Cũng vậy người cư sĩ
không nên thọ trì Bát quan trai giới vào những ngày không phải

Uposatha.”

Viết như vậy chứng tỏ họ chưa thành công trong việc diễn giải giáo
pháp của Đức Phật. Vinaya Desanā, theo văn học Phật giáo, được gọi
Aṇādesanā. Nó có nghĩa là điều luật chính thức do Đức Thế Tôn
ban hành. Nếu vị Tỳ khưu phạm vào một điều cấm ngay cả với ý định
tốt, vị ấy cũng phạm tội vì đã đi ngược qui định của Đức Thế Tôn và
vi phạm các điều luật của bộ Vinaya. Cho rằng điều Luật (Vinaya)
như vậy cũng áp dụng với người cư sĩ trong việc thọ trì Uposatha của
họ, nói rằng mọi người không được thọ trì giới vào những ngày không
phải
Uposatha và làm như vậy sẽ có tội, rõ ràng là sự diễn giả sai lầm
về Desanā. Tóm lại, Uposatha là sự thọ trì thanh tịnh và cao quý có
thể được thực hành bất cứ ngày nào. Sự thọ trì nó càng nhiều thì quả
phước càng lớn.

Do đó Phụ chú giải của bài kinh Mahā Sudāssana Sutta trong Đại Phẩm (Mahā Vagga), Dīgha Nikāya nói rằng: “Uposathaṃ vuccati atthaṅgasamannāgataṃ sabbadivasesu gahaṭṭhehi rakkhitabbasīlaṃ -
Uposatha được xem là giới có tám điều răn mà người cư sĩ có thể thọ trì trong tất cả mọi ngày.” (Phụ chú giải này do Đại Đức Dhammapāla biên soạn. Ngài cũng biên soạn các bộ Anutīkā, Phụ chú giải của bộ Mūlaṭīkā, bộ Visuddhimagga - Mahātīkā, bộ Itivuttaka Aṭṭhakathā, v.v... và những bộ Phụ chú giải khác nữa).

 

 

3. Pakati-sīla / Ācāra-sīla / Dhammatā-sīla / Pubbahetu-sīla

a.  Pakati-sīla (Tự nhiên giới) là sự không vi phạm ngũ giới của
những người ở cõi Bắc cưu Lưu châu. (Về bản tánh, những chúng
sanh này kiên tránh các ác nghiệp như sát sanh, v.v… mà không
nguyện thọ trì ngũ giới). Sự không việc phạm ngũ giới ấy không phải
là vấn đề kiêng giới tránh do lời nguyện (thọ ly -
samadana virati),
chỉ là sự kiêng tránh tự nhiên ngay cả khi có điều kiện để vi phạm
(đắc ly - sampatta viratī).

b.   Ācāra-sīla (Chánh hành giới) là làm theo sự thực hành truyền
thống của gia đình, địa phương hoặc bộ phái. (Bởi vì tổ tiên, cha ông

đã từng làm như vậy nên gọi là Kula ācāra. Sự kiêng tránh điều ác vì đó là phong tục của địa phương nên gọi là Desa ācāra. Sự kiêng tránh điều ác vì nó được làm như vậy trong tông phái của mình thì được gọi là Pāsaṇda sīla).

c.  Dhammatā-sīla (Pháp tánh giới) là loại giới được thọ trì bởi mẹ của Bồ-tát vào lúc bà có thai, do oai đức của giới bà không có ý nghĩ nào về đàn ông cả. (Mẹ của Bồ-tát thường thọ trì ngũ giới đều đặn từ lúc có thai. Điều này do bởi một chúng sanh vô cùng cao quý, tức là Bồ-tát, đang nằm trong bào thai của bà vì giới được thọ trì bởi mẹ của Bồ-tát như là một quy luật).

d.  Pubbahetu-sīla (Túc nhơn giới) là sự thọ trì giới do bởi những
người có đời sống trong sạch như chàng trai Pippali (về sau trở thành
Mahā Kassapa) và Bồ-tát như vua Mahāsīlava do bởi căn tánh tự
nhiên và không do sự chỉ dạy của bất cứ ai (do kết quả của sự thọ trì
giới đã tích tập thường xuyên trong những kiếp quá khứ của họ, nên

bản tánh của họ có khuynh hướng thọ trì giới trong kiếp hiện tại
này).

4. Pātimokkhasamvara-sīla / Indriyasamvara-sīla Ājivapārisuddhi-sīla / Paccayasannissita-sīla

Bốn loại giới này chỉ liên quan đến vị tỳ khưu. Khi Bồ-tát, đạo sĩ Sumedha, suy xét về giới Ba-la-mật, Ngài tự nhủ rằng: “Tath’eva tvam catūsu bhūmīsu, silāni pari-pūraya - Cũng vậy, ngươi nên hoàn thành trong bốn lãnh vực của giới.”

a.  Pātimokkhasamvara-sīla (Biệt biệt giải thoát luật nghi giới)

Là giới giúp người thọ trì thoát khỏi bốn khổ cảnh (pāti: người thọ trì. mokkha: giải thoát, giải phóng).

Người thọ trì giới này: (i) nên có chánh hạnh, (ii) nên đến những
chỗ thiện lành, trong sạch, (iii) nên thấy mối nguy hiểm to lớn trong
lỗi lầm nhỏ nhất. Tội có thể nhỏ như hạt bụi nhưng vị tỳ khưu nên
thấy mối nguy hiểm trong đó lớn bằng núi Tu-di cao một trăm sáu

 

mươi tám ngàn do-tuần và (iv) nên thọ trì và thực hành các điều học một cách đúng đắn.

Giải rõ hơn:

(i) Trong thế gian này, chánh pháp (Ācāra Dhamma) nên thực hành và phi pháp (Anācāra Dhamma) nên tránh ba thân ác nghiệp (sát sanh, trộm cắp và tà dâm) và bốn ngữ ác nghiệp (nói dối, đâm thọc, chửi mắng và nhảm nhí), tất cả bảy ác hạnh (duccarita) và những ác nghiệp khác làm hư hoại giới gọi là phi pháp (anācāra).

Sau đây là một số ví dụ về những ác nghiệp làm hư hoại giới.
Trong thế gian có một số tỳ khưu kiếm sống bằng cách cho tre, lá,
hoa, trái cây, bột giặt, tăm xỉa răng đến người cư sĩ. Họ tự hạ thấp
phẩm giá bằng cách tán đồng, hùa theo những lời nói ác của người cư
sĩ, tâng bốc nịnh bợ họ để kiếm lợi, nói nhiều điều giả dối pha lẫn chút
chân thật như món đậu xào nửa chín nửa sống. Họ giữ con cho người
cư sĩ như những bà vú nuôi, bồng ẳm, thay tả lót, v.v... Họ làm công
việc chạy vặt, giữ nhà, vườn, trao đổi đồ ăn thức uống. Những hành
động tà mạng như vậy Đức Phật gọi là Phi chánh hạnh (
Anācāra
Dhamma).

Thật không thích hợp cho vị tỳ khưu làm công việc cho tre, cho lá, v.v… cho dù người cư sĩ cần đến; lại càng tệ hơn khi người cư sĩ không cần đến. Những hành động như vậy không phải là việc làm của vị tỳ khưu. Nếu họ làm như vậy, họ sẽ làm tiêu hoại niềm tin của người cư sĩ (kuladūsana) đối với tạng Luật.

Về mặt này, người ta có thể thắc mắc rằng nếu vị tỳ khưu không
cho người cư sĩ những gì mà họ cần, liệu niềm tin của người cư sĩ có
bị hủy hoại không, hoặc nếu vị tỳ khưu cho người cư sĩ những gì mà
họ cần thì liệu họ có Tăng niềm tin khi nghĩ rằng: “Đây đúng là vị tỳ
khưu đã làm thỏa mãn những nhu cầu của ta.” Niềm tin của người cư

sĩ đối với vị tỳ khưu, đệ tử của Đức Phật vốn là niềm tin chân thực và
trong sạch ngay trước khi nhận những vật tặng từ vị tỳ khưu. Sau khi
nhận vật tặng, người cư sĩ xem vị tỳ khưu như người cho tre, cho lá,

v.v… và kết quả là tình cảm ái luyến khởi sanh trong họ. Do đó niềm
tin của họ đối với vị tỳ khưu bị nhiễm luyến ái. Niềm tin chân thật đã

bị huỷ hoại. Do đó Đức Thế Tôn gọi hành động cho vật phẩm của vị
tỳ khưu là kuladūsana, tức là sự cướp đoạt niềm tin của người cư sĩ.

Tất cả những pháp hành đối nghịch với những phi pháp hạnh kể trên là những chánh hạnh cần tu tập.

(ii)   Chỗ lui tới có hai loại: chỗ lui tới chánh đáng và chỗ lui tới bất chánh.

Chỗ lui tới bất chánh: Một số tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Phật
thường hay tiếp xúc, thân cận với những người đàn bà góa, phụ nữ ly
hôn, kỹ nữ, phụ nữ không chồng, người lưỡng tính và các tỳ khưu ni,
thường đến ngồi ở các quán nhậu, trà trộn trong các vị vua, quan,
ngoại đạo sư và tín đồ của họ như những người dân thường. Họ kết
bạn với những người không có đức tin, những người chửi mắng và
dọa nạt đệ tử của Đức Phật, và những người có ác ý với những người
theo đạo Phật. Tất cả những sự thân cận và những chỗ lui tới này là
những chỗ lui tới bất chánh đối với các vị tỳ khưu.

“Tà hành xứ” ở đây chỉ về sự thân cận bất chánh và những chỗ lui
tới không thích hợp đối với các vị tỳ khưu. Nhưng nếu một kỹ nữ
thỉnh các vị tỳ khưu về nhà trai Tăng, các vị tỳ khưu có thể đi và thọ
thực nhưng phải giữ chánh niệm. Ở đây kỹ nữ, đàn bà góa, phụ nữ ly
hôn, phụ nữ không chồng, người lưỡng tính và tỳ khưu ni được xem là
những chỗ lui tới bất chánh, vì họ là cơ sở của năm dục lạc. Quán
rượu, tiệm giải khát, v.v… đều nguy hiểm cho sự thực hành chánh
pháp. Thân cận với vua, quan cũng bất lợi. Sự cúng dường của họ rất
tai hại như sấm sét, và những nhà mà ở đó người ta không có đức tin,
những nơi mà người ta chửi mắng và dọa nạt đều là những chỗ lui tới

bất chánh vì chúng sẽ làm thối thất niềm tin và gây ra sự sợ hãi cho vị
tỳ khưu.

Đối nghịch với những chỗ và những hạng người nói trên là chỗ lui
tới chánh đáng của vị tỳ khưu. Một số cư sĩ có niềm tin nơi Tam bảo,

họ cũng tin vào nghiệp và quả. Họ giống như những cái hồ và giếng
nước trong, là nơi mà vị tỳ khưu có thể đến lấy nước không bao giờ
cạn kiệt. Nhà của họ chói sáng màu y vàng của các vị tỳ khưu thường
lui tới. Chỗ như vậy rất mát mẻ và an lành nhờ các vị tỳ khưu thường

lui tới. Ở đây mọi người thường hoan hỷ với những người thực hành
giáo pháp của Đức Phật, họ khích lệ và ủng hộ những người như vậy,
ngôi nhà như vậy là chỗ lui tới tốt đẹp dành cho vị tỳ khưu.

Giải thích thêm: Ācāra, Anācāra và Gocara

 

Anācāra (Phi chánh hạnh)

Có hai loại Phi chánh hạnh: Kāyika Anācāra (Thân phi chánh hạnh) và Vacasika Anācāra (Ngữ phi chánh hạnh).

Kāyika anācāra (Thân phi chánh hạnh)

Sau khi đi vào Tăng chúng, vị tỳ khưu hành động bất kính đối với
Tăng. Vị ấy đứng giữa các vị trưởng lão, ngồi giữa các vị trưởng lão,
đứng hoặc ngồi trước mặt các ngài, ngồi cao hơn các vị trưởng lão,
ngồi với đầu trùm y, nói trong lúc đứng, múa tay khi nói chuyện, đi thì
mang giày, dép trong khi vị trưởng lão thì đi chân không. Đi trên chỗ
cao trong khi các vị trưởng lão đi ở ven đường, ngồi xô lấn các vị
trưởng lão, đứng cũng lấn lướt các vị trưởng lão và không nhường chỗ
cho các vị tỳ khưu thấp hạ hơn. Tại nhà ăn, vị ấy cho củi vào bếp mà
không xin phép các vị trưởng lão và đóng cửa. Ở nhà vệ sinh vị ấy xô
đẩy các vị trưởng lão và đi vào trước, đi ra cũng chen lấn. Khi đến
làng mạc hoặc thị trấn, vị ấy vội vã đi vào phòng riêng và kín của
người cư sĩ và phòng của phụ nữ. Vị ấy thoa đầu, vuốt tóc trẻ con.
Đây là thân Phi chánh hạnh.

Anācāra  (Ngữ phi chánh hạnh)

Sau khi đi vào Tăng chúng, vị tỳ khưu nói lời bất kính đối với
Tăng. Vị ấy nói pháp mà không xin phép các vị trưởng lão, không trả
lời các câu hỏi, tụng Pātimokkha mà không xin phép các vị trưởng lão.

Nói trong khi đứng, vẫy tay trong khi nói. Khi đến làng quận, chẳng
có chút tự chế, vị ấy nói chuyện với các cô gái trẻ: “Này cô gái, cô có
gì không? Có cháo không? Có cơm không? Có vật thực cứng không?
Có gì cho bần Tăng uống không? Bần Tăng sẽ ăn loại vật thực nào
đây? Cô sẽ dâng cho bần Tăng cái gì đây? v.v... Đây là Ngữ phi chánh
hạnh (
vacasika anācāra).

Ācāra (Chánh hạnh)

Ācāra nên hiểu bằng nghĩa trái ngược với Anācāra. Hơn nữa, vị tỳ
khưu lễ phép, dễ dạy, có tàm quý, mặc y đúng luật, oai nghi và phẩm
hạnh của vị ấy làm khởi dậy niềm tịnh tín. Dầu khi đi tới hoặc đi lui,

nhìn xuống, vị ấy hộ phòng các căn. Vị ấy ăn uống có độ lượng, luôn
luôn giác tỉnh, chánh niệm, tri túc, thiểu dục, vị ấy tinh tấn trong sự
thực hành chánh pháp, nghiêm trì Đẳng chánh hành giới. Những điều
này được gọi là Chánh hạnh.

Gocara (Chánh hành xứ)

Gocara có ba loại: Upanissaya Gocara - Chỗ lui tới hỗ trợ cho sự
vững mạnh của giới; Ārakkha Gocara - Chỗ lui tới như là nơi nhiếp
hộ tâm, và
Upanibandha Gocara - Chỗ lui tới dùng làm cái neo của
tâm.

(1) Một người bạn tốt thường dùng mười loại chánh ngữ dẫn đến
giải thoát luân hồi thì được  gọi là Upanissaya Gocara. Do nương tựa
vào người bạn như vậy, vị ấy nghe pháp chưa từng nghe, diệt trừ hoài
nghi, củng cố chánh kiến, có được sự trong sáng của tâm. Thêm vào
những lợi ích này, vị ấy được Tăng tiến về đức tin, giới, sở học, tánh
rộng rải và trí tuệ. Cho nên người bạn tốt ấy là
Upanissaya Gocara -
sự nâng đỡ mạnh mẽ cho sự tu tập các thiện pháp như giới, v.v...

Mười loại chánh ngữ dẫn đến giải thoát là:

1. Appiccha kathā - Lời nói về thiểu dục

2. Santuṭṭhi kathā - Lời nói về tri túc

3. Paviveka kathā - Lời nói về đời sống độc cư

4. Asamsagga kathā - Lời nói về đời sống tịnh cư

5. Vīriyarambha kathā - Lời nói về sự tinh tấn

6. Sīla kathā - Lời nói giới

7. Samādhi kathā - Lời nói về định

8. Paññā kathā - Lời nói về tuệ

9. Vimutti kathā - Lời nói về những trạng thái quả (giải thoát)

10. Vimuttiñāṇadassana kathā - Lời nói về giải thoát tri kiến, quán
     
sát trí

Tóm lại, người sử dụng mười loại chánh ngữ liên quan đến sự giải thoát cái khổ luân hồi sẽ đem lại năm lợi ích như nghe pháp chưa từng nghe, v.v... Người bạn tốt mà có thể làm cho những kẻ khác được tiến bộ về đức tin, giới, sở học, sự bố thí và trí tuệ - người như vậy được gọi là Upanissaya Gocara - hành xứ tạo duyên mạnh mẽ cho sự phát triển các thiện pháp như giới, v.v...

Chánh niệm có phận sự canh phòng tâm thì được gọi là Thủ hộ
hành xứ (Ārakkha Gocara). Vị tỳ khưu lấy chánh niệm làm chỗ lui
tới, đi khất thực trong làng xã với mắt nhìn xuống, chỉ nhìn một
khoảng xa bằng cái cày và phòng hộ các căn. Vị ấy đi như vậy mà
không nhìn những đoàn tượng binh, mã binh, xa binh hoặc bộ binh,
không nhìn vào đàn ông hoặc đàn bà. Vị ấy không nhìn lên hoặc nhìn
xuống, hoặc hướng nào trong tám hướng và vẫn đi như thế. Vị tỳ khưu
mà không lấy chánh niệm làm hành xứ, khi đi khất thực trong làng
mạc và châu quận, nhìn chỗ này chỗ nọ, mắt láo liên như con quạ bị
nhốt trong lồng. Cho nên chánh niệm là hành xứ hộ trì tâm của vị tỳ
khưu, không để những ý nghĩ bất thiện sanh khởi.

Tứ niệm xứ là nơi để tâm trú vào đó như chỗ để tâm thả neo, Tứ niệm xứ ấy được gọi là Upanibandha Gocara (Cận hiền hành xứ -
Upanibandha: nơi mà tâm thả neo, gocara: chỗ lui tới).

Vị  tỳ  khưu  nào  muốn  Biệt  biệt  giải  thoát  Luật  nghi  giới
(Pātimokkhasamvara Sīla) của mình được hoàn toàn trong sạch thì
nên có chánh hạnh, chánh hành xứ và xem tội nhỏ nhất như là mối tai
họa lớn.

b.   Indriyasamvara Sīla (Căn luật nghi giới )

Sự hộ trì các căn được gọi là Căn luật nghi giới (căn có 6: mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ý). Indriya nghĩa là sự cai quản. Trong sự nhìn thấy
đối tượng, mắt (cakkhu pasāda) là cơ quan cai quản. Nếu mắt bị mất
thị lực thì nó không thể nhìn thấy cảnh vật (nhãn thức không thể sanh
khởi). Do đó Đức Phật nói rằng con mắt được gọi là nhãn căn
(cakkhundriya).

Tương tự, sự nghe âm thanh cũng vậy, tai là cơ quan cai quản. Nếu
tai bị điếc thì nó không thể nghe âm thanh được (nhĩ thức không thể
sanh khởi). Do đó tai được gọi là nhĩ căn (sotindriya). Trong sự ngửi
mùi, mũi (ghāna-pasāda) là cơ quan cai quản. Nếu mũi bị hư khuyết,
nó không thể ngửi mùi (tỉ thức không thể sanh khởi). Do đó, mũi được
gọi là tỉ căn (
ghānindriya). Trong việc nếm vị, lưỡi là cơ quan cai
quản. Nếu lưỡi bị mất vị giác thì nó không thể nếm vị (thiệt xúc không
thể sanh khởi). Do đó lưỡi được gọi là thiệt căn (
jivhindriya). Trong
sự đụng chạm với vật có hình thể, thân) là cơ quan cai quản. Nếu thân
bị tê liệt thì nó không thể cảm giác được đối tượng. Do đó, thân được
gọi là thân căn (kāyindriya). Trong việc nhận biết đối tượng của tâm,
ý (mana) là cơ quan cai quản. Nếu không có ý thì không thể có ý thức
sanh khởi. Do đó, ý được gọi là ý căn (manindriya). Như vậy sự hộ
phòng sáu căn này được gọi là Căn luật nghi giới.

Đây là cách hộ phòng sáu căn. Khi nhìn thấy cảnh vật bằng mắt,
người ta nên nhận biết nó chỉ là cảnh sự thôi, không nên biết tướng

chung của đối tượng được nhìn thấy như ‘đây là người đàn ông’, ‘đây
là người đàn bà’, ‘người này đẹp’. Cách nhận biết như vậy sẽ làm khởi
sanh phiền não. Người ta cũng không nên chú ý vào chi tiết của người
đàn ông, đàn bà, v.v… như tay, chân, v.v... cách cười, nói, v.v… đang  
nhìn qua một bên, v. v... Sự nhận biết như vậy sẽ làm cho phiền não nhiều lần sanh khởi lập đi lập lại.

Ví dụ về trưởng lão Mahātissa

Nói về việc hộ phòng các căn, trưởng lão Mahā Tissa sống ở đỉnh
núi Cetiya là một ví dụ minh chứng. Một hôm nọ, trưởng lão Mahā
Tissa đi vào thành Anuradha để khất thực. Hôm ấy có một người đàn
bà nọ, sau khi gây gỗ với chồng, đã bỏ nhà đi về chỗ ngụ của cha
nàng. Nàng mặc y phục lộng lẫy, diêm dúa. Trông thấy trưởng lão
Mahā Tissa đang đi đến trong sự thu thúc lục căn, nàng cười to với ý
nghĩ rằng: “Ta sẽ quyến rũ vị sư này về làm chồng của ta.” Do sự
quán niệm thường xuyên về bộ xương, Ngài trông thấy bộ xương đang
lướt qua hình ảnh của người đàn bà ấy. Vị ấy phát triển bất tịnh tướng
(
asubha saññā) và chứng đắc Đạo Quả A-la-hán.

Chồng của người đàn bà đang trên đường chạy theo nàng, trông thấy trưởng lão và hỏi rằng:

“Bạch đại đức, Ngài có trông thấy một người đàn bà đang qua đây
không?”

“Này cận sự nam, ta không để ý đó là đàn ông hay đàn bà đang đi qua. Ta chỉ biết rằng một bộ xương đã đi qua.”

Cho dù trưởng lão có trông thấy người đàn bà, Ngài cũng chỉ thấy
vậy thôi, mà không có sự nhận biết đó là người đàn bà. Thay vào đó,

trưởng lão chỉ chuyên tâm vào pháp thiền quán của mình và chứng
đắc đạo quả A-la-hán. Sự kiện ấy nên được xem là tấm gương quý
báu.

Nếu không có sự kiểm soát nhãn căn thì khi vị tỳ khưu trông thấy cảnh khả ái, tham ái sẽ sanh khởi trong vị ấy. Nếu vị ấy thấy cảnh không khả ái, ưu não sẽ sanh khởi trong vị ấy. Do đó người nên thực hành sự thu thúc nhãn căn qua chánh niệm để ngăn chặn sự sanh khởi những trạng thái bất thiện tâm.

Về những căn còn lại cũng vậy, nên có sự hộ phòng tương tự để ngăn chặn phiền não khởi sanh khi nghe tiếng, ngửi mùi, nếm vị, đụng chạm hoặc nhận thức.

c.  Ājivaparisudhi-sīla (Hượt mạng luật nghi giới)

Ājivaparisudhi Sīla là giới nuôi mạng thanh tịnh có nghĩa là sự kiêng tránh 6 loại tà mạng đạo sĩ nêu ra trong tạng Luật và sự kiêng tránh tất cả những loại tà mạng khác. Sáu điều học được Đức Phật ban hành liên quan đến sự nuôi mạng là:

(1)   Do có những ước muốn bất chánh hoặc bị thúc ép bởi những

ước muốn ấy, nếu vị tỳ khưu khoác lác khoe khoang về những pháp chứng của bậc cao nhân như thiền chứng, Đạo và Quả mà vị ấy không có hoặc chưa từng có thì phạm tội Bất cộng trụ (Pārājika-āpatti).

(2)   Nếu vị ấy đi làm mai mối cho người ta để nuôi mạng thì phạm

tội Tăng tàn (Sanghadisesa-āpatti).

(3)   Dù không nói trực tiếp rằng “Tôi là vị A-la-hán” nhưng vị ấy

vì nuôi mạng mà nói rằng: “Vị tỳ khưu nọ sống ở chùa của ông, vị tỳ khưu ấy là bậc A-la-hán” và nếu thí chủ ngôi chùa ấy tin lời nói của vị tỳ khưu ấy thì vị ấy phạm trọng tội Thullaccaya-āpatti.

(4) Vì sự nuôi mạng, nếu vị ấy xin ăn vật thực thượng vị dành cho

tỳ khưu bịnh, vị ấy phạm tội Ưng đối trị - Pācittiya-āpatti (vật thực thượng vị của tỳ khưu bịnh là vật thực có trộn chung với bơ, thục tô, sữa, mật ong, mật đường, cá và sữa cục).

(5) Vì sự nuôi mạng, nếu vị ấy xin và ăn vật thực thượng vị trong

khi không bị bịnh thì phạm tội Ưng phát lộ (Pātidesanīya-
āpatti).

(6) Vì sự nuôi mạng, nếu vị tỳ khưu xin và ăn món cà-ri hoặc cơm

trong khi không bị bịnh thì phạm tội Tác ác (Dukkaṭa-āpatti).

Những loại tà mạng khác ngoài sáu điều trên gồm có:

(1)   Kuhana - Trá thuật

(2)   Lapana - Hư đàm

(3)   Nemittkata - Hiện tướng

(4)   Nippesikatā - Kích đàm

(5)   Labhena lābhaṃ nijigisanatā - Lấy lợi câu lợi

 

 

(1) Kuhana (Trá thuật) có ba loại:

(i)    Paccaya patisevana - Trá thuật liên quan đến bốn món vật
     
dụng.

(ii) Samanta jappana - Trá thuật liên quan đến lời nói về các chủ
     
đề gần với pháp chứng.

(iii) Iriyāpatha saṇthapana - Trá thuật trong việc sử dụng các oai
      nghi để lường gạt Phật tử.

(i)  Khi có người Phật tử dâng cúng đến vị tỳ khưu các món vật dụng
như y phục, v.v… dầu rất thích nó nhưng vì ham muốn thái quá, vị tỳ
khưu làm ra vẻ ta đây là người tu hành chân chánh, vị ấy nói để được

nhiều hơn: “Đối với vị tỳ khưu, cần gì những bộ y đắt giá như thế này.
Chỉ cần những bộ y
paṅsukulika làm bằng vải vụn là đủ.” Về vật thực,
vị ấy nói rằng: “Đối với vị tỳ khưu, cần gì những món ăn sang trọng
như vậy. Vị tỳ khưu chỉ thích hợp với những món ăn kiếm được do đi
khất thực.” Về chỗ ngụ, vị ấy nói rằng: “Đối với vị tỳ khưu, cần gì chỗ
ngụ tốt như thế này, chỉ cần chỗ ngụ dưới cội cây hoặc ngoài chỗ
trống là thích hợp dành cho vị tỳ khưu rồi.” Về thuốc trị bệnh, vị ấy
nói rằng: “Đối với vị tỳ khưu, cần gì thuốc chữa bịnh đắt giá như thế
này. Đối với vị ấy, chỉ cần nước tiểu bò đen là tốt rồi.”

Do đó, để thực hành điều mà vị tỳ khưu nói ra, vị ấy chỉ mặc y loại
thô, chỗ ngụ đơn giản và thuốc chữa bịnh loại thô, Phật tử sẽ rất kính

trọng vị ấy khi nghĩ rằng: “Vị tỳ khưu này sống thiểu dục, tri túc, vị ấy
đã thoát khỏi những ham muốn về vật chất và dục lạc. Vị ấy không trà
trộn với người cư sĩ. Vị ấy cũng rất tinh tấn trong sự thực hành pháp.”

Họ dâng cúng bốn món vật dụng đến vị ấy, càng ngày càng nhiều. Rồi
vị tỳ khưu tham lam ấy
khoác lác rằng: “Này Phật tử, khi có hiện diện
ba pháp này: đức tin, vật dụng dâng cúng và người thọ lãnh, khi đó vị
thí chủ có lòng tịnh tín ấy sẽ được nhiều phước. Ở đây, ông (bà) là
Phật tử có niềm tin vững chắc, có vật dụng để dâng cúng và ta là
người thọ lãnh. Nếu ta không thọ lãnh vật thí của ông thì phước của
ông sẽ bị tổn giảm. Bởi vậy, để tiếp độ cho ông, ta sẽ thọ lãnh vật thí
của ông mặc dầu ta chẳng cần đến chúng.” Nói như vậy, vị ấy thọ lãnh
nhiều cỗ xe, y phục và vật thực, nhiều chỗ ngụ và số lượng lớn thuốc
chữa bệnh. Như vậy, dù vị tỳ khưu rất tham lam, nhưng vị ấy giả bộ
muốn ít và dùng những vật dụng loại thô để khiến cho Phật tử đánh
giá cao về vị ấy . Đây là
Paccayapatisevana Kuhana - Tư cụ thực
dụng trá thuật, tức là trá thuật trong việc dùng các món vật dụng.

(ii)   Dù không nói thẳng rằng: “Ta đã chứng thiền, Đạo và Quả rồi.” Vị ấy khiến cho mọi người nghĩ rằng vị ấy đã chứng bằng cách nói gợi ý như vầy: “Vị tỳ khưu mặc loại y như thể có oai lực, vị tỳ khưu mang loại bát đó, đồ lọc nước đó, dây lưng đó, đi loại dép đó là có oai lực.” Đây là Sāmanta jappana - Trá thuật trong việc nói về các chủ đề gần với các pháp thiền chứng, Đạo và Quả.

(iii)  Vì muốn được Phật tử kính trọng và khen ngợi, vị tỳ khưu
nghĩ rằng: “Nếu ta đi theo cách này, mọi người sẽ khen ngợi và kính
trọng ta.” Rồi làm bộ đi đứng, nằm, ngồi giống như bậc Thánh. Đây là
Iriyāpatha saṇthapana - Trá thuật trong việc thay đổi các oai nghi để
lường gạt Phật tử.

(2) Lapana (Hư đàm)

Lapana - Hư đàm nghĩa là nói chuyện do động cơ ác thúc đẩy. Khi
vị tỳ khưu trông thấy mọi người đi đến chùa, vị ấy đến họ trước và nói
rằng: “Này đạo hữu, đạo hữu đến đây có việc gì không? Đạo hữu đến

 

thỉnh các vị tỳ khưu phải không? Nếu vậy đạo hữu hãy đi trước, bần
Tăng sẽ mang bát theo sau.” hoặc nói rằng: “Ta là trưởng lão Tissa,
đức vua tôn kính ta lắm. Các quan đều tôn kính ta,” v.v... Trong khi

nói chuyện, vị ấy cẩn thận không làm phật ý, hoặc buồn lòng họ. Vị ấy
tâng bốc họ, gọi họ là ‘đại trưởng giả’, ‘ông chủ’, v.v... Nói bằng
nhiều cách như vậy để lấy lòng Phật tử, khiến họ dâng cúng, bố thí thì
được gọi là
Lapana - Hư đàm.

(3) Nemittikatā  (Hiện tướng)

Nemittikatā - Hiện tướng nghĩa là gợi ý bằng cách ra dấu hoặc cho
lời chỉ bảo để khiến người ta bố thí. Ví dụ: Khi thấy một người đàn
ông mang một số vật thực, vị tỳ khưu muốn một ít vật thực bằng cách
nói rằng: “Có phải ông đã có được vật thực rồi chăng?” “Ông kiếm
được nó ở đâu vậy?”  “Ông kiếm được nó bằng cách nào?”  v.v... Khi
thấy những người chăn bò, vị ấy chỉ vào những con bê và nói rằng:
“Những con bê này uống sữa hay uống nước?” Những người chăn bò
đáp lại rằng: “Những con bê này đang uống sữa.” “Vậy à, các vị tỳ
khưu cũng uống sữa,” v.v... Những người chăn bò hiểu lời gợi ý của vị
tỳ khưu và nói lại với cha mẹ chúng để dâng sữa đến vị tỳ khưu ấy.
Gợi ý như vậy để khiến người ta bố thí thì gọi là
Nemittikata - Hiện
tướng.

Những hình thức nói chuyện bằng cách cho những lời chỉ dẫn trực
tiếp và trắng trợn thì gọi là sāmanta jappana. Cả nemittikata
sāmanta jappana là những loại khác nhau của Hư đàm, đều có tánh
chất bất thiện.

Trong bài mô tả về loại sāmanta jappana, bộ Visuddhi Magga, Thanh tịnh đạo có nêu ra một câu chuyện về vị tỳ khưu Kulupaka, là người hay đến nhà Phật tử.

Câu chuyện về tỳ khưu Kulupaka

Vì muốn được vật thực, vị tỳ khưu này có thói quen thường hay đến
nhà Phật tử, đã đi vào nhà của một người đàn bà nọ và tự nhiên kéo
ghế ra ngồi. Trông thấy vị tỳ khưu và không muốn cho vị ấy vật thực,

bà ta càu nhàu: “Nhà con hết gạo rồi Sư ơi.” Rồi ra đi tựa như đang
tìm xem có chút gì không và nấn ná ở ngoài nhà. Khi ấy vị tỳ khưu lén
đi vào phòng trong và nhìn chỗ này chỗ nọ, trông thấy một cây mía
trong kẹt cửa, những cục đường phèn trong cái bát, miếng cá chiên
dẹp trong cái chảo, cơm trong nồi và bơ trong cái keo. Sau đó vị ấy đi
ra và ngồi vào chỗ cũ.

Người đàn bà đi vào và nói lầm bầm: “Hết cơm rồi Sư ơi”. Khi ấy
vị tỳ khưu nói rằng: “Bà ạ, sáng nay Sư gặp điềm báo không có gì để

ăn.” “Điềm gì vậy?” người đàn bà hỏi. “Trên đường đi đến nhà này để
kiếm vật thực, Sư đã trông thấy một con rắn lớn bằng cây mía ở sau
kẹt cửa kia. Để đuổi nó đi, sư bèn tìm vật gì đó và trông thấy cục đá

cỡ bằng cục đường phèn trong cái bát của bà. Khi Sư ném cục đá vào
con rắn thì cái đầu của nó phình ra lớn bằng miếng cá chiên trong cái

chảo của bà. Khi con rắn há miệng ra để cắn cục đá, nó nhe răng trông
trắng phau như những hạt cơm trong cái nồi của bà. Nước miếng độc
của nó trông giống như bơ trong cái keo của bà.” Những lời nói biểu

lộ ước muốn của vị tỳ khưu như cái mạng nhện trói chặt con mồi,
khiến bà ta không còn đường nào để thối thoát và nghĩ rằng: “Chẳng
còn cách nào để dối gạt gã đầu trọc này!” Và bà ta miễn cưỡng cho vị
tỳ khưu kia cây mía, cơm cùng với bơ, đường phèn và món cá chiên.

(4) Nippesikatā (Kích đàm)

Kích đàm là một loại ác ngữ khác nữa, có nghĩa là sự đeo đuổi lợi
lộc bằng cách tước bỏ hoặc nghiền nát hoặc phá tan những đức tánh
của người Phật tử như sự đeo đuổi để có được chất thơm bằng cách
nghiền nát hoặc tán nhuyễn những vật liệu có chất thơm. Sự đeo đuổi
như vậy được thực hiện bởi nhiều cách như: Dùng lời lăng mạ  để
buộc người ta bố thí, chê trách như: “Ngươi chẳng có đức tin chút nào
cả.” “Ngươi chẳng giống như những Phật tử khác.” Nói nặng với
người không chịu cho như: “Thí chủ mà như thế à! Đại thí chủ mà như
thế à.” Nói lời khiêu khích đến người Phật tử không chịu cho trước
mặt những Phật tử khác: “Tại sao sư bảo rằng người này chẳng bố thí
gì cả? Ông ta có bố thí đấy chứ, khi có ai đến nhà ông ta để xin vật

thực thì ông ta đều bảo là: “Tôi chẳng có gì cả.” Sự đeo đuổi lợi lộc bằng  cách  làm  giảm  thiện  tánh  của  người  Phật  tử  như  vậy  là Nippesikatā - Kích đàm.

(5) Labhena labham nijigīsanatā (Lấy lợi câu lợi)

Sau khi kiếm được vật thực, kẹo bánh, vị tỳ khưu đem  đến cho con cái của những Phật tử có khả năng bố thí dồi dào. Kết quả là cha mẹ bọn trẻ dâng cúng đến vị tỳ khưu ấy những thứ quí hơn, dồi dào hơn vì nghĩ rằng vị tỳ khưu kia thương mến con cái của mình. Tóm lại, đây là hình thức “Thả con tép câu con cá.”

Năm loại tà mạng, như trá thuật, v.v… được mô tả ở trên, đều là kiểu kiếm lợi bất chánh từ những Phật tử, nhưng mỗi loại có một cách đeo đuổi riêng của nó.

Như  vậy  sự  kiếm  sống  bằng  cách  vi  phạm  sáu  điều  học
(sikkhāpada) do Đức Phật ban hành liên quan đến sự nuôi mạng như
đã giải thích ở trước và những thứ kiếm được bằng các ác hạnh như
trá thuật, hư đàm, v.v... lấy lợi câu lợi, thì được gọi là Tà mạng
(Micchājīva).

Sự kiêng tránh những hình thức tà mạng để có được sự nuôi mạng
chân chánh thì được gọi là
Ājīvapārisuddhi Sīla - Chánh mạng thanh
tịnh giới.

d. Paccayanissita-sīla (Tư cụ y chỉ giới )

Paccayanissita-sīla (Tư cụ y chỉ giới) là giới được thực hành viên mãn nhờ bốn món vật dụng.

Bốn món vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ngụ và thuốc chữa bệnh. Chúng là nhu cầu không thể thiếu được. Sự sống không thể không có chúng. Nhưng khi sử dụng chúng, vị tỳ khưu phải suy quán về tánh chất của vật dụng có liên quan để những bất thiện pháp như tham, sân, v.v… không thể sanh khởi.

Cách quán xét như vầy: “Ta dùng vật thực này không phải để thỏa
mãn sự ngon miệng như trẻ nhỏ, không phải để Tăng thêm sức mạnh

hoặc làm cho thân thể đầy đặn xinh đẹp, cũng chẳng phải để cho da
thịt được hồng hào. Ta dùng vật thực này chỉ để duy trì sự sống, khỏi
bị đói khát, để tu tập được dễ dàng. Nhờ dùng những vật thực như
vậy, cơn đói và khát sanh lên sẽ bị tiêu diệt. Ta cũng không để cho cái
khổ mới phát sanh do ăn quá độ và nhờ vậy duy trì được mạng sống.
Vật thực này được kiếm về một cách chơn chánh và dùng nó một cách
trong sạch. Nhờ thọ thực có độ lượng mà ta sống được an vui.

Về sự sống an vui do ăn uống độ lượng, Đức Phật dạy rằng:

Cattāro pañca ālope.

abhutvā udakaṃ pive.
Alaṃ phāsuviharāya,
pahitattassa bhikkhuno.

Còn bốn hoặc năm miếng nữa để ăn, vị tỳ khưu nên kết thúc bữa ăn bằng sự uống nước. Đối với vị tỳ khưu có ý chí kiên quyết hành thiền thì ăn như vậy là đủ để được an vui.

Dầu bài pháp này được Đức Phật thuyết giảng trước tiên đến những hành giả tu thiền, tuy nhiên bài pháp ấy cũng có lợi ích đến những người không tu thiền. Nhờ thực hành theo lời dạy này, họ có thể sống dễ chịu, không bị những trạng thái nặng nề do ăn quá độ.

Về chỗ ngụ: “Ta ở trong chỗ ngụ này để khỏi bị lạnh, tránh nắng
mưa, muỗi mòng, rắn rít, bọ cạp, v.v... Ta dùng chỗ ngụ này để tránh
những bức bách của khí hậu khắc nghiệt và sống an vui trong đời sống
ẩn dật.

Về thuốc chữa bệnh: “Ta dùng thuốc này để chống lại bịnh họan, để
bảo vệ đời sống và để trấn áp những cơn bệnh đã sanh hoặc đang
sanh.

Cách quán tưởng chi tiết này gọi là Mahā Paccavekkhanā - Đại
quán sát.

Làm sao để thực hành viên mãn 4 loại Giới này

Trong   bốn   loại   giới   này,   Biệt   giải   thoát   Luật   nghi   giới
(Pātimokkhasamvara-sīla) nên được thực hành viên mãn bằng đức tin

- Đức tin vào Đức Phật như vầy: “Đức Thế Tôn, bậc đã ban hành các
điều học, quả thật là Đức Phật đã giác ngộ tất cả mọi định luật của tự

nhiên mà không có ngoại lệ (tức là có tri kiến rõ ràng về Đức Phật).
Đức tin nơi Giáo pháp như vầy: “Các điều học mà chư Tăng phải thực
hành quả thực là những điều học do Đức Phật ban hành (tức là có tri
kiến rõ ràng về pháp). Tin vào Đức Tăng như vầy: “Chư Tăng là đệ tử
của Đức Phật, tất cả quí Ngài đều thực hành tốt những điều học này
(tức là có tri kiến rõ ràng về Tăng)”.

Như vậy, nếu vị tỳ khưu có đức tin nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, vị ấy có thể thực hành viên mãn Biệt giải thoát Luật nghi giới (Pātimokkhasamvara-sīla).

Do đó, những điều học do Đức Phật ban hành cần được thọ trì không ngoại lệ bằng đức tin và phải được thực hành viên mãn cho dù phải đánh đổi cả mạng sống. Đúng vậy, Đức Phật đã dạy rẳng:

Kikī va aṇdaṃ camarīva vāladhiṃ, v.v... - Cũng như con chim trĩ
cái, liều mạng sống của nó để bảo vệ quả trứng của nó, con bò cái
cũng liều mạng sống để bảo vệ cái đuôi của nó, cũng như người gia
chủ lấy tình thương của người cha để bảo vệ đứa con trai một của ông
ta; cũng vậy người thọ trì giới phải đem hết nhiệt quyết cẩn trọng bảo
vệ giới của mình.”



Chuyện các vị trưởng lão hy sinh cả mạng sống của quí Ngài để
              thực hành viên mãn Pātimokkhasamvara-sīla

(Biệt giải thoát Luật nghi giới / Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa  )

Một thuở nọ, tại khu rừng Mahāvattani của nước Sri Laṅkā, các tên
cướp bắt trói một vị trưởng lão và để vị ấy nằm trên đất. Vị trưởng lão

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                273

này có khả năng thoát ra khỏi sự trói buộc này, nhưng Ngài không làm
như vậy vì e rằng sợi dây trói bằng cây leo sẽ đứt và Ngài sẽ bị phạm
tội ‘
Bhūtagāma pācittiya āpatti’. Bởi vậy Ngài chuyên tâm vào thiền
quán trong bảy ngày trong tư thế nằm như vậy và chứng đắc thánh
anāgāmi-phala, và mạng chung tại chỗ đó. Ngài tái sanh về cõi Phạm
thiên.

Cũng tại Sri Laṅka, một vị trưởng lão khác cũng bị bọn cướp hãm
hại trong khi khu rừng đang cháy. Dầu Ngài có thể bứt dây để tự thoát
thân nhưng Ngài sợ phạm tội ‘Bhūtagāma pācittiya āpatti’. Nhờ phát
triển thiền quán, Ngài chứng đắc đạo quả A-la-hán và chính lúc ấy thọ
mạng của Ngài cũng hết nên Ngài liền nhập Niết bàn. Rồi trưởng lão
Abhaya, bậc thông thuộc Trường bộ kinh, cùng với năm trăm vị tỳ
khưu đi đến đó. Trông thấy nhục thân của trưởng lão, vị ấy đứng ra tổ
chức lễ hỏa thiêu và tôn trí Xá-lợi của trưởng lão vào bảo tháp. Do đó

Chú giải có đoạn nói rằng:

Pātimokkhaṃ visodhento
appeva jīvitam jahe.
Paññattaṃ lokanathena,
na bhinde sīla samvaraṃ.

Thiện nhân, bậc duy trì sự trong sạch của Pātimokkhasamvara-sīla (Biệt giải thoát Luật nghi giới), thà hy sinh tánh mạng của mình chứ không để vi phạm các điều học trong giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa do Đức Phật ban hành.

Cũng như Pātimokkhasamvara-sīla (Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa)
được thực hành viên mãn do đức tin, cũng vậy Indriyasamvara-sīla
(Lục căn thu thúc giới) nên được thực hành viên mãn bằng chánh
niệm. Chỉ khi nào Indriyasamvara-sīla được khéo bảo vệ bởi chánh
niệm, khi ấy Pātimokkhasamvara-sīla mới tồn tại lâu dài. Khi nào
Indriyasamvara-sīla bị khuyết phạm, khi ấy Pātimokkhasamvara-sīla
sẽ bị khuyết phạm.

Thời Đức Phật, có vị tỳ khưu mới xuất gia tên là Vaṅgīsa, trong khi
đi khất thực, đã vi phạm
Indriyasamvara-sīla, không chế ngự các căn
và tình dục trỗi dậy khi trông thấy một cô gái. Vị ấy nói với trưởng lão
Ānanda rằng: “Thưa đại đức Ānanda, con đang bị đốt cháy bởi dục
tình, tâm của con bị thiêu đốt bởi những ngọn lửa ái dục. Vì lòng bi
mẫn, cầu xin đại đức dạy cho con phương pháp để dập tắt những ngọn
lửa này.”

Khi ấy đại đức Ānanda đáp lại rằng: “Vì ngươi có cái nhìn sai lạc
nên lửa thiêu đốt tâm của ngươi. Hãy loại trừ tưởng trong cái mà
ngươi thấy vì tưởng ấy làm sanh khởi tình dục. Hãy quán tánh bất tịnh
ở nó để tâm của ngươi được thanh tịnh.” Đại đức Vaṅgīsa thực hành
theo lời khuyên của trưởng lão Ānanda và những ngọn lửa dục tình
biến mất.

Những ai muốn thực hành viên mãn Indriyasamvara-sīla thì nên thực hành theo hai tấm gương sau đây:

Chuyện trưởng lão Cittagutta

Trong đại thạch động Kurandaka tại Sri Laṅka có một bức tranh rất
đẹp mô tả sự xuất gia của bảy vị Phật như Vipassī, v.v... Một số tỳ
khưu khách Tăng được vào thăm thạch động của trưởng lão Cittagutta,
trông thấy bức tranh và nói rằng: “Thưa tôn giả, bức tranh trong hang
động của tôn giả trông thật tuyệt đẹp!” Trưởng lão đáp lại rằng: “Thưa
chư hiền giả, đã sáu chục năm sống trong hang động này, tôi chẳng
biết liệu có bức tranh nào hay không. Hôm nay tôi mới biết nhờ nghe
chư hiền giả nói. Thị lực của chư hiền giả thật là tốt.” (Tuy trưởng lão
đã sống ở đó trên sáu chục năm, Ngài chưa bao giờ đưa mắt nhìn lên
hang động dù chỉ một lần. Và tại cửa hang có một cây thiết mộc,
trưởng lão không bao giờ nhìn lên cây. Nhưng mỗi năm, cứ thấy cánh
hoa rụng trên đất là Ngài biết nó đang nở hoa).

Nghe nói trưởng lão đã thọ trì Indriyasamvara-sīla rất nghiêm ngặt,
đức vua của xứ Mahāgāma bèn cho người ba lần đến thỉnh Ngài vào
hoàng cung để bày tỏ sự tôn kính đến trưởng lão. Nhưng trưởng lão

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                275

không đến. Đức vua bèn truyền lịnh buộc vú của những người đàn bà
có con mọn rồi niêm phong lại, nói rằng: “Chừng nào trưởng lão vẫn
không đến, chừng đó những đứa bé sơ sinh sẽ sống không có sữa.” Vì
lòng bi mẫn đối với trẻ thơ vô tội, trưởng lão đành đi đến Mahāgāma.

Nghe tin trưởng lão đến, đức vua truyền lịnh: “Hãy ra thỉnh trưởng
lão vào nội cung. Trẫm muốn thọ trì giới.” Đức vua đảnh lễ trưởng
lão, cúng dường vật thực rồi bạch rằng: “Bạch Ngài, hôm nay trẫm

chưa có cơ hội để thọ trì giới. Ngày mai trẫm sẽ thọ trì giới.” Sau khi
ôm bát của trưởng lão, đức vua và hoàng hậu tiễn Ngài đi một đoạn
đường và quì xuống đảnh lễ trưởng lão. Để phúc chúc dù cho đức vua
hay hoàng hậu, trưởng lão chỉ lập lại duy nhất một câu: “Chúc đức
vua được hạnh phúc!” Suốt bảy ngày, trưởng lão chỉ phúc chúc bằng
một câu như thế.

Các vị tỳ khưu đồng phạm hạnh đã hỏi trưởng lão như vầy: “Thưa
tôn giả, tại sao khi đức vua hoặc hoàng hậu đến đảnh lễ tôn giả, ngài

chỉ nói một câu: “Chúc đức vua được hạnh phúc.” Trưởng lão đáp lại
rằng: “Thưa các hiền giả, tôi chẳng có cái nhìn riêng biệt rằng đó là
đức vua hay hoàng hậu.” Cuối bảy ngày, đức vua thấy rằng trưởng lão
sống không được an vui ở đó, bèn cho phép Ngài ra về. Ngài trở lại
đại thạch động Kuraṇḍaka.

Một vị thiên sống ở cây thiết mộc cầm đuốc đứng gần đó. Pháp thiền của trưởng lão rất thanh tịnh và tươi sáng làm hoan hỷ vị thiên. Ngay sau canh giữa, Ngài chứng đắc đạo quả A-la-hán, khiến toàn thể vùng núi đồi rung động vang dội.

(Câu chuyện này cho chúng ta một tấm gương tốt về sự thọ trì Lục căn thu thúc giới - Indriyasamvara-sīla).

Chuyện về trưởng lão Mahā Mitta

Mẹ của trưởng lão Mahā Mitta bị bịnh ung thư vú. Bà bảo với
người con gái đã xuất gia tỳ khưu ni rằng: “Hãy đi tìm anh con và nói
rằng ta bị bịnh và đem về một số thuốc trị bịnh.” Nàng ra đi và kể lại
mọi chuyện. Trưởng lão đáp lại rằng: “Ta không biết cách hái thuốc

 

và bào chế thuốc, nhưng tốt hơn ta nên nói cho Sư muội biết một loại
thuốc trị bịnh. Hãy lắng nghe: “Từ khi tôi xuất gia làm Sa-môn, tôi
chưa hề vi phạm Indriyasamvara-sīla do nhìn vào thân thể người khác
phái bằng những ý nghĩ tình dục. Do lời chân thật này, cầu xin cho mẹ
tôi được hết bịnh.” Hãy trở về và nói lại những lời chân thật của ta rồi
lấy tay thoa vào thân của bà.” Tỳ khưu ni trở về và nói với mẹ những
lời mà vị sư huynh đã thốt ra và làm theo lời chỉ bảo của sư huynh.
Ngay tức thì, khối u trên vú của người mẹ liền biến mất như khối bong
bóng nước vỡ ra từng mảnh. Bà ngồi dậy và nói lời hoan hỷ: “Nếu
Đức Chánh Biến Tri còn sống thì ắt là Ngài đã lấy bàn tay với những
đường chỉ mạng lưới đặc biệt thoa lên đầu vị tỳ khưu như con trai của
ta!”

Cách thu thúc của trưởng lão Mahā Mitta có phần khác với cách
của vị trưởng lão trước - Cittagutta. Trưởng lão Cittagutta thu thúc lục
căn bằng đôi mắt nhìn xuống để không nhìn vào bất cứ đối tượng nào
dù tình cờ. Trong khi đó trưởng lão Mahā Mitta không thu thúc lục
căn bằng đôi mắt nhìn xuống. Ngài nhìn vào các sự vật đúng với thực
tướng của chúng. Ngay cả khi Ngài trông thấy đối tượng khác phái,
Ngài thu thúc nhãn căn để ngăn chặn dục tình không cho sanh khởi.

Cách thu thúc lục căn của trưởng lão Cittagutta giống như việc đóng kín cửa nhà, không cho bất cứ tên cướp nào đột nhập. Cách thu thúc lục căn của trưởng lão Mahā Mitta là không đóng cửa nhưng canh phòng không cho bọn cướp vào nhà dù chỉ một lần. Cả hai cách thu thúc đều tuyệt diệu và đáng kính ngưỡng.

Trong khi sự thu thúc lục căn được thực hành bằng chánh niệm (sati) thì giới nuôi mạng thanh tịnh được thực hành bằng tinh tấn (viriya). Sở dĩ như vậy là vì người ta có thể từ bỏ lối sống tà mạng chỉ bằng chánh tinh tấn. Do đó để tránh những phương tiện bất chánh, sự nuôi mạng thanh tịnh nên được thực hành bằng loại tầm cầu chân chánh như tinh tấn trong việc đi khất thực.

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                277

Nói lời gợi ý, nói quanh co, chỉ cho biết hoặc gợi ý trực tiếp để
kiếm về những vật dụng như y phục, vật thực mà không được phép.

Gợi ý”: Khi vị tỳ khưu đang sửa soạn một chỗ đất tựa như đang
chuẩn bị xây dựng một chỗ ngụ mà có người hỏi: “Bạch đại đức, cái
gì đang được làm thế? Ai đứng ra làm?” Và vị ấy đáp lại: “Chưa có ai
cả.” Câu trả lời của vị ấy là “sự gợi ý” (ám chỉ rằng chưa có thí chủ
nào chi phí cho việc xây dựng chỗ ngụ này). Tất cả mọi hành động
liên hệ đến nhu cầu của vị ấy về chỗ ngụ cũng được xem là “sự gợi ý.”

Nói quanh co”: Vị tỳ khưu gọi Phật tử: “Nhà của ông (bà) làm
theo kiểu gì thế?” “Bạch Ngài, kiểu lâu đài.” “Này thiện nam (tín nữ),
phải chăng các vị tỳ khưu không được phép ở kiểu nhà ấy?” Đây là
cách nói quanh co.

Chỉ rõ”: “Chỗ ngụ này quá nhỏ đối với các vị tỳ khưu”. Hoặc bất cứ lời nói nào có nội dung đề nghị như vậy đều là cách “chỉ rõ.”

Tất cả bốn cách nói như gợi ý, v.v… đều được phép khi vị tỳ khưu
có nhu cầu về thuốc trị bịnh. Nhưng khi bịnh được chữa khỏi thì cách

kiếm thuốc trị bịnh như vậy có được phép không? Ở đây các vị luật sư
nói rằng vì Đức Phật đã mở ra đường lối sử dụng chúng nên nó được
phép. Nhưng những vị rành mạch về Tạng kinh thì duy trì quan điểm

rằng, dầu không có tội, nhưng sự nuôi mạng thanh tịnh bị lấm nhơ.
Cho nên không được phép làm như vậy. Người muốn sống cuộc đời
hoàn toàn thánh thiện thì không nên nói lời gợi ý, lời quanh co hoặc
lời đề nghị dầu những điều này được Đức Thế Tôn cho phép. Người
có những đức tánh như thiểu dục, v.v... thì chỉ nên dùng những vật
dụng kiếm được không phải bằng những phương tiện bất chánh như
gợi ý, v.v... dù phải hy sinh tánh mạng. Người như vậy được gọi là bậc
cao quí, có lối sống khắc khổ như trưởng lão Sāriputta.

Chuyện về trưởng lão Sāriputta

Một thuở nọ, trưởng lão Sāriputta, vì muốn trau dồi đời sống thánh
thiện, đã sống ẩn dật trong một khu rừng nọ cùng với trưởng lão
Moggallāna. Một hôm nọ, trưởng lão bị cơn đau bụng dữ dội. Vào

 

278                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

buổi chiều, trưởng lão Moggallāna đến vấn pháp trưởng lão Sāriputta
và trông thấy Ngài đang nằm. Vị ấy hỏi: “Sư huynh bị bịnh gì thế?”
Nghe trưởng lão Sāriputta giải thích, trưởng lão lại hỏi: “Trước kia khi
bị bịnh như vậy sư huynh chữa trị bằng phương thuốc gì?” Trưởng lão
Sāriputta bèn trả lời: “Khi còn làm cư sĩ, mẹ huynh thường cho huynh
ăn món cháo nấu chung với sữa, mật ong, đường, v.v... Món cháo ấy
thường giúp huynh khỏi bệnh.” Rồi trưởng lão Moggallāna nói rằng:

“Hãy như thế đi tôn huynh. Nếu tôn huynh hoặc đệ đã tích lũy đầy đủ
phước báu, có lẽ ngày mai chúng ta sẽ kiếm được một ít.”

Bấy giờ một vị thiên nọ sống ở một cây đại thọ nằm cuối đường
kinh hành nghe được lời trò chuyện của hai vị tôn giả, bèn nghĩ rằng:
“Ngày mai ta sẽ kiếm món cháo cho trưởng lão.” Và vị ấy đi đến một

gia đình đang hộ độ đến trưởng lão Moggallāna, nhập vào thân của
đứa con trai đầu khiến cho cậu ta trở nên khó ở. Rồi vị thiên nói với
gia đình của cậu bé rằng nếu họ làm món cháo như thế để cúng dường
trưởng lão vào ngày mai thì vị ấy sẽ buông tha cậu bé. Họ đáp lại: “Dù
không được ngài nói cho biết, chúng tôi vẫn cúng dường vật thực đều
đặn đến trưởng lão.” Ngày hôm sau họ đã nấu nón cháo ấy.

Vào buổi sáng, trưởng lão Moggallāna đi đến trưởng lão Sāriputta
và nói rằng: “Hiền huynh hãy ở đây cho đến khi đệ đi khất thực trở
về.” Rồi trưởng lão đi vào làng. Dân làng trông thấy trưởng lão, bèn đi
đến thỉnh bát của trưởng lão và để đầy món cháo đã chuẩn bị theo yêu
cầu và trao bát lại cho trưởng lão. Khi trưởng lão sắp sửa ra về, họ nói

rằng: “Bạch Ngài, xin hãy độ thực, chúng con sẽ dâng cúng thêm một
bát nữa.” Khi trưởng lão thọ thực xong, họ cúng dường đến Ngài một

bát khác. Trưởng lão đem bát vật thực ấy về cho trưởng lão Sāriputta
và bảo Ngài hãy độ thực. Khi trưởng lão Sāriputta trông thấy món
cháo, Ngài suy xét: “Món cháo này rất tốt. Bằng cách nào mà có được
nó?” Rồi Ngài quán xét và trông thấy cách mà nó có được, bèn nói
rằng: “Này hiền hữu, vật thực này dùng không thích hợp.” Thay vì
cảm thấy bị xúc phạm với ý nghĩ rằng: “Vị ấy không ăn vật thực được

 

đem đến bởi người như ta.” Trưởng lão Mahā Moggallāna tức thì cầm mép bát và lật úp nó (không phải vì vị ấy tức giận).

Khi món cháo đổ xuống thì bịnh của trưởng lão Sāriputta liền biến
mất (Và suốt bốn mươi lăm năm nó cũng không tái xuất hiện nữa).
Rồi trưởng lão Sāriputta nói với trưởng lão Moggalāna: “Này hiền đệ,
cho dù ruột có rớt ra ngoài và rơi xuống đất do bởi cơn đói cũng
không thích hợp để ăn món cháo kiếm được bằng lời nói đề nghị.”

Ở đây, cần chú ý rằng: Đức Thế Tôn cấm sự đề nghị về vật thực. Khi trưởng lão Mahā Moggallāna muốn biết cái gì đã từng chữa khỏi bịnh của trưởng lão Sāriputta, nên trưởng lão kể lại món cháo đã từng chữa khỏi bịnh của Ngài trong quá khứ. Tuy nhiên, Ngài không hài lòng về lời đề nghị và không nhận món cháo.

Chuyện trưởng lão Ambakhadaka Mahā Tissa

Chuyện trưởng lão Sāriputta xảy ra trong thời Đức Phật, còn
chuyện về trưởng lão Mahā Tissa của xứ Ciragumba ở Sri Laṅka xảy
ra sau khi Đức Phật nhập Niết bàn. Đó là vị trưởng lão thọ trì giới luật
rất nghiêm ngặt. Một thời nọ, trưởng lão Mahā Tissa trong lúc đi du
hành khất thực, gặp thời kỳ nạn đói, đường đi thì xa xôi, trưởng lão bị
mệt lã và đuối sức vì không có vật thực lót lòng, Ngài nằm dưới gốc
cây xoài có trái sum suê. Nhiều trái rụng xuống ở quanh Ngài nhưng
dầu bị đói, Ngài cũng không có ý nghĩ sẽ nhặt lên một vài trái để ăn.

Lúc ấy một người đàn ông đến gần Ngài và thấy Ngài đang trong
trạng thái kiệt quệ, bèn làm một ít nước xoài và dâng đến Ngài. Rồi
cõng Ngài trên lưng, người đàn ông đi đến bất cứ nơi nào mà trưởng
lão muốn. Trong lúc được cõng đi như vậy, trưởng lão tự xét: “Người
này chẳng phải là cha ta hay mẹ của ta hoặc người quyến thuộc của ta,
thế mà vẫn cõng ta, chính là do giới mà ta đã thọ trì.” Suy xét như vậy,
trưởng lão tự sách tấn mình phải gìn giữ giới và định cho toàn vẹn,
không khuyết phạm. Rồi Ngài phát triển Minh sát tuệ và trong khi ở
trên lưng người đàn ông, Ngài lần lượt chứng đắc các quả thánh cho
đến đạo quả A-la-hán.

 

280                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Vị đại trưởng lão này là một bậc thánh có sự tri túc trong vật thực, đáng được mọi người kính ngưỡng và noi gương.

Trong khi Chánh mạng thanh tịnh (Ājivapārisuddhi-sīla) được thực
hành bằng tinh tấn (viriya) thì Tư cụ y chỉ giới (Paccaya sannissita
sīla) được thực hành bằng trí tuệ. Bởi vì chỉ những bậc có trí mới thấy
những lợi ích và những mối nguy hiểm trong bốn món vật dụng, nên
Tư cụ y chỉ giới là giới được thực hành viên mãn bằng trí tuệ. Do đó

người nên thọ dụng bốn món vật dụng kiếm về một cách chân chánh,
không có sự luyến ái đối với chúng và sau khi đã quán tưởng chúng
bằng trí tuệ.

Hai loại quán tưởng (Paccavekkhaṇā)

Có hai loại quán tưởng về bốn món vật dụng: (1) quán tưởng vào
lúc thọ lãnh chúng và (2) quán tưởng vào lúc dùng chúng. Không chỉ
vào lúc dùng các món vật dụng, mà ngay vào lúc thọ nhận chúng,
người ta cũng phải quán tưởng: (a) chỉ là những nguyên chất (Dhātu
paccavekkhanā - nguyên chất quán), hoặc (b) là những vật đáng nhờm
gớm (
Patikūla paccavekkhanā - bất tịnh quán) và đem cất các món vật
dụng để dùng sau này.

(a)    Quán về nguyên chất: y phục này chỉ là một khối gồm tám
nguyên chất khởi sanh khi có điều kiện. Người sử dụng chúng cũng
thế.

(b)   Quán về bất tịnh: quán về vật thực gọi là Thực bất tịnh tưởng và quán về y phục, v.v… như vầy: “Tất cả những y phục này, v.v... vốn không nhờm gớm, nhưng khi chúng kết hợp với thân này thì chúng trở nên đáng nhờm gớm.”

Tóm   lại,   sự   quán   tưởng   có   ba   loại   cả   thảy:   (1)   Mahā
paccavekkhaṇā như đã mô tả chi tiết về cách dùng chung chung đối
với bốn món vật dụng, (2) Dhātu paccavekkhaṇā: quán tưởng bốn
món vật dụng như là những nguyên chất, và (3) Patikūlamanasikāra

 

paccavekkhaṇā: quán tưởng về chúng như là những vật đáng nhờm gớm dầu trong bản chất tự nhiên của chúng hoặc khi đang dùng.

Nếu vị tỳ khưu quán tưởng về y phục, v.v... vào lúc thọ nhận chúng
và nếu vị ấy quán tưởng một lần nữa vào lúc dùng chúng, thì cách
dùng bốn món vật dụng của vị ấy sẽ được trong sạch từ đầu chí cuối.

Bốn trường hợp sử dụng

Để diệt trừ hoài nghi về cách dùng bốn món vật dụng, vị tỳ khưu nên lưu ý bốn trường hợp sử dụng chúng:

(a) Theyya paribhoga

Dùng như hành động của tên cướp - theyya paribhoga: người phi giới
dùng các món vật dụng dù ở giữa Tăng chúng cũng được gọi là theyya
paribhoga
.

(Đức Thế Tôn cho phép sử dụng bốn món vật dụng dành cho những
vị tỳ khưu có giới. Người Phật tử cũng vậy, họ cúng dường vật dụng
đến những vị tỳ khưu có giới đức chỉ mong được phước báu. Do
người phi giới chẳng có tư cách giới để thọ hưởng các món vật dụng.
Cho nên người phi giới không xứng đáng thọ dụng các món vật dụng,
nếu thọ dụng thì nó giống như hành động ăn cướp,
Visuddhi Magga
Mahā Tika).

(b) Ina paribhoga

Dùng giống như vay nợ - ina paribhoga: người có giới dùng các
món vật dụng mà không có sự quán tưởng đúng đắn thì giống như
người vay nợ. Vị tỳ khưu nên quán tưởng mỗi khi mặc y phục, mỗi
miếng vật thực ăn vào cũng phải quán tưởng. Nếu không quán tưởng
khít khao như vậy thì vị tỳ khưu nên quán tưởng chúng vào buổi sáng,
lúc sắp tối, suốt canh đầu, canh giữa và canh cuối của đêm. Nếu mặt
trời mọc lên mà vị ấy chưa quán tưởng như vậy thì vị ấy xem như bị

mắc nợ.

 

282                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Mỗi lúc đi qua dưới mái để vào chỗ ngụ và sau khi đi vào rồi, cứ
mỗi lần ngồi, nằm, vị ấy nên quán tưởng đúng pháp. Lúc thọ lãnh
thuốc chữa bệnh và lúc dùng chúng, vị ấy cũng nên quán tưởng.
Nhưng nếu vị ấy chỉ quán tưởng trong lúc thọ lãnh mà không quán
tưởng lúc dùng nó thì bị phạm tội. Nói cách khác cho dù vị ấy không
quán tưởng lúc thọ lãnh nhưng có quán tưởng khi dùng nó thì không
phạm tội.

Bốn loại Thanh tịnh Giới

Nếu vị tỳ khưu bị phạm tội nào đó, vị ấy nên sử dụng một trong
bốn cách sau đây để làm cho giới của mình được trong sạch trở lại:

(1)    Desanā suddhi - Thanh tịnh nhờ sám hối là Biệt giải thoát
        
Luật nghi giới (Patimokkasamvara-sīla) được thanh tịnh nhờ

khỏi tội và sám hối.

(2)   Saṃvara suddhi - Thanh tịnh nhờ thu thúc: Lục căn thu thúc
       
giới (Indriyasamvara-sīla) được thanh tịnh nhờ sự quyết tâm:

“Ta sẽ không bao giờ làm như thế nữa.”

(3)     Pariyettha suddhi -Thanh tịnh nhờ sự tầm cầu: Chánh mạng

thanh tịnh giới (Ajivaparisuddhi-sīla) được trong sạch nhờ từ
bỏ sự tầm cầu phi pháp và tìm kiếm vật dụng một cách chân
chánh.

(4)    Paccavekkhaṇā suddhi- Thanh tịnh nhờ quán tưởng: Tư cụ y
        
chỉ giới (Paccayasannissita sīla) được trong sạch nhờ quán

tưởng theo cách đã nêu ra ở trên.

(c)  Dāyajja paribhoga

Dùng giống như lấy của thừa tự (dāyajja paribhoga): Sự dùng xài
vật dụng của bảy hạng hữu học thánh nhân (
sekkha: ám chỉ những bậc
thánh đã chứng đắc ba Đạo, ba Quả bậc thấp và A-la-hán đạo). Bảy
hạng hữu học thánh nhân này là những đứa con trai của Đức Phật.
Cũng như đứa con trai là kẻ thừa kế từ người cha, những bậc thánh
này là những kẻ thừa kế, dùng các món vật dụng được Đức Phật cho

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                283

phép (dầu trên thực tế, các món vật dụng do người cư sĩ dâng cúng, tuy nhiên chúng được Đức Phật cho phép và như vậy chúng được xem là vật dụng của Đức Phật)

(d)   Sami paribhoga

Dùng giống như ông chủ đối với bậc A-la-hán (sami paribhoga):
Những kẻ phàm phu (puthujjana) và những bậc hữu học (sekkha)
chưa thoát khỏi ái dục, cho nên họ vẫn còn bị ái dục chi phối và việc
sử dụng các món vật dụng của họ không giống như những ông chủ mà
giống như những kẻ nô lệ của ái dục. Nói cách khác, các bậc A-la-hán
đã thoát khỏi sự khống chế của ái dục và việc sử dụng các món vật
dụng của các Ngài giống như những ông chủ có sự kiểm soát ái dục
hoàn toàn. Do đó các Ngài có thể dùng những vật nhờm gớm bằng
cách quán tưởng tánh cách không nhờm gớm của chúng hoặc dùng
những vật không nhờm gớm bằng cách quán tánh bất tịnh của chúng,
hoặc các Ngài có thể dùng bằng cách quán tánh chất của chúng là
không nhờm gớm cũng không phải không nhờm gớm.

Trong bốn cách dùng này, dùng như ông chủ bởi vị A-la-hán và
dùng như hưởng di sản là được phép cho tất cả. Ở đây như đã nói ở
trên, dùng vật dụng như ông chủ chỉ có thể áp dụng cho các vị A-la-
hán mà thôi. Nhưng nếu các vị hữu học và những kẻ phàm phu dùng
các món vật dụng bằng cách từ bỏ ái dục do pháp tưởng về tánh bất
tịnh của chúng thì nó cũng giống như được thoát khỏi ái dục. Cho nên
cách dùng này cũng có thể được xếp loại là dùng như ông chủ bởi vị
A-la-hán. Dường thế ấy, các vị A-la-hán và những kẻ phàm phu cũng
có thể được xem là những đứa con thừa kế của Đức Phật.

Dùng như mắc nợ thì không được phép, lại càng không được phép
là dùng như hành động ăn cướp. Dùng các món vật dụng sau khi đã
quán tưởng đối với người có giới là đối nghịch với cách dùng như mắc
nợ và như vậy nó được gọi là Dùng mà không mắc nợ. Đồng thời,
những kẻ phàm phu có giới dùng các món vật dụng sau khi đã quán
tưởng đúng pháp có thể được xem là bậc hữu học, bậc thánh nhân. Do

 

 

đó dùng các món vật dụng sau khi đã quán tưởng đúng pháp bởi
những kẻ phàm phu có giới cũng được xem là dùng như hưởng di sản.

Trong bốn cách dùng này, dùng như ông chủ bởi vị A-la-hán là cao
quí nhất. Vị tỳ khưu muốn dùng các món vật dụng như ông chủ thì
nên thực hành viên mãn Paccayasannissita-sīla (Tư cụ y chỉ giới)
bằng cách dùng các món vật dụng sau khi đã quán tưởng đúng pháp.

Chấm dứt phần Giới nhóm Bốn



Giới Nhóm Năm

(1) Giới có năm loại:

(a) Pariyanta Pārisuddhi-sīla (Chế hạn biến tịnh giới)

(b) Apariyanta Pārisuddhi-sīla (Vô biên thanh tịnh giới)

(c) Paripuṇṇa Pārisuddhi-sīla (Viên mãn thanh tịnh giới)

(d) Aparāmattha Pārisuddhi-sīla (Bất hôn muội thanh tịnh giới)

(e) Patippassaddhi Pārisuddhi-sīla (An tức thanh tịnh giới)

 

(a) Pariyanta Pārisuddhi-sīla (Chế hạn biến tịnh giới) là giới có sự thanh tịnh hạn chế. Đó là giới do những người cư sĩ và các vị sa-di thọ trì, bởi vì nó bị giới hạn bởi số điều học được thọ trì.

Bộ Thanh tịnh đạo có giải thích về sự hạn chế bởi số điều học trong
chế hạn giới, nhưng bộ Chú giải Patisambhidā Magga giải thích như
đã nêu ra ở trên là có hai loại hạn chế: (i) Giới hạn về những điều học
được thọ trì -
Sikkhāpada pariyanta, (ii) Giới hạn về thời gian thọ trì
giới - Kāla pariyanta.

(i)  Giới hạn về số điều học được thọ trì là số điều học được thọ trì
   
theo truyền thống của người Phật tử - một, hai, ba hoặc bốn giới,

năm, tám hoặc mười giới (bất cứ số giới nào mà họ có thể thọ

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                              285

trì). Sa-di, sa-di-ni và những người tập sự chuẩn bị thọ đại giới
đều thọ trì mười giới. Đây là giới hạn về số giới được thọ trì.

(ii) Giới hạn về thời gian thọ trì giới: khi người Phật tử làm phước
    
trai Tăng cúng dường vật thực, họ cũng thọ giới trong thời gian

của buổi lễ. Bất cứ khi nào họ đi đến chùa cũng vậy, họ thọ trì
giới trước khi về nhà trong thời gian một, hai, ba ngày hoặc suốt
ngày hoặc suốt đêm. Đây là giới hạn về thời gian thọ trì giới.

(b) Apariyanti Pārisuddhi-sīla (Vô biên thanh tịnh giới) là giới không
có giới hạn. Bộ Dve Matika và bộ Yếu lược của bộ Ubhato Vibhaṅga

có kể ra 227 điều học dành cho vị tỳ khưu. Nếu kể rộng ra từ những

điều học này, nó có đến chín ngàn một trăm tám chục koṭi, và năm
triệu ba mươi sáu ngàn điều học. Những điều luật này của vị tỳ khưu
do Đức Phật ban hành và được kiết tập tóm tắt trong cuộc Kiết tập lần
thứ nhất. Toàn thể nhóm giới này được gọi là Vô biên thanh tịnh giới.

Dầu những điều học được Đức Phật ban hành với số lượng xác
định, chư Tăng phải thọ trì hết không được bỏ sót. Hơn nữa, không thể
biết trước sự kết thúc việc thọ trì giới do bởi năm nguyên nhân hoại
diệt, tức là hoại diệt do lợi lộc, vì danh tiếng, vì quyến thuộc, do thân
bị suy yếu bịnh họan và do mất mạng. Vì những lý do này mà các điều
luật này được gọi chung là Vô biên thanh tịnh giới. Đây là loại giới
được thọ trì bởi trưởng lão Mahā Tissa của xứ Ciragumba như đã mô
tả ở trên.

(c) Paripunna Pārisuddhi-sīla (Viên mãn thanh tịnh giới) là giới mà
kẻ phàm phu tinh tấn hành trì để được thanh tịnh hoàn toàn. Giới của

vị ấy kể từ lúc thọ đại giới rất thuần khiết như viên hồng ngọc sáng

chói đã được mài gọt đúng mức hoặc như vàng ròng khéo tinh luyện.
Do đó nó không bị lấm nhơ ngay cả bởi những tư tưởng bất tịnh và trở
thành nguyên nhân gần cho sự chứng đắc đạo quả A-la-hán. Cho nên
nó   có   tên   là   Viên   mãn   thanh   tịnh   giới.   Trưởng   lão   Mahā
Saṅgharakkhita là đứa cháu trai của Trưởng lão Saṅgharakkhita, là
những tấm gương về sự thọ trì Viên mãn thanh tịnh giới.

 

 

Câu chuyện về trưởng lão Mahā Saṅgharakkhita

Khi trưởng lão Mahā Saṅgharakkhita đang hấp hối trên giường
bệnh với tuổi hạ 60 (tám mươi tuổi đời), các vị tỳ khưu bèn hỏi Ngài:
“Bạch Ngài, Ngài đã chứng đắc pháp siêu thế nào chưa?” Trưởng lão

trả lời: “Tôi chưa thành đạt pháp chứng nào như vậy cả.” Lúc ấy một
vị tỳ khưu, thị giả trẻ của trưởng lão bèn nói với trưởng lão: “Bạch
thầy, những người đang sống quanh đây mười hai do tuần đã đến đây
rồi vì nghĩ rằng thầy đã nhập Niết bàn. Nếu họ biết rằng thầy mạng
chung với thân phận một kẻ phàm phu thì họ sẽ thất vọng.”

Nghe vậy, trưởng lão bèn nói rằng: “Này con, vì muốn được gặp
Bồ-tát Di-lặc (Buddha Metteya) nên ta đã không cố gắng tu tập thiền
Minh sát. Nếu điều ấy khiến cho nhiều người thất vọng thì hãy giúp ta
ngồi dậy và cho ta một cơ hội để quán niệm.” Vị tỳ khưu trẻ bèn giúp
trưởng lão ngồi dậy, rồi đi ra ngoài. Khi vị ấy vừa ra khỏi phòng thì
trưởng lão chứng đắc A-la-hán và búng ngón tay để ra hiệu. Vị tỳ
khưu trẻ trở lại và đặt trưởng lão nằm xuống như trước. Vị ấy báo tin
với chư Tăng đã tụ hội ở đó và họ bạch với trưởng lão: “Bạch Ngài,
Ngài đã làm một công việc rất khó khăn là chứng đắc pháp siêu thế
ngay khi cận tử.” Trưởng lão bèn đáp lại: “Thưa quí hiền giả, việc
chứng đắc đạo quả A-la-hán đối với tôi chẳng khó khăn gì khi giờ chết
đang gần kề nhưng tôi sẽ nói cho quí hiền giả biết điều gì thực sự khó
làm. Này quí hiền giả, tôi thấy không có hành động nào tôi làm mà
không có chánh niệm và giác tỉnh kể từ khi tôi thọ đại giới. Chỉ có loại
hành động có chánh niệm và giác tỉnh đi kèm là khó làm nhất.

Đứa cháu trai của trưởng lão cũng chứng đắc đạo quả A-la-hán khi vị ấy được năm mươi sáu hạ tỳ khưu.

(d) Aparāmaṭṭha Pārisuddhi-sīla (Bất hôn muội thanh tịnh giới) là
giới không bị tà kiến chi phối và được bậc hữu học thọ trì; giới không
bị hoen ố bởi tham dục được thọ trì bởi những kẻ phàm phu. Đây là
loại giới được thọ trì bởi trưởng lão Tissa, con trai của vị gia chủ.

Chuyện trưởng lão Tissa, con trai vị gia chủ

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                287

Một vị gia chủ nọ ở Sri Lanka có hai người con trai. Sau khi cha
chết, đứa con trai đầu là Tissa nhường hết tài sản cho người em và
xuất gia Tỳ khưu, thực hành pháp thiền ở một tịnh xá nọ trong rừng.
Rồi vợ của người em trai tự nghĩ: “Bây giờ chúng ta có được tất cả tài
sản vì anh chồng của ta đã xuất gia làm một vị tỳ khưu. Nếu vị ấy
hoàn tục thì chúng ta sẽ phải trao lại cho vị ấy một nửa gia sản. Không
biết vị ấy có làm như vậy hay không. Chúng ta sẽ được an tâm chỉ khi
nào vị ấy chết đi.” Bởi vậy, nàng thuê một số người đi giết chết trưởng
lão.

Bọn côn đồ đi đến tịnh xá và bắt trưởng lão vào lúc chiều tối.
Trưởng lão nói với họ rằng Ngài chẳng có thứ gì mà họ muốn. Những
tên cướp giải thích với trưởng lão rằng chúng đến đây không phải để
lấy tài sản của Ngài mà đến để giết Ngài (theo sự thuê mướn của em
dâu Ngài). Rồi trưởng lão nói rằng: “Tôi có Giới thanh tịnh nhưng tôi
chưa chứng đắc đạo quả A-la-hán. Vì muốn chứng đắc đạo quả A-la-
hán dựa vào Giới thanh tịnh này, hãy cho phép tôi thực hành thiền
Minh sát trước khi mặt trời mọc.” “Chúng tôi thấy không thể chấp

nhận yêu cầu của Ngài. Nếu Ngài bỏ chạy trong lúc đêm tối thì chúng
tôi sẽ rất phiền phức để bắt Ngài một lần nữa.” Trưởng lão đáp lại:
“Tôi sẽ cho các ông thấy rõ rằng tôi không còn khả năng trốn chạy.”
Rồi trưởng lão lấy cục đá đập bể xương hai đầu gối của Ngài.

Khi cả hai đầu gối hoàn toàn bị vỡ bể như vậy, trưởng lão nói rằng:
“Bây giờ các ông đã thấy tình trạng của tôi như vậy. Chẳng còn cách
nào để tôi chạy thoát khỏi các ông. Tôi lấy làm ghê tởm khi phải chết
trong thân phận một kẻ phàm phu đầy tham dục. Tôi cảm thấy xấu hổ
về nó.” Chỉ khi ấy bọn giết mướn mới cho phép Ngài thực hành pháp

thiền, Rồi trưởng lão nương vào giới của mình, không bị tham nhiễm,
tinh cần suốt đêm và đến khi mặt trời ló dạng thì Ngài chứng đắc đạo
quả A-la-hán.

Chuyện về Đại trưởng lão

Một hôm nọ có một vị đại trưởng lão bị trọng bịnh yếu đuối đến nổi
không thể ăn bằng chính đôi tay của Ngài. Ttrưởng lão nằm quằn quại

 

288                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

với thân dính đầy phân và nước tiểu của chính Ngài. Thấy Ngài như
vậy, một vị tỳ khưu trẻ nói lời ta thán rằng: “Ôi, đời sống thật đau khổ
biết bao!” Trưởng lão bèn đáp lại: “Này hiền hữu, nếu ta chết bây giờ,
chắc chắn ta sẽ đạt được hạnh phúc của thiên giới. Ta không nghi ngờ

về điều ấy. Hạnh phúc có được do đoạn tuyệt giới này (nghĩa là chết
mà chưa trở thành vị A-la-hán) giống như rũ bỏ đời sống Sa-môn và

trở thành người cư sĩ. Nhưng ta quyết định chết bằng giới nguyên vẹn
của ta (nghĩa là mạng chung chỉ sau khi chứng đắc đạo quả A-la-
hán).” Khi nói vậy, trưởng lão nằm như vậy, quán về tánh chất bịnh
hoạn như vậy trong năm uẩn của danh và sắc và chứng đắc đạo quả A-
la-hán.

(Giới của những vị đại trưởng lão bực Thánh này là Bất hôn muội thanh tịnh giới - Aparamattha-sīla).

(e) Patippasaddhi Pārisuddhi-sīla (An tức thanh tịnh giới) là Giới của những vị A-la-hán (Độc giác Phật và Toàn giác Phật) được thanh tịnh do sự lắng yên những ngọn lửa phiền não.

Lại nữa:

(2) Giới có năm loại:

(a)    Pahāna-sīla (Xả đoạn giới)

(b)   Veramani-sīla (Ly giới)

(c)    Cetanā-sīla (Tư giới)

(d)   Saṃvara-sīla (Nhiếp hộ giới)

(e)    Avitikkama-sīla (Bất phạm giới)

 

(a)    Pahāna-sīla (Xả đoạn giới) là giới được thọ trì bằng cách xả
đoạn sự sát sanh, v.v... (Ở đây “v.v...” không chỉ bao gồm những ác
nghiệp như trộm cắp, tà dâm, v.v… mà cần được xả đoạn những pháp
nào cần được xả đoạn trải qua những giai đoạn liên tiếp của những
việc phước. Về Abhidhamma, “xả đoạn” là nhóm tâm thiện cùng với

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                              289

những sở hữu tâm đồng sanh của chúng có đặc điểm là làm phận sự loại trừ mọi pháp cần được xả đoạn, bất cứ khi nào cần thiết).

(b) Veramani-sīla (Ly giới) là giới được thọ trì bằng cách xả ly sự sát
sanh, v.v... Theo tạng Abhidhamma, đó là nhóm tâm thiện cùng với

những sở hữu đồng sanh của chúng dẫn đầu là sở hữu Ly (viratī

cetasika).

(c) Cetanā-sīla (Tư giới) là giới được thọ trì bằng Tư làm công việc kết hợp sự viễn ly sát sanh, v.v… với tâm.

(d) Saṃvara-sīla (Nhiếp hộ giới) là giới được thọ trì bằng cách ngăn
chặn ý nghĩ về các ác nghiệp như sát sanh, v.v… để tâm không bị ô

nhiễm. Theo tạng Abhidhamma, đó là những tâm thiện cùng với

những sở hữu đồng sanh của chúng dẫn đầu sở hữu Niệm.

(e)    Avītkkama-sīla (Bất phạm giới) là giới được thọ trì bằng cách
không việc phạm những ác nghiệp như sát sanh, v.v... Theo tạng
Abhidhamma, đó là nhóm tâm thiện cùng với những sở hữu đồng sanh
của chúng.

(Năm loại giới này bắt đầu bằng Pahāna-sīla (Xả đoạn giới) không phải là những giới riêng biệt như những bộ giới khác. Thọ trì Xả đoạn giới có nghĩa là thọ trì luôn cả bốn loại giới còn lại).

Chấm dứt Giới nhóm Năm

Chấm dứt Chương nói về các nhóm Giới



 

290                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Sự ô nhiễm và sự thanh tịnh của Giới

 

 

6. THẾ NÀO LÀ SỰ Ô NHIỄM GIỚI?

7. THẾ NÀO LÀ SỰ THANH TỊNH GIỚI?

Trước khi trả lời hai câu hỏi này, cũng cần giải thích rõ rảng về sự
ô nhiễm và thanh tịnh của giới. Ô nhiễm của giới có nghĩa là sự
khuyết phạm của giới và ngược lại, giới không khuyết phạm nghĩa là
giới thanh tịnh.

Sự khuyết phạm của giới có thể khởi sanh do việc mất lợi lộc, danh tiếng, v.v… hoặc do bảy hành động thứ yếu về tình dục.

Nói rõ hơn là:

Trong bảy nhóm tội, nếu điều học (sikkhāpada) trong nhóm thứ
nhất hay nhóm cuối cùng bị suy yếu do ái dục, vì lợi lộc, danh tiếng,
v.v… thì giới của vị tỳ khưu xem bị rách như tấm vải bị cắt ở mé.

(Bảy nhóm tội là: (1) Pārājika, (2) Saṅghādisesa, (3) Thullaccaya,

(4) Pācittiya, (5) Pātidesaniya, (6) Dukkata, (7) Dubbhisita).

Nếu một điều học ở nhóm giữa bị suy yếu thì giới của vị ấy xem như bị lủng như tấm vải bị lủng lỗ ở giữa.

Nếu hai hoặc ba điều học bị suy yếu một loạt thì giới của vị ấy xem như bị rỗ lốm đốm như con quạ có những đốm nâu, đỏ và những màu khác ở trên lưng hoặc bụng.

Nếu những điều học bị suy yếu ở những khoảng giữa thì giới của vị ấy xem như bị lấm lem hoàn toàn như con quạ có nhiều vết đốm tạp sắc trên toàn thân.

Như vậy sự suy yếu của giới có tánh chất rách lủng, lem luốc, lốm đốm do bởi lợi lộc, v.v… thì gọi là ô nhiễm của giới.

Bảy hành động thứ yếu về tình dục sau đây cũng làm cho giới bị
suy yếu. Bảy hành động này được Đức Phật giảng giải chi tiết trong

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                291

bài kinh Jānussoni Sutta của phẩm Mahāyañña Vagga, Sattaka Nipāta, Aṅguttara Nikāya. Chúng được kể lại tóm tắt như sau:

(i)     Vị Sa-môn hay Bà-la-môn cho mình là có đời sống thánh
       
thiện, vị ấy không hành dâm với phụ nữ, nhưng thích được

phụ nữ vuốt ve, mát xa, tắm rữa và kỳ cọ.

(ii)   Vị ấy không hành dâm với phụ nữ, vị ấy không thích người nữ

đích thân hầu hạ, nhưng thích cười giỡn với cô ta. (iii) Nếu không thể, vị ấy thích nhìn ngắm phụ nữ.

(iv) Hoặc thích nghe phụ nữ cười, nói, hát hoặc kêu la ở bên kia

vách tường hoặc bên kia hàng rào.

(v)   Hoặc thích nhớ lại kỷ niệm mà vị ấy đã cười nói hoặc vui chơi

với phụ nữ trước kia.

(vi)   Hoặc thích xem vị gia chủ hoặc con trai của ông ta đang thọ

hưởng năm loại dục lạc và đang được hầu hạ bởi các nữ tỳ.

(vii) Hoặc thích được sống ở cõi chư thiên và sống cuộc đời phạm
         hạnh với ước nguyện rằng: “Do bởi giới này, do bởi sự thực

hành này, với sự tinh tấn và đời sống phạm hạnh này, cầu cho
tôi được tái sanh làm một vị đại chư thiên hay một vị thiên
nào đó.”

Như vậy sự suy yếu của giới do rách, lủng, lấm lem hoặc lốm đốm bởi lợi, danh, v.v… và do bảy hành động thứ yếu về tình dục là sự ô nhiễm của giới.

(7)    Sự khuyết phạm của giới có đặc tánh là không bị rách, không

bị lủng, không bị lấm lem, không bị lốm đốm nhờ:

(a)    Không vi phạm điều học nào.

(b)   Đối trị đúng pháp khi có sự vi phạm.

(c)    Không rơi vào bảy hành động thứ yếu về tình dục.

 

292                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

(d)    Không bị chi phối bởi sân, bất mãn, sự chê bai, sự kình địch,
         ganh tỵ, keo kiệt, gian trá và những tánh ác đại loại như vậy,

(e)    Nhờ tu tập về những đức tánh như tri túc, thiểu dục, pháp
        
hành đầu đà, v.v…

Những loại giới này mà không rách lủng, lấm lem và không lốm
đốm cũng được gọi bằng những tên khác như Vô câu thúc giới
(Bhujissa-sīla) vì chúng đưa người ta ra khỏi sự kềm kẹp của ái dục.
Thức giả sở tán giới (Viññūpasattha-sīla) vì chúng được các bậc trí
tuệ khen ngợi. Bất hôn muội giới (Aparāmaṭṭha-sīla) vì chúng không
bị ảnh hưởng bởi ái dục: “Giới của ta rất thanh tịnh, nó sẽ cho kết quả
lợi ích to lớn trong tương lai.” hoặc do thân kiến: “Đây là giới của ta.
Giới của ta rất thanh tịnh. Không ai có giới như ta.” Định giới (Samādhi
saṃvattanika-sīla) vì chúng dẫn đến Cận định (Upacāra-samādhi) và
Nhập định (Appana-samādhi)

Như đã giải thích ở trên, bảy yếu tố này, tức là: không rách, không
lủng, không lấm lem, không lốm đốm, giải thoát, được các bậc trí
khen ngợi, không bị ảnh hưởng bởi ái dục và tà kiến, là những yếu tố
dẫn đến sự thanh tịnh của giới. Chỉ khi nào giới được hoàn hảo do bảy
yếu tố này, nó mới có thể làm nền tảng để thành tựu hai loại định kể
trên. Do đó, bậc Phạm hạnh muốn tu tập hai loại định này nên nhiệt
tâm tinh tấn trau dồi giới của mình cho được hoàn hảo bởi bảy yếu tố
này.

Chấm dứt Chương nói về Giới Ba-la-mật



C. XUẤT GIA BA-LA-MẬT (NEKKHAMMA  PĀRAMĪ)

Nekkhamma có nghĩa là sự từ bỏ, đồng nghĩa với sự thoát ly. Giải
thoát có hai loại - Giải thoát khỏi vòng luân hồi (saṃsāra) và Giải

 

thoát khỏi dục trần (kāma). Thoát ly luân hồi là kết quả của giải thoát
dục trần. Chỉ khi nào có được sự thoát ly dục trần qua pháp hành,
người ta mới có thể đạt được thoát ly luân hồi. Trong hai loại giải

thoát này, chính vì sự thoát ly luân hồi mà Đức Phật thuyết giảng bài
kinh Buddhavaṁsa, Ngài ví ba cõi giống như ba cái nhà tù lớn.

Ý nghĩa của Xuất gia Ba-la-mật

Theo Chú giải của bộ Hạnh Tạng (Cariyāpiṭaka), Xuất gia Ba-la-
mật được giải thích theo Tạng Abhidhamma là tâm thiện cùng với
những sở hữu đồng sanh khởi sanh do phẩm hạnh của sự giải thoát
dục trần và sự giải thoát ba cõi. Bộ Mahā Niddesa mô tả hai loại dục:
vật dục (vatthu kāma) và phiền não dục (kilesa kāma). Về Xuất gia
Ba-la-mật, giải thoát dục trần có nghĩa là giải thoát cả hai loại dục vừa
kể ra ở trên.

Cách Chánh niệm để thành đạt Thoát ly

Phương pháp thành đạt sự thoát ly khỏi các xiềng xích của phiền não dục được giải thích trong bộ Mahā Niddesa như sau:

Addasam kāma te mūlaṃ saṅkappa kāma jāyasi
na taṃ saṅkappayissāmi evaṃ kāma na hohisi.

Này Tham kia, ta đã thấy căn cội của ngươi rồi. Ngươi khởi sanh từ những ý nghĩ của ta về những cảnh trần khả ái (Dục tầm - Kāma vitakka). Ta sẽ không bao giờ nghĩ đến những cảnh trần khả ái nữa. Như vậy, này Tham kia, ngươi sẽ không còn sanh khởi nữa.

Về mặt này, nên hiểu rõ ba loại tà tư duy và ba loại chánh tư duy. Ba tà tư duy là:

(i)   Kāma Vitakka  (Dục tầm) là suy nghĩ về cảnh dục khả ái.

(ii)   Vyāpāda Vitakka (Sân tầm) là suy nghĩ về những kẻ khác với
       
tâm sân hận.

(iii)  Vihimsā Vitakka (Hại tầm) là suy nghĩ cách làm hại kẻ khác.

 

294                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Ba chánh tư duy là:

(i)   Nekkhamma Vitakka (Ly dục tầm) là suy nghĩ cách giải thoát
     
chính mình ra khỏi dục lạc.

(ii)   Avyāpāda Vitakka (Vô sân tầm) là suy nghĩ đến kẻ khác với
       
tâm từ ái, và

(iii) Avihimsā Vitakka (Vô hại tầm) là nghĩ đến kẻ khác với tâm bi
       
mẫn.

Phiền não dục hay nguồn gốc của tham được tìm thấy ở dục tầm.
Chừng nào người ta còn duy trì dục tầm thì tham sẽ tiếp tục Tăng bội
và sẽ không có sự giải thoát khỏi tham nhiễm. Chỉ khi nào người ta
không còn nghĩ đến cảnh dục, khi ấy tham mới ngưng không sanh
khởi và người ta được sự giải thoát. Do đó như đã giải thích ở trên,
hành giả nên hộ phòng tâm không để tham sanh khởi. Sự giải thoát

khỏi dục trần dẫn đến sự giải thoát khỏi luân hồi như thế nào thì hành
giả  cũng nên cố gắng giải thoát chính mình khỏi tham từ cảnh dục
khả ái.

Đặc tánh, phận sự, sự hiện khởi và nhân gần của Xuất gia Ba-la-
mật khác sẽ được bàn đến ở chương Tạp lục trong cuốn hai.

 

Mối liên hệ giữa sự xuất gia và đời sống của vị
                              tỳ khưu

Chú giải bộ Hạnh Tạng (Cariyapiṭaka)  định nghĩa chữ xuất gia
(nekkhamma)  như  sau: Nekkhammaṃ  pabbajja-mūlakaṃ”  Định
nghĩa này có thể được diễn dịch theo hai cách: “ Đời sống của vị Sa-

môn là nguyên nhân của sự thoát ly” và “Sự thoát ly là nguyên nhân
của đời sống Sa-môn.” Cách diễn dịch thứ nhất “Đời sống của vị Sa-
môn là nguyên nhân của sự thoát ly,” đúng với câu chuyện trong Bổn
sanh Mahā Janaka. Vua Mahā Janaka trước tiên có được các món vật
dụng gồm y, bát, v.v…  mà không báo tin cho hoàng hậu và các phi
tần, cung nữ của vị ấy hay biết. Đoạn vị ấy lên gác thượng của hoàng
cung và trở thành một vị Sa-môn. Sau đó vị ấy mới xuất gia thế gian.

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                295

Trong ví dụ này, Bồ-tát Mahā Janaka trở thành vị Sa-môn trước khi vị ấy thực hiện sự xuất ly từ bỏ. Do đó có thể nói rằng sự xuất ly là kết quả. (Ở đây các từ đồng nghĩa: xuất gia, xuất ly, từ bỏ, thoát ly).

Cách diễn dịch thứ hai: “Sự thoát ly là nguyên nhân của đời sống
Sa-môn” đúng với nội dung của những câu chuyện về Sumedha, anh
em bậc trí tuệ Hatthipāla, v.v… Bậc trí tuệ Sumedha, trước hết từ bỏ
đời sống gia đình ra đi và đến núi Dhammika, rồi tìm thấy một chỗ
ngụ do Sakka chuẩn bị sẵn. Chỉ khi đó vị ấy mới trở thành vị Sa-môn.
Tương tự, anh em Hatthipāla trước hết bỏ nhà ra đi và khi cả vương
quốc có đức vua và hoàng hậu dẫn đầu chạy theo họ, họ mới trở thành
Sa-môn. Do đó có thể nói rằng sự từ bỏ của bậc trí tuệ Sumedha, anh
em Hatthi-pāla v.v… là nguyên nhân và đời sống Sa-môn của họ là
kết quả.

Bộ chú giải Hạnh tạng có bài nói phù hợp với cách diễn dịch thứ
nhất (bài này được nói chi tiết ở chương Tạp lục). Dầu bậc trí tuệ
Sumedha, anh em nhà Hatthipāla, v.v… trước hết từ bỏ thế gian, sau
đó mới trở thành Sa-môn, họ làm như vậy chỉ vì muốn đời sống Sa-
môn. Do đó cho dù sự từ bỏ xảy ra trước, có thể nói rằng đời sống Sa-
môn mà theo sau đó là nguyên nhân thực sự (ví dụ, để xây dựng một
ngôi nhà, gỗ phải được cưa ra trước. Dù việc cưa gỗ xảy ra trước việc
xây dựng, nhưng gỗ được cưa là do ý định xây dựng ngôi nhà khởi lên
trước. Do đó phải nói rằng ý muốn xây dựng ngôi nhà là nguyên nhân
và sự cưa gỗ là kết quả).

Năm kiểu sống ở rừng

Theo các bộ kinh Vinaya Parivāra Ekuttarikanaya pañcaka và Upāli Pañha, Dhutaṅga Vagga, thì trú ngụ trong rừng có năm loại:

(i)   Sống ở rừng do ngu dốt, không biết các điều lợi ích và nguyên
    
nhân của chúng.

 

296                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

(ii)  Sống ở rừng với ham muốn bất chánh, “Nếu ta đi vào sống ở
     
trong rừng thì mọi người sẽ hộ độ rộng rải đến ta như một vị ẩn

sĩ.”

(iii)  Sống ở rừng do điên loạn.

(iv)  Sống ở rừng vì pháp hành được Đức Phật và các bậc giới đức
        
khen ngợi, và

(v)  Sống ở rừng vì vị ấy có tánh tri túc, thiểu dục và những đức tính
      khác.

Trong năm kiểu sống ở rừng này, hai kiểu cuối cùng là đáng khen
ngợi.

Xuất gia Ba-la-mật không phải là vấn đề nên sống ở đâu, phiền não dục, ái dục đối với các cảnh khả ái có thể khởi sanh bất cứ nơi nào. Phiền não dục này nên được đoạn diệt ở bất cứ nơi nào mà nó xuất hiện và không để cho nó tăng trưởng. Sự thoát ly phiền não dục bằng cách đoạn diệt này là đặc tánh chân thật của sự xuất gia.

Về sự thoát ly dục trần, tiêu biểu là những tấm gương về bậc trí tuệ
Sumedha, anh em nhà Hatthipāla, v.v…. Họ là những kẻ từ bỏ thế
gian để ra đi đến tận Hy-mã-lạp-sơn. Do đó có thể hỏi rằng đối với
những người muốn thực hành viên mãn Xuất gia Ba-la-mật (sự thoát
ly khỏi cảnh dục khả ái), có cần thiết phải ra đi đến tận Hy-mã-lạp-sơn
không? Người ta nên làm như vậy nếu có thể, hoặc nếu người ta muốn
như vậy hoặc vì đó là môi trường tốt hơn. Trong những câu chuyện
Bổn sanh liên quan đến sự xuất gia, phần lớn các nhân vật xuất gia
đều đi vào Hy-mã-lạp-sơn. Họ làm như vậy vì đó là chỗ thích hợp đối
với họ.

Theo Bổn sanh Maghadeva của bộ Ekaka Nipāta và bổn sanh
Nimijātaka của bộ Mahā Nipāta, những dòng tộc cai trị nối tiếp nhau
trải qua tám mươi bốn ngàn vị vua, bắt đầu từ vua Maghadeva đến vua
Nimi, tất cả đều xuất gia từ bỏ đời sống gia đình, sống không gia đình
ngay khi có một sợi tóc bạc xuất hiện trên đầu của họ. Tuy nhiên,

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                297

không ai trong số ấy đi đến Hy-mã-lạp-sơn. Họ chỉ đi đến khu rừng
xoài của hoàng gia gần kinh đô Mithila. Tương truyền rằng nhờ tinh
tấn hành thiền, tất cả đều đắc định và được tái sanh về cõi Phạm thiên.
Bằng chứng hiển nhiên từ những câu chuyện này là dù không đi đến
tận Hy-mã-lạp-sơn, chỉ rời khỏi nơi mà tham nhiễm tăng trưởng cũng
đủ để thành tựu Xuất gia Ba-la-mật. Tám mươi bốn ngàn vị vua như
Maghadeva hoàn toàn từ bỏ những vương cung tráng lệ của họ bằng

cách sống trong rừng xoài mà Xuất gia Ba-la-mật của họ được thành
tựu.

Do đó, Xuất gia Ba-la-mật có thể được thành tựu bởi bất cứ ai hoàn toàn từ bỏ nơi mà tham nhiễm của người ấy Tăng trưởng, và trú ngụ ở chỗ thích hợp để thoát khỏi sự ô nhiễm như vậy.

 

Hai loại xuất gia

Xuất gia có hai loại:

(i)    Xuất gia khi còn trẻ (độc thân).

(ii)    Xuất gia khi đã già rồi (có gia đình).

Bậc trí tuệ Sumedha, anh em nhà Hatthipāla, v.v…  đã từ bỏ đời
sống thế tục để thoát khỏi những trói buộc của dục ái, tức là những sự
xa hoa tráng lệ ở hoàng cung hoặc ở gia đình của họ. Dầu các câu
chuyện Jātaka nói về họ như là những tấm gương về những bậc đã
thực hành viên mãn Xuất gia Ba-la-mật, nhưng họ chỉ là những chàng
trai trẻ còn độc thân. Họ là những kẻ có đầy đủ dục lạc, nhưng có thể
nói rằng những trói buộc đối với họ không mạnh lắm. Chỉ những
người lớn tuổi hơn sống đời gia chủ với vợ con mới bị cột chắc bởi
những trói buộc của vật dục (vatthu kāma). Về mặt này, có thể nói
rằng sự xuất gia của những người lớn tuổi đã có gia đình khó hơn sự
xuất gia của những người còn trẻ và độc thân. Nhưng một số người
chứng minh rằng sự xuất gia của Bồ-tát khi sanh làm hoàng tử Temiya
là sự xuất gia được thực hiện khi vị ấy chỉ mười sáu tuổi và chưa lập
gia đình, mới là sự xuất gia dũng mãnh. Nhưng khó khăn của vị ấy
không phải khởi sanh từ những trói buộc của dục lạc mà từ những
phiền phức lớn do phải giả bộ làm người bị liệt, điếc và câm để sự

 

298                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

xuất gia có thể xảy ra. Do đó vị ấy phải đối mặt với nhiều khó khăn để mưu cầu sự xuất gia. Khi thực sự làm như vậy, vị ấy không gặp nhiều khó khăn vì trói buộc của dục lạc đối với vị ấy hầu như rất ít.

Bộ Atthasalinī nêu ra ở chương Xuất gia Ba-la-mật đầy đủ những
bài về các Ba-la-mật được thực hành bởi Bồ-tát khi Ngài sanh làm
hoàng tử Somanassa, hoàng tử Hatthipāla, hoàng tử Ayoghara, v.v…
trong vô số kiếp. Chú giải nêu ra những tên đặc biệt của pháp Ba-la-
mật bậc thượng đối với sự xuất gia Ba-la-mật của vua Cūla Sutasoma.

Trong trường hợp của hoàng tử Somanassa, hoàng tử Ayoghara,
hoàng tử Hatthipāla, và hoàng tử Temiya, họ đều là những người xuất
gia lúc còn thanh xuân. Sự xuất gia của vua Mahā Janaka thì khó khăn
hơn vì vị ấy là người lớn tuổi đã có gia đình. Đức vua trở thành Sa-
môn mà không báo trước cho hoàng hậu, thứ phi và các tùy tùng hay
biết. Và chỉ vào lúc xuất gia vị ấy mới đối mặt với khó khăn vì hoàng
hậu, các phi tần và tùy tùng đã theo đuổi và khóc lóc, van xin vị ấy trở
lại với họ. Họ không thực hiện bất cứ biện pháp nào để bảo đảm rằng
vị ấy không xuất gia hay xuất ly thế gian.

Còn về tám mươi bốn ngàn vị vua như Maghadeva, họ công bố
rộng rải ý định xuất gia của họ. Bất chấp sự khẩn nài, van xin của

quyến thuộc, họ vẫn không nản lòng và quyết chí xuất gia. Họ không
đi xa lắm, chỉ trú ngụ trong rừng xoài của hoàng gia gần kinh đô.

Trái ngược với tất cả họ, vua Cūla Sutasoma công bố ý định rời bỏ
thế gian của mình do xúc động mạnh khi thấy trên đầu xuất hiện sợi
tóc bạc. Dầu vua cha, mẫu hậu, hoàng hậu, phi tần và tất cả thần dân
tụ họp khóc lóc, van xin vị ấy từ bỏ ý định, vị ấy vẫn giữ tâm kiên
quyết, bình thản và ra đi đến tận Hy-mã-lạp-sơn. Do đó sự xuất gia
của vua Cūla Sutasoma dũng mãnh hơn những vị khác như vua
Maghadeva, v.v... Nói về điều này, nhà Chú giải đã mô tả pháp Xuất gia
Ba-la-mật của vua Cūla Sutasoma thuộc loại cao nhất - Paramattha
Pāramī.

Chấm dứt Chương nói về Xuất gia Ba-la-mật

 

 


D. TRÍ TUỆ BA-LA-MẬT (PAÑÑĀ  PĀRAMĪ)

Có ba loại Trí tuệ

Bộ Vibhaṅga trong Tạng Abhidhamma ở phần Ñāṇa Vibhaṅga, có kể ra ba loại trí tuệ:

(a)    Cintāmaya Paññā  (Tư sở thành tuệ)

(b)   Sutamaya Paññā  (Văn sở thành tuệ)

(c)    Bhāvanāmaya Paññā  (Tu sở thành tuệ)

 

(a)    Cintāmaya Paññā  (Tư sở thành tuệ) là Trí tuệ có được từ sự suy nghĩ của chính mình, không phải do hỏi kẻ khác hoặc nghe kẻ khác thì được gọi là Tư sở thành tuệ (cintā: suy nghĩ. mayā: do bởi -
nghĩa đen là trí tuệ do suy nghĩ).

Trí tuệ thuộc đủ loại hoặc thấp hoặc cao, bao gồm các loại nghề
nghiệp, v.v… Tư sở thành tuệ không chỉ bao gồm sự suy nghĩ về
những công việc trong thế gian mà còn bao gồm luôn những vấn đề
liên quan đến Giáo pháp. Do đó nó bao gồm kiến thức về thế sự thông
thường như ngành mộc, nông nghiệp, v.v… cũng như kiến thức về
pháp như bố thí, giới, định và tuệ quán. Nhất thiết trí của Đức Phật

cũng có thể được xem là Tư sở thành tuệ vì Bồ-tát, Thái tử Siddhattha
đã tự mình nghĩ ra pháp hành dẫn đến Nhất thiết trí mà không phải do

nghe từ bất cứ ai.

Tuy nhiên, Trí tuệ là Ba-la-mật thứ tư, mà được thực hành bởi vị
Bồ-tát, nên được xem là nhóm trí cần thiết cho sự chứng đắc tuệ Đạo,
tuệ Quả và Nhất thiết trí. Chúng tôi không đề cập ở đây nhóm trí tuệ
mà có được trong kiếp cuối cùng của Bồ-tát, là trí tuệ giúp Ngài đắc

thành Phật quả. Bồ-tát khi thực hành Trí tuệ Ba-la-mật trước kiếp cuối

 

300                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

cùng   chỉ   thực   hành   đến   phần   đầu   của   giai   đoạn   thứ   chín
Saṅkhārupekkhā-ñāṇa (Hành xả tuệ) trong mười giai đoạn của Tuệ
minh sát. Phần cuối của Saṅkhārupekkhā-ñāṇa (Hành xả tuệ) này trực
tiếp dẫn đến tuệ Đạo. Bởi vậy Bồ-tát không cố gắng đi quá phần đầu
cho đến kiếp cuối cùng của Ngài, vì nếu làm vậy thì ắt là Ngài đã
chứng đắc đạo quả và trở thành bậc Thánh, rồi nhập Niết bàn trong
những kiếp ấy. Do đó cần lưu ý rằng là một vị Bồ-tát, Trí tuệ Ba-la-
mật chỉ được thực hành đến phần đầu của Saṅkhārupekkhā-ñāṇa
(Hành xả tuệ) mà thôi.

(b)   Sutamaya Paññā (Văn sở thành tuệ) là trí tuệ do nghe các
bậc trí nói về kinh nghiệm của các Ngài hoặc theo sự thỉnh cầu, v.v…
khi người ta không thể tự mình nghĩ ra. Cũng như Cintāmaya Paññā
(Tư sở thành tuệ), loại tuệ này có tánh chất rất rộng lớn. Sự khác biệt
giữa hai loại tuệ này là: loại thứ nhất do tự mình nghĩ ra, còn loại thứ

hai do nghe người khác.

(c)    Bhāvanamaya Paññā (Tu sở thành tuệ)  là loại trí tuệ đạt được khi người ta thực sự trải nghiệm Thiền hoặc các trạng thái Quả thì được gọi là Tu sở thành tuệ.

Bộ Abhidhamma Vibhaṅga, ở chương Ñāṇa Vibhaṅga, có nêu ra các loại tuệ từ nhóm một đến nhóm mười.

Tuy nhiên, tất cả những nhóm tuệ này có thể được xem là thuộc về
ba loại trên. Thí dụ: Ở bộ Vibhaṅga, sau nhóm ba loại trí tuệ, tức là
Cintāmaya Paññā (Tư sở thành tuệ), v.v... có các loại tuệ như
Dānamaya   Paññā,   Sīlamaya   Paññā   và   Bhāvanamaya   Paññā.
Dānamaya Paññā là trí tuệ có được từ pháp Bố thí. Tư kết hợp với
pháp bố thí có ba loại, đó là Tư khởi sanh trước (Tư tiền), Tư khởi
sanh trong khi (Tư hiện) và Tư khởi sanh sau khi bố thí (Tư hậu). Trí
tuệ kết hợp với ba tư này của mỗi trường hợp được gọi là Thí sở thành
tuệ (
Dhammaya Paññā). Tương tự, trong trường hợp thọ trì giới, trí
tuệ khởi sanh với ý định rằng: “Ta sẽ thọ trì giới,” trí tuệ khởi sanh

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                301

trong khi thọ trì giới và trí tuệ khởi sanh do suy xét lại sau khi đã thọ trì giới, tất cả ba loại này là Giới sở thành tuệ (Sīlamaya Paññā).

Nếu Thí sở thành tuệ (Dānamaya Paññā) và Giới sở thành tuệ (Sīlamaya Paññā) có được do quá trình suy tư, thì nó được xếp vào loại Tư sở thành tuệ - Cintāmaya Paññā. Nếu trí tuệ ấy có được do nghe người khác thì nó được bao gồm trong Văn sở thành tuệ -
Sutamaya Paññā. Những loại trí tuệ khác cũng có thể được xếp loại tương tự ở một trong ba loại tuệ kể trên.

Câu pháp trong bộ Buddhavaṁsa: “Paripucchanto buddham janam
paññā paramitam gantvā - Sự thành tựu trí tuệ Ba-la-mật do học hỏi
nơi các bậc trí tuệ,” cho thấy rằng Đức Phật xem Văn sở thành tuệ -
Sutamaya Paññā là trí tuệ căn bản. Sở dĩ như vậy là vì trong thế gian
này người chưa có được trí tuệ căn bản thì không thể biết thêm điều gì
qua sự suy nghĩ của chính mình. Trước hết người ấy phải nghe và học
hỏi từ các bậc trí. Do đó Đức Phật dạy rằng người nào muốn thực
hành Trí tuệ Ba-la-mật thì trước hết phải có trí tuệ từ các bậc trí để tạo
cho mình một số vốn trí tuệ căn bản.

Tóm lại, muốn có Tư sở thành tuệ - Cintāmaya Paññā,  trước hết phải có Văn sở thành tuệ - Sutamaya Paññā

Các bộ Chú giải như bộ Atthasālinī mô tả vô số kiếp của Bồ-tát, ví
dụ như các bậc trí tuệ Vidhura, Mahā Govinda, Kudala, Araka, đạo sĩ
hành cước Bodhi, Mahosadha, v.v… là những tiền thân của Đức Phật
khi Ngài thực hành trí tuệ Ba-la-mật. Trong những kiếp này Bồ-tát đã

có được trí tuệ căn bản. Do đó Ngài cũng có Tư sở thành tuệ. Vì trí tuệ
căn bản của Ngài đã đủ mạnh, nên trong những kiếp ấy Tuệ văn không
phải trí tuệ đứng đầu của Ngài.

Bốn loại Kavi (Trí giả)

Bộ Catukka Nipāta của Tăng chi bộ kinh mô tả bốn loại Kavi như
sau:

(1)    Cintā kavi  (Tư trí giả)

 

302                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

(2)   Suta kavi  (Văn trí giả)

(3)   Attha kavi  (Nghĩa trí giả)

(4)   Patibhāna kavi  (Biện tài trí giả)

(Chữ kavi bắt nguồn từ căn kava, có nghĩa là “ca ngợi”. Như vậy người ca ngợi những điều đáng ca ngợi thì được gọi là “trí giả”).

(1)  Cintā kavi  (Tư trí giả) là người có khả năng biết một vấn đề đã
     nêu ra bằng cách tự mình nghĩ ra.
Kavi cũng có nghĩa là thi nhân,

cintā kavi là người chuyên sáng tác thơ văn.

(2) Suta kavi  (Văn trí giả) là người lấy những gì biết được đặt thành
     
kệ thơ.

(3) Attha kavi  (Nghĩa trí giả) là người không biết qua sáng kiến
     
hoặc học hỏi từ kẻ khác, nhưng diễn dịch ý nghĩa của một vấn đề

khó dựa vào kiến thức đã có được về những vấn đề tương tự. Người ấy viết những bài kệ dựa vào chủ đề đã cho sẵn.

(4) Patibhana kavi (Biện tài trí giả) là người không sử dụng trí tư, trí
     văn hoặc trí diễn nghĩa, nhưng có khả năng hiểu ngay vấn đề được

nêu ra thì được gọi là Biện tài trí giả (Như đại đức Vaṅgīsa trong thời Đức Phật).

Bản chất của Trí tuệ

Trí tuệ là sở hữu đồng sanh đặc biệt, là một trong những đệ nhất
nghĩa đế. Trong bộ Dhammasaṅganī, có nhiều tên khác nhau như
paññindriya, paññā, pajāñāṇa, v.v... được nêu ra để nói về trí tuệ, bởi
vì đặc tánh của tạng Abhidhamma là nêu ra đầy đủ chi tiết vấn đề cần
được thuyết giảng. Tên chính của trí tuệ là paññindriya, được tạo
thành bởi paññāindriya.

Nó được gọi là Tuệ bởi vì nó dẫn đến sự thấu hiểu tất cả khía cạnh của Tứ Thánh Đế hay Ba đặc tính của vô thường (anicca), suffering (dukkha), và vô ngã (anatta).

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                303

Nó được gọi là quyền (indriya) (sự kiểm soát hay cai quản) bởi vì
nó có thể khắc phục được vô minh (avijjā) và si mê (moha), hoặc vì
nó nổi bật trong việc hiểu biết thực tánh. Trí tuệ (paññā) có đặc tánh
là tạo ra ánh sáng như bóng tối bị xua tan khi ánh sáng xuất hiện trong
phòng tối. Cũng vậy, ở đâu chúng ta bị vô minh che mờ mà trí tuệ
xuất hiện thì vô minh bị xua tan và chúng ta có thể trông thấy rõ ràng.
Do đó Đức Phật dạy rằng: “Paññā samā ābhā natthi - Không có ánh
sáng nào như trí tuệ.”

Trí tuệ có đặc tánh thấu hiểu các sự vật bằng sự suy xét đúng đắn.
Như một vị thầy thuốc giỏi biết loại vật thực nào là thích hợp với
người bịnh và loại vật thực nào không thích hợp. Cũng vậy, khi trí tuệ
sanh khởi, nó giúp người ta có thể phân biệt thế nào là phước, thế nào

là tội.

Trí tuệ cũng có đặc tánh thông đạt tánh chất như thật. Trí tuệ có thể ví như cây tên do một xạ tiễn thiện xảo bắn ra, nó xuyên thủng mục tiêu một cách chính xác.

Một điểm quan trọng đáng chú ý liên quan đến đặc tánh của trí tuệ
là: Trí tuệ chân thật là sự hiểu biết pháp đúng như thật và trí tuệ như
vậy là trong sáng. Đó là lý do khiến bộ Abhidhammattha Saṅgaha cho
rằng, sở hữu trí tuệ (paññā cetasika) được xếp vào loại sở hữu tâm đẹp
(
sobhaṇa).

Câu chuyện tóm tắt về Bổn sanh Sulasā

Có những câu hỏi được đặt ra liên quan đến trí tuệ trong hành động
của Sulasā trong bổn sanh Sulasā của bộ Atthaka Nipāta. Tại Bārāṇasī

một cô gái điếm nọ tên là Sulasā, đã cứu mạng cho tên cướp Suttaka
khi anh ta sắp bị hành quyết. Nàng lấy anh ta làm chồng và họ sống
với nhau. Vì muốn chiếm lấy tất cả đồ nữ trang của nàng, hắn thuyết
phục nàng mang vào người những nữ trang đắt giá và đi lên núi với
hắn. Khi lên đến đỉnh núi, hắn bảo nàng cởi bỏ tất cả đồ nữ trang và
chuẩn bị giết nàng. Rồi Sulasā suy nghĩ: “Hắn chắc chắn sẽ giết ta. Ta
phải dùng một kế sách để giết hắn trước.” Bởi vậy, nàng khẩn nài tên

 

304                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

cướp: “Thưa lang quân, dù lang quân sắp giết em, em vẫn một mực
yêu chàng. Vậy, trước khi vĩnh biệt chàng, xin cho em được làm tròn
phận sự của người vợ đối với chồng là lễ chàng ở bốn hướng.” Không
nghi ngờ gì đến mưu chước của nàng, tên cướp đồng ý để nàng làm
như vậy. Tên cướp đứng bên bờ miệng của vách núi, nàng đảnh lễ tên
cướp ở trước mặt, hai bên và khi nàng đi ra sau lưng hắn, nàng đã lấy
hết sức mạnh của mình xô hắn xuống vách núi và kết liễu cuộc đời
của một tên cướp.

Bồ-tát lúc bấy giờ là vị thiên sống ở ngọn núi ấy, đã nhận xét rằng:
Na hi sabbesu thānesu puriso hoti pandito; itthipi pandito hoti tattha
tattha vicakkhanā
- Không phải trong tất cả mọi hoàn cảnh, người đàn
ông mới là bậc có trí; người đàn bà cũng có trí, lại còn sáng suốt hơn.”

Một số người hỏi rằng có thích hợp để vị thiên khen ngợi Sulasā là
có trí tuệ - Ý định giết chết tên cướp của Sulasā là vấn đề vi phạm ác
nghiệp sát sanh và không thể có Sở hữu trí tuệ (paññā cetasika) tham
dự trong đó.

Để trả lời, một số người cho rằng kiến thức của Sulasā không phải
là trí tuệ chân thật. Trong ba loại hiểu biết: hiểu biết do tưởng (saññā),
hiểu biết do thức (viññāṇa) và hiểu biết do trí tuệ (paññā). Sự hiểu
biết của Sulasā là sự hiểu biết do thức, tức là do vận dụng trí tưởng

tượng. Sự hiểu biết do thức ấy đã được nói ra ở đây là trí tuệ (paññā).

Những người khác thì khẳng định một cách sai lạc rằng trong hai loại tri kiến: tà kiến và chánh kiến, thì Sulasā có tà kiến và vị thiên ám chỉ tri kiến của nàng là trí tuệ và không khen ngợi nàng vì tuệ căn của nàng và do đó nó không đi ngược với Abhidhamma.

Cả hai cách trả lời này, cho rằng thức (viññāna) và kiến (diṭṭhi) là
trí tuệ (
paññā) - trái ngược với những định nghĩa của Abhidhamma,
thì hoàn toàn sai. Kiến thức của Sulasā rằng nàng sẽ chiến thắng tên

cướp nếu nàng sử dụng mưu kế là kiến thức chân thật và đó là trí tuệ.
Chúng ta không nên nghi ngờ rằng liệu trí tuệ chân thật có bao gồm
trong những vấn đề liên quan đến những hành động ác hay không. Ví

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                305

dụ: hoàn toàn vô tội khi biết rõ các chất say, loại nào không nên uống và loại nào dẫn đến những hành động ác, loại nào chứa nhiều chất say và loại nào chứa ít chất say, giá tiền của mỗi loại là bao nhiêu, chuyện gì sẽ xảy ra nếu người ta uống chúng v.v… Chỉ trở nên bất thiện khi nghĩ sẽ uống những chất say.

Tương tự, người ta có thể học hết tất cả mọi quan điểm và mọi tín
ngưỡng trong thế gian, phân biệt rõ quan điểm, tín ngưỡng nào đúng,
hợp lý và quan điểm, tín ngưỡng nào là sai. Như vậy việc học hỏi,
nghiên cứu và biết được chúng như thật, dầu đúng hoặc sai, là hoàn
toàn vô tội. Chỉ khi nào người ta lầm lạc cho tà kiến là chánh kiến, khi
ấy người kia mới có lỗi.

Như vậy, trường hợp của Sulasā rằng nàng biết rằng “nếu ta dùng
mưu mẹo, ta sẽ chiến thắng hắn,” đó là sự hiểu biết đúng đắn. Đó là sự
hiểu biết bằng trí tuệ, nên không có lỗi, không phải là điều ác. Nhưng
từ lúc nàng quyết định giết chồng của nàng bằng mưu mẹo thì hành
động của nàng mới đáng trách, là bất thiện. Chỉ nói về sự hiểu biết
đúng đắn khởi sanh đầu tiên trong nàng trước hành động giết người là
điều mà vị thiên khen ngợi, cho nàng là người có trí tuệ.

Như đã nói ở trên, chúng ta nên phân biệt rõ một bên là sự hiểu biết về điều ác và một bên là thực hiện điều ác như sát sanh. Nếu người ta cố chấp rằng sự hiểu biết về điều ác không phải là trí tuệ chân thật thì người ấy sẽ phạm phải lỗi lầm khi cho rằng Nhất thiết trí vĩ đại của chính Đức Phật cũng không thoát khỏi khuyết điểm.

Qua trí tuệ tối cao của Ngài, Đức Phật biết tất cả những gì cần biết,
mọi việc thiện hoặc bất thiện; vì thế  mới được gọi là Nhất thiết trí.
Nếu trí tuệ chân thật không có gì để làm với bất cứ điều ác nào, thời
chắc hẳn Đức Phật đã không biết gì về những điều ác. Quả thực, trí
tuệ của Đức Phật rất rộng lớn, vô cùng tận và vì vậy mới được gọi là
Nhất thiết trí.

Tóm lại, Đức Phật biết mọi thứ, thiện hoặc ác. Nhưng vì Ngài đã
đoạn tận tất cả phiền não ngủ ngầm nên Ngài không còn phạm phải

 

306                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

bất cứ điều ác nào. Như vậy, khi suy niệm về những ân đức, biết tất cả
các pháp bất thiện, đã đoạn trừ điều gì cần được đoạn trừ và không
làm bất cứ điều ác nào, chúng ta sẽ Tăng trưởng niềm tin nơi Đức
Phật.

Lại nữa, chúng ta cũng nên tìm hiểu câu chuyện về bậc trí tuệ
Mahosadha trong Bổn sanh Mahosadha. Trong câu chuyện ấy, vua
Cūlani Brahmadatta cùng với những vị vua của các nước chư hầu đã
bao vây và tấn công kinh đô của vua Videha. Vị vua này có một vị
quan tâm phúc là bậc trí tuệ Mahosadha. Vị ấy điều khiển kế họach
bảo vệ kinh đô, đã bày ra nhiều mưu mẹo để đánh lừa kẻ thù, làm suy
sụp chí khí của chúng và cuối cùng buộc chúng phải rút lui, tháo chạy
loạn xạ. Nếu chúng ta cho rằng những biện pháp đánh lừa mà
Mahosadha sử dụng không được xem là trí tuệ vì không phải là việc
làm có đạo đức, thời sẽ không có trường hợp để Bồ-tát thực hành Trí
tuệ Ba-la-mật. Thực tế là tất cả những mưu kế được Bồ-tát Mahosadha
ứng dụng đều là sản phẩm từ Trí tuệ của vị Bồ-tát. Do đó, Đức Phật
đặc biệt đưa ra câu chuyện Mahosadha như là một tấm gương về sự
thực hành Trí tuệ Ba-la-mật của Bồ-tát.

Về vấn đề đã nói ở trên, cần lưu ý rằng trong câu chuyện Sulasā, vị
thần núi đã khen ngợi Sulasā là người có trí tuệ vì nàng quả thực có
trí.

(Đây là bài giải thích về những điểm đáng nghi ngờ liên quan đến đặc tánh của Trí tuệ).

Các loại Trí tuệ

Định nghĩa về Trí tuệ được nêu ra trong các bộ Chú giải như bộ Aṭṭhasālinī, v.v... là trí hiểu biết hoặc trí dẫn đến sự giác ngộ Tứ Diệu Đế và Tam tướng, là loại Trí tuệ cao nhất (Ukkaṭṭha). Cũng có những loại Trí tuệ khác thấp hơn.

Chú giải của bộ Abhidhamma Vibhaṅga trong phần trình bày về Tư
sở thành tuệ (
Cintāmaya Paññā) và Văn sở thành tuệ (Sutamaya
Paññā) đã mô tả các loại trí tuệ được bao gồm trong công việc lao

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                307

động tay chân để kiếm sống (kammāyatana) và có kỹ năng để kiếm
sống (sippāyatana). Mỗi lãnh vực lại được chia ra thành hai loại - thấp
và cao. Nghề mộc là một ví dụ về sự lao động loại thấp. Nghề nông,
nghề buôn bán thuộc loại bậc cao. Nghề dệt chiếu, dệt vải, v.v… là
hình thức bậc thấp của kỹ xảo. Nghề viết văn, kế toán, v.v… là kỹ xảo
bậc cao.

Điểm khác biệt chính giữa hai hình thức kiếm sống - Khi lao động
chân tay để kiếm sống mà không có sự huấn luyện đặc biệt nào thì đó
kammāyatana. Khi kiếm sống bằng nghề tinh xảo có được sau một
thời gian huấn luyện đặc biệt thì đó là sippāyatana. Khi có  sự huấn
luyện đặc biệt cho kỹ xảo trong việc giao tiếp thì nó được gọi là
vijjāthāna.

Khi chúng ta phân biệt ngọn lửa này với ngọn lửa kia, sự phân biệt
của chúng ta không dựa vào chất lượng của nguyên liệu dùng để đốt,
mà dựa vào số lượng của nguyên liệu và chúng ta nói rằng “Ngọn lửa
này nhỏ”, “Ngọn lửa kia lớn”. Trong trường hợp trí tuệ cũng vậy, sự
phân biệt không phải dựa vào nội dung của điều được biết, mà dựa
vào mức độ biết ít hay biết nhiều. Chúng ta nói về trí tuệ là “đơn giản”
hay “thâm sâu”, “yếu kém” hoặc “mạnh mẽ”. Chúng ta không chỉ xét
đến những hình thức trí tuệ bậc cao như đã trình bày trong bộ Chú
giải, mà cũng nên công nhận những hình thức bậc thấp là Trí tuệ.

Do đó người nào muốn thực hành viên mãn Trí tuệ Ba-la-mật thì mức độ trí tuệ nào cũng phải thực hành, bất kể là thấp hay cao. Khi muốn tìm hiểu những điều chưa biết, cần đi đến các bậc trí để nghe và học hỏi từ họ. Do đó, trong bộ Buddhavaṁsa có câu: “Paripucchanto Buddham pannaparamitaṃ gantvā.” nghĩa là “Thường hay học hỏi các bậc trí sau khi đã đạt đến Trí tuệ Ba-la-mật.”

Bảy cách trau dồi Trí tuệ

Bộ Sammohavinodani, là Chú giải của bộ Abhidhamma Vibhanga, có  nêu  ra  bảy  cách  phát  triển  trí  tuệ  ở  chương  về  Niệm  xứ (Satipaṭṭhāna) như sau:

 

308                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

(1)   Paripucchakatā: Thường xuyên vấn hỏi các bậc trí tuệ.

(2)   Vatthuvisadakiriyā: Làm sạch các vật cả bên trong và bên
ngoài của thân. (Làm sạch trong thân là râu, tóc, móng chân và móng
tay không được quá dài. Không để thân mình dơ bẩn do bụi đất và mồ
hôi. Làm sạch ngoài thân là y áo không để dơ bẩn có mùi hôi. Chỗ
ngụ phải quét dọn sạch sẽ. Khi có sự bất tịnh ở trong thân hoặc ngoài
thân, thì trí tuệ khởi sanh sẽ giống như ngọn lửa heo hắt phát ra từ sợi
bấc dơ, được nhúng trong dầu đục của cây đèn dơ. Để có trí tuệ trong
sáng như ngọn lửa từ cây đèn sạch, ta phải giữ cho thân thể sạch sẽ cả
bên trong lẫn bên ngoài)

(3)   Indriya sampatta patipādanā: giữ quân bình ngũ quyền (Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ).

(Trong chúng sanh có năm loại quyền kiểm soát tâm và các sở hữu
đồng sanh. Nếu tín quyền quá mạnh thì bắt buộc bốn quyền còn lại
phải yếu; kết quả là tinh tấn không thể làm phận sự của nó là hỗ trợ và
khuyến khích trong sự cố gắng; niệm quyền không thể hoàn thành
phận sự của nó ghi nhận đối tượng chú ý; định quyền không thể ngăn
chặn sự phóng tâm; và tuệ quyền không thể nhận biết rõ ràng. Khi tín

quyền đi quá xa thì phải cố gắng hạn chế nó lại và đưa nó dung hòa
với bốn quyền kia, bằng cách suy xét những pháp nào làm bình
thường hóa nó hoặc tránh không suy xét những pháp làm tăng trưởng
đức tin, (nếu tấn quyền quá mạnh, thì tín quyền không thể làm phận sự
của nó. Các quyền kia cũng không thể làm tròn phận sự của chúng.
Tinh tấn vượt trội cần được điều chỉnh bằng cách phát triển sự an tịnh.
Các quyền còn lại cũng như vậy).

Điều mà các bậc trí tuệ và các bậc giới đức khen ngợi và quân bình
giữa đức tin và trí tuệ, định và tinh tấn. Nếu một người có đức tin
mạnh và trí tuệ yếu, người ấy sẽ mù quáng tin vào những người không
xứng đáng và không có kết quả gì. (Khi trí tuệ yếu, người ta không thể
xét đoán ai đáng tôn kính và ai không xứng đáng. Nhầm lẫn điều
không đúng với Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng mà cho là thật, niềm

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                309

tịnh tín của một người sẽ không có kết quả). Niềm tin lầm lạc của những người dâng hiến đời mình cho Phật giả hoặc Pháp giả không phải là niềm tin chân thật, chỉ là kết luận lầm lạc và có hại (micchādhimokkha - tà thắng giải).

Nếu trí tuệ mạnh và đức tin yếu, người ta sẽ bỏ con đường đúng và đi theo con đường sai lầm đến xảo biện. Đưa một người như vậy trở lại con đường chánh còn khó hơn chữa trị cho một người bịnh uống nhầm thuốc. Ví dụ: Đây là hai loại bố thí: (1) Tư bố thí (cetanā-dāna) và (2) Vật bố thí (vatthu-dāna). Người có lối suy nghĩ xảo biện có thể cho rằng chỉ cần Tư, không cần vật bố thí cũng sẽ có quả phước trong tương lai. Do đó không cần phải cho ra vật thí. Sự bố thí bằng Tư là đủ. Người như vậy không làm những việc phước bố thí cụ thể, do sự xảo biện của người ấy, sẽ bị đọa vào các cõi khổ.

Chỉ khi nào đức tin và trí tuệ ngang bằng nhau, người ta mới có thể
có niềm tin đúng đắn nơi những bậc xứng đáng và nhờ không có xảo
biện mới phát sanh nhiều lợi ích. Tinh tấn và định cũng phải ngang
bằng nhau. Khi tinh tấn yếu và định mạnh thì sẽ có sự giải đãi
(kosajja). Khi ấy người ta sẽ say mê trong trạng thái vắng lặng và trở
nên lười biếng.

Khi tinh tấn mạnh và định yếu thì tâm sẽ bồn chồn, dao động và
không có sự kiên định. Bị phóng dật (uddhacca) người ta sẽ rơi vào
tâm trạng rằng: “Nếu công việc này không cho kết quả mong muốn,
tức là nó không thích hợp với ta. Ta sẽ bỏ nó và bắt đầu công việc
khác.”

Khi tinh tấn và định ngang bằng nhau, giải đãi (kosajja) và phóng
dật (uddhacca) sẽ không có cơ hội sanh khởi. Khi hai pháp này được
quân bình thì sự nhập định (Appannā) sẽ được thành đạt mau lẹ.

Tuy nhiên, không có chuyện niệm quyền vượt trội, chỉ có sự thiếu
vắng niệm mà thôi. Trong kinh tạng, nó được ví như muối, một gia vị
cần thiết trong tất cả món ăn, hoặc như vị đại thần điều hành tất cả
mọi công việc của triều chính. Do đó trong khi duy trì niệm đến mức

 

310                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

tối đa có thể được, thì các quyền còn lại, từng cặp, đức tin và trí tuệ,
tinh tấn và định phải được giữ trong tình trạng ngang bằng nhau, có

một quyền vượt trội là điều bất lợi. Về mặt này, đại đức U Budh, trong
bài Mahā Satipaṭṭhāna - Nissaya của vị ấy đã bình luận như sau:

Đức tin vượt trội sẽ dẫn đến nhiệt tâm thái quá.

Trí tuệ vượt trội sẽ dẫn đến xảo biện.

Tinh tấn quá mức sẽ dẫn đến phóng dật.

Định vượt trội sẽ dẫn đến giải đãi, hôn trầm.

Nhưng không bao giờ có sự vượt trội của Niệm.

(4)  Duppaññapuggala parivajjanam: Tránh tiếp xúc với                                                                                           những

người không có trí tuệ.

(Duppañña nghĩa là người không có trí tuệ để thông hiểu những nhóm pháp như uẩn (khanda), xứ (ayatana), v.v... Ta nên tránh xa những người như vậy).

(5)  Paññavanta puggalasevana: Thân cận với các bậc trí tuệ.

(Bậc trí tuệ là người có năm mươi đặc tánh của trí hiểu biết sự sanh và diệt. Chi tiết về năm mươi đặc tánh của udhaya bhaya ñāṇa (Sanh diệt trí) được tìm thấy trong bộ Patisambhidāmagga).

Trong mục (4) và (5), nhà Chú giải chỉ mô tả loại trí tuệ cao nhất
mà thôi. Ở mục (4), người không có trí tuệ nghĩa là người không thể
thông hiểu các nhóm pháp như uẩn, xứ. Người có trí thông hiểu các
pháp như vậy chỉ có thể là người có trí tuệ lớn. Nhưng có những người
dầu không có trí tuệ thông hiểu những pháp vi tế như uẩn, xứ, vẫn biết
những vấn đề bình thường liên quan đến sự thực hành pháp: “Bố thí
như vậy là thích hợp. Làm như vậy là không thích hợp. Giới nên được
thọ trì như vậy, chúng không nên được thọ trì theo cách khác.” Họ
cũng biết những vấn đề liên quan đến cuộc sống thế tục: “Hành động
như vậy sẽ được trường thọ, hành động như vậy sẽ bị tổn thọ.” Những

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                311

người như vậy không thể xem là hoàn toàn không có trí tuệ. Chúng ta cũng nên thân cận với những người ấy.

Ở mục (5) cũng vậy, theo định nghĩa rằng người trí tuệ là người có năm mươi đặc tánh trí thông hiểu sự sanh diệt (udayabbaya-ñāṇa), nhà Chú giải nói đến trí bậc cao này (ukkattha ñāṇa) là ám chỉ bậc trí tuệ có sự tiến bộ cao nhất trong thiền Minh sát (Vipassanā).

Nhưng nói về việc tu tập trí tuệ, Đức Phật đã giảng dạy trong bộ
Buddhavaṁsa như sau: “Hãy noi gương của vị tỳ khưu đi khất thực
qua tất cả mọi nhà theo thứ tự không phân biệt sang hèn, người tầm

cầu trí tuệ nên đi đến bất cứ ai có thể giải đáp những thắc mắc của
mình, bất chấp địa vị xã hội hay học vấn của người ấy. Do đó hành giả
chỉ nên tránh xa kẻ ngu si và đi đến bất cứ ai có thể giúp hành giả phát
triển trí tuệ.”

Tóm lại, chỉ giới hạn đi lại với những người hoàn toàn không thể trả lời được câu hỏi nào. Ta nên đi đến những người có thể cho mình dù chỉ chút ít kiến thức.

Theo bộ Buddhavaṁsa, trên bước đường tầm cầu trí tuệ, trước hết hành giả nên học hỏi các bậc trí để phát triển trí tuệ bằng sự nghe -
Tuệ văn (Sutamaya paññā). Sau đó nếu có điểm nào chưa rõ ràng thì hành giả nên suy nghĩ và tìm hiểu nó và nhờ vậy có được trí tuệ qua sự suy nghĩ - Tuệ Tư (Cintamaya paññā)

Trong bài pháp Đức Phật thuyết giảng đến người dân Kamala
(Aṅguttara Nikāya, Tikanipāta, Dutiya Paṇṇasaka. 2- Mahāvagga, 5-
Kalama Sutta) các vị Kalama bạch với Đức Phật rằng có nhiều vị pháp
sư đi đến trú xứ của họ, các vị pháp sư này chỉ đề cao giáo lý của họ
và phủ nhận giáo lý của kẻ khác, nên các vị Kalama có sự nghi ngờ và
phân vân không biết nên theo giáo lý nào. Câu trả lời của Đức Phật có
thể được tóm tắt như sau: “Các ngươi nên chấp nhận giáo lý nào mà
sau khi suy xét, các ngươi thấy không có khuyết điểm.”

Hơn  nữa,  trong   Bổn  sanh  Patha,  Dasaka  Nipata,     9-   Mahā
Dhammapāla Jātaka, khi vị đại giáo sư của trường Takkasila đích thân

 

312                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

đi đến ngôi làng Dhammapāla để tìm hiểu xem lý do nào khiến những
người trẻ trong làng không bị chết yểu. Mahādhammapala (vị thôn
trưởng) mà tương lai tái sanh làm vua Suddhodana đã trả lời như sau:
“Chúng tôi lắng nghe tất cả những ai đến thuyết giảng. Sau khi nghe
rồi, chúng tôi nghiền ngẫm lại những điều đã được thuyết giảng.
Chúng tôi không chú ý đến những lời của những người phi đạo đức
thay vì quay mặt với họ. Chúng tôi chỉ chấp nhận giáo lý của những
người có đạo đức và hoan hỷ thực hành theo. Do đó những người trẻ
trong ngôi làng của chúng tôi không bao giờ bị chết yểu.”

Chuyện Bổn sanh này cũng cho thấy rõ rằng người tầm cầu trí tuệ
trước hết phải lắng nghe để có Tuệ văn (Sutamaya ñāṇa), sau đó chỉ
chấp nhận điều gì đã được hiểu chắc là đúng bằng Tuệ tư (Cintamaya
ñāṇa).

Thân cận với các bậc Trí tuệ

Câu nói “Thân cận với các bậc trí tuệ” ở đây không có nghĩa là chỉ đi đến người có trí và ở chung với người ấy cả ngày lẫn đêm. Ý nghĩa là học hỏi và thâu thập một số kiến thức từ người có trí tuệ.

Theo lời khuyên “Không thân cận với kẻ ngu,” ta có thể đến với họ
để khuyên nhủ và thuyết phục họ đi theo con đường chánh. Ví dụ cụ
thể là Đức Phật đã đi đến khu rừng Uruvela để tiếp độ cho nhóm ngoại
đạo.

Như vậy chỉ khi nào người ta chấp nhận và làm theo các pháp của
kẻ ngu, người ấy mới được xem là thân cận với kẻ ngu. Cũng vậy, lời
dạy trong bài Hạnh phúc kinh khuyên chúng ta nên thân cận với các
bậc trí tuệ, không phải là sống chung với họ, mà để thâu thập kiến
thức từ họ dù chút ít.

(6)   Gambhirananacariya paccavekkhana: Quán tánh chất của
Pháp như là chỗ đến của trí tuệ thâm sâu. (Ở đây, trí tuệ giống như
ngọn lửa đốt cháy tất cả những vật dễ cháy dầu lớn dầu nhỏ. Tùy theo
kích cỡ của vật cháy, ngọn lửa được xem là lửa nhỏ hay lửa lớn. Cũng
vậy, trí tuệ biết mọi thứ cần biết; trí tuệ được gọi là nhỏ, rõ ràng hoặc

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                313

thâm sâu tùy thuộc vào cái được biết là nhỏ, rõ ràng hoặc thâm sâu. Pháp làm chỗ đến của trí tuệ thâm sâu gồm có uẩn, xứ, v.v… Trí tuệ khởi sanh từ trí hiểu thấu những chủ đề thâm sâu này là trí thâm sâu. Trí tuệ thâm sâu bao nhiêu thì Pháp thâm sâu bấy nhiêu. Sự quán xét nhiều Pháp thâm sâu này dẫn đến phát triển trí tuệ.)

(7)   Tadadhimuttata: Có khuynh hướng phát triển trí tuệ. (Trong
bốn oai nghi: đi, đứng, nằm và ngồi chỉ nên hướng về sự phát triển trí

tuệ. Có tâm như vậy là một trong những nguyên nhân phát triển trí
tuệ).

Tóm tắt bài kệ của U Budh:

(1)    Hỏi đi hỏi lại.

(2)    Giữ các vật được sạch sẽ.

(3)    Quân bình các quyền.

(4)    Tránh xa kẻ ngu.

(5)    Thân cận các bậc trí.

(6)    Suy xét thâm sâu, và

(7)    Có tâm nghiêng về sự phát triển trí tuệ.

Những đặc tánh của Trí tuệ

(1)    Khi trí tuệ chiếm địa vị ưu trội trong việc thực hành đa phận sự, nó có tên là Vimamsadhipati - Quán Tăng thượng, một trong bốn điều kiện ưu trội.

(2)   Tạo nên các phần cấu thành của 22 Quyền là bốn loại quyền
liên quan đến trí tuệ: (a) Trí tuệ được bao gồm trong 39 tâm hợp thế
tương ưng trí (lokiñāṇa-sampayutta citta) được gọi là Tuệ quyền
(Paññindriya). (b) Trí tuệ câu hữu với tâm khởi sanh vào giai đoạn
chứng ngộ lần thứ nhất (sotāpatti-magga citta) thì được gọi là Vị trí
đương tri căn (Anaññātaññassāmīt’indriya). (c) Trí tuệ khởi sanh
trong tâm quả A-la-hán thì được gọi là Cụ tri căn (Aññātavindriya).

 

314                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

(d) Trí tuệ tương ưng với sáu tâm siêu thế ở giữa (giữa giai đoạn Sotāpanna Arahatta) thì được gọi là Dĩ tri căn (Aññindriya).

Trí tuệ cần được tu tập trong pháp Ba-la-mật chỉ liên quan đến tâm
hợp thế. Như vậy nó được bao gồm trong 13 loại tâm thiện (Kusala
Ñāṇa Sampayutta Citta) của 39 tâm hợp thế tương ưng trí (Lokiñāṇa
Sampayutta Citta). Tâm không chức năng hay tâm Duy tác (Kriyā
Citta) chỉ có trong các vị A-la-hán, nó không liên quan đến các vị Bồ-
tát vẫn còn là phàm phu, chưa thành Phật. Tâm quả (Vipāka Citta)
khởi sanh mà không có cố gắng đặc biệt nào là kết quả của nghiệp quá
khứ. Do đó trí tuệ kết hợp với hai loại tâm này không được xem là Ba-
la-mật. Các vị Bồ-tát chỉ chuyên tâm vào trí tuệ hợp thế để thực hành
viên mãn trí tuệ Ba-la-mật đến mức độ cao nhất.

Trong 37 pháp Trợ bồ đề (Bodhipakkhiya Dhamma) gồm có Ngũ
quyền (Indriya), một trong năm quyền ấy là Tuệ quyền (Paññindriya).
Tuệ quyền này có hai loại: hợp thế và siêu thế. Loại siêu thế này
không được bao gồm trong Trí tuệ Ba-la-mật mà các vị Bồ-tát thực
hành. Chỉ trí tuệ kết hợp với tâm hợp thế, khởi sanh trong khi thực
hiện sự thanh tịnh giới và sự thanh tịnh của tâm trước khi chứng đắc
các trạng thái Đạo Quả là Trí tuệ Ba-la-mật viên mãn của vị Bồ-tát.

(3)   Tương tự, trong bốn thành phần cấu thành của Bồ đề phần gồm có các yếu tố trí tuệ dưới các tên khác nhau. Như vậy Ngũ Lực (Bala) được gọi là Tuệ lực (Paññā bala).

Trong   Tứ   thần   túc,   Tuệ   được   gọi   là   Quán   thần   túc
(Vimaṃsiddhipāda). Trong Thất giác chi (Bojjhanga), Tuệ được gọi là
Trạch pháp giác chi (
Dhammavicaga Sambojjhanga) và trong Bát
thánh đạo (Ariya-magganga), Tuệ được gọi là Chánh tri kiến (Sammā-
diṭṭhi).

Những yếu tố trí tuệ với nhiều tên khác nhau này được tu tập ở hai
mức độ khác nhau - hợp thế và siêu thế. Trí tuệ kết hợp với tâm siêu
thế không được bao gồm trong Trí tuệ Ba-la-mật. Chỉ trí tuệ kết hợp

với tâm thiện hợp thế khởi sanh trong khi thực hiện sự thanh tịnh giới

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                315

và tâm trước khi chứng đắc các trạng thái đạo quả mới được gọi là Trí tuệ Ba-la-mật.

Quán về những đặc tánh này của Trí tuệ, hành giả mới có thể thực hành Trí tuệ Ba-la-mật đến mức độ cao nhất.

Chấm dứt Chương về Trí tuệ Ba-la-mật



E.  TINH TẤN BA-LA-MẬT (VIRIYA PARAMĪ)
                   Sự nỗ lực tinh tấn của Bồ-tát

Trong các vấn đề liên quan đến Tinh tấn Ba-la-mật, các bộ kinh thường lấy ví dụ về con sư tử có bờm, bản tánh của nó thường dốc hết sức tinh tấn khi nó rượt theo con mồi. Nó không vì con mồi nhỏ mà cố gắng ít hơn hoặc con mồi lớn mà cố gắng nhiều hơn. Trong cả hai trường hợp, nó đều cố gắng như nhau.

Theo cách tinh tấn của con sư tử, Bồ-tát khi thực hành Tinh tấn Bala-mật, không vì những phận sự bình thường mà cố gắng ít hơn, hoặc vì những phận sự trọng đại mà cố gắng nhiều hơn. Ngài luôn luôn thể hiện sự tinh tấn cao nhất trong các phận sự dầu nhỏ hoặc lớn.

Ấn tượng sâu đậm về sự tinh tấn trong những kiếp quá khứ của
                                         Đức Phật

Do kết quả của thói quen thực hành tinh tấn đồng đều trong các
công việc lớn nhỏ ở những kiếp làm Bồ-tát của Ngài đến khi đã thành
Phật rồi, Ngài thường có sự tinh tấn đồng đều khi thuyết pháp độ sinh.
Ngay cả khi thuyết pháp tế độ cho chỉ một người, Ngài cũng không hề
giảm bớt tinh tấn và cũng không Tăng thêm tinh tấn khi thuyết pháp
đến người nghe ngồi ở cuối một hội chúng lớn. Trong cả hai trường
hợp, Ngài đều dùng sức tinh tấn như nhau trong giọng nói của Ngài.

Oai lực đặc biệt của Đức Phật

 

316                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Đức Phật có oai lực bất khả tư nghì - giọng của Ngài thốt ra với sức
tinh tấn đồng đều đến tất cả người nghe. Nếu chỉ có một người lắng
nghe Ngài thì chỉ người đó nghe được thời pháp. Khi có nhiều người,
mỗi người dầu ở gần hoặc ở xa Đức Phật đều nghe được giọng nói của
Ngài một cách rõ ràng. (Khi vị đại đệ tử Sāriputta thuyết bài kinh
Samacitta Suttanta, vì hội chúng ngồi nghe quá đông nên giọng bình
thường của Ngài không thể thấu đến tất cả họ, trưởng lão phải vận
dụng thần thông để khiến tất cả họ đều nghe được giọng nói của mình,
tức là trưởng lão phải dùng  giọng  nói lớn của thần thông lực
(
iddhividha abhiññāṇa). Tuy nhiên, Đức Phật thì không cần phải làm
như vậy). Đây là oai lực đặc biệt của Đức Phật.

Mỗi vị Phật đều tự nỗ lực để thực hành viên mãn tinh tấn Ba-la-mật
trong tất cả những kiếp quá khứ làm Bồ-tát của Ngài. Hơn nữa, trong
kiếp chót để thành Phật của Ngài, Ngài đã từ bỏ thế gian và tinh tấn
thực hành các pháp khổ hạnh, khi đến lúc sắp thành Phật, Ngài ngồi
trên chỗ ngồi bằng cỏ dưới cội cây Bồ đề và đem hết tinh tấn để phát
nguyện rằng: “Dầu chi còn da, dầu chỉ còn gân, dầu chỉ còn xương,
dầu tất cả máu và thịt đều khô queo, ta cũng không rời khỏi chỗ ngồi
này cho đến khi nào chứng đắc Nhất thiết trí (
sabbaññuta-ñāṇa) mới
thôi.”

Qua sự tinh tấn này, Ngài đã phát triển tuệ quán hùng mạnh như sấm sét (Mahā Vājira Vipassanā Ñāṇa - Đại kim cang quán trí) khiến Ngài có thể giác ngộ đầu tiên luật Duyên khởi, theo sau là tuệ thông đạt ba đặc tánh vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta) của danh và sắc (rūpanāma).

Tinh tấn (viriya) cũng như trí tuệ (paññā), là một sở hữu đồng sanh,
nhưng như đã giải thích ở trước, trí tuệ luôn luôn kết hợp với tâm
thiện, còn tinh tấn là loại sở hữu Tạp (
pakiṇṇaka cetasika), kết hợp
với cả tâm thiện lẫm tâm bất thiện. Nó cũng thuộc loại vô ký
(abyākata), không thiện cũng không bất thiện. Kết quả là tinh tấn có
khi là thiện, có khi là bất thiện và có khi là vô ký. Tinh tấn trong thiện
pháp được gọi là chánh tinh tấn (
sammā vāyāma). Tinh tấn được dùng

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                317

trong các mục đích bất thiện thì được gọi là Tà tinh tấn (micchā vāyāma). Trong pháp tinh tấn Ba-la-mật, chỉ có Chánh tinh tấn mới được tu tập đến mức cao nhất.

Sammāppadhāna (Chánh cần)

Chánh tinh tấn (Sammā vāyāma) cũng được gọi là Chánh cần
(Sammāppadhāna). Ý nghĩa giống nhau. Trong bài nói về Chánh cần
của bộ Abhidhamma Vibhaṅga, Đức Phật đã giải thích bốn loại Chánh
cần như sau:

1. Dù ở đâu, trong lúc nào, với bất cứ đối tượng nào, sự tinh tấn
    
luôn luôn có mặt để ngăn chặn điều ác chưa sanh không cho

sanh khởi, hoặc đối với điều ác mà người ta không thể nhớ lại là đã khởi sanh lúc nào đó, nơi nào đó, với đối tượng nào đó.

2. Tinh tấn đoạn diệt điều ác đã khởi sanh. (Thực tế thì không thể
    
đoạn diệt điều ác đã khởi và diệt mất rồi. Điều ác đã sanh trong

quá khứ đã diệt rồi, nó không còn hiện hữu. Cái không hiện hữu
thì người ta không thể đoạn diệt nó được. Điều cần thiết ở đây là
ta nên cố gắng ngăn chặn không cho sanh khởi ác nghiệp mới có

tánh chất giống như ác nghiệp đã sanh khởi trước kia).

3. Tinh tấn làm cho sanh khởi thiện nghiệp mà chưa sanh hoặc đã
    
sanh khởi rồi mà người ta không thể nhớ lại được.

4. Tinh tấn duy trì và phát triển thêm nữa thiện nghiệp đã sanh lên
     rồi hoặc đang sanh. (Ở đây cũng vậy, điều cần hiểu là tinh tấn

làm cho sanh khởi tiếp tục thiện nghiệp có tánh chất tương tự như thiện nghiệp đã sanh lên rồi).

Mười một yếu tố phát triển tinh tấn

Bộ  Chú  giải   Satipatthāna  Vibhanga  và  bộ   Chú  giải   Mahā Satipatthāna Sutta mô tả về bảy yếu tố phát triển tinh tấn như sau:

(1) Quán xét về những đau khổ trong các khổ cảnh (Apaya bhaya
    
paccavekkhanata).

 

318                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Sự tinh tấn sẽ phát khởi trong người có sự suy xét như vầy: “Nếu ta
suy giảm tinh tấn thì ta có thể bị đọa vào các khổ cảnh. Trong bốn khổ
cảnh, nếu ta bị rơi vào địa ngục, ta sẽ lãnh thọ nhiều đau đớn của
nhiều cực hình khủng khiếp. Hoặc nếu ta bị đọa vào cõi súc sanh, ta
phải chịu hình thức ngược đãi của con người. Hoặc nếu ta bị sanh làm
ngạ quỷ (
peta-loka) thì ta sẽ bị đói khát lâu dài suốt thời kỳ giữa hai vị
Phật. Hoặc nếu ta bị sanh vào hội chúng A-tu-la (
asura loka), với thân
hình khổng lồ, cao sáu mươi đến tám mươi hắc tay nhưng chỉ có da và
xương mà thôi, ta phải thọ lãnh cái khổ nóng, lạnh và gió. Nếu bị rơi
vào một trong bốn đọa xứ này, ta sẽ không còn cơ hội để tu tập Tứ
Chánh cần. Kiếp sống này là cơ hội để tu tập Tứ Chánh cần. Kiếp
sống này là cơ hội duy nhất để ta phát triển tinh tấn.”

(2)  Nhận   biết   những   lợi   ích   phát   sanh   từ   sự   tinh   tấn
       
(Ānisamsadassāvitā).

Sự tinh tấn sẽ phát sanh trong người, nhờ xét lại và thấy những lợi
ích của tinh tấn, đã thấy như vầy: “Người lười biếng không bao giờ có
thể thoát ra khỏi vòng luân hồi (saṃsāra) và chứng đắc các tầng Đạo
Quả, chỉ những người siêng năng mới có thể chứng đắc những pháp
ấy. Kết quả lợi ích của sự tinh tấn là chứng đắc các tầng Đạo Quả mà
rất khó giác ngộ được.”

(3) Suy xét lại con đường mà có người đã đi qua. (Gamanavīthi
     
paccavekkhanatā).

Tinh tấn sẽ phát khởi và Tăng trưởng trong người có sự suy xét như vầy: “Tất cả chư Phật, chư Độc giác và chư Thinh văn đệ tử Phật đều giác ngộ mục tiêu tối thượng nhờ đi theo con đường tinh tấn. Sự tinh cần là con đường ngay thẳng được các bậc Thánh đi qua. Kẻ lười biếng không thể đi theo con đường này, chỉ có những người siêng năng mới đi vào con đường này.”

(4)   Tôn    trọng    vật    thực    cúng    dường    của    thiện    tín.
       
(Piṇḍapātāpacāyanatā).

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                319

Yếu tố này là mối quan tâm đặc biệt của các vị tỳ khưu. Sự tinh tấn
sẽ phát triển trong người biết xem trọng vật thực do thiện tín dâng
cúng bằng cách suy xét như vầy: “Những thiện tín này không phải là
quyến thuộc của ta. Họ cúng dường vật thực đến ta không phải vì họ

muốn kiếm sống nhờ vào ta. Họ làm như vậy chỉ vì phước sẽ phát
sanh do sự cúng dường đến Tăng. Đức Phật không cho phép chúng ta
ăn vật thực bố thí một cách khinh suất, vô trách nhiệm hoặc để sống
cuộc sống nhàn nhã. Ngài cho phép các vị tỳ khưu dùng nó chỉ vì mục
đích thực hành pháp để thoát khỏi luân hồi. Vật thực bố thí không phải
dành cho kẻ lười biếng. Chỉ những người siêng năng mới xứng đáng
thọ lãnh nó.

(5)   Quán về tánh chất cao quý của sự thừa tự (Dāyajjamahatta
       
paccavekkhanatā).

Tinh tấn sẽ phát triển trong người có sự quán xét như vầy: “Di sản của Đức Phật được gọi là ‘tài sản của những bậc giới đức’ mà đệ tử của Đức Phật tiếp nhận, gồm có bảy loại - đức tin (saddhā), giới (sīla), sự học hỏi (suta), sự dứt bỏ (cāga), trí tuệ (paññā), hỗ thẹn tội lỗi (hiri) và, ghê sợ tội lỗi (ottappa)

Những kẻ lười biếng không thể thừa hưởng di sản của Đức Phật. Cũng như những đứa con hư đốn bị cha mẹ từ bỏ thì không được thừa hưởng gia tài. Cũng vậy những kẻ lười biếng không thể thọ nhận tài sản của những bậc giới đức là di sản từ Đức Phật. Chỉ những người siêng năng mới xứng đáng thọ hưởng của thừa tự này.

(6) Quán   về   tánh   cao   quý   của   Đức   Phật,   bậc   Đạo   sư
    
(Satthumahatta paccavekkhanatā).

Sự tinh tấn sẽ phát triển trong người có sự quán xét như vầy: “Bậc
Đạo sư của ta là Đức Phật, rất cao quý đến nổi mười ngàn thế giới đã
rung chuyển vào lúc Ngài nhập thai (khi còn là Bồ-tát trong kiếp cuối

của Ngài), khi Ngài từ bỏ thế gian, khi Ngài thành đạo, khi Ngài
Chuyển pháp luân, khi Ngài thị hiện Song thông tại Sāvatthi để nhiếp

 

320                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

phục ngoại đạo, khi Ngài đi xuống từ cung trời Đao lợi, khi Ngài từ bỏ thọ hành (Āyusaṅkhāra) và khi Ngài viên tịch. Là đứa con của một vị Phật như vậy, ta có nên dể duôi, lười biếng mà không tự mình cố gắng thực hành giáo pháp của Ngài không?

(7) Quán tánh cao quý của dòng phái của mình (Jāti mahatta
     
paccavekkhanatā).

Tinh tấn sẽ phát triển trong người có sự quán xét như vầy: “Dòng
dõi của ta không phải là thấp hèn. Ta có tổ tiên là vị vua đầu tiên
Mahāsammata thuộc giai cấp thượng đẳng và thuần chủng. Ta là anh
em của Rāhula, cháu nội của vua Suddhodana và Hoàng hậu Mahā
Māyā ở hoàng cung của vua Okkāta, là một trong những người con
cháu của vua Mahāsammata, Rāhula là con trai của Đức Phật. Từ khi
ta trở thành con của Đức Phật thuộc dòng Sakya, chúng ta là anh em,
đã trở thành người của dòng tộc cao quý như vậy, ta không nên sống

cuộc sống lười biếng mà phải tinh tấn thực hành giáo pháp cao
thượng.”

(8)   Quán tánh cao quý của những bậc phạm hạnh trong Tăng chúng (Sabrahmacārīmahatta paccavekkhanatā).

Sự tinh tấn sẽ phát triển trong người có sự suy xét như vầy: “Những
bậc phạm hạnh trong chúng Tăng của ta, tôn giả Sāriputta và Mahā
Moggallāna cũng như tám mươi vị Đại đệ tử, là những bậc đã thực
hành giáo pháp cao thượng, đã chứng ngộ các thánh Đạo và thánh
Quả. Ta nên thực hành theo con đường của các bậc phạm hạnh ấy.”

(9) Tránh    xa    những    kẻ    lười    biếng    (Kusīta    puggala
     
parivajjanata).

Tinh tấn sẽ phát triển trong người tránh xa những kẻ lười biếng -
những người không chịu làm các thiện nghiệp về thân, ngữ và ý, chỉ nằm lăn ra ngủ như con trăn đã ăn no bụng.

(10) Thân cận với những người siêng năng, tinh tấn (Aradha
       
vīriya puggala sevanatā).

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                321

Tinh tấn sẽ phát triển trong người thường thân cận với những bậc
siêng năng và tinh tấn, nhiệt tâm tinh cần trong sự thực hành pháp.

Những người có quyết tâm (pahitatta) một khi đã quyết định làm
điều gì thì làm tới cùng (nếu chưa thành công vẫn kiên trì cho đến
chết). Những người thiếu quyết tâm thì ngay khi mới bắt đầu công

việc cũng do dự với ý nghĩ rằng: “Không biết làm việc này có thành
công hay không?” Trong khi thực hiện một công việc, nếu mục đích

khó thành đạt, người ấy thường thối chí với ý nghĩ rằng: “Dù ta có tiếp
tục công việc, ta cũng không thể thành công.” Và như vậy họ từ bỏ
tinh tấn.

(11)  Có khuynh hướng phát triển tinh tấn trong cả bốn oai nghi (Tad
         adhimuttatā
).

Tinh tấn sẽ phát triển trong người luôn luôn tự nhắc mình phải để tâm trong cả bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi.

Đây là mười một yếu tố phát triển Tinh tấn.

Nền tảng chính của sự Tinh tấn

Nền tảng chính của sự Tinh tấn là tâm kinh cảm (saṃvega). Kinh cảm có ba loại:

(1)   Cittutrāsa Saṁvega

(2)   Ottappa Saṁvega

(3)   Ñāṇa Saṁvega

 

(1) Cittutrāsa Saṁvega

Sự dao động của tâm do sợ hãi mối nguy hiểm từ voi, cọp, khí giới như gươm, giáo, v.v... được gọi là “Cittutrāsa Saṁvega”. Theo tạng Abhidhamma, đó là sở hữu sân (dosa). Sân yếu thì sợ hãi sanh khởi, sân mạnh thì hung hăng sanh khởi.

(2) Ottappa Saṁvega

Sợ làm điều ác là Ottappa Saṃvega. Đó là loại sở hữu thiện (sobhana cetsika)

 

322                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

(3) Ñāṇa Saṁvega

Sợ hãi như là trạng thái kinh cảm và nhàm chán do quán về nhân
quả thì được gọi là
ñāṇa saṁvega (tuệ uý). Đó là loại sợ hãi luân
hồi khởi sanh trong những người giới đức. Trong các bộ kinh,
ñāṇa saṁvega cũng được mô tả là trí tuệ câu hữu với trạng thái
ghê sợ tội lỗi.

(Nếu tính thêm Dhamma Saṁvega - Pháp úy là trí của vị A-la-hán khởi sanh kéo theo trạng thái kinh cảm khi thấy những mối nguy hiểm của các pháp hữu vi, ta sẽ có bốn loại saṁvega.)

Trong những loại saṁvega này, chỉ có ñāṇa saṁvega mới được
xem là nền tảng chính của sự tinh tấn. Khi người ta thấy những mối
nguy hiểm của luân hồi qua trí tuệ và khởi sanh sự kinh cảm, chắc
chắn người ta sẽ tinh tấn hành pháp để thoát khỏi những mối nguy

hiểm này. Không có trí tuệ như vậy thì sẽ không có sự tinh tấn trong
pháp hành giải thoát.

Ngay cả trong đời sống thế tục hằng ngày, một cậu học sinh vì sợ đói nghèo, cậu ta là người có Tuệ úy, sẽ làm việc chăm chỉ nhờ suy xét như vầy: “Nếu sau này lớn lên mà không có trình độ học vấn thì ta sẽ chịu cảnh nghèo khổ.”

Nhưng tuệ úy ở đây chỉ áp dụng cho sự tu tập Tinh tấn Ba-la-mật. Như đã nêu ra, có hai loại Tinh tấn: Tinh tấn trong thiện pháp và Tinh tấn trong bất thiện pháp. Tinh tấn cần thiết cho một hành động bất thiện cũng do cảm giác kinh sợ gây ra (saṃvega). Nhưng đó là Cittutrāsa Saṃvega, không phải Ñāṇa Saṃvega.

Một kẻ lười biếng, khi kẹt tiền, có thể cố gắng đi ăn cắp. Người ấy không thể khởi sanh thái độ chân chánh (yoniso manasikāra). Đây là ví dụ về sự tinh tấn khởi sanh do sự kinh sợ, cittutrāsa saṁvega. Người không có tác ý khéo léo hay thái độ chân chánh sẽ có sự cố gắng bất chánh để ngăn chặn những bất hạnh có thể xảy đến cho anh ta. Nhưng người có tâm chân chánh sẽ không cố gắng làm các việc ác. Người ấy luôn luôn phấn đấu làm các việc thiện.

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                323

Như vậy Tinh tấn có nền tảng là sự kinh sợ (saṁvega) và chính tác ý hay thái độ quyết định sự tinh tấn là thiện hay bất thiện.

Nói về Ba-la-mật, tinh tấn bất thiện không được xét đến, chỉ có tinh tấn thiện, vô tội mới được xem là Ba-la-mật.

Khi chúng ta xét đến Tứ chánh cần, xem ra chỉ có tinh tấn tạo ra các việc thiện mới là Ba-la-mật, nhưng dầu sự tinh tấn có thể không đem lại kết quả là những hành thiện, nếu nó không phải là tinh tấn bất chánh cũng không phải loại tinh tấn tạo ra những hành động thiện, nó vẫn được xem là Tinh tấn Ba-la-mật.

Chú giải trích dẫn câu chuyện Mahājanaka làm ví dụ về sự tinh tấn
vượt bực trong pháp Ba-la-mật. Bồ-tát là hoàng tử Janaka, đã tinh tấn

bơi lội trong đại dương suốt bảy ngày (khi chiếc thuyền của Ngài bị
chìm). Sự tinh tấn của Ngài không phải do ước muốn làm các việc
thiện hoặc bố thí, trì giới hoặc tu thiền. Nó cũng không phải là sự tinh
tấn cho kết quả là sự khởi sanh những trạng thái bất thiện như tham,
sân hoặc si mê và như vậy nó có thể được xem là sự tinh tấn vô tội. Sự
tinh tấn vượt bậc của hoàng tử Janaka được xem là Tinh tấn Ba-la-
mật.

Khi chiếc thuyền sắp bị đắm, bảy trăm người trên chiếc thuyền
khóc lóc, kêu la trong tuyệt vọng mà chẳng cố gắng để vượt qua tai
họa. Hoàng tử Janaka, không giống như những người tùy tùng đi
chung của mình, đã tự nghĩ rằng: “Khóc lóc và kêu la trong sợ hãi khi
đối mặt với nguy hiểm không phải là cách của các bậc trí tuệ. Người
có trí tuệ phải cố gắng cứu mình chống chọi với nguy hiểm sắp xây ra.
Người có trí tuệ như ta phải cố gắng bơi qua biển cả để đến chỗ an
toàn.” Với quyết tâm không chút nao núng, Ngài can đảm bơi qua
biển cả. Được hướng đạo và thôi thúc bởi ý nghĩ cao thượng như vậy,
việc làm ấy rất đáng khen ngợi.

Chư vị Bồ-tát trong mỗi kiếp sống thường làm điều mà các Ngài
phải làm một cách gan dạ, không nao núng. Không chỉ trong những
kiếp tái sanh làm người, mà ngay cả khi tái sanh làm bò, Bồ-tát cũng

 

324                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

tinh tấn làm các việc (Pātha Jātaka, Ekaka Nipāta, 3 - Kuru Vaggas).
Trong kiếp ấy, Bồ-tát sanh làm một con bò đực mạnh mẽ, cương kiện,
tên là Kanha, do lòng biết ơn một bà lão đã nuôi nấng, chăm sóc Ngài,
Ngài đã dùng sức tinh tấn kéo đi năm trăm cỗ xe chở đầy hàng hóa
vượt qua vũng sình lớn.

Dầu làm súc vật nhưng sự tu tập tinh tấn Ba-la-mật của Bồ-tát cũng
không bị gián đoạn. Khi tái sanh làm người. Khuynh hướng thể hiện
tinh tấn vẫn mạnh mẽ trong vị Bồ-tát. Những khó khăn cực kỳ mà
Ngài trải qua do phải thực hiện nhiều cố gắng để chiếm cảm tình của
công chúa Pabhavatī (Nàng đã bỏ chạy khi trông thấy tướng mạo xấu
xí của Ngài dù trong kiếp ấy Ngài là vua Kusa). Đó là những tấm
gương về sự tinh tấn có quyết tâm của Bồ-tát, không chịu đầu hàng
khi đối mặt với những khó khăn. Khuynh hướng phát triển tinh tấn
tiềm tàng trong người của Bồ-tát vẫn đi theo Ngài trong tất cả những
kiếp luân hồi.

Đời sống của Bồ-tát Mahosadha

Các bộ kinh nêu ra câu chuyện về Mahosadha để cho thấy sự thực hành Trí tuệ Ba-la-mật của Bồ-tát.

Nhưng trong chính kiếp ấy, Bồ-tát cũng tu Tinh tấn Ba-la-mật. Nói
chung, Bồ-tát xem trí tuệ như là kim chỉ nam trong mọi hành động của
Ngài. Nhưng một khi đã có quyết định chắc chắn rồi thì tinh tấn liên
tục hiện diện. Những sự nỗ lực như vậy Bồ-tát Mahosadha dầu không
phải để làm các phước như bố thí, trì giới hoặc tham thiền, chúng vẫn

được xem là Tinh tấn Ba-la-mật vì những sự tinh tấn ấy đem lại lợi ích
cho những kẻ khác.

Những sự nỗ lực của Bồ-tát Mahosadha

Người ta có thể thắc mắc rằng phải chăng một số nỗ lực của Bồ-tát
Mahosadha không đem lại đau khổ cho kẻ khác. Ví dụ như khi vua
Culani Brahmadatta đem mười tám đội binh hùng hậu bao vây kinh

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                325

thành Mithilā, Bồ-tát Mahosadha đã bày ra một mưu mẹo gây rối loạn hoàn toàn cho đại hùng binh kia, khiến cho vua Cūlani Brahmadatta và những đội binh hùng hậu của vị ấy phải chịu nhiều khốn đốn. Như vậy chúng ta có nên chê trách Bồ-tát Mahosadha là đã cố gắng làm cho những kẻ thù của mình phải khổ sở.

Để trả lời câu hỏi ấy, hãy xét ví dụ sau đây về việc làm con rắn
hoảng sợ khi sắp chộp một con nhái. Một số người cho rằng việc làm
vậy là đáng chê trách vì làm vậy con nhái chắc chắn sẽ thoát khỏi
nguy hiểm, nhưng con rắn phải chịu đói. Đức Phật dạy rằng Tư là yếu
tố quyết định trong hoàn cảnh như vậy. Nếu người ta dọa con rắn bỏ
chạy để khiến nó phải chịu đói thì hành động ấy đáng chê trách.
Ngược lại nếu người ta hành động chỉ để giúp con nhái thoát khỏi
nguy hiểm mà không có ý làm hại con rắn thì hành động ấy hoàn toàn
vô tội.

Lại nữa, trong bộ Midinda Vấn Đạo, đức vua hỏi đại đức Nagasena
(Na-tiên) rằng: “Bạch đại đức, phải chăng Đức Phật đã biết Devadatta

(Đề-bà-đạt-đa) sẽ chia rẻ Tăng nếu ông ta được thâu nhận vào Tăng
chúng. Nếu đã biết như vậy, tại sao Đức Phật vẫn thâu nhận ông ta
vào Tăng chúng. Nếu không được thâu nhận thì ông ta sẽ không thể
chia rẻ Tăng.”

Đại đức Nagasena trả lời: “Tâu đại vương, Đức Phật quả thực đã
biết trước rằng Devadatta sẽ gây chia rẻ Tăng, nhưng Đức Phật cũng
biết rằng nếu Devadatta không được thâu nhận vào Tăng chúng, hắn
sẽ phạm phải những ác nghiệp như chấp theo “Quyết định tà kiến”
(niyata micchādiṭṭhi). Do đó với quả của sự chia rẻ Tăng thì quả của
những nghiệp còn tệ hại hơn nhiều. Tội chia rẻ Tăng chắc chắn sẽ đưa
Devadatta đọa xuống địa ngục, nhưng thời gian chịu khổ có giới hạn.
Còn nếu ở ngoài Tăng chúng thì do những ác nghiệp ông chấp theo
“Quyết định tà kiến”, ông sẽ chịu khổ ở địa ngục vô hạn định. Do thấy
trước nỗi khổ có giới hạn này của Devadatta mà Đức Phật vì lòng bi
mẫn đã thâu nhận hắn vào Tăng chúng.

 

326                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Cũng  vậy,  nhờ  làm  rối  loạn  đại  hùng  binh  của  vua  Cūlani
Brahmadatta mà tránh được một trận can qua, và như vậy Mahosadha
đã cứu được quốc độ của mình thoát khỏi sự tiêu diệt hoàn toàn. Ngài

làm như vậy là đem lại lợi ích cao nhất cho cả hai bên và hoàn toàn
không thể bị chê trách.

Những đặc tánh của Tinh tấn

1. Khi Tinh tấn chiếm địa vị ưu việt trong sự thực hành đa phận sự, nó có tên là Tinh Tấn Tăng Thượng (Viriyādhipati), một trong bốn điều kiện nổi bật (Adhipati).

2. Nó là thành phần cấu tạo trong 12 Quyền (Indriya) và được gọi là Tấn quyền (Vīriyindriya). Nhưng chỉ tinh tấn kết hợp với tâm thiện hợp thế mới được xem là Tinh tấn Ba-la-mật. Trong Ngũ quyền của pháp Trợ bồ đề cũng vậy, Tấn quyền, cũng như trường hợp Tuệ quyền (Paññindriya) được xem là Ba-la-mật chỉ khi nào nó bao gồm trong những pháp thanh tịnh hợp thế (thuộc giới và tâm).

Về Tứ Chánh cần (Sammappadhāna), chỉ tinh tấn trong pháp thanh tịnh hợp thế mới được xem là Ba-la-mật.

3. Yếu tố tinh tấn ở trong Ngũ lực (bala) thì được gọi là Tấn lực
(vīriya bala). Ở trong Tứ Thần túc (iddhipada), nó là Tinh tấn thần túc
(
vīriyiddhipāda). Trong Thất giác chi (bojjhaṅga), nó là Tinh tấn giác
chi (vīriya-sambojjhaṅga) và trong Bát thánh đạo (ariya-maggaṅga),
nó là Chánh Tinh tấn (sammā-vāyāma). Tinh tấn và những tên khác
nhau này được xem là Tinh tấn Ba-la-mật, chỉ kết hợp với tâm thiện
hợp thế khởi sanh trong khi làm phận sự thanh tịnh hợp thế.

Nhờ quán về những đặc tánh này của Tinh tấn, quí vị có thể thực hành Tinh tấn Ba-la-mật đến mức cao nhất.

Chấm dứt Chương về Tinh tấn Ba-la-mật



F.  NHẪN NẠI BA-LA-MẬT (KHANTĪ  PĀRAMĪ)

 

Nhẫn nại được nói đến trong kinh tạng là ‘Chịu đựng sự khen chê bằng tâm nhẫn nại’ (Sammānāvamānakkhamo). Ta không nên bị kích động phấn chấn khi gặp cảnh khả ái cũng không nên buồn phiền khi gặp cảnh trái ý nghịch lòng.

Ý nghĩa chính ở đây là: Chúng ta thực sự nhẫn nại chỉ khi đối diện với những cảnh vừa lòng mà không khởi tâm tham và không sân giận khi gặp cảnh trái ý.

Tuy nhiên, về Nhẫn nại Ba-la-mật, các bộ Chú giải thường dùng từ
Nhẫn nại Ba-la-mật (Khantī Pāramī) trong các câu chuyện minh họa
để nói về sự kham nhẫn về lời nói và hành động khích bác của kẻ khác
mà không khởi sanh sân hận. Chú giải bộ Hạnh tạng (Cariyāpiṭaka) ở
mục Tạp Phẩm trình bày như sau: “
Karuṇūpāyakosallapariggahitaṃ
sattasaṅkhārāparādhasahanaṃ    adosappadhāno    tadākārappavatta-
cittuppādo khanti-pāramitā.
”  Nhóm tâm và những sở hữu câu sanh
của nó kết hợp với việc nhẫn nại những điều sái quấy của kẻ khác, sở
hữu vô sân (adosa-cetasika) chiếm địa vị ưu trội với pháp bi mẫn và
phương tiện thiện xảo hỗ trợ được gọi là Nhẫn nại Ba-la-mật, nghĩa là
nhóm tâm và những sở hữu của nó hình thành sự nhẫn nại đối với
những lỗi lầm của chúng sanh thì được gọi là Nhẫn nại Ba-la-mật.

Bộ Mūla Tīkā trong bài bình giải về năm pháp thu thúc (giới, chánh niệm, trí tuệ, nhẫn nại, tinh tấn) được giải thích tóm tắt trong bộ Aṭṭhasālinī, đã định nghĩa sự thu thúc của nhẫn nại như sau: “Khanti adhivāsana; sā ca tatha pavattā khandhā; paññāti eke, adoso eva vā.” Khantī có nghĩa là nhẫn nại. Sự nhẫn nại ấy thực sự là bốn danh uẩn được hình thành trong dạng nhẫn nại như vậy. Một số các vị A-xà-lê cho rằng đó là trí tuệ hoặc chỉ là sở hữu vô sân.

Một số học giả quan niệm rằng: “Lời sách tấn trong các bộ kinh
Pāḷi là ‘hãy chịu đựng sự khen chê với tâm nhẫn nại’ xem ra ám chỉ
rằng ta nên chịu đựng việc khen ngợi cũng như chê bai. Nhưng trong
kinh nghiệm thực tế, người ta dễ bất bình và tức giận khi người ấy bị
quở trách, chê bai; không ai có những thái độ như vậy khi được khen

 

ngợi, tôn kính. Do đó từ nhẫn nại nên được dùng chỉ khi nào người ta không tỏ thái độ nóng giận trong hoàn cảnh mà thường làm cho nhiều người nóng giận.

Nếu xét câu Pāḷi trên theo nghĩa đen, tức là đồng hóa Nhẫn nại Ba-
la-mật với Xả Ba-la-mật, không có sự khác biệt giữa hai Ba-la-mật
này.

Vì sách mà những học giả này trích dẫn là bộ Chú giải Cariyāpiṭaka và Mūla Ṭīkā nên quan điểm của họ không thể bỏ qua.
    Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Nhẫn nại được xem là chịu đựng sự đối xử của kẻ khác, trong khi Xả là bình thản trước chúng sanh, không thương cũng không ghét.

Đại đức Ledi Sayadaw trong cuốn Maṅgala Sutta Nissaya của vị ấy đã định nghĩa Khantī như sau: “Không cảm thấy vui mừng phấn khởi khi đối diện với tình cảnh vừa lòng, nhẫn nại và không nóng giận khi gặp   khó   khăn.”   Định   nghĩa   này   phù   hợp   với   lời   sách   tấn sammānāvamānakkhamo”.

Để dung hoà bài trình bày của Chú giải và Kinh: Chư Bồ-tát bản chất  nghiêm túc. Những cảm thọ dễ chịu hay hoàn cảnh an vui không làm cho các Ngài khởi tâm tham. Các Ngài đã quen bất động trước chúng mà không phải tạo ra cố gắng đặc biệt để kềm chế tâm. Tuy nhiên, khi đối mặt bới những biến cố xấu bất ngờ xảy đến, các Ngài phải tạo ra cố gắng đặc biệt để nhẫn nại chịu đựng chúng ngõ hầu thành tựu Nhẫn nại Ba-la-mật của các Ngài.

Chư vị Bồ-tát, khi đang thực hành Nhẫn nại Ba-la-mật, thường phải
nhẫn chịu những điều vừa lòng cũng như nghịch ý để tham và sân
không sanh khởi. Cho nên, lời sách tấn được nêu ra trong kinh là nhận
sự khen ngợi mà không phát khởi tham và chịu đựng những lời mắng
nhiếc và bạc đãi mà không phát khởi sân. Nhưng đối với những vị Bồ-
tát có tâm chín chắn sống trong vui sướng mà không động lòng tham
là chuyện bình thường, chẳng có gì lạ. Do đó, Chú giải khi nói về
Nhẫn nại Ba-la-mật chỉ bàn về sự Nhẫn nại trong những hoàn cảnh

 

bức xúc, người bình thường khó chịu đựng. Xét theo cách này, không
có sự bất đồng giữa sự trình bày trong Chú giải và giáo lý trong Kinh.

Bản chất của Nhẫn nại

Nhẫn nại là nhóm tâm và sở hữu của nó có sở hữu vô sân (adosa
cetasika) dẫn đầu, có đặc tánh vô sân, không phải là thực thể cùng tột
riêng biệt như Trí tuệ hoặc Tinh tấn. Tuy nhiên, khi chính nó được
xem là sở hữu vô sân, dĩ nhiên nó là pháp Chân đế như Trí tuệ hoặc
Tinh tấn.

Dù nhẫn nại (khantī) là sở hữu vô sân (adosa cetasika) nhưng
không phải mọi trường hợp vô sân đều là nhẫn nại. Trong mọi sự sanh
khởi tâm ‘đẹp’ (sobhana) đều có sở hữu vô sân nhưng nó chỉ được gọi
là nhẫn nại nếu nó giữ vai trò ngăn chặn sân hận khi có kẻ khác khiêu
khích. Nếu tâm đẹp sanh khởi do bất cứ nguyên nhân nào khác thì sở
hữu vô sân (
adosa cetasika) câu sanh với tâm đẹp ấy không được gọi
là nhẫn nại.

Sự nhẫn nại của Đại đức Puṇṇa

Thái độ của đại đức Puṇṇa được xem như là tấm gương tốt về sự
nhẫn nại để mọi người noi theo. Sau đây là câu chuyện tóm tắt. Một
thuở nọ, lúc Đức Phật còn tại tiền, đại đức Puṇṇa đi đến bạch với Đức
Thế Tôn rằng vị ấy muốn đến xứ Sunāparanta và sống ở đó. Đức Phật

hỏi đại đức:

“Này Puṇṇa, dân xứ Sunāparanta thô lỗ và cộc cằn, nếu họ mắng ngươi thì ngươi sẽ làm gì?”

Trưởng lão đáp lai:

“Bạch Đức Thế Tôn, nếu họ mắng con thì con sẽ xem họ là những người tốt, con sẽ kiềm chế sân hận và nhẫn nại với ý nghĩ rằng: “Họ là những người tốt, là những người rất tốt, họ chỉ chửi mắng ta mà không đánh đập ta bằng nắm đấm và cùi chỏ.”

Đức Phật hỏi tiếp:

 

“Này Puṇṇa, giả sử dân xứ Sunāparanta đánh đập ngươi bằng nắm đấm và cùi chỏ thì ngươi sẽ làm gì?”

“Bạch đức Thế Tôn, con sẽ xem họ là những người tốt, con sẽ kiềm chế sân hận và nhẫn nại với ý nghĩ rằng: “Họ là những người tốt, là những người rất tốt, họ chỉ đánh đập ta bằng nắm đầm và cùi chỏ mà không ném đá vào ta.”

(Đức Phật lại hỏi thêm vị ấy rằng nếu họ ném đá, đánh bằng cây gậy, chặt tay, chặt chân, móc mắt, xẻo mũi, v.v... thậm chí giết chết vị ấy thì vị sẽ làm gì?)

Trưởng lão đáp lại rằng:

“Bạch Đức Thế Tôn, con sẽ kiềm chế cơn nóng giận, nhẫn nại chịu đựng với ý nghĩ rằng: ‘Những đệ tử của Đức Thế Tôn như đại đức Godhika, đại đức Channa, v.v... vì nhàm chán, xấu hổ và ghê tởm tấm thân và đời sống, đã phải tự sát. Con may mắn hơn các vị ấy vì có người giết giùm, không phải tự sát.”

Khi ấy Đức Phật khen ngợi những câu trả lời của trưởng lão và chúc phúc cho vị ấy (Majjhima Nikāya Uparipaṇṇāsa, 5-Salāyatana Vagga, 3-Puṇṇovāda Sutta).

Lại nữa, trong bổn sanh Pātha Jātaka, Sattālīsa Nipāta, Sarabhaṅga Jātaka, Sakka, vua của chư thiên, hỏi ẩn sĩ Sarabhaṅga như sau: “Hỡi ẩn sĩ của dòng Koṇdañña, người ta giết chết cái gì mà không phải ăn năn, hối hận? Người ta phải đoạn diệt cái gì để được các bậc giới đức khen ngợi? Người ta giỏi nhẫn nại chịu đựng những lời mắng chửi thô lỗ của ai? Xin hãy trả lời những câu hỏi này.”

Bồ-tát, tức ẩn sĩ Sarabhaṅga, đáp lại rằng:

“Người ta có thể giết chết sân hận mà không phải ăn năn. Người ta có thể đoạn diệt tánh vô ơn bạc nghĩa để được các bậc Bồ-tát đức khen ngợi. Người ta nên nhẫn nại chịu đựng lời mắng nhiếc, thô lỗ của bất cứ ai lớn hơn, ngay bằng hoặc nhỏ hơn mình. Các bậc giới đức gọi đây là hình thức nhẫn nại cao nhất.”

 

Sakka lại hỏi:

“Thưa ẩn sĩ, đối với lời mắng chửi, thô lỗ của những người lớn hơn, ta có thể nhẫn nại chịu đựng được, nhưng làm sao có thể nhẫn nại với những lời hỗn láo của những kẻ nhỏ hơn mình?”

Bồ-tát trả lời:

“Người ta có thể chịu đựng sự khiếm nhã của những người lớn hơn
do sợ hãi hoặc lời mắng nhiếc của những kẻ ngang bằng để tránh thù
địch (cả hai trường hợp đều không phải là hình thức nhẫn nại bậc cao).
Nhưng các bậc trí tuệ cho rằng nhẫn chịu những lời hỗn xược của
những người nhỏ hơn mà không vì hai lý do trên, là hình thức nhẫn
nại cao nhất.”

Sự nhẫn nại của Sakka

Một thuở nọ, trong trận chiến giữa chư thiên cõi (Tāvatiṃsa) Đao
lợi thiên  và  các  vị  (Asura)  A-tu-la,  các  vị  chư  thiên  bắt  sống
Vepacitta, vua của Asura, và đưa vị ấy đến trước mặt Sakka. Khi đi
vào cũng như ra khỏi hội chúng, vị ấy lăng mạ Sakka bằng những lời
chửi mắng thậm tệ, nhưng Sakka nhẫn nại mà không biểu lộ chút sân

hận.

Rồi Matali (người đánh xe của Sakka) hỏi chủ nhân của vị ấy tại sao im lặng mà không tỏ chút tức giận khi phải nghe những lời lăng mạ như vậy. Sakka đáp lại bằng bài kệ có nội dung như sau:

Sadatthaparamā atthā,

Khantyā bhiyyo na vijjati.
Yo have balavā santo.
Dubbalassa titikkhati.
Tam āhu paramaṃ khantiṃ.

Trong tất cả những loại lợi ích, lợi ích của chính mình là cao nhất. Và trong tất cả những hành động đem lại lợi ích cho chính mình thì Nhẫn nại là hành động hay nhất.

 

Bài giải thích về những đoạn trích dẫn từ các bộ kinh

Dù  những  đoạn  trích  dẫn  từ  bổn  sanh  Sarabhaṅga  và  Sakka
sampyutta ở trên đặc biệt nói về sự nhẫn nại đối với những sự lăng mạ
về lời nói, nhưng cần hiểu thêm rằng nó cũng bao gồm sự nhẫn nại đối
với những sự tấn công về thân. Các bộ kinh sở dĩ nêu ra những sự lăng
mạ về lời nói là vì chúng thường gặp hơn những sự tấn công về thân.
Điều nay có thể tìm thấy từ ví dụ về Đại đức Puṇṇa, trong đó sự nhẫn
nại được nêu ra lần lượt đến mức cao nhất là sự nhẫn nại với những sự
tấn công về thân.

Trong bổn sanh Khantīvādī Jātaka, ta cũng tìm thấy tấm gương nhẫn nại cao nhất của đạo sĩ Khanivādī khi vua Kalabu hành hạ đạo sĩ không chỉ bằng lời nói mà còn cả hành động về thân, đến mức kết liễu mạng sống của Ngài.

Akkodha (Vô sân) & Khantī (Nhẫn nại)

Như đã giải thích ở trên, nhẫn nại là sự kiểm soát chính bản thân
không để bản thân nổi giận khi kẻ khác tấn công mình bằng lời nói và
hành vi. Nhưng có một hình thức sân hận khác mà không liên quan gì
đến những điều sai trái về thân và khẩu của người khác.Giả sử có
người thuê một người thợ làm một công việc nào đó và người thợ kia
làm việc hết khả năng của mình nhưng người chủ lại không hài lòng
với công việc của ông ta và nổi giận. Nếu người chủ kiểm soát cơn
nóng giận của mình trong hoàn cảnh như vậy thì đó không phải là
nhẫn nại mà chỉ là sự không nổi giận hay vô sân (akkodha)

Akkodha và Khantī là các phận sự của vua

Trong kinh bổn sanh Mahā Haṃsa, Asīti Nipāta, Pātha Jātaka, Đức Phật dạy về Thập vương pháp, trong đó có akkodha và khantī.

Trong việc thực hiện các mệnh lệnh của vua, những người thừa
hành phận sự có thể thi hành tốt và chu đáo nhưng không làm đức vua
hài lòng. Không sân là một trong mười vương pháp: Cấm vua không
được nổi giận trong trường hợp như vậy. Ngược lại, nhẫn nại là chịu

 

đựng sự công kích bằng lời nói và công việc mà không khởi tâm sân hận, là một phận sự khác của vua.

9 nguyên nhân của sân hận

Có chín nguyên nhân của sân hận liên quan đến bản thân, bạn bè,
người thân thương hoặc kẻ thù. Nó  cũng có thể khởi sanh khi nghĩ
đến những hành động đã qua, đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra. Như vậy có

9 nguyên nhân của sân liên quan đến người và liên quan đến thời gian.

(1)    Người ta tức giận liên quan đến bản thân khi nghĩ rằng: “Hắn

ĐÃ gây thiệt hại đến lợi ích của ta”.

(2)    Người ta tức giận liên quan đến bản thân khi nghĩ rằng: “Hắn

ĐANG gây thiệt hại đến lợi ích của ta.”

(3)    Người ta tức giận liên quan đến bản thân khi nghĩ rằng: “Hắn

SẼ gây thiệt hại đến lợi ích của ta.”

(4)    Người ta tức giận liên quan đến bạn bè, khi nghĩ rằng: “Hắn

ĐÃ gây thiệt hại đến lợi ích của bạn ta.”

(5)    Người ta tức giận liên quan đến bạn bè, khi nghĩ rằng: “Hắn

ĐANG gây thiệt hại đến lợi ích của bạn ta.”

(6)    Người ta tức giận liên quan đến bạn bè, khi nghĩ rằng: “Hắn

SẼ gây thiệt hại đến lợi ích của bạn ta.”

(7)    Người ta tức giận liên quan đến kẻ thù khi nghĩ rằng: “Hắn

ĐÃ làm gia Tăng lợi ích kẻ thù của ta.”

(8)    Người ta tức giận liên quan đến kẻ thù khi nghĩ rằng: “Hắn

ĐANG làm gia Tăng lợi ích kẻ thù của ta.”

(9)    Người ta tức giận liên quan đến kẻ thù khi nghĩ rằng: “Hắn SẼ

làm gia Tăng lợi ích kẻ thù của ta.”

(Aṅguttara Pāli, Navaka Nipāta, 1-Paṇṇāsaka, 3-Vagga, 9-Sutta)

Phi xứ sân nhuế hay nóng giận không đúng chỗ
                         (Aṭṭhāna kopa)

 

Ngoài chín nguyên nhân sân hận kể trên, người ta cũng có thể nổi nóng nếu mưa quá to, gió quá mạnh hoặc trời quá nóng, v.v... Nóng giận đối với những chuyện mà xét ra người ta không nên như vậy thì được gọi là nóng giận phi lý. Đó là sở hữu sân (aṭṭhāna kopa), thường khởi sanh trong những người thiếu suy nghĩ. Để chế ngự loại nóng giận này, cần phải giữ tâm không nóng giận.

Tám loại sức mạnh (Bala)

Trong bài liệt kê tám loại sức mạnh, nhẫn nại là một trong tám loại
ấy (Aṅguttara Pāli, Atthaka Nipāta, I. Paṇṇāsaka, 3. Gahapati Vagga,

7. Sutta). Tám loại sức mạnh là:

(1)    La khóc là sức mạnh của đứa bé.

(2)    Nóng giận là sức mạnh của người đàn bà.

(3)    Khí giới là sức mạnh của bọn cướp.

(4)    Quyền thống trị các lãnh thổ là sức mạnh của các vị vua.

(5)    Thấy lỗi kẻ khác là sức mạnh của những kẻ ngu..

(6)    Cân nhắc kỹ lưỡng là sức mạnh của các bậc trí tuệ.

(7)    Suy đi xét lại là sức mạnh của người có học.

(8)   Nhẫn nại chịu đựng những điều sái quấy của kẻ khác là sức

mạnh của các vị Sa-môn và Bà-la-môn.

Sa môn (Samaṇa ) và Bà-la-môn (Brāhmaṇa )

Liên quan đến các từ Samaṇa  và Brahmaṇa  ở mục số (8) trong bản liệt kê ở trên, người ta có thể hỏi rằng liệu các vị được gọi là Sa-môn có địa vị ngang bằng nhau hay không.

Ngoài giáo pháp, Sa-môn có nghĩa là ẩn sĩ hay đạo sĩ. Còn trong giáo pháp, Sa-môn là tỳ khưu, là thành viên của Tăng đoàn, là con của Đức Phật. Chữ Samaṇa đã được nhiều người biết đến như vậy và không cần phải giải thích thêm.

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                335

Điều cần phải giải thích chi tiết là chữ Brāhmaṇa. Bài kinh Aggañña trong phẩm Pāthika Vagga, Dīgha Nikāya, có nói về tên gọi Brāhmaṇa” này đầu tiên được dùng như thế nào.

Vào lúc bắt đầu của thế giới (sau khi loài người đã sống trên trái đất
trải qua nhiều đại kiếp) những lối sống ác đã xuất hiện trong họ và họ
cử một nhân vật nọ đứng ra cai trị mọi người, đó là vua Mahā
Sammata. Lúc bấy giờ, một số người nói rằng: “Thế gian dẫy đầy
những thế lực ác. Chúng ta không muốn sống chung với những người
quá đồi trụy đến nổi phải có một vị vua đứng ra cai trị. Chúng ta sẽ đi
vào rừng và tẩy sạch những lối sống ác này.” Họ bèn đi vào rừng,
sống ở đó, tu tập thiền định và chứng đắc các tầng thiền. Vì họ sống
theo cách này, nên họ được gọi là
Brāhmaṇa, Bà-la-môn.

Brāhmana là từ Pāḷi, có nghĩa là người đã đoạn diệt điều ác. Các vị Brāhmana không nấu ăn, họ sống bằng trái cây đã rụng hoặc đi khất thực trong làng mạc, châu quận. Họ được gọi là Brāhmaṇa vì họ sống cuộc đời phạm hạnh, trong sạch, phù hợp với từ Pāḷi Brāhmaṇanhững Bà-la-môn vì sự thực hành phạm hạnh của họ.

Trải qua nhiều đại kiếp về sau, một số Guṇa brāhmaṇa này không
còn hành thiền và không nhập định. Họ sống gần thị trấn và làng mạc.
Họ biên soạn và dạy các bộ kinh Phệ đà đến những ai muốn học. Họ
không còn hành thiền để đắc định và để tẩy sạch điều ác. Nhưng họ
vẫn giữ lại cái tên Bà-la-môn. Bấy giờ họ không còn là Guṇa
brāhmaṇa vì họ không có đức tánh của người thực hành phạm hạnh.
Họ có thể tự xưng là Jāti brāhmaṇa, nghĩa là các vị Bà-la-môn về
dòng giống, là con cháu của những vị Guna brāhmaṇa. Vì họ không
thể hành thiền để đắc định nên họ được xếp vào tầng lớp thấp. Nhưng
trong quãng thời gian này, nhờ biên soạn và dạy những bộ kinh Phệ
đà, họ lại được xem là đáng kính, cao quí. Dù những vị bà-la-môn này
không loại bỏ và tẩy sạch những pháp ô nhiễm trong tâm bằng pháp
thiền, nhưng họ tự ngâm mình dưới nước dối gạt mọi người, gọi cách
thực hành ấy là hành động tẩy rửa những pháp bất tịnh.

 

336                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Trong Bổn sanh Bhūridatta, chúng ta thấy có đề cập đến lối rửa tội
này. Bhūridatta, vua của loài rồng thường đến cõi người để thọ trì
giới. Vào một dịp nọ, vị ấy không trở lại cõi rồng đúng thời gian mong
đợi. Hai vị rồng em bèn ra đi tìm kiếm vị ấy. Người em trai là
Subhoga Nāga, trong khi đi theo con nước của dòng sông Yamunā để
tìm kiếm vị ấy, đã đi ngang qua vị Bà-la-môn Nesāda, là người chịu
trách nhiệm vì chỉ cho người dụ rắn đến bắt. Vị Bà-la-môn được tìm
thấy đang ngâm mình dưới nước của con sông Yamunā để tẩy rửa
những hành vi bất tịnh về hành vi phản bội của ông ta.

Đức Phật chỉ nhắm đến Guṇa brāhmaṇa khi Ngài nói rằng nhẫn nại
là sức mạnh của Sa-môn hoặc Bà-la-môn. Các vị đạo sĩ được mô tả
trong bài kinh Aggañña Sutta, mặc y phục trắng, hành đạo để loại trừ
ô nhiễm, là những vị Bà-la-môn bình thường hoặc có huyết thống bà-

la-môn. Nhưng khi Đức Phật xuất hiện và bắt đầu thuyết pháp độ sinh,
Ngài mô tả những phẩm hạnh mà qua đó một người được gọi Bà-la-
môn. Trong bộ Pháp cú kinh, Đức Phật dành trọn phẩm Brāhmaṇa
Vagga gồm 42 câu kệ để giải thích đầy đủ những đức tánh cao quí và
những ai có những đức tánh ấy mới đáng được gọi là Bà-la-môn.
Những vị Bà-la-môn như vậy tất cả đều là
Guṇa brāhmaṇa. Tuy
nhiên, những vị Bà-la-môn thuộc huyết thống đã bị chia chẻ thành
nhiều phần nhỏ.

Chấm dứt Chương Nhẫn nại Ba-la-mật

 

G.  CHÂN THẬT BA-LA-MẬT  (SACCA-PĀRAM)

Điều cần lưu ý, giống như sao Mai luôn đi đúng quỹ đạo của nó
không bao giờ sai lệch, cũng vậy nếu một người nói ngay thật, riêng
lời nói như vậy có nghĩa là sự chân thật. Cho nên bài giải thích của
nhà chú giải Buddhaghosa mới đem so sánh sự chân thật với sao Mai.

Hai loại Chân lý

 

Sự thật (sacca) không phải là pháp cùng tột riêng biệt như trí tuệ
(paññā) và tinh tấn (viriya). Nó là sự thật không có dấu vết của hư
nguỵ. Nó bao gồm các sở hữu như sở hữu ly (virati-cetasika), sở hữu
tư (cetana-cetasika), v.v... Ở hoàn cảnh khác biệt thì sự thật cũng
khác, nên nó có hai loại: Tục đế hay Chân lý thường tình (Sammuti-
sacca) và Đệ nhất nghĩa đế hay Chân lý cùng tột (Paramattha-sacca).
(Chỉ có hai sự thật này được Đức Phật thuyết giảng. Không có loại sự
thật thứ ba. Trong toàn thể thế gian, không có loại sự thật nào ngoài
hai loại sự thật này).

Tục đế (Sammuti-sacca)

Trong hai loại đế này, tục đế là sự thật phù hợp với cái mà người ta
đã định danh. Mọi người thường đặt tên các vật theo hình dạng của
chúng. Họ gọi một vật có hình dạng nọ là “người”, và có hình dạng
kia là “con bò”, vật có hình dạng nọ là “con ngựa”. Lại nữa, trong loài
người, người có hình dáng này thì được gọi là “người đàn ông” và
người có hình dạng kia “người đàn bà”. Theo cách này thì có bao
nhiêu vật thì có bấy nhiêu tên gọi. Nếu một vật có tên đàn ông, bạn
gọi đó là “người đàn ông”, thì đó là chân lý thường tình hay tục đế.
Đối với nhân gian thế tục, bạn gọi như vậy là đúng. Nếu cái có tên là
người đàn ông mà bạn gọi đó là “con bò”, thì đó không phải là sự thật
của thế gian hay tục đế. Theo thế tục, bạn gọi như vậy là không đúng.
Nếu một người đã được định danh là người đàn bà mà bạn gọi đó là
người đàn ông thì đó không phải là tục đế, không đúng với sự thật của
nhân gian. Bằng cách này, người ta có thể phân biệt được hai loại sự
thật.

Đệ nhất nghĩa đế hay Chân đế (Paramattha-sacca)

Cái không chỉ do con người định danh mà còn thực sự tồn tại trong
ý nghĩa cùng tột của nó thì được gọi là Đệ nhất nghĩa đế hay chân Lý
cùng tột. Ví dụ: Khi người ta nói rằng “Cái mà biết cảnh trần là tâm”,

pháp biết ấy là chân lý cùng tột vì nó thực sự tồn tại trong ý nghĩa
cùng tột của nó. Khi người ta nói “Cái mà thay đổi do các hiện tượng

 

đối nghịch như nóng và lạnh, v.v… là sắc (rūpa)”. Pháp thay đổi là chân lý cùng tột vì nó thực sự tồn tại trong ý nghĩa cùng tột của nó. Bằng cách này, các sở hữu và Niết bàn cũng được gọi là chân lý cùng tột vì chúng thực sự hiện hữu trong ý nghĩa cùng tột của chúng.

Saññā (Tưởng) & Paññā (Trí tuệ)

Trong hai loại chân lý, chân lý thế tục kết hợp với tưởng. Nói cách
khác, chân lý thế tục dựa vào tưởng. Sự nhận biết các vật theo hình
dạng riêng của chúng như người ta thường nói từ khi còn thơ ấu:
“hình dạng như vậy là người đàn ông”, “hình dạng như vậy là người
đàn bà”, “hình dạng như vậy là con bò”, “hình dạng như vậy là con
ngựa”v.v… Sự nhận biết như vậy là do tưởng. Người thấy bằng tưởng
sẽ nói rằng: “Có hiện hữu thân người”, “có hiện hữu người đàn ông”,
“có hiện hữu người đàn bà”...

Chân đế là đối tượng của trí tuệ. Nói cách khác, Chân đế tự hiện
bày qua trí tuệ. Trí tuệ càng lớn thì Chân đế càng dễ thấy hơn. Trí tuệ
làm công việc phân tích các pháp và thấy bản chất chân thật của
chúng. Khi người ta nói: “Cái mà biết các cảnh là tâm” thì trí tuệ tra
xét xem nguyên tắc biết ấy có hiện hữu hay không và kết luận rằng có.
Nếu không có nguyên tắc biết như vậy, trí tuệ tra xét, thì sẽ không bao
giờ có chúng sanh. Tất cả sẽ là vấn đề vô nghĩa như đá sỏi, v.v... Mọi
thứ vật chất đều xa vời với sự hiểu biết. Nhưng tất cả chúng sanh đều

nhận biết các cảnh. Khi trí tuệ suy xét như vậy, rõ ràng có tâm biết các
cảnh.

Cho nên tâm ấy hiện hữu thì ý nghĩ cùng tột rõ ràng đối với những
người suy nghĩ bằng trí tuệ. Suy nghĩ càng nhiều, họ càng hiểu rõ hơn.
Nhưng đối với những người thấy các vật qua tưởng thì nó sẽ không rõ
ràng. Như đã nói ở trên, vì tưởng là khái niệm về hình tượng, khi bạn
nói có tâm thì tưởng gia hỏi rằng: “Tâm tròn, dẹp hay rộng? Nó là chất
bột, chất lỏng hoặc chất khí?” Nếu bạn không thể trả lời được nó là cái
gì thì tưởng gia sẽ kết luận rằng không có cái gì là tâm. Vì nếu có thì
nó phải tròn, dẹp hoặc vuông; nó phải là chất bột, chất lỏng hoặc chất

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                339

khí. Đối với tưởng gia, là người bị ám ảnh bởi ý niệm về hình tượng
cụ thể, thì tâm đơn giản không hiện hữu vì nó không mang hình tượng
cụ thể nào.

Cũng như tưởng gia không thể trông thấy chân lý cùng tột, những
người duy trí cũng không thể thấy chân lý thế tục. Khi người duy trí
nhìn vào cái mà tưởng gia gọi là “người đàn ông”, thì người ấy nhìn

bằng tâm phân tích và chia con người ra làm 32 phần như tóc, lông,
móng, v.v... Người duy trí chân thật hỏi rằng: “Có phải tóc là con
người?”, “Có phải lông là con người?”. Không thể có câu trả lời
khẳng định cho những câu hỏi này. Cứ như thế, khi câu hỏi tương tự
về mỗi phần còn lại của thân người được đặt ra, vào mỗi lúc như vậy
câu trả lời sẽ là “không phải.” Nếu không có phần nào của cơ thể được
gọi là “Con người” thì người duy trí sẽ nói rằng: “Như vậy chẳng có cái
gì được gọi là con người cả.”

Chân lý thế tục chỉ xuất hiện khi nào nó được thấy qua tưởng. Nhưng khi được thấy bằng trí tuệ thì chân lý thế tục ấy biến mất. Cũng vậy, Chân đế xuất hiện khi nó được thấy bằng trí tuệ. Nhưng khi được thấy bằng tưởng thì nó biến mất.

Về mặt này, điều đặc biệt đáng chú ý là sự thật rằng Niết bàn là Chân đế. Chân lý cùng tột ấy là sự an lạc do sự chấm dứt tất cả phiền não và khổ. Sự an lạc ấy được thấy chỉ khi nào nó được xem xét bằng tuệ quán sắc bén, chứ không phải bằng tưởng.

Quan điểm của tưởng gia

Ngày nay có một số người thường hỏi rằng: “Ở Niết bàn có những cung điện nguy nga không?” “Những người đã nhập Niết bàn hưởng hạnh phúc như thế nào?” v.v... Họ hỏi những câu hỏi như vậy vì họ dùng tưởng để nghĩ đến Niết bàn. Thực tế thì Niết bàn là chân lý cùng tột, nằm trong phạm vi của trí tuệ.

Điều chắc chắn là không có những cung điện nguy nga ở Niết bàn
cũng không có nhân vật nào nhập Niết bàn. (Những người đã giác ngộ
sự an lạc của Niết bàn bằng sự chứng đắc A-la-hán không còn bị tái

 

sanh nữa. Thân và tâm của họ ngưng tồn tại khi sự viên tịch xảy ra trong kiếp cuối cùng của họ như ngọn lửa lớn hoàn toàn diệt tắt. Sự tịch diệt như vậy được gọi là nhập Niết bàn. Không có thực thể sống nào tồn tại trong Niết bàn cả).

“Nếu đúng như vậy thì cái gọi là Niết bàn sẽ không hiện hữu,”
tưởng gia sẽ nói, “thế nên nó vô ích và không cần thiết.” Để động viên
ông ta, những người khác khẳng định rằng: “Niết bàn là cõi của những
chúng sanh bất tử có tâm và hình sắc đặc biệt và thọ hưởng những
khóai lạc tối thượng trong những lâu đài và cung điện.” Như thế tưởng
gia mới được thỏa mãn vì sự khẳng định như vậy phù hợp với điều mà
ông ta đã nhận thức trước.

Nếu một người nhìn vào một cái gì đó bằng tưởng và thấy hình dạng cụ thể của nó, thì đó không phải là tuyệt đối (paramattha) mà chỉ là sự định đặt tương đối (paññatti).

Cũng vậy, nếu một người nhìn vào một cái gì đó bằng trí tuệ và
thấy sự biến mất hình dạng của nó, đó cũng không phải là tuyệt đối
mà chỉ là sự định đặt tương đối. Chỉ khi nào người ta nhìn bằng trí tuệ
và thấy bản chất chân thật của nó thì đây mới là tuyệt đối. Người ta
càng nhìn như vậy thì càng thấy rõ tánh chất thực như vậy. Do đó Niết
bàn chỉ là sự an lạc, là tuyệt đối vô song tối thượng, không thể tìm
thấy qua tưởng vì phận sự của tưởng là biết hình tượng và cốt lõi.
Thay vào đó, Niết bàn cần được xem xét qua trí tuệ, vì trí tuệ có
khuynh hướng loại trừ hình sắc và cốt lõi và quán xét sâu vào bản chất
thực của chúng để sự an lạc ấy, tức Niết bàn, tự hiển bày.

Chân lý thế tục và Chân lý cùng tột cả hai đều có thể chấp nhận
được tùy theo văn cảnh của mỗi bên như đã cho thấy ở trên. Giả sử có
người thề rằng: “Tôi công bố rằng thực sự có đàn ông và đàn bà. Nếu
điều tôi công bố mà không đúng thì hãy để bất hạnh giáng xuống tôi,”
và giả sử có người khác thề rằng: “Tôi tuyên bố rằng thực sự không có
đàn ông và đàn bà. Nếu lời tôi tuyên bố mà không đúng thì xin cho tai
họa giáng xuống tôi.” Chẳng có tai họa giáng xuống cho bên nào cả.

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                341

Lý do là tuy hai lời tuyên bố trái nghịch nhau, nhưng cả hai đều đúng theo quan điểm của họ, lời tuyên bố trước đúng theo quan điểm về cách dùng ở thế tục là Chân lý thế tục. Quan điểm sau cũng đúng theo về ý nghĩa cùng tột, là Chân lý cùng tột.

Dù chư Phật có ý định thuyết giảng bản chất của thực tại cùng tột
nhưng các Ngài cũng không loại trừ những từ phổ thông trong giáo
pháp của các Ngài. Thay vào đó, các Ngài đề cập chúng chung với
chân lý cùng tột. Ví dụ: Ngay trong thời pháp đầu tiên, dầu điểm nhấn
mạnh là hai cực đoan và Trung đạo, nhưng cũng có đoạn dạy rằng:
“Vị Sa-môn không nên đi theo hai cực đoan,” trong đó “Sa-môn” chỉ
là sự định đặt.

Tầm quan trọng của Pháp chế định

Khi Đức Phật thuyết chân lý cùng tột, Ngài sử dụng pháp chế định
bất cứ khi nào cần thiết. Ngài làm như vậy không phải để tạo ra sự
tương phản. Đối với những người bình thường thì chân lý thế tục cũng
quan trọng như chân lý cùng tột. Nếu Đức Phật thuyết giảng các pháp
bằng những từ thuộc về chân đế thì những người có cái nhìn đúng
pháp sẽ hiểu rằng: “Bất cứ cái gì hiện hữu trong thế gian đều vô
thường, khổ và vô ngã.” Và họ sẽ cố gắng tu tập thiền quán, là pháp
hành dẫn họ trực chỉ đến Niết bàn.

Nói cách khác, đối với những người có cái nhìn không đúng pháp
sẽ cho rằng: “Và như vậy là chỉ có các uẩn gồm danh và sắc, chịu sự
vô thường, khổ và vô ngã trong thế gian này. Không có ta cũng không
có những người khác. Như vậy thì không thể có những cái gì gọi là
“Tài sản của ta, con của ta, vợ của ta.” Cũng không thể có những cái
gọi là “tài sản của người kia, con của người kia, vợ của người kia.”
Người ta có thể sử dụng bất cứ cái gì tùy thích. Vì không có cái gì gọi
là “ông ta” nên không có điều gì gọi là “giết ông ta”, không có điều gì

gọi là “trộm cắp tài sản của ông ta,” không có điều gì gọi là “tà dâm
với vợ của ông ta.” Như vậy người ta sẽ phạm tội theo dục vọng
hoang dã của họ. Và đến khi chết, họ sẽ bị tái sanh vào các khổ cảnh.

 

342                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Để ngăn chặn điều này, các bài kinh Suttanta Desanā thường được thuyết giảng bằng những từ thuộc pháp chế định. Những bài Pháp như vậy hình thành những chuẩn mực hữu hiệu, có tánh cách ngăn ngừa để chúng sanh khỏi bị rơi vào bốn khổ cảnh.

Ngoài ra, những sự thuyết giảng kinh còn đưa chúng sanh đến
những cõi hạnh phúc như cõi người, cõi trời và cõi Phạm thiên vì các
thiện pháp như bố thí, trì giới và hành thiền là những pháp dẫn đến tái
sanh trong các cõi hạnh phúc, phần lớn đều được thuyết giảng trong
các bài kinh (Ví dụ: để thành tựu một hành động phước về bố thí, cần
phải có người bố thí, tác ý của người ấy (cetanā), người nhận và vật
bố thí. Trong những yếu tố này, riêng Tư (cetanā) là thực tại cùng tột,
còn những yếu tố khác chỉ là những pháp chế định - Loại trừ những
yếu tố ấy thì sự bố thí không thể thành tựu. Giới và thiền chỉ cũng
vậy). Do đó, điều cần chú ý chắc chắn là chân lý thế tục dẫn đến các
cõi hạnh phúc như đã giải thích. Không nói quá, nếu loại trừ pháp chế
định thì sự thực hành các pháp Ba-la-mật cần thiết để chứng đắc quả
Phật sẽ dừng lại.

Dầu sự thật là riêng sự thuyết giảng kinh của Đức Phật sẽ khiến cho chúng sanh tránh xa các ác nghiệp, bởi vì chính Đức Phật đã từng nói rằng có “ta”, “người khác”, “vợ con của ông ta”, v.v... Tuy nhiên, sẽ có nguy hiểm cho chúng sanh cố chấp rằng thực sự có những thứ như vậy và dần dần họ sẽ tách xa Đạo, Quả và Niết bàn. Để giúp họ đạt đến Đạo, Quả và Niết bàn, Đức Phật đã phải thuyết giảng chân lý cùng tột như đã kiết tập trong tạng Abhidhamma.

Lý do thuyết giảng hai loại Chân lý

Sự thuyết giảng kinh về sự hiện hữu các các nhân vật và những thứ
thuộc về họ được thực hiện để phù hợp với những sự định đặt được sử
dụng trong thế gian. Nhưng bằng phương tiện của pháp Abhidhamma,

Đức Phật đã phải đoạn trừ những quan niệm sai lầm của họ khi nói
rằng không có cái gì gọi là ta, ông ta, đàn ông, đàn bà, v.v… Do đó

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                343

đừng vì những pháp chế định ấy mà chấp chặt rằng thực sự có Ta, Tất cả chỉ là vô thường, khổ và vô ngã.

Tự tánh đế (Sabhāva sacca) &
    
Thánh đế (Ariya sacca)

Chân lý cùng tột có hai loại: (a) Tự tánh đế và (b) Thánh đế. Tất cả bốn loại pháp chân đế: tâm, sở hữu, sắc và Niết bàn, tạo thành Tự thánh đế vì chúng có thật trong ý nghĩa cùng tột của chúng.

Trong lãnh vực gồm các vấn đề thuộc thế gian có cả hạnh phúc về
thân (
sukha) và hạnh phúc về tâm (somanassa), chúng hình thành Tự
tánh đế. Nếu một người tiếp xúc với cảnh khả ái, do sự tiếp xúc ấy, có
sanh khởi hạnh phúc trong người ấy. Không ai có thể phủ nhận rằng:
“Không, điều ấy không thực,” hoặc “Không, tiếp xúc với cảnh khả ái
là không tốt.” Không ai chân thật nói như vậy bởi vì sự thật là người

ta thực sự sung sướng khi tiếp xúc với cảnh trần như thân khả ái
(iṭṭhaphotthabbārammaṇa).

Tương tự, nếu tâm của người ta tiếp xúc với cảnh khả ái của tâm thì
người ta sẽ cảm thọ hạnh phúc của tâm. Cảm thọ như vậy được gọi

somanassa vedanā. Điều này không thể phủ nhận được vì sự sanh
khởi hạnh phúc của tâm là thực tại. Như vậy chân thật nói rằng cả
sukhasomanassa hiện hữu trong các sự kiện thuộc thế gian.

Thánh đế (Ariya sacca)

Khổ Thánh đế (Dukkha Ariya sacca)

Người trú trong Thánh đế không thấy có lạc (sukha) hoặc hoan hỷ
(somanassa) trong những sự kiện thế tục. Nếu người ta chấp theo quan
điểm rằng có hiện hữu cả lạc lẫn hỉ như là Tự tánh đế, thời người ấy
không thể thoát ra khỏi cái nhìn của thế tục. Và như thế người ấy
không thể chứng đắc pháp của bậc Thánh. Do đó người có nguyện
vọng trở thành bậc Thánh thì nên cố gắng thấy cho được rằng các
trạng thái của tâm được gọi lạc và hỉ theo Tự tánh đế, tất cả đều là

 

khổ. Những cảm thọ hỉ và lạc này là những pháp không thể đứng yên mà không có sự thay đổi mãi mãi. Thực sự chúng chịu sự thay đổi từng khoảnh khắc.

Những kẻ phàm phu khao khát dục lạc của cõi người và cõi trời,
lầm lạc tin rằng chúng là nguồn hỷ lạc. Sỡ dĩ như vậy là vì họ không
biết rằng những dục lạc như vậy có tánh chất biến đổi và chịu sự thay
đổi thường xuyên. Họ không biết thực tánh của những dục lạc này, vì

họ có ít trí tuệ nhưng nhiều ái dục. Những kẻ thiếu trí ấy sẽ xem chúng
là khả ái, khả lạc trong khi chúng thực sự đang biến hoại và suy tàn.
Nhưng bản chất của chúng là thay đổỉ và khi điều ấy xảy ra thì điều
này trở nên buồn khổ nhiều hơn là họ đã từng sung sướng.

Ví dụ: Một người nghèo sẽ rất sung sướng khi nghe tin rằng ông ta
đã trúng số. Rồi ông ta bắt đầu nghĩ tưởng sẽ tiêu xài món tiền ấy như
thế nào. Trong lúc đang xây những lâu đài trong không trung như thế,

ông ta đánh mất số tiền ấy do bởi một rủi ro nào đó. Chúng ta chân
thật tưởng tượng là ông ta sẽ buồn khổ như thế nào. Cái khổ mất tiền
của ông ta sẽ to lớn hơn nhiều so với hạnh phúc từ việc ông ta thình
lình trở nên giàu có.

Mọi sự kiện trong thế gian đều kết hợp với cả vui lẫn khổ. Năm dục lạc là đáng ưa thích đối với những kẻ phàm phu. Nhưng Đức Phật dạy rằng chúng khổ nhiều hơn lạc. Tuy nhiên, khác với những kẻ phàm phu, đệ tử của Đức Phật không cho rằng chúng hoàn toàn không lạc. Ngài dạy rằng trong đó lạc ít mà khổ thì nhiều.

Trong “bất cứ hoàn cảnh nào, những bậc trí tuệ và giới đức thường
xét trước hết xem có tội hay vô tội, chứ không bao giờ xét có lạc hay
không lạc. Các Ngài quyết định rằng nó không đáng ưa thích. Nếu
không có tội, các Ngài xem hoàn cảnh ấy là đáng ưa thích dầu không
có lạc.

Giả sử có người được vua ban cho đặc ân là sẽ làm vua một ngày, nhưng ngày hôm say sẽ bị xử trảm. Chắc chắn sẽ không ai dám hay muốn được làm vua như vậy.

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                345

Theo cách nhìn của kẻ phàm phu, đời sống của vị đế vương trong một ngày mà trước kia chưa bao giờ được hưởng sẽ rất hấp dẫn. Nhưng vì cái chết sắp xảy ra vào ngày hôm sau sẽ là một đại họa, nên chẳng ai chịu hưởng khoái lạc nhất nhật đế vương như vậy.

Cũng thế, khi thấy rằng mọi thứ chân thật đều bị hoại diệt, các bậc
Thánh không thể cho rằng khoái lạc tạm bợ xảy ra trước khi nó hoại
diệt là hạnh phúc. Một hành giả có thể trở thành bậc Thánh chỉ do
quán rằng: “Trong thế gian này không có gì là hạnh phúc. Tất cả đều
vô thường. Vì chẳng có sự thường tồn nên không có hạnh phúc, chỉ có
sầu khổ.”

Chỉ nhờ phát triển tuệ quán qua pháp quán rằng mọi thứ trong thế gian đều có đặc tánh khổ, nên mới có thể trở thành bậc thánh. Các uẩn làm đối tượng của thiền quán như vậy được gọi là Thánh đế. Nói cách khác, bởi vì các bậc Thánh quán khối pháp thế gian đúng thực tánh của chúng, nên được gọi là Thánh đế.

Tuệ quán thấy rằng: Trong tam giới, chẳng có khoái lạc nào cả, chỉ có khổ đúng theo chánh kiến của những bậc đang đi trên đường đến đạo quả và những bậc đã chứng đắc đạo quả là sự thật. Do đó nó được gọi là Khổ Thánh đế.

Nói tóm lại, năm thủ uẩn (pañca upādānakkhandha) cũng được gọi
là các pháp trong ba cõi, tất cả đều là khổ và chúng chẳng là gì ngoài
khổ. Năm thủ uẩn là: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức
uẩn, chúng là những đối tượng của những sự chấp thủ như là “tôi”.
“của tôi”, “cái của tôi”. Năm uẩn này được gọi là Khổ Thánh đế.

Khổ Tập thánh đế

(Dukkha Samudaya Ariya Sacca)

Năm thủ uẩn (pañca upādānakkhandha) hình thành Khổ Thánh đế,
không phải tự chúng sanh khởi. Mỗi uẩn đều có nguyên nhân sanh
khởi riêng, căn bản và quan trọng nhất là ái đối với các cảnh dục.

 

346                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Trong thế gian, mọi chúng sanh đều phải chịu khổ vì hằng ngày họ
phải vất vả để kiếm sống. Và tất cả điều này có động cơ thúc đẩy là ái
dục. Càng khao khát đời sống tốt đẹp thì người ta càng phải khổ
nhiều. Nếu người ta biết vừa lòng và đời sống đạm bạc, vừa đủ, thì nổi
khổ của họ sẽ bớt đi rất nhiều. Cho nên điều rõ ràng là khổ mà ái dục
là nguyên nhân khiến người ta lầm lạc tin rằng khổ là hạnh phúc.

Chúng sanh làm đủ mọi việc vì muốn có những thứ tốt đẹp hơn không chỉ trong kiếp này mà còn cả những kiếp sau nữa. Khi kiếp sống mới xuất hiện như là kết quả của hành động ấy, nguyên nhân thực sự cho kiếp sống mới này được tìm thấy là ái dục, ái dục xui khiến, thúc đẩy những hành động ấy.

Ái dục được gọi là Khổ Tập thánh đế vì đích thực ái dục là nguồn gốc
của khổ -
upādānakkhandha, trong kiếp sống mới. Nói cách khác, ái

dục là nguyên nhân đích thực của các uẩn hình thành khổ. Tóm lại

Khổ Tập thánh đế (Dukkha Samudaya Sacca) này cũng được gọi Tập đế (Samudaya Sacca).

Khổ Diệt thánh đế

(Dukkha Nirodha Ariya Sacca)

Ái dục được gọi là chân lý về nguyên nhân của khổ, giống như mủ
mít, nó bám dính vào nhiều loại cảnh trần, nhưng lại giống như những
con ruồi không thể đến gần cục sắt nóng đỏ, nó không thể tạo nên sự
đeo bám Niết bàn.

Sở dĩ như vậy là vì Niết bàn, thực tại cùng tột, pháp vô vi, không
hấp dẫn dưới cái nhìn của ái dục. Để giải rõ, ái sanh lên từ thọ như
Đức Phật đã giảng dạy trong giáo lý Duyên khởi: “
vedanā paccayā
taṅhā”. Cho nên Ái có mặt do Thọ. Nhưng Niết bàn chẳng liên quan
gì đến Thọ (nó không phải là loại lạc có thể cảm thọ được). Nó chỉ là
Tịch tịnh lạc (santi-sukha).

Như vậy, người ta chân thật hỏi rằng: “Nếu không cảm thọ được thì liệu Niết bàn có đáng ưa thích không?”

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                347

Nếu có người hỏi như vậy, người ấy nghĩ rằng cảm thọ là hạnh
phúc thực sự hoặc người ấy không cho rằng tịch tịnh lạc là hạnh phúc
thực sự.

Câu trả lời là: Có hai loại lạc - Lạc do cảm thọ (vedayita-sukha) và
Lạc do tịch tịnh (santi-sukha). Đây là ví dụ so sánh: Giả sử có một
người giàu có thích món ăn ngon. Ông ta bỏ ra nhiều tiền bạc để ăn
những món cao lương mỹ vị. Nhưng đối với người tu tiên luyện phép,
sống bằng năng lực huyền bí thì thấy món cao lương của người giàu
có kia là đáng ghê tởm, chớ đừng nói chi là ngon, vì ông ta có năng
lực sống mà không cần ăn. Khi được hỏi: “Trong hai người này, xét về
chuyện ăn uống thì ai hạnh phúc hơn?” Người có tham ái sẽ nói rằng
người giàu có kia hạnh phúc hơn vì người ấy hưởng khoái lạc từ món
ăn cao lương bất cứ khi nào thích, còn người luyện phép kia không thọ
hưởng món ăn cao lương. Sở dĩ như vậy vì do sống theo ái dục, họ tin
rằng cảm thọ làm khởi dậy tham ái và nó đáng được quí trọng.

Ngược lại, người có trí tuệ sẽ nói rằng vị tiên nhân kia hạnh phúc
hơn. Người giàu có, là người thích món ngon vật lạ, chắc chắn sẽ đi
kiếm về những món ăn cầu kỳ. Sau khi có được chúng rồi, người ấy

phải  trải  qua  nhiều  phiền  toái  do  phải  sửa  soạn,  nấu  nướng
(paṭisaṅkhārana-dukkha) và rồi thèm khát những món ăn lạ hơn (ý
dục khổ - āsā-dukkha). Để hưởng được khoái lạc từ thọ (vedayita-
sukha), người ta phải bị đè nặng bởi hai loại khổ này, không cách nào
thoát khỏi chúng được. Vị tiên nhân thì không có những loại khổ như
vậy. Vị ấy sống hạnh phúc mà chẳng cần đến vật thực. Không có dấu

vết phiền não trong hạnh phúc của vị ấy, hạnh phúc ấy là tuyệt đối.
Như vậy, những người có trí tuệ đã cho rằng vị tiên nhân hạnh phúc
hơn.

Những người thiên về ái dục nói rằng người giàu kia hạnh phúc hơn
vì họ không thấy phiền khổ nào của ông ta. Cái mà họ thấy là sự thọ
hưởng vật thực của ông ta. Họ không có ấn tượng tốt về đời sống tịnh
lạc của vị tiên nhân, người mà chẳng cần ăn thứ gì cả. Thay vào đó, họ
ganh tỵ với lối sống của người giàu có kia và muốn chính họ cũng

 

348                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

được giàu có như thế. Dường thế ấy, ái dục không có được cái nhìn cao siêu, không có sự mong muốn hay khao khát Tịch tịnh lạc - santisukha (Niết bàn Vô vi) là tịch tịnh đích thực, không cảm thọ.

Liên quan đến vấn đề này, bài kinh số 3, 4. Mahā vagga, Navaka Nipāta của bộ Aṅguttara Nikāya nói rằng:

“Một thuở nọ đại đức Sāriputta, trong khi đang ngồi chung với các
vị tỳ khưu, đã nói rằng: “Thưa chư hiền giả, Niết bàn quả thật là hạnh

phúc. Niết bàn quả thật là hạnh phúc.” Khi ấy đại đức Udāyi bèn hỏi
rằng: “Thưa Tôn giả Sāriputta, làm sao Niết bàn chân thật là hạnh
phúc nếu không có cảm thọ?” Đại đức Sāriputta trả lời rằng: “Này
hiền giả Udāyi, chính vì Niết bàn không có cảm thọ nên mới là hạnh
phúc thực sự.”

Những kẻ phàm phu thiếu trí cho rằng năm uẩn, tức Khổ Thánh đế,
là hạnh phúc. Những người có trí và những bậc thánh thì thấy rằng sự
chấm dứt năm uẩn giống như sự diệt tắt của đám lửa lớn mới là hạnh
phúc. Một ví dụ so sánh để chứng minh tánh ưu việt của hạnh phúc do
sự chấm dứt và diệt tắt dành cho những kẻ thiếu trí như sau: Một
người bịnh khổ sở vì chứng bịnh đầy hơi đau buốt kinh niên. Ông ta
dùng thuốc của một vị lương y giỏi. Kết quả là ông ta đã hoàn toàn
bình phục. Tưởng tượng là ông ta sẽ hạnh phúc như thế nào. Lúc ấy
ông ta không có cảm thọ khoái lạc gì cả. Cái mà ông ta trải qua lúc ấy
đơn thuần là sự chấm dứt cái khổ của chứng đầy hơi kinh niên. Ông ta

chắc chắn sẽ vui mừng khi biết rằng: “Ồ cái khổ này trong ta giờ đã
hết rồi!” Vì cái khổ ấy đã ngưng không hành hạ ông ta nữa. Cái khổ
của chứng đầy hơi chẳng là gì cả nếu đem so sánh với cái khổ của
luân hồi. Nếu người ta muốn hết cái khổ tầm thường ấy, tại sao không
thấy hạnh phúc trong sự chấm dứt của cái khổ luân hồi to lớn. Người
ta chắc chắn sẽ rất vui sướng.

Niết bàn (Nibbāna)

Thế nào là Niết bàn, sự chấm dứt khổ? Khi Vô vi giới (asaṅkhata-
dhātu
), thực tại cùng tột độc nhất có đặc tánh tịch tịnh, được giác ngộ

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                349

bởi Tứ phần tuệ của Đạo, thì tất cả một ngàn năm trăm thứ phiền não đều bị đoạn diệt hoàn toàn, không bao giờ phát sanh trở lại. Trong bất cứ kiếp nào, khi A-la-hán Đạo (arahatta-magga) được chứng đắc, thì tất cả khổ dưới dạng ngũ uẩn cũng chấm dứt ngay sau khi tịch diệt, cùng như đống lửa hoàn toàn diệt tắt, không còn sự tái sanh nào nữa. Vô-vi giới ấy, thực tại cùng tột độc nhất, có đặc tánh tịch tịnh và tất cả những tánh chất vô song kể trên được gọi là Niết bàn.

Những phàm phu không biết đầy đủ bản chất của Niết bàn như cái
biết của bậc Thánh. Nếu phàm phu do không biết bản chất của Niết
bàn mà nói ra hoặc viết để cho người khác hiểu như các bậc Thánh
từng làm, thì họ có thể đi lạc đường. Đừng nói đến Niết bàn, ngay cả
khi họ nói về một cảnh nào đó trong thế gian mà họ chỉ biết qua sách

vở, tựa như họ đã tận mắt nhìn thấy nó, họ có khả năng phạm phải
những sai lầm. Phàm phu tầm thường sẽ nói về Niết bàn chỉ bằng cách
như trên vì không có khả năng thấy mọi khía cạnh của Niết bàn như
những bậc Thánh.

Khi không hiểu về Niết bàn đúng như bản chất thật, thì những
người không hiểu đã coi Niết bàn như là một loại thành phố hay một
vương quốc bất diệt. Khi Niết bàn được nêu ra như một thành phố an

ổn trong một thời pháp ở lễ rót nước, thì đó chỉ là cách sử dụng từ ngữ
bóng bẩy thôi. Niết bàn không phải là một thành phố cũng không phải
là một vương quốc. Tuy thế vẫn có người tin và nói rằng Niết bàn là
thành phố, nơi mà những người mạng chung đi vào sẽ sống hạnh phúc
với thân và tâm không già, không bịnh và không chết. Nói chính xác
thì sự viên tịch của Chư Phật, chư Độc giác Phật và chư Thinh văn
Phật có nghĩa là sự chấm dứt hoàn toàn năm uẩn, gồm danh và sắc của
vị A-la-hán vào lúc chết ở kiếp cuối cùng của vị ấy. Các Ngài sẽ
không còn xuất hiện ở cõi nào nữa (Niết bàn là Thực tại tối thượng, là
đối tượng của Đạo và Quả. Viên tịch (
parinibbāna) là sự chấm dứt
hoàn toàn các uẩn gồm danh và sắc mà sẽ không bao giờ tái xuất
hiện). Sự viên tịch của các Ngài không phải là đi vào thành phố Niết
bàn. Không có những điều gọi là thành phố Niết bàn.

 

350                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Khi những người Phật tử làm những việc phước thì những vị thầy
của họ thường khuyên họ nên nguyện chứng đắc Niết bàn. Dầu họ làm
theo lời khuyên như vậy, nhưng họ không biết Niết bàn là gì nên họ
không nhiệt tâm nhiều với nguyện ước ấy. Vì thế các vị thầy thường
bảo họ nguyện đoạn tận mọi khổ đau vì lời nguyện như vậy rất rõ ràng
đối với họ, nên họ nguyện một cách tha thiết và trân trọng.

Hai loại Nibbāna

Giả sử có một chiếc áo rất đắc giá. Khi chủ của nó còn sống, bạn
nói rằng: “Đây là chiếc áo rất tốt có người dùng.” Khi ông ta chết, bạn
nói rằng: “Đây là chiếc áo rất tốt không có người dùng.” (Chiếc áo
được nói đến phù hợp với thời gian mà người chủ còn sống hoặc đã
chết).

Tương tự, Vô vi-giới, Thực tại cùng tột của Niết bàn, có đặc tánh
tịch tịnh và là đối tượng mà các bậc thánh như trưởng lão Sāriputta đã
quán bằng Đạo Quả trước khi chết, được gọi là Hữu dư Niết bàn (Sa-
upādisesa
Nibbāna - Niết bàn còn ngũ uẩn). Tuy nhiên, sau khi  chết,
vì không có năm uẩn để quán Niết bàn nữa nên được gọi là Vô Dư
Niết bàn (Anupādisesa Nibbāna - Niết bàn không có ngũ uẩn).

Sự tịch tịnh của Niết bàn chỉ được mong mỏi, sau khi khắc phục ái
dục bằng trí tuệ, quán xét rằng sự tịch tịnh của Niết bàn là pháp nên
được khao khát. Sự tịch tịnh Niết bàn sẽ không được hiểu nếu ái dục
đứng đầu trong sự suy nghĩ của người ta và không được khắc phục
bằng trí tuệ.

Ba loại Nibbāna

Nibbāna có ba loại tùy theo những thuộc tính hiện bày trong nó: (1)
Suññata Nibbāna (Không tánh Niết-bàn), (2) Animitta Nibbāna (Vô
tướng Niết-bàn) và (3) Appaṇihita Nibbāna (Vô nguyện niết-bàn).

1.    Thuộc tánh thứ nhất là Niết-bàn vắng mặt tất cả mọi chướng ngại

pháp nên được gọi là Không tánh Niết-bàn (Suññata nghĩa là
không).

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                351

2. Thuộc tánh thứ hai là Niết-bàn không có tâm (citta) sở hữu

(cetasika) và sắc (rūpa) là những pháp hữu vi làm nguyên nhân
sanh khởi tất cả phiền não. Pháp hữu vi, dầu là danh pháp hay
sắc pháp không thể chỉ khởi sanh riêng biệt từng phần mà không
có sự kết hợp của pháp khác. Sắc pháp chỉ sanh khởi khi có tối
thiểu tám sắc kết hợp. (Đó là lý do khiến chúng được gọi là
aṭṭhakalāpa - Nhóm tám). Danh pháp cũng khởi sanh chỉ khi có
tối thiểu tám danh pháp kết hợp (nghĩa là phải có ngũ thức -
pañca-viññāna). Khi những sự kết hợp như vậy gồm những
thành phần của danh và sắc để hình thành uẩn bị nghĩ sai là của
ta, thân ta, tự ngã của ta, thì chúng nẩy sanh những pháp ô nhiễm
như ái dục, v.v... Những pháp hữu vi được biết như tướng
(nimitta), nền tảng hoặc nguyên nhân. Trong những tâm hợp thế
đặc biệt, những sở hữu và sắc được gọi là tướng (nimitta). Tuy
nhiên ở Niết-bàn không có những pháp có thực chất như “của
ta”, “thân của ta”, để làm sanh khởi những ô nhiễm. Cho nên nó
mới được gọi là Vô tướng Niết bàn - Animitta Nibbāna.

3.    Thuộc tánh thứ ba là Niết-bàn không có ái dục (tanhā). Như đã

nói ở trên, Niết-bàn chẳng có gì để luyến ái, Niết-bàn không có
chỗ để ái đeo níu. Cho nên nó được gọi là Vô nguyện Niết-bàn -
Appaṇhita Nibbāna. Theo cách này, có ba loại Niết-bàn tùy theo
thuộc tính của nó.

Khổ Diệt đế này được gọi tắt là Diệt đế. Diệt đế này là Vô vi giới (Asaṅkhata) (nó chẳng có yếu tố nào làm điều kiện sanh khởi). Cho nên Diệt đế , Vô vi giới , Thực tại tối thượng của Niết-bàn được gọi là Apaccaya Dhamma (Vô nhân duyên pháp) hay Asaṅkhata Dhamma (Vô vi pháp) trong bộ Dhamma-saṅgani.

Đạo Thánh đế

Dầu Nibbāna không nhân, không có nhân nào làm duyên sanh và
nó luôn luôn hiện hữu, nhưng không thể nào giác ngộ được sự tịch
tịnh mà không có nhân. Niết bàn được giác ngộ chỉ do một nhân.

 

352                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Nhân ấy chính là sự thực hành của bậc Thánh. Do sự thực hành của
bậc   Thánh   dẫn   đến   Niết-bàn,   Diệt   đế,   được   gọi   là   Dukkha
Nirodhagāminī Paṭipadā
(là đường lối thực hành dẫn đến Diệt khổ).

Trung đạo (Majjhima Paṭipadā)

Sống trong sự thọ hưởng các dục lạc của thế gian để thỏa mãn ái
dục không phải là đạo dẫn đến Niết-bàn, Diệt đế. Đó chỉ là sự thực

hành thấp hèn gọi là kāmasukhallikānuyoga (dục lạc hành). Những cố
gắng làm khổ bản thân bằng cách phơi mình gần ngọn lửa nóng, dưới
sức nóng mặt trời, đưa cánh tay lên một cách bất động với quan niệm

ngăn chặn không cho sanh khởi các pháp ô nhiễm. Những sự thực
hành như vậy không dẫn đến Niết-bàn, sự chấm dứt khổ. Đó là cách
thực    hành    pháp    có    tính    chất    thấp    hèn,    được    gọi    là
attakilamathānuyoga (khổ hạnh trầm nịch). Tránh hai cực đoan:lợi
dưỡng và khổ hạnh, chỉ hành theo trung đạo là lối thực hành không
quá tiện nghi cũng không quá khắc khổ, như sợi dây đàn không quá

căng cũng không quá chùng, là cách thực hành chắc chắn sẽ dẫn đến
Niết-bàn. Sự thực hành không dễ cũng không khó này được gọi Trung
đạo,
Majjhimapaṭipadā.

Con đường thực hành rất trung dung này được gọi là Đạo (Magga),
con đường dẫn đến Niết-bàn. Tà kiến, v.v… có tánh chất bất thiện,
được gọi là ác thú đạo (duggati-magga) hay tà đạo (micchā-magga) vì
chúng dẫn đến bốn khổ cảnh (apaya). Chánh kiến v.v…có tính chất
thiện và hợp thế được gọi là Thiện thú đạo (sugati-magga) hay Chánh
đạo (sammā-magga) vì chúng dẫn đến Niết-bàn. Chú giải của bộ
Sacca Vibhaṅga giải thích rằng những yếu tố này như chánh kiến

v.v… mà tạo thành tâm đạo thì được gọi là Đạo (Magga) bởi vì chúng
được tầm cầu bởi những người khao khát Niết bàn, bởi vì những yếu
tố này dẫn đến Niết bàn và vì người ta thấy con đường ấy dẫn đến
Niết bàn sau khi đoạn tận tất cả phiền não.

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                353

Đạo này không phải chỉ có một yếu tố; nó có đến tám yếu tố, sẽ được nói rõ dưới đây nên Đạo được gọi là Bát chánh đạo (AtthangikaMagga). Tám chi đạo ấy là:

1) Sammā-diṭṭhi: - Chánh kiến là Tuệ thấy rõ Khổ đế, Tuệ thấy rõ
    
Tập đế, Tuệ thấy rõ Diệt đế và Tuệ thấy rõ Đạo đế. Như vậy đó

là Tứ phần tuệ.

2) Sammā-saṅkappa: Chánh tư duy (Ba loại tư duy, đó là: Tư duy
về sự giải thoát chính mình ra khỏi phiền não dục (kilesa-kāma) và vật
dục (
vatthu-kāma) như đã được giải thích ở phần nói về Xuất gia Ba-
la-mật; tư duy không oán hận kẻ khác, và tư duy không làm hại kẻ
khác.

3) Sammā-vacā: Chánh ngữ là sự chế ngự bốn loại ác ngữ.

4) Sammā-kammanta: Chánh nghiệp là sự thu thúc ba ác nghiệp về
    
thân.

5) Sammā-ājiva: Chánh mạng là sự nuôi mạng chân chánh thoát

khỏi bảy loại tà mạng.

6) Sammā-vāyāma: Chánh cần là sự tinh tấn làm cho những bất

thiện pháp chưa sanh không sanh khởi, tinh tấn đoạn diệt những
bất thiện pháp đã sanh khởi, tinh tấn làm sanh khởi những thiện

pháp chưa sanh và tinh tấn phát triển những thiện pháp đã sanh.

7) Sammā-sati: Chánh niệm là sự chánh niệm về thân, thọ, tâm và

các pháp chướng ngại, v.v…

8) Sammā-samādhi: Chánh định là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền

và Tứ thiền.

Tám thành tố này không khởi sanh cùng lúc với nhau trong các lãnh
vực thuộc thế gian. Chúng kết hợp với nhau ở mức độ có thể. Tuy
nhiên, ở lãnh vực siêu thế, tám thành tố này cùng khởi sanh đồng một
lúc. Sự đồng sanh của tám thành tố này chỉ xảy ra vào lúc chứng Đạo

 

354                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

thánh đế dẫn đến sự chấm dứt khổ, có nghĩa là nhóm gồm tám yếu tố,
bắt đầu bằng Chánh kiến, khởi sanh chung một lúc. Đạo được bao
gồm chung với Quả và Niết bàn trong tập hợp các pháp siêu thế
(magga-phala nibbāna), chính là tám thành tố tạo thành Đạo thánh đế.

 

 

Giáo thuyết đế (Pariyatti-sacca) &

Đạo hành đế (Paṭipatti-sacca)

Những sự thật mà chúng ta đã bàn cho đến bây giờ là những sự thật
được biết từ Kinh điển (Pariyatti-sacca - Giáo thuyết đế), nhưng điều
thực sự được xem là Chân thật Ba-la-mật là sự Chân thật trong pháp
hành (Paṭipatti-sacca - Đạo hành đế) được thực hành bởi các bậc chân
nhân như chư Bồ-tát, v.v... Sự Chân thật trong pháp hành có nghĩa là
Chân thật ngữ hay nói lời chân thật (
vacī-sacca). Sự hành pháp như
vậy trong chính mình được gọi là sự thực hành Chân thật Ba-la-mật.
Đó là sự chân thật trong lời nói mà chư Bồ-tát và những bậc thánh
nhân khác đặc biệt thực hành. Sự chân thật trong lời nói có ba loại:

(1)    Saddahāpana-sacca là nói lời chân thật để mọi người tin
        
mình.

(2)    Icchāpūrana-sacca là nói lời chân thật để ước nguyện được
        
thành tựu.

(3)    Musāviramaṇa-sacca là nói lời chân thật để có thể tránh lời
        
nói dối.

(1) Saddahāpana-sacca

Trong ba sự chân thật này, sự thực hành Saddahāpana-sacca của chư vị Bồ-tát được đề cập trong Bổn sanh Bhisa của bộ Pakinnaka Nipāta. Câu chuyện đầy đủ về Bổn sanh Bhisa có thể được tìm thấy trong Bổn sanh truyện. Sau đây là câu chuyện tóm tắt.

Câu chuyện Bổn sanh Bhisa

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                355

Ngày xưa, có một chàng trai Bà-la-môn tên là Mahākañcana, sanh tại kinh thành Bārāṇasī, đi vào rừng xuất gia cùng với mười người thân thuộc khác, trong đó có một đứa em gái, một đầy tớ trai, một đầy tớ gái, một người bạn và sáu người em trai. Họ dựng lên những chỗ ngụ ở gần hồ sen và sống bằng trái cây.

Ban đầu tất cả họ đều cùng đi chung để kiếm trái cây. Họ nói
chuyện với nhau và cư xử giống như giống như dân làng hoặc người ở
thị thành, không giống như những người ở rừng. Để chấm dứt tình
trạng không thích hợp này, người anh cả Mahākañcana bèn nói rằng:
“Riêng ta sẽ đi kiếm trái cây, còn tất cả các vị hãy ở lại thiền tịnh.”
Tất cả những người em bèn đáp lại rằng: “Sư huynh mà đi kiếm trái
cây là không thích hợp. Sư muội và cô hầu cũng không nên làm như
vậy, vì họ là phụ nữ. Tám người chúng tôi sẽ thay phiên nhau làm
điều ấy.” Lời đề nghị này được mọi người chấp thuận và tám người
đàn ông còn lại thay phiên nhau đi kiếm trái cây và đem về nuôi tất cả.

Thời gian trôi qua, họ rất an lạc đến nổi họ không quan tâm đến trái
cây mà chỉ cần ra hái ngó sen từ cái hồ ở gần đó và chia phần cho
nhau. Một người trong bọn họ có bổn phận đem ngó sen bỏ vào thảo
am và chia thành mười một phần. Người anh cả lấy trước một phần
và, sau khi gõ một cái vào cái trống bằng đá, bèn đi về chỗ ngụ của vị
ấy, ăn ngó sen trong sự thanh tịnh và rồi tiếp tục pháp hành của vị ấy.
Khi người em kế nghe tiếng trống đá, vị ấy đến lấy phần ăn của mình

và gõ một cái vào cái trống đá. Và cứ như vậy, họ trải qua ngày tháng
tu hành mà không gặp mặt nhau trừ khi có lý do đặc biệt.

Vì sự thực hành của họ quá nghiêm túc khiến chỗ ngụ của Sakka bị rung chuyển, nên vua của chư thiên phải suy xét lý do và biết được nó. Khi đó vị ấy thắc mắc liệu những người này có thực sự xả ly ngũ dục hay chưa. Để trắc nghiệm, vị ấy dùng thần thông đem giấu phần ăn của vị đạo sĩ trưởng trong ba ngày liên tục.

Khi người anh cả đến lấy phần ăn của mình vào ngày thứ nhất, vị
ấy không thấy nó và nghĩ rằng chắc người ta quên chia phần. Vị ấy

 

356                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

chẳng nói gì mà đi về chỗ ngụ của mình và tiếp tục hành thiền. Vào
ngày thứ hai cũng vậy, vị ấy cũng không thấy phần ăn của mình; nghĩ
rằng phần ăn của mình đã bị người ta cố ý cắt đứt như một hình phạt
về một lỗi lầm nào đó của mình bị hiểu lầm, nên lặng lẽ trở về cốc.
Vào ngày thứ ba cũng không thấy phần ăn của mình, vị ấy quyết định
sẽ sám hối nếu mình đã phạm phải lỗi lầm nào đó, và đến chiều vị ấy

gõ vào cái trống đá để triệu tập mọi người. Vị ấy nói: “Tại sao các vị
lại cắt đứt phần ăn của tôi? Xin hãy nói ra nếu tôi có tội. Tôi bằng
lòng sám hối với các vị.” Rồi người em kế đứng lên và sau khi kính lễ
người anh cả, bèn nói rằng: “Thưa sư huynh, cho phép em được nói ra

cảm nghĩ của chính mình.” Được sự chấp nhận, vị ấy nói lên lời thề
rằng:

“Thưa sư huynh, nếu em lấy cắp phần ăn của sư huynh thì cầu cho
em phải sở hữu ngựa, bò, gia súc, vàng bạc và vợ đẹp ở đây tại chỗ
này và phải sống với gia đình của em (thọ hưởng cuộc sống đầy đủ
của thế gian).”

(Hình thức thề nay cho thấy rằng các cảnh dục mà đem lại khoái lạc cho chúng ta nhiều bao nhiêu khi chúng ta có chúng, thì khi chúng ta mất chúng sự thương tiếc và tuyệt vọng đến với chúng ta cũng nhiều như thế. Do đó, lời thề này nói lên sự khinh khi dục lạc).

Người anh cả bèn nói rằng, “Em đã thề rất nặng. Anh tin em không
lấy phần vật thực của anh. Hãy về lại chỗ ngồi của em.” Những người

còn lại cũng bịt tai và nói rằng: “Thưa sư huynh, xin đừng thề như
vậy. Lời thề của sư huynh rất trầm trọng và kinh khủng.” (Họ bịt tai vì
như các hành giả, họ thấy dục lạc là đáng ghê tởm đối với họ. Dục lạc
đáng sợ đến nổi họ không dám nghe ngay cả một điều gì có liên quan
đến nó).

Rồi người em tiếp theo bèn nói rằng:

“Thưa sư huynh, nếu em lấy cắp các ngó sen của sư huynh thì xin cho em phải mang trên người đủ các loại hoa và đầy bột chiên đàn xứ Kasi, có nhiều con cái, bị chìm đắm và luyến ái với dục lạc.”

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                357

(Bằng cách này, những người còn lại mỗi người đều thốt lên lời thề riêng của họ).

Trong chuyện Bổn sanh này, đạo sĩ Mahākañcana, người lãnh đạo
của nhóm, là Bồ-tát và những người còn lại về sau trở thành những đệ
tử bậc nhất của Đức Phật. Do đó, sau khi đạt đến mức thuần thục của
tâm, họ thực sự ghê tởm dục lạc. Mỗi người trong bọn họ đều có đủ
gan dạ để thốt lên lời thề đáng sợ như vậy khiến mọi người phải tin

mình. Chữ “Lời xác nhận long trọng” không được dùng trực tiếp trong
Bổn sanh Bhisa này, nhưng chữ “Lời thề” thì được sử dụng. Vì lời thề
ấy dựa trên điều có thật nên nó giống như sự chân thật về lời nói
(
vacī-sacca) mà chư vị Bồ-tát thực hành. Trong mỗi lời thề của họ,
điểm chính là “Chúng tôi không lấy cắp phần ăn gồm những ngó sen
của sư huynh.” Vì đó lời tuyên bố chân thật nên nó được xem là sự
chân thật về lời nói. Những lời như “Cầu cho tôi phải gặp điều này

hoặc điều kia.” được nói ra để khiến cho người khác phải tin mình
hoặc sự trừng phạt đến với mình. Do đó, sự chân thật này được gọi là
Saddahāpana-sacca. Lời thề được sử dụng từ thời các vị vua cổ xưa
Mahāsammata cho đến thời hiện tại, tất cả đều là Saddahāpana-sacca.

Lời nguyền rủa

Một lời thốt ra dựa trên sự thật, nhưng được thực hiện chỉ để làm hại kẻ khác thì không phải là lời thề, chỉ là sự nguyền rủa. Câu chuyện sau đây là ví dụ về sự nguyền rủa.

Chuyện hai vị đạo sĩ

Thuở xưa, vào thời vua Brahmadatta trị vì ở kinh đô Bārāṇasī, có
một vị đạo sĩ sống ở Hi-mã-lạp-sơn tên là Devīla. Một hôm, vị đạo sĩ
đi xuống kinh thành để kiếm muối và dấm chua. Trên đường đi trời
ngã bóng hoàng hôn, vị ấy đi vào một lò gốm nọ và xin tá túc qua
đêm. Rồi một vị đạo sĩ khác, tên là Nārada, cũng xin vào trú ngụ qua
đêm và ở chung với đạo sĩ Devīla. Khi đến giờ ngủ, đạo sĩ Nārada lưu
ý chỗ ngủ của vị đạo sĩ đến trước và cửa vào phòng rồi nằm xuống

 

358                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

ngủ. Nhưng thình lình, đạo sĩ Devīla đến nằm chắn ngang ở cửa ra
vào.

Đêm khuya, đạo sĩ Nārada đi ra ngoài và đạp nhằm lên búi tóc của đạo sĩ Devila. Devila bèn nói rằng: “Ai đạp lên búi tóc của tôi vậy.” Đạo sĩ Nārada nhỏ nhẹ đáp lại: “Thưa Ngài, tôi ạ, vì tôi không biết Ngài đang ngủ ở đây. Cho tôi xin lỗi.” Và vị ấy ra khỏi cốc trong khi Devila thì tức giận lầm bầm.

Sau đó sợ vị đạo sĩ kia lại giẫm lên tóc mình lần nữa, đạo sĩ Devila
bèn xoay đầu ngược lại. Khi Narada trở lại, vị ấy nghĩ rằng: “Khi đi
ra, ta đã lỡ giẫm lên tóc của vị ấy vì ta không biết đầu của vị ấy nằm

chỗ nào. Bây giờ đi vào, ta sẽ đi ngang qua dưới chân vị ấy.” Và như
vậy, vị ấy đã giẫm lên cổ của Devila. Devila lại hỏi: “Ai giẫm chân
lên cổ của tôi vậy?” “Dạ tôi, thưa Ngài.” Nārada đáp lại. “Này tên ác
đạo kia!” Devila nói, “Lần đầu ngươi đã giẫm lên tóc của ta. Lần nầy
ngươi lại giẫm lên cổ của ta. Ta sẽ nguyền rủa ngươi.” “Thưa Ngài, tôi
không cố ý.” Nārada nói, “Lần đầu tôi nhầm lẫn vì tôi không biết Ngài
nằm ở đâu. Bây giờ tôi đi phía dưới chân Ngài để không phạm phải
như vậy nữa. Xin tha lỗi cho tôi.” Đạo sĩ Nārada xin lỗi.

“Đồ ác đạo, ta sẽ nguyền rủa ngươi.” Devila đe dọa. Rồi bất chấp
sự nài nỉ, Devila nói lời nguyền rủa, “Sáng mai khi mặt trời mọc, cầu
cho cái đầu của ngươi bể thành bảy mảnh!” Đạo sĩ Nārada bèn đáp lại
rằng: “Bất chấp những lời xin lỗi của tôi, Ngài vẫn nguyền rủa tôi.
Vậy cầu cho cái đầu của người có tội bể thành bảy mảnh!” Như vậy
đạo sĩ Nārada đã đáp trả lời nguyền của đạo sĩ Devila, lời nguyền của
đạo sĩ Narada không chứa sân hận và không cố ý làm hại vị kia. Vị ấy
nói như vậy để khiến Devila sợ hãi và nhìn nhận lỗi lầm của mình.
Đạo sĩ Narada có thần thông, vị ấy có thể thấy rõ trong tám mươi kiếp

- bốn mươi kiếp quá khứ và bốn mươi kiếp tương lai. Khi nhìn vào tương lai của Devila, vị ấy thấy rằng Devila sẽ bị tiêu diệt. Bởi vậy, vì lòng bi mẫn đối với Devila, vị ấy dùng thần thông để giữ mặt trời không cho mọc lên.

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                359

Khi đến giờ mà mặt trời không mọc, dân chúng bèn lũ lượt kéo đến
hoàng cung và đồng thanh nói rằng: “Tâu đại vương, mặt trời không
mọc trong khi đại vương đang cai trị chúng tôi. Xin hãy kiểm điểm
hạnh kiểm của đại vương để mặt trời mọc lên.” Đức vua suy xét về

hành vi của mình và không thấy lầm lỗi chỗ nào. Vị ấy nghĩ rằng chắc
phải có lý do đặc biệt nào đó, có thể là một sự xích mích giữa các vị
đạo sĩ trong vương quốc của mình. Qua sự điều tra, đức vua biết được
rằng có sự xích mích giữa hai vị đạo sĩ. Rồi đức vua đi đến hai vị đạo
sĩ. Theo lời khuyên của đạo sĩ Narada, đức vua đặt khối đất cứng trên
đầu của đạo sĩ Devila và dùng sức nhấn chìm vị ấy xuống nước trong

một cái hồ. Khi đạo sĩ Narada thâu lại thần thông của mình thì mặt
trời mọc lên và khối đất kia bể ra thành bảy mảnh. Rồi Devila lặn đến
chỗ khác và trồi lên an toàn. (Chú giải Pháp cú, I. Yamaka Vagga, 3.
Tissa Vatthu).

Lời nguyền của Devila trong câu chuyện này: “Sáng mai khi mặt trời mọc lên, cầu cho cái đầu của ngươi bể thành bảy mảnh!” được thốt lên bằng tâm sân hận dành cho Narada. Như vậy không phải lời thề, chỉ lời sự nguyền rủa.

Giống như lời nguyền trong câu chuyện này, ở chùa Nadaungtat
phía bắc của Bagan, người ta tìm thấy có đoạn khắc trên đá như sau:
“Ai phá hoại việc phước của ta, cầu cho bảy đời con cháu của người

này bị tiêu diệt. Cầu cho vị ấy bị đọa vào A-tỳ địa ngục, không được
siêu thoát dầu có chư Phật của những kiếp sau ra sức cứu rỗi.” Lời
nguyền như vậy chắc chắn không phải của chư vị Bồ-tát. Thực ra đó
lời một loại ác ngữ (pharusa-vācā). Đó là lời nguyền rủa của những
người hạ liệt.

Ta  cũng  có  thể  thấy   Saddahāpana-sacca  trong  câu  chuyện
Sutasoma trong bộ Jātaka, Asīti Nipāta. Câu chuyện tóm tắt như sau:

Thuở xưa có một kẻ ăn thịt người tên Porisada. Trước kia hắn là
vua của nước Bārāṇasī nhưng giờ đây hắn sống trong rừng để thực

hiện một lời thề là sẽ tắm thân của cây đa bằng máu của một trăm lẻ

 

360                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

một vị vua, nếu bàn chân của hắn bị gai của cây xiêm gai đâm thủng
mà được chữa lành trong vòng bảy ngày. Bàn chân được chữa lành và
hắn đã thành công bắt về một trăm vị vua. Theo yêu cầu của vị thọ
thần là bắt nốt một vị vua nữa cho đủ số, hắn tìm bắt vua Sutasoma
của xứ Kuru. Và khi Sutasoma đang trên đường trở về từ vườn thượng
uyển Migajina, hắn đã bắt vị ấy và vác về. Khi ấy Sutasoma nói rằng:
“Tôi phải về nhà một lát vì trên đường đi đến vườn Migajina. Tôi đã
gặp một vị Bà-la-môn tên là Nanda. Vị ấy đề nghị dạy cho tôi bốn câu
kệ với giá bốn trăm đồng. Tôi đã hứa với vị ấy là sẽ học chúng sau khi
trở về từ vườn Migājina và tôi đã bảo vị ấy chờ tôi. Vậy hãy để tôi đi
học bốn câu kệ ấy và làm tròn lời hứa. Sau đó tôi sẽ trở lại với ông.”
Khi đó vị vua ăn thịt người bèn nói rằng: “Có ai trên đời này mà sau
khi thoát khỏi bàn tay của thần chết mà trở lại để chịu chết bao giờ?
Ta không tin ngươi.”

Rồi Sutasoma nói rằng: “Này bạn Porisada, trong thế gian này, cái
chết sau một cuộc sống có đạo đức sẽ tốt hơn sự sống mà dẫy đầy tội
lỗi vì nó bị mọi người khinh chê. Những lời nói được thốt ra thiếu
chân thật thì không thể bảo vệ người ta khỏi bị tái sanh vào khổ cảnh
sau khi chết. Này bạn Porisada, tốt hơn bạn nên tin nếu có người nói
rằng “Những cơn gió mạnh đã thổi đi những ngọn núi đá vào hư
không!” hoặc “Mặt trời và mặt trăng đã rơi xuống đất” hoặc “Tất cả
các con sông đều chảy ngược.” Nhưng bạn đừng bao giờ tin nếu có
người nói rằng: “Sutasoma nói dối.” Này bạn Porisada, nếu có người
nói rằng: “Bầu trời đã bị tan vỡ” hoặc “Đại dương đã khô cạn”, hoặc
“Núi Tu-di đã bị quét sạch không còn dấu vết.” Bạn có thể tin những

lời  như  vậy,  nhưng  đừng  bao  giờ  tin  nếu  có  người  nói  rằng:
“Sutasoma nói dối.” Porisada vẫn còn do dự.

Thấy Porisada vẫn cứng rắn, Mahā Sutasoma bèn suy nghĩ, “Tên
Porisada này vẫn không tin ta. Vậy ta sẽ nói lên lời thề để hắn tin ta.”
Bởi vậy vị ấy nói: “Này bạn Porisada, hãy để tôi xuống. Tôi sẽ nói lên
lời thề để bạn tin tôi.” Khi ấy Porisada bèn để Sutasoma xuống khỏi
vai: “Này bạn, tôi sẽ cầm một cây kiếm, một cây thương và nói lên lời

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                361

thề. Tôi sẽ rời khỏi bạn trong một thời gian ngắn và sẽ làm tròn lời hứa với vị Bà-la-môn Nanda là học bài kệ của vị ấy tại thành phố. Rồi tôi sẽ trở lại với bạn để giữ lời hứa của tôi. Nếu tôi không nói lời chân thật thì cầu cho tôi không được tái sanh vào dòng vua được bảo vệ bởi các loại khí giới như cây kiếm và cây thương này.”

Rồi Porisada suy nghĩ: “Vị vua Sutasoma đã nói lên lời thề mà các vị vua tầm thường không dám làm. Dầu vị ấy có trở lại hay không cũng không sao, ta cũng là vua. Nếu vị ấy không trở lại thì ta sẽ lấy máu từ cánh tay của ta để tế thần cây đa.” Sau khi suy nghĩ như vậy, Porisada bèn phóng thích Sutasoma.

Lời nói chân thật này của Mahāsutasoma được thốt ra để thuyết phục Porisada là Saddahāpana-sacca. Đây là loại Chân thật Ba-la-mật mà chư Bồ-tát đã thực hành.

(2) Icchāpūraṇa-sacca

Loại chân thật về lời nói này được trang trọng thốt lên để làm thành tựu  ước  nguyện  của  mình,  được  tìm  thấy  trong  câu  chuyện Suvaṇṇasāma, lời câu chuyện thứ ba trong Mahānipāta của Bổn sanh kinh, và nhiều câu chuyện khác nữa.

Trong Bổn sanh Suvaṇṇasāma này, Bồ-tát Suvaṇṇasāma đang
phụng dưỡng cha mẹ bị mù ở trong rừng. Trong khi đi lấy nước, Bồ-
tát bị trúng phải một cây tên có độc do vua Piliyakkha bắn vào một
con nai nhưng trượt nhằm vào Bồ-tát và Bồ-tát ngã gục trong trạng

thái bất tỉnh. Vua Piliyakkha đưa cha mẹ mù đến chỗ Bồ-tát. Khi đến
đó, người cha Dukūla ngồi xuống và đỡ lấy đầu của đứa con thân yêu,
còn người mẹ Pārikā thì đỡ đôi chân và đặt chúng lên đùi của bà rồi
than khóc. Họ sờ vào thân của đứa con trai và thấy ở ngực vẫn còn hơi
nóng, người mẹ tự nhủ thầm: “Con trai của ta vẫn chưa chết. Nó chỉ bị
bất tỉnh do chất độc đó thôi. Ta sẽ khiến chất độc tiêu tan bằng những
lời chân thật chí thành.” Do đó, bà nói lời xác chứng long trọng gồm
bảy điểm như sau:

 

362                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

(1)   Trước đây đứa con trai Sāma của tôi đã từng thực hành chánh

hạnh (dhammacārī). Nếu đây là sự thật thì xin cho chất độc trong người của con trai tôi hãy tan biến.

(2)   Trước đây đứa con trai của tôi đã từng chăm chỉ thực hành

thánh hạnh. Nếu đây là sự thật thì xin cho chất độc trong người của con trai tôi hãy tan biến.

(3)   Trước giờ đứa con trai Sāma của tôi chỉ nói lời chân thật. Nếu

đây là sự thật thì xin cho chất độc trong người của con trai tôi hãy tan biến.

(4)   Đứa con trai Sāma của tôi hằng phụng dưỡng cha mẹ. Nếu đây

là sự thực thì xin cho chất độc trong người của con trai tôi hãy
tan biến.

(5)   Đứa con trai Sāma của tôi hằng tôn kính các bậc trưởng

thượng trong gia đình. Nếu đây là sự thực thì xin cho chất độc trong người của con trai tôi hãy tan biến.

(6)    Tôi thương con trai của tôi hơn chính mạng sống của tôi. Nếu

đây là sự thực thì xin cho chất độc trong người của con trai tôi hãy tan biến.

(7)    Do những việc phước mà tôi và chồng của tôi đã làm, xin cho

chất độc trong người của Sāma con tôi được tan biến.

Lúc ấy Sāma đang nằm bất động như vậy bỗng trở mình qua phía
bên kia.

Người cha cũng suy nghĩ: “Con trai của ta vẫn còn sống. Ta cũng sẽ nói những lời chân thật trang trọng như mẹ của nó. Sau đó, Bồ-tát trở mình qua bên kia.

Lúc bấy giờ một nữ thần tên là Bahusundarī, đã từng làm mẹ của
Suvaṇṇasāma   trong   bảy   kiếp   quá   khứ   và   đang   ngụ   ở   núi
Gandhamādana, bèn đi đến chỗ Suvaṇṇa-sāma đang nằm và nói lời
quả quyết long trọng như sau: “Tôi sống ở đồi Gandhamādana của

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                363

vùng Hy-mã-lạp-sơn này đã lâu. Suốt cuộc đời của tôi, tôi chẳng yêu thương ai nhiều hơn Suvaṇṇasāma. Nếu đây là sự thật thì xin cho chất độc trong người của Sāma hãy tan biến. Ở chỗ ngụ của tôi tại đồi Gandhamādana, tất cả cây cối đều tỏa hương thơm. Nếu đây là sự thật thì xin cho chất độc trong người của Sāma hãy tan biến.” Trong khi cha mẹ của Sāma và nữ thần đang ta thán như vậy thì Bồ-tát Suvaṇṇasāma trẻ trung, tuấn tú bỗng ngồi dậy.

Trong câu chuyện này, những lời chân thật của bà mẹ Parikā, cha
Dukūla và nữ thần Bahusundarī được nói ra với ước nguyện là tiêu
diệt chất độc trong người của Suvaṇṇasāma và làm cho vị ấy khỏe
mạnh trở lại được thành tựu và vì thế, nó được gọi là
Icchāpūraṇa
Vacīsacca.

Chuyện về Suppāraka

Loại tác chứng Icchāpūraṇa-sacca cũng xảy ra trong câu chuyện
Suppāraka của Bổn sanh truyện, Ekādasaka Nipāta. Đây là câu chuyện
tóm tắt.

Thuở xưa Bồ-tát Suppāraka là người có kiến thức rất cao, sống ở
một thành phố cảng xứ Kurukaccha (Bharukaccha). Ngài làm thuyền
trưởng trong một thời gian rất dài và về sau bị mù do đôi mắt của Ngài
luôn luôn tiếp xúc với nước biển. Vì thế Ngài đành phải nghỉ việc.
Tuy nhiên theo yêu cầu của một số thương nhân, Ngài điều khiển một
chiếc thuyền buồm ra biển. Sau bảy ngày, một cơn bão bất thường đổ
ập đến và chiếc thuyền không thể đi đúng hướng và phải lênh đênh
giữa biển suốt bốn tháng. Con thuyền đã đi lạc vào các biển như (1)
Khuramālisamudra, (2) Aggimālisamudra, (3) Dadhimālisamudra, (4)
Kusamālisamudra và (5) Nalamālisamudra, khi nó sắp vào chỗ khủng
khiếp nhất, là biển Balavāmukhasamudra. Lúc ấy thuyền trưởng
Suppāraka bèn nói rằng bất cứ ai một khi đi vào biển này thì không
thể trở về, chết trong biển này làm mồi cho tôm cá mà thôi. Điều này
khiến tất cả thương nhân trên thuyền đều sợ hãi kêu gào.

 

364                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Khi khởi lên ý nghĩ rằng: “Ta sẽ cứu tất cả những người này bằng
sự tác chứng,” Bồ-tát bèn nói lời tuyên bố trang trọng: “Từ khi tôi đến
tuổi trưởng thành, tôi chưa bao giờ đối xử tệ với bất cứ ai. Tôi chưa hề
ăn trộm tài sản của kẻ khác dầu một cọng cỏ hay một sợi lạc tre. Tôi
chưa bao giờ nhìn vợ của người khác với tâm tính dục dầu chỉ chút ít.
Tôi chưa hề nói dối. Tôi cũng chưa bao giờ uống rượu dầu chỉ bằng
một giọt nhỏ trên đầu cọng cỏ. Do lời chân thật này của tôi, cầu xin
cho chiếc thuyền trở về nhà an toàn.” Rồi chiếc thuyền trôi lơ lửng
trong bốn tháng như vậy bỗng đi vào quỹ đạo an toàn trở về
Kurukaccha và đến cảng Kurukaccha chỉ trong một ngày do oai lực
tác chứng của Bồ-tát.

Lời nói chân thật này của Bồ-tát Supparaka, bậc trí cũng là icchāpūraṇa-sacca vì nó được thực hiện với ước nguyện cứu vớt mạng sống của tất cả mọi người được thành tựu.

Chuyện vua Sivi

Đây là câu chuyện thứ ba của phần Vīsati Nipāta. Ở kinh đô
Ariṭṭhapura của vương quốc Sivi, Bồ-tát là hoàng đế của nước này,
hằng ngày thường bỏ ra sáu trăm ngàn đồng tiền vàng cho việc bố thí.
Dù bố thí như vậy, đức vua vẫn chưa thỏa mãn nên đã khởi tâm dũng
mãnh, nguyện bố thí các phần cơ thể của Ngài. Để giúp cho ước
nguyện của đức vua được thành tựu, Sakka từ cõi trời đi xuống, giả
dạng một ông lão Ba-la-môn bị mù, đi đến đức vua và nói rằng: “Tâu
đại vương, cả hai con mắt của đại vương đều có thể trông thấy, còn tôi
thì không. Nếu đại vương bằng lòng cho tôi một con mắt, đại vương
vẫn có thể nhìn thấy bằng con mắt còn lại và tôi cũng sẽ thấy đường
nhờ con mắt của đại vương cho. Vậy hãy cho tôi một con mắt của đại
vương.” Đức vua lấy làm hoan hỷ, vì người xin đã đến ngay lúc vị ấy

phát nguyện bố thí tứ chi. Đức vua cho vời quan ngự y Sivika đến và
truyền lệnh cho ông ta rằng: “Hãy lấy ra một con mắt của ta.” Vị quan
ngự y, các quan và hoàng hậu cung phi, tất cả đều ra sức thuyết phục
đức vua. Nhưng đức vua vẫn kiên quyết với mệnh lệnh của mình và
Sivika không thể làm gì khác, đành phải lấy ra một trong hai con mắt

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                365

của đức vua. Với con mắt còn lại nhìn vào con mắt đã được lấy ra, đức vua sung sướng bày tỏ ước nguyện chứng đắc Vô thượng Bồ đề (Sammāsambodhi) và trao con mắt cho vị Bà-la-môn.

Khi Bà-la-môn, thật ra là vua trời Sakka, đặt mắt vào trong hốc mắt
của mình, nó ăn khớp như con mắt thật của ông ta. Đức vua Sivi trông

thấy như vậy, lấy làm sung sướng vô cùng đến nổi vị ấy bảo Sivika
hãy lấy nốt con mắt còn lại của mình. Bất chấp sự can ngăn của các

quan, đức vua vẫn kiên định bảo Sivika móc con mắt còn lại của mình
và trao cho vị Bà-la-môn. Vị Bà-la-môn đặt con mắt vào hốc mắt còn
lại của mình và thế là vị Bà-la-môn nhìn thấy bằng cả hai con mắt như
bất cứ người nào. Ông ta nói lời cầu chúc đến đức vua và biến mất tựa
như ông ta trở về chỗ ngụ của mình.

Giờ đây đức vua đã mù hẳn và không còn thích hợp để trị vì vương
quốc; vị ấy đi đến chỗ ngụ gần một cái hồ trong vườn thượng uyển nơi
đó vị ấy suy xét về hành động bố thí của mình. Khi ấy Sakka xuất hiện
và đi tới đi lui ở gần đó để đức vua nghe tiếng bước chân của vị ấy.
Nghe tiếng chân người, đức vua hỏi ai. Sakka đáp lại: “Tôi là Sakka
đây. Tôi sẽ cho bệ hạ một đặc ân, hãy nói lên ước nguyện của mình.”
“ Ta có tài sản như châu bảo, vàng và bạc. Giờ đây ta chỉ muốn chết
mà thôi vì cả hai con mắt của tôi không còn nữa,” đức vua nói. “Tâu
đại vương, đại vương nói là muốn chết, vậy đại vương có thực sự
muốn chết không? Hay đại vương nói vậy chỉ vì đại vương bị mù đôi
mắt?” Khi đức vua trả lời rằng vị ấy muốn chết do bị mù đôi mắt thì
Sakka nói rằng: “Tâu đại vương, tôi không thể làm cho đại vương
sáng mắt trở lại. Đại vương chỉ có thể thấy trở lại bằng oai lực về pháp
chân thật của đại vương. Hãy nói lời trang trọng về sự thật.” Khi ấy
đức vua nói lời chân thật như vầy: “Tôi hằng có lòng bi mẫn đối với
những người đến với tôi để xin vật thí và tôi cũng thương xót những
người thực sự hỏi xin cái mà họ cần. Do oai lực của lời chân thật này,
xin cho thị nhãn của tôi được phục hồi.” Ngay khi ấy con mắt thứ nhất
của đức vua bỗng xuất hiện. Rồi vị ấy lại nói lời chân thật khác:

 

366                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

“Khi vị Bà-la-môn mù đến xin tôi đôi mắt, tôi đã cho ông ta cả hai con mắt của tôi. Khi cho mắt, tâm tôi tràn đầy hoan hỷ. Do oai lực của lời chân thật này, xin con mắt kia phát sanh trở lại cho tôi.”

Ngay sau đó, vị ấy có được con mắt thứ hai. Hai con mắt này không
phải là mắt mà vị ấy vốn có từ lúc sinh ra; chúng cũng không phải là
thiên nhãn. Thực ra, đó là đôi mắt do oai lực về Chân thật ngữ Ba-la-

mật của vị ấy.

Lời nói chân thật này của vua Sivi là icchapūraṇa-sacca vì nó được nói ra để làm thành tựu ước nguyện phục hồi đôi mắt  của vị ấy.

Trong  câu  chuyện  Maccha  phẩm  Varaṇa  Vagga,  phần  Ekaka
Nipāta, Bồ-tát của chúng ta khi làm con cá đã thực hiện tác chứng vì
nước trong hồ đã khô cạn do nạn hạn hán và những con cá trong hồ bị
loài quạ ăn thịt. Ngài nói lời trang trọng như sau: “Tuy tôi tái sanh làm
cá là loại mà chúng sinh sinh tồn bằng cách ăn thịt lẫn nhau, tôi chưa
hề ăn thịt một con cá nào dầu nhỏ bằng hạt thóc. Do oai lực của lời
chân thật này, cầu xin đám mưa lớn hãy đổ xuống.” Ngài vừa nói
xong thì đám mưa lớn rơi xuống.

Lại nữa, trong câu chuyện Vaṭṭaka của phẩm Kulāvaka Vagga,
Ekaka Nipāta, Bồ-tát sanh làm con chim cút. Khi chim cút vẫn còn
nằm trong tổ, chưa thể bay và đi được thì một đám cháy lớn mổi lên ở
gần đó, cả chim cha và chim mẹ đều tìm đường trốn chạy. “Trong thế
gian này có những pháp có oai lực như phẩm hạnh của giới trong sạch,
sự chân thật và lòng bi mẫn. Ta chẳng biết nương tựa vào đâu ngoài
lời tác chứng chân thật.” Nghĩ vậy, chim cút nói rằng: “Tôi có đôi
cánh, nhưng chưa thể bay được. Tôi có đôi chân nhưng chưa thể đi
được. Cha mẹ của tôi đã bay đi mất. Hỡi lửa rừng, hãy đi qua khỏi
tôi.” Ngọn lửa rừng đang cháy lan như vậy bỗng dừng lại và diệt tắt và
chim cút được an toàn vô hại.

Về vấn đề này, có điều cần giải rõ. Ở câu chuyện Suvaṇṇasāma và
những câu chuyện khác, sự tác chứng dựa vào việc phước và nhờ vậy
các ước nguyện mới thích hợp để được thành tựu. Nhưng lời khẳng

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                367

định trang trọng của chim cút không có nền tảng như vậy. Điều mà
chim cút nói ra thật đơn giản: “Tôi có đôi cánh nhưng tôi chưa thể
bay. Tôi có đôi chân nhưng chưa thể đi. Cha mẹ của tôi đã bay đi.”
Thực tế, sự tác chứng của chim cút dựa vào điều mà không phải là
việc phước, tại sao ước nguyện của chim cút lại được thành tựu?

Nền tảng của tác chứng là sự chân thật dầu nó là phước hoặc không phải phước. Ngay cả lời nói có điều phước đi kèm nhưng không được nói ra một cách chân thật thì đó không phải là sự chân thật về lời nói. Nó không có oai lực cũng không cho kết quả. Sự chân thật chỉ kể đến lời nói chân thật thôi, có oai lực và cho kết quả.

Vì có đặc tánh chân thật nên lời nói của Bồ-tát được xem là lời chân thật và thành tựu được kết quả mong muốn. Dù đó không phải là lời nói có chứa điều phước, nó cũng không chứa tội. Dù lời nói có tội đi kèm, nhưng được nói ra đúng sự thật, nó cũng được xem là sự chân thật về lời nói và đem lại kết quả mong muốn. Điều này được thấy rõ trong câu chuyện Kaṇha Dīpāyana, Dasaka Nipāta.

(Một thuở nọ, Bồ-tát Dīpāyana cùng với một người bạn sau khi bố
thí hết tài sản của họ, đã đi vào Hi-mã-lạp-sơn và xuất gia làm đạo sĩ.

Về sau người ta gọi Ngài là Kaṇha Dīpāyana. Câu chuyện đầy đủ chi
tiết được tìm thấy trong Bổn sanh Dīpāyana). Một hôm, vị gia chủ
Mandavya, người đã dâng cúng chỗ ngụ đến đạo sĩ Dīpāyana, cùng
với vợ và con trai Yaññadatta đến viếng thăm đạo sĩ. Khi cha mẹ đang
trò chuyện vị sư thầy của họ, Yaññadatta đang chơi với cái nắp chai ở
cuối con đường mòn. Cái nắp chai lăn vào cái lỗ của một ụ đất, chỗ ở
của một con rắn. Khi cậu bé thò tay vào ụ đất để lấy cái nắp chai thì bị
con rắn cắn vào tay và do nọc độc của rắn, cậu ta ngã quỵ sùi bọt mép
trong trạng thái hôn mê bất tỉnh.

Thấy đứa con của họ như vậy, hai vợ chồng gia chủ bồng đứa con
lên và đặt dưới chân của đạo sĩ Kaṇha Dīpāyaka. Rồi cầu xin vị ấy
chữa trị cho con trai của họ. Đạo sĩ bèn nói rằng: “Ta không biết loại
thuốc nào để chữa trị rắn cắn. Nhưng ta sẽ cố gắng chữa cho nó bằng

 

368                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

oai lực của lời nói chân thật.” Rồi đạo sĩ đặt bàn tay lên đầu của đứa
bé và nói rằng: “Vì chán lối sống của thế gian, tôi đã xuất gia làm đạo
sĩ. Nhưng khi xuất gia rồi, tôi chỉ có thể sống hạnh phúc trong bảy
ngày mà thôi. Kể từ ngày thứ tám cho đến bây giờ là năm chục năm,
tôi không hạnh phúc. Tôi chỉ sống một cách miễn cưỡng bằng sự tự
thu thúc. Do oai lực của lời nói chân thật này, xin cho chất độc biến

mất để đứa bé được sống lại.” Rồi chất độc thoát ra từ lồng ngực của
đứa bé và chui xuống đất. Yaññadatta mở mắt; trông thấy cha mẹ, cậu
ta gọi chỉ một lần. “Mẹ, Cha”, rồi đau đớn mà thiếp đi. Vị đạo sĩ nói
với người cha: “Phần tôi, tôi đã làm xong. Còn ông, ông nên nói lời
chân thật đi.” Rồi người cha nói rằng: “Tôi chưa bao giờ hoan hỷ khi
có vị Sa-môn hay Bà-la-môn đến nhà tôi. Nhưng tôi chưa bao giờ cho
ai biết điều này. Thay vào đó, tôi che giấu cảm thọ này. Khi tôi bố thí
vật thực, tôi chỉ làm một cách miễn cưỡng. Do lời chân thật này, xin
cho chất độc hãy biến mất để đứa con nhỏ Yaññadatta của tôi sống
lại.” Chất độc còn ở thắt lưng của đứa bé bỗng thoát ra và chui xuống
đất.

Cậu bé ngồi dậy nhưng không thể đứng lên được. Khi người cha bảo người mẹ nguyện tiếp, bà ta nói rằng: “Tôi cũng có điều để nói lời chân thật nhưng tôi không dám nói trước mặt ông.” Được chồng cho phép, người vợ nói rằng: “Tôi ghét con rắn đã cắn con trai tôi bao nhiêu thì tôi ghét chồng tôi cũng như thế ấy. Do lời chân thật này, xin chất độc hãy biến mất để con trai tôi sống lại khỏe mạnh.” Khi ấy tất cả chất độc trong người cậu bé thoát ra và chui xuống đất. Yaññadatta đứng dậy và chơi với cái nắp chai của cậu.

(Nền tảng của mỗi lời chân thật trong câu chuyện này là một điều
bất thiện đã tồn tại lâu dài trong mỗi người và giờ đây mỗi người
trong bọn họ đã thố lộ ra một cách dũng cảm nói lời chân thật. Vì đây
là lời chân thật nên nó có oai lực làm thành tựu ước nguyện của người
nói lời chân thật).

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                369

Về mặt này, người ta có thể hỏi rằng: “Nếu sự chân thật được nói ra
dựa vào một điều thiện hoặc bất thiện mà đem lại kết quả như đã được
nêu ra ở trên, thì liệu ngày nay nó có còn giá trị tương tự hay không?”

Câu trả lời là: Trong ba loại chân thật, Ly vọng ngữ chân thật -
Musāvitamana-sacca là pháp môn luôn được nói bởi các bậc giới đức
trong mọi vấn đề. Các bậc giới đức thuở xưa đã thực hiện tác chứng
như đã nêu ra trong các bài kinh, họ có đôi môi là trú xứ của pháp
chân thật, là nơi mà pháp Ly vọng ngữ chân thật thường trú. Trú xứ
như vậy rất thanh tịnh và cao quý khiến lời nói chân thật sanh lên từ
đó làm cho ước nguyện được thành tựu. Ngày xưa khi pháp chân thật
được nhiều người hành trì và chiếu sáng thì điều ác như sự gian dối sẽ
nhanh chóng cho kết quả bằng sự trừng phạt không đáng ưa thích. Còn
sự chân thật thì cho kết quả bằng phần thưởng đáng ưa thích. Vấn đề
gian dối cho kết quả nhanh chóng bằng sự trừng phạt không đáng ưa

thích trong thời bấy giờ điển hình là câu chuyện Cetiya của bộ
Atthaka Nipāta. (Theo câu chuyện này, vua Cetiya đã cố ý nói dối, nói
rằng một trong hai người được tuyển chọn sẽ được làm quốc sư và
người kia làm phó mặc dầu sự thật là ngược lại. Kết quả là vị vua nói
dối kia bị đất rút).

Ngày nay, hầu hết mọi người đều dối trá lẫn nhau cho nên trú xứ bất thiện của sự dối trá đã được tạo ra và sự chân thật sanh lên từ đó không thể tạo ra kết quả lợi ích để có thể trông thấy. Tương tự, những kết quả của sự dối trá cũng không rõ ràng.

Những câu chuyện khác mà trong đó lời nói chân thật đem lại kết quả gồm có:

-  Chuyện Sambula của chương Tiṃsa Nipāta kể về sự chữa lành chứng phong cùi của hoàng tử Sotthisena do lời chân thật được thực hiện bởi công chúa Sambulā.

-  Chuyện Temiya của chương Mahā Nipāta kể về sự nhập thai của Bồ-tát, tức hoàng tử Temiya, vào lòng của chánh hậu Candā Devī khi bà nói lời chân thật sau khi bà thọ giới.

 

370                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

-  Chuyện Janaka của chương Mahānipāta kể về sự thoát khỏi xích
sắt và tù giam của thái tử Pola Janaka nhờ lời nói chân thật của vị ấy.

-  Chuyện Kaṭṭhavāhana của chương Ekaka Nipāta kể về sự tác chứng của người mẹ làm nghề đốn củi để khiến đức vua tin rằng đứa con trai do nàng sinh ra chính là con trai của đức vua. Nàng đã nói lời thề chân thật và ném đứa con vào hư không. Do oai lực của lời chân thật ấy, cậu bé ngồi kiết già bình an giữa hư không.

-  Câu chuyện Mahāmora của chương Pakinnaka Nipāta kể về sự
giải thoát của những con chim bị giam trong những cái lồng do lời
nguyện chân thật của Đức Phật Độc giác, mà sanh thời làm thợ săn đã
bắt Bồ-tát, là chim công chúa, bằng cái bẫy vòng. Nhờ nghe thời pháp

thoại của Bồ-tát, ông ta hốt ngộ và trở thành Độc giác Phật. (Theo lời
khuyên của Bồ-tát) vị ấy thực hiện tác chứng như vầy: “Giờ đây tôi đã
thoát khỏi các triền phược. Vậy nguyện cho những con chim bị giam
giữ trong những cái lồng ở nhà đều được tự do như tôi.”

Oai lực của Pháp chân thật vào thời Đức Phật

Vào thời Đức Phật, tại thành Vesāli, có xảy ra thiên tai gồm có tật
bịnh, phi nhân và đói khát. Đức Phật cùng với chúng tỳ khưu đi đến
đó và Ngài chỉ dạy cho đại đức Ānanda cách tụng bài kinh nguyện
gồm những lời chân thật. Đại đức Ānanda đi quanh trọn đêm trong ba
vòng thành Vesāli và tụng bài kinh cầu nguyện ấy. Nhờ oai lực của
bài kinh ấy mà tất cả ba loại tai họa kia thảy đều tiêu diệt. Câu chuyện
này được kể chi tiết trong phần Chú giải của bài kinh Ratana Sutta.
Bài kinh nguyện chân thật bao gồm một số kệ hình thành nên bài kinh
Paritta, “Hộ trì”, được gọi là Ratana Sutta. Bài kinh ấy bắt đầu bằng
một Ân đức của Phật: “Trong cõi trời, người, rồng và Kim-xí-điểu, có
nhiều loại ngọc quí. Nhưng không có loại bảo vật nào sánh bằng Phật
bảo. Do oai lực của lời chân thật này, cầu cho tất cả chúng sanh thoát

khỏi ba điều tai họa và được hạnh phúc.” Bài kinh Ratana Sutta chứa
mười hai câu kệ, là những lời chân thật, nói lên ân đức của Tam bảo -
Phật, Pháp và Tăng (cùng với ba câu kệ của Đế Thích thêm vào, tổng

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                371

cộng có mười lăm câu kệ). Bài kinh này được ghi lại trong cuộc kiết tập là bài kinh thứ nhất trong phẩm Cūla Vagga, Chương Sutta Nipāta và cũng là bài kinh thứ sáu của bộ Khuddaka Pāṭha.

Bài kinh Aṅgulimāla Sutta trong phẩm Rājavagga của bộ Majhima
Paṇṇāsa chứa một câu chuyện khác cũng diễn ra trong thời Đức Phật.

Khi Đức Phật đang ngụ ở Jetavana tịnh xá, trong thành Savatthi, đại
đức Aṅgulimāla bạch với Đức Phật về một thiếu phụ đang gặp khó
khăn khi sinh nở. Theo sự hướng dẫn của Đức Phật,  đại đức
Aṅgulimāla đi đến thiếu phụ sanh khó để giúp đỡ bà ta bằng lời tác
chứng: “Từ khi tôi sanh vào dòng thánh,” Đại đức Aṅgulimāla tác
nguyện, “tôi chưa bao giờ hại mạng một chúng sanh nào. Do lời chân
thật này, cầu xin cho hai mẹ con được bình an.” Ngay sau đó, người
mẹ sanh đứa con một cách dễ dàng và cả hai được mẹ tròn con vuông.

Như vậy trong thời Đức Phật, pháp Chân thật đã cho kết quả nhãn
tiền.

Oai lực của pháp Chân thật trong thời Phật giáo hưng thịnh
                                      ở Sri Lanka

Khi đạo Phật di trú sang Tích lan (Sri Lanka) sau khi Đức Phật viên
tịch, mẹ của trưởng lão Mahāmitta đang bị bệnh ung thư vú. Bà ta sai
con gái, là một tỳ khưu ni, đi đến trưởng lão để kiếm thuốc trị bịnh.
“Ta chẳng biết gì về những loại thuốc thường dùng.” Trưởng lão nói:
“Nhưng ta sẽ nói cho sư cô biết về một phương pháp trị bịnh đặc biệt:
“Từ khi xuất gia đến giờ, ta chưa hề nhìn vào phụ nữ với con mắt tình

dục. Do lời chân thật này, cầu cho mẹ ta được khỏe mạnh trở lại. Khi
sư cô trở về nhà, hãy thoa tay lên chỗ đau của mẹ và đọc những lời mà
ta vừa nói ra.” Người em gái trở về và làm theo lời căn dặn. Ngay sau
khi nàng làm như vậy thì bịnh ung thư vú của người mẹ liền tiêu tan.

Một  câu  chuyện  tương  tự  được  kể  lại  bài  kệ  Dvāra  Kathā,
Citt’uppāda Kaṇda của bộ Chú giải. Khi giải thích từ sampattavirati,
Chú giải nói rằng một gia đình nọ, một người mẹ và hai đứa con trai.
Người mẹ lâm trọng bịnh và sau khi mời lương y về nhà, ông ta bảo

 

372                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

thịt thỏ rừng có thể chữa được căn bịnh ấy. Người anh bèn sai đứa em
trai là Jaggana đi ra đồng để tìm thỏ. Một con thỏ nọ trông thấy
Jaggana, bèn bỏ chạy và bị vướng vào lùm dây leo. Nó kêu lên.

Jaggana chạy đến và bắt con thỏ. Nhưng cậu ta nghĩ rằng: “Giết một
con vật bé nhỏ để cứu sống mẹ của ta là điều không công bằng.” Rồi
cậu ta thả con thỏ và đi về nhà. “Em bắt được con thỏ nào không?”
Người anh hỏi. Khi Jaggana kể lại câu chuyện thì người anh nổi giận
mắng cậu ta một trận nên thân. Rồi Jaggana đến bên cạnh mẹ và khấn
nguyện rằng: “Từ khi tôi sanh ra đến giờ, tôi chưa hề có ý giết hại một
con vật nào. Do oai lực của lời chân thật này, cầu xin cho mẹ tôi được
khỏe mạnh trở lại.” Ngay khi ấy người mẹ hoàn toàn trở lại bình
thường, khỏe mạnh như chưa hề có bịnh.

Như vậy, sau khi Đức Phật viên tịch, cũng có nhiều người thực hiện tác chứng.

(3) Ly vọng ngữ chân thật
(Musāviramana-sacca)

Nhưng  câu  chuyện  liên  quan  đến  Ly  vọng  ngữ  chân  thật (Musāviramana-sacca) sẽ được tìm thấy ở Bổn sanh Vidhura của chương Mahānipāta và những Bổn sanh khác. Sau đây là câu chuyện tóm tắt về Vidhura.

Khi vua Korabya và dạ xoa Puṇṇaka chơi súc sắc, họ đánh cuộc với nhau là: Nếu vua Korabya thua cuộc thì Puṇṇaka sẽ lấy bất cứ cái gì của vua ngoại trừ: (1) thân của vua, (2) hoàng hậu và (3) cái lọng trắng. Ngược lại nếu Puṇṇaka thua cuộc thì đức vua sẽ nhận được viên ngọc Manomaya và con ngựa trắng thuần chủng. Kết quả là đức vua thua cuộc và Puṇṇaka yêu cầu: “Tôi đã thắng rồi, tâu đại vương, hãy cho tôi phần thưởng thắng cuộc như đã thỏa thuận.”

Đúng sự thật là đức vua đã thua cuộc nên không thể từ chối mà
phải để Puṇṇaka lấy đi bất cứ cái gì vị ấy muốn. Puṇṇaka nói rằng vị
ấy chỉ lấy vị quan cận thần Vidhura mà thôi. Khi ấy đức vua xuống
giọng nài nỉ: “Quan cận thần là thân mạng của ta. Vị ấy cũng là chỗ

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                373

nương tựa của ta. Do đó, không nên đem vị quan này  sánh với những tài sản khác của ta như vàng, bạc, v.v... vị ấy chỉ nên sánh với mạng sống của ta. Như vậy ta không thể nhường Vidhura được.”

Rồi Puṇṇaka nói: “Chúng ta tranh cãi hoài như thế này sẽ chẳng đi đến đâu. Chúng ta hãy đi đến Vidhura và nghe theo quyết định của vị ấy.” Đức vua đồng ý và họ đi đến Vidhura. Rồi Puṇṇaka hỏi: “Thưa quốc sư, là quốc sư của xứ Kuru, Ngài được chư thiên khen ngợi là con người chân chánh. Có thật vậy không? Ngài có phải là người hầu của vua Korabya không? Ngài có phải là quyến thuộc của vua Korabya và có địa vị ngang hàng không? Hay Ngài là quyến thuộc của đức vua và có địa vị cao hơn? Có phải tên Vidhura của Ngài là có ý nghĩa (anvattha) hoặc không có ý nghĩa (rulhi)?

(Câu hỏi cuối cùng có ý nghĩa như thế này: Trong thế gian này có
hai loại tên gọi. Loại thứ nhất là rulhi, tên gọi, ý nghĩa của nó không
phù hợp với người hoặc vật có tên ấy (Hư danh). Thay vào đó, tên
được đặt một cách ngẫu nhiên. Loại thứ hai là anvattha, tên gọi có ý
nghĩa phù hợp với chủ nhân của nó. Ví dụ: Nếu một người xấu xí mà
có tên là Anh Tuấn (chàng trai xinh đẹp), thì đó chỉ là hư danh (rulhi)
vì tên ấy không phù hợp với con người của anh ta. Nếu một anh chàng
đẹp trai mang tên là Anh Tuấn thì đó là
anvattha (thực danh) vì nó
phù hợp với diện mạo của anh ta. Khi Puṇṇaka hỏi tên của Vidhura là
thực danh (
anvatha) hay hư danh (rulhi), vị ấy muốn làm sáng tỏ là vị
quan ấy có chân chánh hay không, vì tên Vidhura có nghĩa là bậc giới

đức đoạn diệt các điều ác. Nếu vị quan kia không trú trong chánh pháp
thì tên của vị ấy chỉ là hư danh. Ngược lại nếu vị ấy trú trong chánh
pháp thì tên của vị ấy là thực danh, tên phù hợp với bản tánh thật của
vị ấy).

Khi ấy Vidhura tự nghĩ: “Ta có thể nói rằng ta là quyến thuộc của đức vua,” hoặc “Ta có địa vị cao hơn” hoặc “Ta chẳng bà con gì với đức vua.” Nhưng trong thế gian này không có chỗ nương tựa nào bằng pháp chân thật. Ta nên nói sự thật.” Bởi vậy vị ấy nói rằng: “Này ông bạn, trong thế gian có bốn loại người hầu:

 

 

374

(1)   Người hầu xuất thân từ nữ nô lệ.

(2)   Người hầu do người ta bỏ tiền ra mua về.

(3)   Người hầu tự nguyện, và

(4)   Người hầu bị bắt về trong cuộc chiến.

 

Đại Phật Sử - Tập 1.A

 

Trong bốn loại này, tôi là người tình nguyện đến hầu hạ đức vua.” Như vậy vị quan đã trả lời đúng sự thật.

Câu trả lời đúng sự thật không gian dối như vậy là chân thật ngữ
nhưng không phải là saddahapana-sacca vì lời nói không được sử
dụng để khiến người khác tin tưởng; cũng không phải là icchāpurana-
sacca vì nó không phải được nói ra để làm thành tựu ước nguyện. Nó
được nói ra chỉ để tránh không nói dối và vì vậy, nó là musāviramana-
sacca
.

Tương tự, trong Bổn sanh Suvaṇṇasāma, khi vua Pīliyakkha hỏi
Suvaṇṇasāma rằng: “Ngươi thuộc dòng họ nào? Ai là cha mẹ của
ngươi? Hãy nói cho ta biết về dòng họ và cha mẹ của ngươi.” Vị ấy có
thể tin nếu Suvaṇṇasāma nói rằng: “Tôi là chư thiên,” hoặc “Rồng”
hoặc “Người chim” hoặc “Thuộc dòng vua”, hay bất cứ câu trả lời
nào. Nhưng Suvaṇṇasāma nghĩ là không nên nói lời nào ngoài sự thật.
Bởi vậy vị ấy nói lời chân thật: “Tôi là con trai của người đánh cá.”
Lời nói của Suvaṇṇasāma giống như lời nói của Vidhura. Nó không
làm cho người khác tin cũng không làm cho ước nguyện của người nói
được thành tựu. Đó là lời nói được nói ra để tránh sự nói dối, nên
được gọi là Ly vọng ngữ chân thật -
Musaviramana-sacca.

Trong Bổn sanh Bhūridatta cũng vậy. Khi Bà-la-môn Nesāda đến
gặp Bồ-tát (Long vương) trong khi vị ấy đang thọ trì giới và hỏi vị ấy
rằng: “Ngài là ai? Chư thiên hay Long vương?” Long vương suy nghĩ:
“Người này sẽ tin ta nếu ta nói rằng ta là một vị thiên. Nhưng ta cần
phải nói sự thật.” Ngài bèn trả lời rằng mình là vị Long vương có
quyền lực. Lời nói này là Ly vọng ngữ chân thật -
Musaviramana
sacca

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                375

Chân thật Ba-la-mật ở đây trong mười pháp Ba-la-mật ám chỉ Ly vọng ngữ chân thật - Musaviramana sacca. Chư Bồ-tát thuở xưa luôn luôn tu tập loại chân thật ngữ này để tránh sự nói dối. Các Ngài thực hành Chân thật Ba-la-mật bằng cách nói lời chân thật trải qua nhiều kiếp luân hồi. Nếu các Ngài im lặng để tránh không nói dối và để giữ gìn pháp chân thật thì đó không phải là sự chân thật về lời nói chân thật thuần túy (vacī-sacca) vì sự chân thật này không được nói ra. Nó chỉ là virati-sacca, sự kiêng tránh dối trá.

Việc sử dụng ba loại Chân thật của Bồ-tát

Chư Bồ-tát chỉ sử dụng Thinh thị hiện chân thật (saddahāpana-
sacca) khi ở trong hoàn cảnh bắt buộc; nếu không thì các Ngài không
sử dụng. Tương tự, chỉ khi nào các Ngài thấy cần thiết để ước nguyện
của các Ngài thành tựu, khi ấy các Ngài mới sử dụng loại chân thật
thứ   hai   là
  icchāpunraṇa-sacca.   Về   loại   chân   thật   thứ   ba,
musaviramana-sacca, các Ngài luôn luôn thực hành nó trong mọi
trường hợp. Những người có giới hạnh nên nói lời Ly vọng ngữ chân
thật (musaviramana sacca) và hãy cố gắng tu tập nó.

Hai loại Chân thật

Những loại chân thật kể trên có thể được xếp thành hai loại, đó, là:

1. Vacībhedasiddhi-sacca là sự thật làm thành tựu một điều gì đó vào lúc người ta nói ra.

2. Pacchānurakkhana-sacca là sự thật đòi hỏi phải có hành động chứng minh sau khi nói ra.

Như đã được nêu ra ở trước, Saddahāpana sacca trong Bổn sanh
Bhisa, Icchāpūrana vacīsacca trong các Bổn sanh Suvaṇṇa Sāma,
Suppāraka,   Sivi,   Maccha,   Vaṭṭaka,   Kaṇhadīpāyana,   Nalapāna,
Sambulā, Temiya, Janaka, KatthavāhanaMahāmora Jātakas, và
Musāviramaṇa sacca - Ly vọng ngữ chân thật trong các Bổn sanh
Vidhura, SuvaṇṇasāmaBhūridatta đã đem lại kết quả ngay khi họ

 

376                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

nói ra. Cho nên những sự thật như vậy được gọi là Vacībhedasiddhi
sacca.

Nhưng sự chân thật mà vua Sutasoma thể hiện đối với Porisada trong bổn sanh Mahā Sutasoma thì khác. Nó là Saddahapana sacca được nói ra để thuyết phục Porisada rằng Sutasoma chắc chắn sẽ trở lại với Porisada. Lời hứa này được hoàn thành khi đức vua trở lại với kẻ ăn thịt người và chỉ khi ấy sự chân thật của Sutasoma mới được thành lập, đứng vững. Do đó, sự chân thật của vua Sutasoma thuộc loại pacchānurakkhana sacca (Hậu tùy hộ chân thật).

Tương tự, sự chân thật của vua Jayadisa trong Bổn sanh Jayadisa thuộc chương Tiṃsa Nipāta cũng là pacchānurakkhana sacca.

Đây là câu chuyện tóm tắt về sự chân thật của vua Jayadisa. Trong khi vua Jayadisa của kinh đô Uttara Pañcāla, nước Kapila đang trên đường  đi  săn  bắn,  giữa  đường  vị  ấy  gặp  Bà-la-môn  Nanda  từ Takkasīla trở về và muốn thuyết pháp. Đức vua hứa sẽ nghe pháp khi vị ấy trở về, rồi đi vào rừng.

Khi đến rừng, đức vua và các vị quan chia nhau mỗi người một khu
vực săn bắn. Thú tiêu khiển của họ là săn nai. Một con nai nọ chạy
qua khu vực của vua, và đức vua đem hết sức nhanh nhẹn của mình để
bắt con nai. Sau khi bắt được con nai, đức vua chặt nó làm đôi rồi
buộc chúng vào hai đầu của cái sào và mang về. Đức vua đến nghỉ
một lát dưới gốc một cây đa nọ rồi đứng dậy và đi tiếp. Khi ấy một dạ
xoa sống ở cây đa ngăn chặn vị ấy lại và nói rằng: “Bây giờ ngươi đã
trở thành con mồi của ta. Ngươi không được đi.” (Vị dạ xoa người
không phải là dạ xoa thực. Thực ra vị ấy là anh ruột của đức vua, bị
một nữ dạ xoa bắt đi lúc mới sanh. Nhưng nàng không nở ăn thịt đứa
bé và đã nuôi dưỡng đứa bé như con trai của nàng. Bởi vậy, vị ấy có
hình tướng và tính tình của một dạ xoa. Khi nữ dạ xoa chết, vị ấy ở lại
một mình và sống như một dạ xoa).

Khi ấy vua Jayadisa nói rằng: “Tôi đã hứa với một vị Bà-la-môn là
sẽ trở lại nghe pháp của ông ta. Hãy để tôi đi nghe pháp. Sau đó tôi sẽ

 

trở lại và làm đúng với lời nói của tôi.” Dạ xoa chấp nhận lời cam kết
của đức vua và phóng thích vị ấy. (Dạ xoa và đức vua thực sự là anh
em ruột. Do quan hệ huyết thống của họ nên dạ xoa cảm thấy yêu
thương đức vua và phóng thích vị ấy). Đức vua trở về và nghe vị Bà-
la-môn thuyết pháp rồi chuẩn bị quay lại với dạ xoa. Khi ấy, con trai

của đức vua là hoàng tử Alīnasattu (Bồ-tát), bèn nài nỉ xin đức vua đi
nộp mạng thế cha. Vì hoàng tử cứ khăng khăng đòi đi, người cha bèn
cho phép hoàng tử đi thế mạng. Lời nói của đức vua: “Tôi sẽ trở lại,”

phải được giữ gìn và làm đúng sau khi nó đã được nói ra. Bởi vậy nó
pacchānurakkhana sacca - Hậu tùy hộ chân thật.

Câu chuyện tóm tắt về hoàng tử Rāma như sau: Sau khi sanh cho
đức vua Dasarattha hai đứa con trai là Hoàng tử Rāma, hoàng tử
Lakkhaṇa và một người con gái là công chúa Sīta thì hoàng hậu lìa
trần. Đức vua tôn phong một hoàng hậu khác và bà này hạ sanh hoàng
tử Bharata. Bà hoàng hậu mới mãi năn nỉ và thúc ép đức vua nhường
ngôi cho đứa con trai Bharata của bà ta. Đức vua cho gọi hai đứa con
lớn đến và nói rằng: “Ta lo cho hai con, vì các con có thể gặp nguy
hiểm do bởi bà mẹ kế và đứa con trai Bharata của bà ta. Các nhà
tướng số đã nói rằng ta sẽ sống thêm mười hai năm nữa. Bởi vậy, các
con nên vào trú ngụ trong rừng trong mười hai năm rồi trở về nắm
vương quyền.”

Khi ấy hoàng tử Rāma hứa sẽ làm theo lời vua cha dặn bảo rồi hai
anh em rời khỏi kinh đô. Cô công chúa vì không muốn xa lìa hai anh

của nàng, cũng đi theo họ. Dầu các nhà tướng số đã tiên tri như vậy
nhưng đức vua chỉ sống được chín năm rồi chết vì ngày đêm thương
nhớ các con. Khi ấy các quan vì không muốn tôn phong Bharata lên
ngôi vua nên đã đi vào rừng để sống với các vị hoàng tử trước. Họ kể
lại về cái chết của đức vua và thỉnh các hoàng tử trở về kinh đô để trị

dân. Nhưng hoàng tử Rāma nói rằng: “Ta đã hứa với phụ vương của ta
là sẽ trở về sau mười hai năm. Nếu ta trở về bây giờ thì hóa ra ta sẽ bị
thất hứa. Vậy hãy đưa hai em của ta là Lakkhana và Sīta về kinh đô và
phục hồi vương vị cho họ và chính các ngươi cùng nhau trị vì vương

 

quốc đi.” Ở đây, hoàng tử Rāma phải đợi cho đến hết thời gian giao ước với phụ vương của vị ấy là sự chân thật có hành động đi kèm để chứng minh. Đó là pacchānurakkhana-sacca.

Sự chân thật liên quan đến thời gian

Để      dễ      dàng      phân      biệt      vacībhedasiddhi-sacca      và
pacchānurakkhana-sacca, có bốn loại chân thật được nêu ra tóm tắt
như sau:

(1)   Sự chân thật chỉ liên quan đến quá khứ.

(2)   Sự chân thật liên quan đến quá khứ và hiện tại.

(3)   Sự chân thật chỉ liên quan đến tương lai.

(4)   Sự chân thật không liên quan đến thời gian đặc biệt nào.

Trong bốn loại này, sự chân thật liên quan đến tương lai là
pacchānurakkhana-sacca và ba loại kia là vacībhedasiddhi-sacca.

Về những sự thật trong Bổn sanh Suvaṇṇasāma, những sự thật mà được nói ra bởi cha mẹ của Bồ-tát có liên quan đến quá khứ, vì họ nói rằng “Trước đây Sāma đã thực hành pháp, Sāma từng tu tập những pháp cao quý, Sāma chỉ nói lời chân thật, Sāma hằng chăm sóc cha mẹ, Sāma đã tôn kính các bậc trưởng thượng.”

Sự thật mà cha mẹ của Bồ-tát nói ra là: “Chúng tôi yêu Sāma còn hơn mạng sống của chúng tôi.” Và sự thật do nữ thần Bahusundarī nói ra là: “Chẳng có ai để tôi yêu thương nhiều hơn Sāma” là những sự thật không liên quan đến thời gian đặc biệt nào.

Những sự thật thuộc loại icchāpūraṇa-sacca trong các Bổn sanh
Suppāraka và Sivi liên quan đến quá khứ. Tương tự, những sự thật

trong các Bổn sanh Kaṇha Dīpāyana và Nalapāna cũng liên quan đến
quá khứ.

Trong Bổn sanh Vattaka,  câu nói: “Tôi có đôi cánh nhưng tôi chưa
thể bay. Tôi có đôi chân nhưng tôi chưa thể đi,” liên quan đến cả quá
khứ và hiện tại. Câu nói chân thật “Không có ai trên đời này mà ta yêu

 

nhiều hơn con” ở trong Bổn sanh Sambulā và câu nói chân thật của ba chánh hậu Candā Devī trong Bổn sanh Temiya Jātaka không liên quan đến thời gian đặc biệt nào.

Chân thật Ba-la-mật tối thượng

Nói về Chân thật Ba-la-mật, bộ Chú giải Aṭṭhasālak-khaṇainī và
Chú giải bộ Phật sử giải thích rằng Chân thật Ba-la-mật của vua
Mahāsutasoma là Ba-la-mật tối thượng vì để giữ đúng lời hứa, đức
vua đã trở lại với Porisada như đã hứa dù phải hy sinh tánh mạng của
đức vua. Trong trường hợp này, tuy lời hứa được thực hiện trước sự
hiện diện của Porisada nhưng chỉ là lời nói, mục đích của lời nói ấy
chưa được thành tựu. Chỉ khi nào vị ấy trở lại với Porisada, lời hứa ấy
mới thành tựu. Do đó, trong các bộ Chú giải, vị ấy được mô tả là “Vị
vua hy sinh tánh mạng của mình để bảo vệ pháp chân thật” (jīvitaṃ
cajitvā saccaṃ anurakkhantassa) chứ không phải là “Vị vua dám nói
lên lời thề dù phải hy sinh mạng sống.”

Những suy nghĩ về hai loại Chân thật

Trong sự liên quan này, sự chân thật của vua Mahā Sutasoma và của vị quan Vidhura có giá trị trong sự nghiên cứu so sánh. Sự chân thật của quan Vidhura nói rằng: “ Tôi là người hầu” được kể lại trong câu kệ 102 của truyện Bổn sanh Vidhura. Ngay khi vị quan nói thế, sự chân thật của ông đã hoàn tất. Nhưng khi ông nói rằng ông không có gì lo lắng về cuộc sống của mình thì ông không thể chết chỉ vì là người hầu. Thế nên, người ta nói có lẽ rằng lời chân thật của vị quan Vidhura thấp hơn lời chân thật của vua Sutasoma.

Tuy nhiên, khi xét rằng Vidhura đã chuẩn bị để hy sinh cuộc sống
của ông, ông đã tự suy ngẫm rằng: “ Chàng thanh niên đó có lẽ muốn
lấy mạng sống của ta. Nếu anh ta làm thế, ta chấp nhận cái chết.” Có
trí tuệ, vị quan tiếp tục suy nghĩ thế này: “Gã thanh niên này yêu cầu

ta chứ không phải quý trọng ta. Nếu anh ta có ý muốn tôn trọng ta, có
lẽ anh ta sẽ nói rõ mục đích của mình và thỉnh mời ta. Hiện anh ta
không thỉnh mời ta. Anh ta sở hữu ta trong cuộc chơi đỏ đen và sẽ

 

không cho ta tự do.” Ngoài ra, tuy hắn trẻ nhưng hắn là con yêu. Sau
khi quan sát hành vi của gã trai, vị quan chú ý rằng hắn là gã hoang dạ
ngoan cố. Một việc khác để đưa vào xem xét thêm: Khi Vidhura (lúc
chia tay) khuyến khích nhà vua và gia đình của ông, nói rằng: “Tôi đã
hoàn thành nhiệm vụ của mình,” gã yêu tinh trẻ, Puṇṇaka  đáp lại: “
Đừng lo sợ. Hãy nắm chặt đuôi con ngựa của ta. Đây sẽ là giờ phút
cuối cùng còn sống của ngươi khi nhìn thấy thế giới này.” (Kệ 196).
Vidhura trả lời một cách dũng mãnh: “ Ta không làm điều gì xấu ác để
dẫn xuống khổ cảnh. Tại sao ta phải sợ hãi?” Lời nói này của vị quan,
chứng minh rõ ràng ông đã quyết định hy sinh mạng sống của mình.

Tất cả những điểm này chứng tỏ sự thật rằng sự chân thật của
Vidhura dung chứa nhiều sự nguy hiểm của cuộc sống và như vậy nó
không thấp kém so với sự chân thật của vua Sutamosa. Kết luận rằng
nếu không hơn thì hai lời chân thật này ngang bằng đẳng cấp với
nhau.

Bài học đạo đức

Điều đặc biệt của pháp Chân thật Ba-la-mật là có năng lực làm cho
ước nguyện của người ta được thành tựu nhờ sự chân thật được nói ra.

Câu kệ số 62 của bổn sanh Sutasoma nói rằng: “Trong tất cả các vị
trên thế gian này, vị chân thật là ngọt ngào nhất.” Do đó mọi người

nên cố gắng nỗ lực để hưởng hương vị tuyệt vời của pháp chân thật.

Chấm dứt Chương về Chân thật Ba-la-mật

 

H.  QUYẾT ĐỊNH BA-LA-MẬT
     (ADIṬṬHĀNA  PĀRAMĪ)

Chữ Pāḷi ‘adiṭṭhāna’ thường được dịch là ‘quyết định’. Nếu ai thực
hành Quyết định Ba-la-mật này, người ấy phải an trú nó trong tâm của
mình một cách vững chắc và kiên cố. Đó là lý do khiến Bồ-tát

Sumedha khi suy xét về Quyết định Ba-la-mật, đã ví nó như một núi đá vững chắc không bị lung lay trước những luồng gió mạnh.

Từ sự so sánh này, điều rõ ràng là adiṭṭhāna có nghĩa là giữ vững
trong tâm điều mà người ta quyết định làm. Do đó, nếu người ta muốn
chứng đắc Đạo Quả hoặc Nhất thiết trí (tức là nếu quyết tâm trở thành

một vị Phật) thì vị ấy phải có quyết tâm thực hành pháp để thành đạt
những mục tiêu ấy, và sự quyết tâm ấy phải vững chắc như núi đá.

Các loại quyết định

Như vậy, sự quyết định được ví như ngọn núi bất động và có nhiều loại quyết định đã được mô tả trong các bài kinh.

Quyết định liên quan đến Uposatha

Chương Uposathakkhandhaka của bộ Vinaya Mahāvagga có kể ra
ba loại Uposatha: Saṅgha Uposatha, Gaṇa Uposatha Puggala
Uposatha. Saṅgha Uposatha được thọ trì bởi ít nhất là bốn vị Tăng
trong khu vực của Sīmā, vào ngày rằm và ngày mồng một. Ở đó một
vị tỳ khưu đứng ra tụng giới Bổn tóm tắt và những vị còn lại thì cung
kính lắng nghe. Sự thọ trì như vậy cũng được gọi là Sutt’uddesa
Uposatha (Uposatha được thọ trì bằng sự tụng đọc giới Bổn tóm tắt).

Nếu chỉ có hai hoặc ba vị tỳ khưu, thì họ thọ trì Gaṇa Uposatha
chữ Saṅgha được sử dụng phải có tối thiểu bốn vị. Nếu số tỳ khưu là
ba vị thì trước hết phải tụng tuyên ngôn Bố cáo (Gaṇa). Nếu hai vị thì
không cần tụng tuyên ngôn bố cáo. Sau đó mỗi vị nói lên sự trong
sạch của mình bằng câu Pāḷi. Do đó, lễ này được gọi là Parisuddhi
Uposatha (lễ Uposatha là lễ mà mỗi vị tỳ khưu nói lên sự trong sạch
của riêng mình).

Nếu chỉ có một vị tỳ khưu thì vị ấy thọ trì Puggala Uposatha.
Nhưng trước khi làm như vậy, vị ấy nên đợi các vị tỳ khưu khác có
đến hay không nếu còn thì giờ. Nếu đợi mà không thấy vị tỳ khưu nào
đến thì vị ấy thọ trì uposatha một mình. Đức Phật đã ban hành cách
nguyện uposatha một mình như sau: “Hôm nay là ngày uposatha của

 

tôi.” Sự chú nguyện như vậy có nghĩa là vị ấy thường xuyên ghi nhớ ngày  này.  Uposatha  như  vậy  được gọi  là  Adhiṭṭhāna  Uposatha (Uposatha được giữ vững trong tâm của mình). Đây là quyết định liên quan đến uposatha.

Quyết định về Y phục

Các vị tỳ khưu làm công việc adhiṭṭhāna hay vikappana đối với y
trong vòng mười ngày sau khi thọ lãnh nó. Nếu để y quá mười ngày

mà không nguyện thì y ấy phải bị xả bỏ theo luật. Vị tỳ khưu có y ấy
cũng phạm tội pacittiya. Do vậy, trong vòng mười ngày sau khi thọ
lãnh y. Vị tỳ khưu phải chú nguyện như vầy: “Tôi nguyện mặc y nầy.”
Khi ấy y hợp lệ, không bị xả bỏ và vị tỳ khưu cũng không phạm tội.
Chú nguyện y có nghĩa là quyết định chắc chắn sẽ dùng y ấy (trong
Vinaya Pārajika).

Quyết định về Bát

Tương tự, khi vị tỳ khưu có bát, vị ấy nên chú nguyện nó trong vòng mười ngày sau khi thọ lãnh. Cách chú nguyện như vầy: “Tôi nguyện dùng bát này.” Nếu trong vòng mười ngày mà không chú nguyện thì bát ấy phải bị xả bỏ theo luật và vị tỳ khưu ấy cũng phạm tội pācittiya. Chú nguyện bát có nghĩa là quyết định chắc chắn rằng: “Vật chứa đựng này là bát của tôi.”

Adhiṭṭhāna trong ba trường hợp này được dùng như là từ chuyên
môn thuộc về Luật (Vinaya). Nó không liên quan gì đến ba trường hợp
sau đây:

Quyết định về Thiền

Trường hợp về thiền (jhāna), chẳng hạn khi Sơ thiền đã được
chứng đắc, hành giả nên trau dồi và phát triển thiền bằng năm cách
thuần thục (vasībhāva). Năm cách ấy đã được miêu tả trong bộ
Pathavikasina Niddesa và ở những chỗ khác của bộ Visuddhi-magga.
Vasīhāva có nghĩa là “thuần thục”. Thế nên năm cách vasībhāva

năm loại thuần thục. Khi sơ thiền đã chứng đắc rồi, hành giả phải tiếp
tục tu tập nó cho đến khi thuần thục trong thiền bằng cả năm cách.

Loại thuần thục thứ nhất là Āvajjhana - “quán xét”, nghĩa là quán xét các chi thiền và quán xét về đặc tánh của mỗi chi thiền. Lúc đầu vị ấy còn gặp khó khăn trong việc nhận rõ chúng. Có thể có sự chậm trễ vì vị ấy chưa thuần thục trong việc quán xét. Khi đã có kinh nghiệm rồi, vị ấy sẽ phân biệt được chúng rõ ràng hơn. Khi ấy hành giả được xem là có sự quán xét thuần thục.

Loại thuần thục thứ hai là Sampajjana - “nhập định”, tâm thiền
nhập vào dòng tâm (nghĩa là tâm thiền liên tục sanh khởi trong dòng
tâm). Sau khi thuần thục trong sự quán xét, vị ấy phải thuần thục trong
việc nhập định. Vị ấy có thể làm như vậy bằng cách thực hành nhiều
lần pháp thiền mà vị ấy đã chứng đắc (cũng như việc đọc nhiều lần
một đoạn văn, người ta có thể thuộc nằm lòng nó). Nếu vị ấy cố gắng
nhập định khi chưa thuần thục thì tâm thiền sẽ không khó sanh khởi
trong dòng tâm thức. Sự nhập định sẽ dễ dàng hơn chỉ sau khi việc tu
tập thiền được thuần thục. Khi đó vị ấy được xem là thuần thục trong

việc nhập định.

Loại thứ ba là Abdhiṭṭhāna - “nguyện”, nghĩa là quyết định trú
trong thiền thời gian bao lâu tùy theo ý muốn. Nếu hành giả cố gắng
quyết định thời gian nhập định trước khi thuần thục thì tâm thiền có

thể xảy ra trong thời gian dài hơn hoặc ngắn hơn thời gian mà hành
giả nguyện. Giả sử hành giả nguyện rằng: “Tôi nguyện nhập định
trong một tiếng đồng hồ” thì pháp thiền ấy sẽ tự động xả trước hoặc
sau một tiếng đồng hồ. Sở dĩ như vậy là vì nguyện của hành giả chưa
thuần. Khi nguyện đã thuần thục thì hành giả có thể trú trong thiền
đúng thời gian mà hành giả đã quyết định. Khi đó hành giả được xem
là có nguyện thuần thục.

Loại thứ tư là Vuṭṭhāna - “xuất định” (nghĩa là sự chuyển tâm thiền
qua trạng thái hữu phần,
bhavaṅga-citta). Sự thuần thục trong việc

xuất định đúng thời gian mà vị ấy quyết định gọi là vuṭṭhānavasībhāva.

Loại thứ năm là Paccavekkhaṇā - “sự xét lại”, tức là xem lại tất cả các chi thiền. Sự xét lại giống như ở loại quán xét (āvajjana), chúng không hiện bày một cách dễ dàng do thiếu sự thuần thục. Chi khi nào hành giả đạt được sự thuần thục, chúng mới hiện bày dễ dàng hơn. (Āvajjana-  Quán  xét  là  một  giai  đoạn  trong  tiến  trình  xét  lại. Paccavekkhaṇa - Xét lại là giai đoạn xảy ra ngay sau khi quán xét. Nếu vị ấy có Āvajjana - quán xét thuần thục thì vị ấy cũng có Paccavekkhaṇa - xét lại thuần thục. Do đó, người có sự quán xét thuần thục thì cũng có sự xét lại thuần thục).

Trong năm loại thuần thục, loại mà chúng ta cần xét đến là Nguyện thuần thục (adhiṭṭhāna-vasībhāva).

Nhiếp thọ thần thông

Chương Iddhividha Niddesa của bộ Visuddhi-magga kể ra mười loại iddhi (Thần thông) như sau:

(1)    Adhiṭṭhāna iddhi - Nhiếp thọ thần thông.

(2)    Vikubbana iddhi - Biến hóa thần thông.

(3)    Manomaya-iddhi (Ý sở thần thông)

(4)    Ñāṇavipphāra-iddhi (Trí tuệ mãn thần thông)

(5)    Samādhivipphāra-iddhi (Định mãn thần thông)

(6)    Ariya-iddhi (Thánh thần thông)

(7)    Kammavipākaja-iddhi (Nghiệp dị thục thần thông)

(8)    Puññavanta-iddhi (Cụ phước thần thông)

(9)    Vijjāmaya-iddhi (Chú thuật sở thần thông)

(10) Sammāpayoga-iddhi (Chánh gia hành thần thông)

(Iddhi là chữ Pāli, có nghĩa là sự thành tựu, sự thành đạt nguyện ước. Ở Myanmar nó có nghĩa là thần thông.)

(1) Idhiṭṭhāna-iddhi (Nhiếp thọ thần thông) là thần thông liên

quan đến nguyện. Ví dụ khi người ta nguyện: “Hãy hiện ra
một trăm hoặc một ngàn con người của tôi.” Khi ấy sẽ có hiện
ra một trăm hoặc một ngàn người đúng như quyết định của vị

ấy. (Đó là thần thông hóa hiện ra những con người giống y
như vị ấy, luôn cả con người thật của vị ấy. Những con người
như vậy có thể có cùng oai nghi với người thật hoặc khác).

(2) Vikubbana-iddhi (Biến hóa thần thông) là thần thông biến hóa

chính mình thành rồng hoặc Kim xí điểu. (Vi: nghĩa là “khác nhau” và kubana là “tạo ra”. Loại thần thông làm cho chính mình có những hình tướng khác nhau như ý muốn).

(3) Manomaya-idhi (Ý sở thần thông) là thần thông biến ra hình

tướng do ý tạo, tức là tạo ra hình tướng thu nhỏ của chính mình.

(4) Ñāṇavipphāra-iddhi (Trí tuệ mãn thần thông) là thần thông

liên quan đến hiện tượng kỳ diệu do ảnh hưởng của trí tuệ siêu thế sắp xảy ra. Năng lực này sẽ được hiểu rõ hơn ở câu chuyện về Bākula và những câu chuyện khác.

Trưởng lão Bākula

Chuyện Bākula xuất hiện trong phần Chú giải về phẩm Etadagga Vagga, Ekaka Nipāta của bộ Aṅguttara Nikāya. Sau đây là tóm tắt tinh hoa của câu chuyện.

Bākula là con trai của một vị trưởng giả ở Kosambi. Vào ngày lễ
đầy tháng của cậu bé, cậu bé được đem đến con sông Yamuna để làm
lễ tắm nước và bị một con cá lớn nuốt chửng vào bụng. Con cá cảm
thấy rất nóng ở dạ dày và lội đi. Khi nó lội đến Bārāṇasī thì một ông
chài lưới nọ bắt được nó và đem nó vào thành phố bán. Người vợ của
một trưởng giả mua con cá và khi người ta mổ bụng con cá thì một
đứa bé xinh đẹp được tìm thấy ở bên trong con cá. Vì người vợ của vị

trưởng giả không có con và khao khát có được một mụn con nên nàng rất sung sướng mà nói rằng: “Đây chính là đứa con của ta.”

Khi cha mẹ ruột ở Kosambi nghe tin ấy, họ vội vã đến Bārāṇasī để đòi lại đứa con. Nhưng người đàn bà ở Bārāṇasī từ chối trả lại, nói rằng: “Đứa bé đến với chúng tôi do trời ban. Chúng tôi không thể trả lại cho ông bà được.” Rồi họ kéo nhau đến quan tòa và quan tòa phán rằng cả hai gia đình đều được làm cha mẹ của đứa bé. Như vậy cậu bé có hai mẹ và hai cha, và vì thế mà cậu bé có tên là Bākula (: hai, kula: gia đình; cậu bé có hai gia đình).

Chính do sự mầu nhiệm mà cậu bé được vô hại dù bị nuốt trong bụng của con cá. Sự mầu nhiệm ấy là do năng lực của A-la-hán Đạo tuệ (arahatta-magga ñāṇa) mà Bākula sẽ chứng đắc ngay trong chính kiếp sống này. (Hoặc có thể do năng lực của Trí tuệ Ba-la-mật tiềm ẩn trong cậu bé giúp cậu bé sau này chứng đắc A-la-hán Đạo tuệ (arahatta-magga ñāṇa) ngay trong chính kiếp ấy). Năng lực ấy gọi là Trí tuệ mãn thần thông - Ñāṇavipphāra-iddhi

Sa di Saṅkicca

Cô con gái của một gia chủ ở thành Sāvatthi mang thai cậu bé
Saṅkicca. Người mẹ chết khi sắp sanh đứa bé. Khi xác người mẹ được
hỏa táng, người ta đâm xuyên vào xác chết ấy bằng những cây sắt để
xác chết cháy nhanh hơn. Một cây sắt xuyên qua bụng người mẹ và
trúng nhằm con mắt của đứa bé làm cho đứa bé bật khóc. Biết rằng
đứa bé vẫn còn sống, người ta vội vàng đem xác của người mẹ xuống
khỏi giàn hỏa, mổ bụng xác người mẹ và đem đứa bé ra. Đứa bé được
nuôi dưỡng và đến năm lên bảy tuổi xuất gia theo giáo pháp của Đức
Phật và trở thành một vị A-la-hán.

Sự thoát khỏi cái chết một cách kỳ diệu của đứa bé cũng do bởi năng lực của A-la-hán Đạo tuệ (arahatta-magga ñāṇa). (Hoặc do Trí tuệ Ba-la-mật (pāramī-ñāṇa) tiềm ẩn trong đứa bé giúp cậu chứng đắc arahatta-magga ñāṇa).

(5) Samādhivipphāra-iddhi (Định biến mãn thông) là năng lực do ảnh
      hưởng của định. Những hiện tượng kỳ lạ xảy ra khi sắp hoặc đang

hoặc vừa mới nhập định do ảnh hưởng của samādhi. Năng lực kỳ
diệu   như   vậy   được   gọi   là   Samādhivipphāra-iddhi.   Bộ
Visuddhimagga mô tả một số câu chuyện liên quan đến loại thần
thông  này,  ở  đây  chỉ  giới  thiệu  câu  chuyện  về  trưởng  lão
Sāriputta.

Trưởng lão Sāriputta

Một dạo nọ, khi tôn giả Sāriputta cùng với tôn giả Moggallāna đang
trú ngụ ở một hẻm núi có tên là Kapota, với cái đầu vừa mới cạo láng
bóng Ngài ngồi nhập định giữa chỗ vùng đất trống suốt một đêm trăng
sáng. Một dạ xoa tinh nghịch đi cùng với bạn của hắn đến và trông
thấy cái đầu cạo nhẵn sáng bóng của trưởng lão nên muốn dùng cái
chày của hắn gõ vào cái đầu trưởng lão. Dạ xoa bạn khuyên hắn
không nên làm vậy. Nhưng hắn đã không nghe và dùng hết sức mình
đánh vào đầu trưởng lão. Cú đánh rất dữ dội đã phát ra tiếng nổ kinh
hồn. Nhưng trưởng lão không cảm thấy đau đớn gì nhờ năng lực của

định đã thấm nhuần toàn thân của trưởng lão.

(6) Ariya-iddhi (Thánh thần thông): Khi các bậc Thánh (Ariya) muốn
      quán những vật bất tịnh là tịnh hoặc quán những vật thanh tịnh là

bất tịnh thì các Ngài có thể làm như vậy một cách tự tại. Năng
lực như vậy của bậc Thánh quán bất cứ đối tượng nào bằng cách
nào theo ý muốn, được gọi là Thánh thần thông (Thần thông của

các bậc Thánh).

(7) Kammavipākaja-iddhi (Nghiệp dị thục thần thông): Chim bay trên
      trời. Sở hữu khả năng bay chúng không cần phải nỗ lực trong

kiếp hiện tại. Đấy là kết quả những gì chúng đã làm trong quá
khứ. Chư thiên, Phạm thiên, v.v... cũng có khả năng đi trong hư
không. Năng lực ấy được gọi là nghiệp Dị thục sanh thần thông -

Kammavipākaja Iddhi.

 

388                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

(8) Puññavanta-iddhi (Cụ phước thần thông): Các vị Chuyển luân
    
vương (Cakkavatti) v.v... có thể đi trong không trung. Họ có thể

làm như vậy vì họ đã tích lũy rất nhiều phước. Những người đi
theo vị Chuyển luân vương cũng có thể đi xuyên qua hư không

nhờ đi chung với Chuyển luân vương, là người sở hữu thật sự các
điều phước. Những của báu phát sanh đến những người giàu có
thuở xưa như Jotika, Jātila, Ghosaka, Meṇḍaka, v.v... cũng do
Puññavanta Iddhi.

(Sự khác biệt giữa Kammavipākaja-iddhiPuññavanta-iddhi:
Kammavipākaja-iddhi là năng lực không phải do những nghiệp thiện
người ta thực hiện trong kiếp hiện tại mà do những thiện nghiệp được
làm trong kiếp quá khứ; nó kết hợp với sự sanh của người ta.
Puññavanta Iddhi không những do những thiện nghiệp trong quá khứ
mà còn do những cố gắng trong hiện tại để hỗ trợ những nghiệp đó; nó
không kết hợp với sự sanh của người ta; nó thành tựu và họat động chỉ
khi nào được hỗ trợ bởi những thiện nghiệp trong hiện tại của người
ấy. Ví dụ: Đối với vị Chuyển luân vương, xe báu không xuất hiện vào
lúc vị ấy mới sanh ra. Xe báu chỉ xuất hiện vào lúc vị ấy thọ trì giới và
thực hành một số phận sự đặc biệt của vị Chuyển luân vương. Cho nên
năng lực đặc biệt này không hoàn toàn do nghiệp quá khứ mà còn do
sự hỗ trợ của những thiện nghiệp hiện tại của vị ấy nữa).

(9) Vijjāmaya-iddhi (Minh sở thần thông) là phép thuật của những
     
chú thuật sư, thầy bùa.

(10) Sammāpayoga-iddhi (Chánh gia hành thần thông) là năng lực
      phát sanh từ các thành tựu khác nhau (phạm vi của loại thần

thông này rất rộng. Đạo và Quả được chứng đắc do những cố gắng đúng pháp là hình thức cao nhất của sammāpayogaiddhi. Tóm lại, tất cả những thành tựu do học được từ các nghề, các môn nghệ thuật, Tam Phệ đà, Tam tạng, hoặc (nói đơn giản hơn) từ những công việc về đồng áng như cày, cấy, v.v... tất cả đều là sammāpayoga-iddhi.

Trong mười loại thần thông này, idhiṭṭhāna-iddhi (Nhiếp thọ thần
thông) là năng lực của nguyện để biến ra trăm hoặc ngàn con người
của chính mình. Đó là thần thông của đại đức Cūla Panthaka và những
vị khác nữa. Người bình thường không làm được như vậy vì họ không
jhāna hay samādhi.

Adhiṭṭhāna đi trước Nirodha-samāpatti (Diệt tận định)

Khi  một  vị  angami  (A-na-hàm)  hay  arahat  đã  đắc  bát  định
(
samāpatti) mà muốn nhập Thiền diệt (nirodha-samāpatti) thì vị ấy
nguyện như vầy: “Suốt thời gian nhập định của tôi, nguyện cho những
vật dụng của tôi mà ở cách xa tôi không bị hoại diệt. Nếu chư Tăng
cần sự hiện diện của tôi, tôi có thể xuất khỏi định trước khi có người
đến báo tin. Nguyện cho tôi có thể làm như vậy khi Đức Phật gọi tôi.”
Chỉ sau khi nguyện như vậy, vị ấy mới nhập vào thiền diệt -
samāpatti.

Theo ý nguyện của vị ấy, suốt thời gian nhập định, những tư cụ của
vị ấy ở cách xa không thể bị hủy hoại bởi năm loại kẻ thù. Khi chư
Tăng có việc cần đến vị ấy trong chính thời gian đó thì vị ấy liền xuất
định trước khi có người đến báo tin. Vị ấy cũng xuất định ngay khi
Đức Phật gọi đến vị ấy. Những vật dụng trên thân vị ấy như y phục,
v.v... cũng không thể bị xâm phạm bởi năm loại kẻ thù ngay cả vị ấy
không chú nguyện.

Ba loại Adhiṭṭhāna

Adhiṭṭhāna (nguyện) có ba loại:

(1)   Pubbanimitta Adhiṭṭhāna (Tiền tướng nguyện) là nguyện thực
        
hiện để cho các điềm báo xuất hiện trước khi sự việc xảy ra.

(2)   Āsisa Adhiṭṭhāna (Cầu ước nguyện) là nguyện thực hiện để cho
        
ước muốn trở thành sự thật.

 

390                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

(3)   Vata Adhiṭṭhāna (Hạnh nguyện) là nguyện thực hành viên mãn
        
phận sự

(1)  Tiền tướng nguyện

(Pubbanimitta Adhiṭṭhāna)

Loại Adhiṭṭhāna này có thể tìm thấy trong câu chuyện Campeyya
Jātaka của chương Vīsati Nipāta và những câu chuyện khác. Đây là
câu chuyện tóm tắt từ Bổn sanh Campeyya: Khi chúa rồng Campeyya
báo tin với hoàng hậu Sumana của vị ấy rằng vị ấy sẽ đi đến cõi người
để thọ trì giới, hoàng hậu nói rằng: “Cõi người nhiều nguy hiểm lắm.
Nếu có điều gì xảy đến với hoàng thượng thì thiếp phải nhìn vào
những tướng nào để biết được? Chúa Rồng dẫn hoàng hậu đến hồ
nước của hoàng gia và nói rằng: “Hãy nhìn vào hồ nước này. Nếu ta bị
kẻ thù bắt thì nước sẽ trở nên đen. Nếu ta bị Kim xí điểu bắt thì nước
sẽ sủi bọt. Còn nếu ta bị thầy rắn bắt thì nước sẽ chuyển sang màu đỏ

như máu.” Sau đó chúa Rồng lên cõi người để thọ trì giới mười bốn
ngày.

Sau một tháng, long vương không trở về nhà vì vị ấy bị một ông thầy rắn bắt. Lo lắng cho sự an nguy của chồng, hoàng hậu đi đến hồ nước và thấy mặt hồ có màu đỏ như máu.

Sự   chú   nguyện   của   chúa   rồng   Campeyya   là   Pubbanimitta Adhiṭṭhāna (Tiền tướng nguyện) vì vị ấy đã nguyện trước khi những điềm tướng xuất hiện đúng theo sự quyết định của vị ấy.

Tương tự, theo bài giới thiệu của bộ Chú giải bổn sanh, khi Thái tử
Siddhattha xuất ly thế gian, Ngài cắt tóc tung lên trời sau khi phát
nguyện rằng: “Nếu tôi chứng ngộ Nhất thiết trí thì xin cho mớ tóc này
nằm yên trong không trung; nếu không thì nó sẽ rơi xuống đất.” Tóc
đã treo lơ lửng trong không trung. Sự phát nguyện này cũng vậy, được
thực hiện để biết trước rằng Ngài có thành Phật hay không, là

Pubbanimitta Adhiṭṭhāna.

Lại nữa, sau sáu năm kiên trì khổ hạnh, khi Ngài ăn món cơm sữa
do nàng Sujāta dâng cúng ở bờ sông Nerañjara, Ngài tung cái bát vào

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                391

giữa dòng sông với phát nguyện như vầy: “Nếu ta thành Phật, thì cái bát bằng vàng này trôi ngược dòng nước; nếu không thì cái bát vàng trôi xuôi dòng nước.” Và cái bát kia đã trôi ngược dòng nước rồi chìm xuống nằm bên cạnh chỗ Rồng chúa Kāla đang nằm. Sự phát nguyện này cũng là Pubbanimitta Adhiṭṭhāna.

Tương tự, bất cứ nguyện nào được thực hiện trong thế gian này với
mục đích biết trước qua điềm tướng rằng ước nguyện của người ta có
thành tựu hay không, nguyện ấy là Pubbanimitta Adhiṭṭhāna, loại
nguyện này hiện nay vẫn còn thông dụng. Một số người thường đến
chùa hoặc miếu thần để trên bàn tay một hòn sỏi và cầu nguyện như
vầy: “Nếu kế hoạch của tôi được thành công thì cho viên sỏi này trở

nên nặng hơn; nếu không thì viên sỏi này sẽ nhẹ hơn,” hay ngược lại
Sau khi cầu nguyện rồi, họ chú tâm vào viên sỏi trên bàn tay xem nó nặng
hơn hay nhẹ hơn.

(2) Cầu ước nguyện (Āsīsa Adhiṭṭhāna)

Āsīsa Adhiṭṭhāna là loại nguyện được thực hiện để làm thành tựu ước muốn. Loại nguyện này có thể tìm thấy ở Bổn sanh Vidhura.

(Khi vị quan Vidhura sắp bị dạ xoa Puṇṇaka bắt đi khỏi tay của vua
Korabya vì vua đã thua cá độ với dạ xoa trong cuộc chơi súc sắc). Chú
giải câu kệ 197 thuộc bổn sanh này giải thích rằng: Sau khi dũng cảm
tuyên bố: “Ta không sợ chết,” Vidhura nguyện rằng: “Nguyện cho y
phục này không rời khỏi người tôi.” Khi quán xét về các pháp Ba-la-
mật của vị ấy, Vidhura buộc chặt y phục vào người và nắm lấy đuôi
con ngựa đi theo Puṇṇaka bằng sự dũng cảm của con sư tử chúa. Đây
là loại
Āsīsa Adhiṭṭhāna.

Trong bổn sanh Nalapana của phẩm Sīla Vagga, Ekaka Nipāta, tám
chục ngàn con khỉ do khỉ chúa là tiền thân của Bồ-tát lãnh đạo. Khỉ
chúa thấy khó uống nước trong một cái hồ được bảo vệ do một dạ xoa
nước. Khỉ chúa lấy một cây sậy mọc ở quanh hồ và nguyện cho cây
sậy rỗng ruột từ gốc tới ngọn. Ước nguyện của khỉ chúa được thành

tựu, nhưng có quá nhiều khỉ uống nước từ một cây sậy rỗng ruột như

 

392                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

vậy nên khỉ chúa lại nguyện rằng: “Xin cho tất cả những cây sậy ở quanh hồ đều rỗng ruột.” Lời nguyện của khỉ chúa được thành tựu, loại nguyện này là  Āsīsa Adhiṭṭhāna.

Bổn sanh Kukkura của phẩm Kurunga, Ekaka Nipāta kể rằng
những sợi dây da trên chiếc vương xa của vua Brahmadatta xứ
Baranasī bị gặm nát bởi những con chó ở ngoài kinh thành và vì vậy
quân lính của nhà vua được lịnh săn giết chúng. Do vậy những con
chó ở ngoài kinh thành không dám đi vào bên trong kinh thành mà tụ
họp thành đàn ở một bãi tha ma. Sau khi tìm hiểu vấn đề và biết chắc

rằng những con chó ở trong kinh thành đã gặm những sợi dây da ấy,
chó đầu đàn, tức Bồ-tát, bèn bảo bầy chó hãy chờ đợi, còn vị ấy thì lên
đường đi vào hoàng cung. Trên đường đi, Ngài luôn niệm tưởng các
pháp Ba-la-mật, rải tâm bác ái và phát nguyện: “Xin đừng ai ném đá
hoặc gậy gộc vào tôi.” Nguyện này cũng vậy làm thành tựu ước muốn
của vị ấy là đem lại sự an ổn cho những con chó ở ngoài kinh thành,
nên được gọi là
Āsīsa Adhiṭṭhāna.

Bổn sanh Mātaṅga của chương Vīsati Nipāta cũng kể lại rằng: Dưới
triều đại của vua Brahmadatta xứ Bārāṇasī, Bồ-tát của chúng ta sanh
vào giai cấp hạ liệt của những người Chiên-đà-la (
candala), có tên là
Mātaṅga. Con gái của một vị trưởng giả ở thành Bārāṇasī có tên là
Diṭṭha Maṅgalikā thường tin vào những cảnh có điềm may mắn. Một
hôm nàng cùng với những tớ gái của nàng đi đến một lạc viên nọ để
vui chơi. Trên đường đi, nàng gặp Mātaṅga đang đi vào thành phố. Dù
Mātaṅga đã tránh qua một bên vì thân phận thấp hèn của mình, nhưng
do đã trông thấy con người của cậu ta khiến Diṭṭha Maṅgalikā mất
hứng thú vì nghĩ đây là điềm không may mắn và quay về nhà. Gia
nhân của nàng nổi giận cho rằng Mātaṅga đã làm họ mất đi cuộc vui
và họ đã đánh đập Mātaṅga đến bất tỉnh rồi bỏ đi. Khi Mātaṅga tỉnh
lại, vị ấy tự nhủ: “Những người của Diṭṭha Maṅgalikā đã hành hạ một
người vô tội như ta.” Rồi vị ấy đi đến nhà của Diṭṭha Maṅgalikā và
nằm vạ ở trước nhà với quyết định rằng: “Ta sẽ không đứng dậy cho
đến khi ta lấy được nàng mới thôi.” Lời nguyện của vị ấy được thực

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                393

hiện để nhiếp hóa tánh cao ngạo  của nàng, được gọi là  Āsīsa Adhiṭṭhāna.

Chú giải của bộ Mahāvagga trong tạng Luật cũng vậy, mô tả như
vầy: Sau khi thành đạo, Đức Phật trải qua bảy tuần lễ ở bảy chỗ trong
khu vực của cây bồ đề, mỗi chỗ Ngài ở một tuần. Sau bảy ngày của
tuần lễ cuối cùng ở cội cây Rajayatana, có hai anh em thương nhân
Tapussa và Bhallika đi đến và dâng cúng Ngài một số bánh. Đức Phật
suy xét làm cách nào để thọ lãnh số bánh ấy (cái bát do Phạm thiên
Ghatikāra dâng đến Đức Phật đã biến mất vào ngày Ngài nhận món
cơm sữa từ nàng Sujāta). Khi ấy bốn vị Thiên vương dâng đến Ngài
bốn cái bát bằng đá cẩm thạch. Nhưng Đức Phật không nhận chúng.

Rồi Tứ thiên vương dâng đến Ngài bốn cái bát bằng đá có màu đỏ
sậm. Để làm Tăng trưởng đức tin của họ, Đức Phật nhận bốn cái bát
ấy và chú nguyện rằng: “Nguyện cho bốn cái bát này biến thành một.”
Rồi bốn cái bát biến thành một với bốn vòng mép đồng tâm. Sự chú
nguyện này của Đức Phật là Cầu ước nguyện (Āsīsa Adhiṭṭhāna).

Sự khác biệt giữa Adhiṭṭhāna Sacca

Dường như  Pubbanimitta Adhiṭṭhāna (Tiền tướng nguyện) và
Āsīsa Adhiṭṭhāna (Cầu ước nguyện) của phần Adhiṭṭhāna này và
Icchāpūrana Sacca, của phần nói về Sacca - pháp Chân thật là một, vì
tất cả những pháp này có liên quan đến sự thành tựu ước nguyện của
con người.

Về Icchāpūrana-sacca, khi mẹ cha của Suvaṇṇa Sāma và nữ thần
Bahusundarī, mỗi người đều nói lên lời nguyện của họ để chất độc
trong người của Suvaṇṇa Sāma tiêu tan. Về Pubbanimitta Adhiṭṭhāna
(Tiền tướng nguyện) cũng vậy, khi Bồ-tát cắt tóc và tung lên trời,
Ngài cũng nguyện cho mớ tóc đứng yên trong không trung nếu Ngài
sẽ thành Phật. Còn Āsīsa Adhiṭṭhāna (Cầu ước nguyện) cũng vậy, khi
Vidhura lập nguyện, ước muốn của vị ấy là giữ y phục được toàn vẹn.
Mối quan hệ giữa những lời nguyện này với những ước muốn làm cho
người ta nghĩ rằng tất cả chúng đều như nhau. Đó là lý do khiến một

 

394                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

số người ngày nay kết hợp hai từ SaccaAdhiṭṭhāna thành một khi họ nói rằng: “Chúng ta thực hành sacca-adhiṭṭhāna.”

Trên thực tế, sacca là một pháp và adhiṭṭhāna là pháp khác trong
mười pháp Ba-la-mật. Thế nên, chúng là hai pháp khác nhau và sự
khác biệt của chúng là như thế này: như đã nói ở trước, sacca là sự
thật dù nó thiện hay bất thiện; ước nguyện dựa trên sự thật ấy là
icchāpūrana. Nhưng khi ước nguyện không dựa vào một sự thật nào,
sự quyết tâm tự nguyện để làm cho điều ước được thành tựu là
adhiṭṭhāna.

Giải rõ: Trong Bổn sanh Suvaṇṇasāma, khi cha mẹ của vị ấy thực
hiện tác chứng, họ nói: “Từ trước đến giờ Sāma chỉ thực hành theo lẽ
chánh” (Là sự thật làm nền tảng) và họ nói tiếp: “Do lời chân thật này,
cầu cho chất độc trong người của con trai tôi biến mất.” (Là điều ước
của họ). Sự bày tỏ điều ước như vậy dựa vào điều có thật là

Icchāpūrana-sacca.

Khi Bồ-tát tung mớ tóc vào không trung với lời nguyện rằng: “Nếu
ta thành Phật thì mớ tóc hãy đứng yên trong không trung.” Ngài làm
như vậy mà không dựa vào sự thật nào, vì thế nó là Āsīsa adhiṭṭhāna.

Sự chú nguyện của Vidhura khi vị ấy sắp nắm đuôi con ngựa thần và đi theo Puṇṇaka: “Nguyện cho y phục của ta được toàn vẹn.” cũng là Āsīsa adhiṭṭhāna vì nó không có sự thật nào làm nền tảng mà chỉ là sự quyết tâm trong ước muốn của vị ấy.

Như vậy sự khác biệt giữa saccaadhiṭṭhāna tùy thuộc vào sự có mặt hay vắng mặt của sự thật làm nền tảng.

(3) Vata  adhiṭṭhāna  (Hạnh nguyện)

Có những thói quen và sự thực hành mà người ta làm giống như
của con bò (
gosila govata): Bò ăn cỏ, đại tiện trong tư thế đứng.
Trong thời Đức Phật, có một số đạo sĩ đã thực hành lối sống của bò vì
họ tin một cách sai lầm rằng làm như vậy họ sẽ được thanh tịnh và
thoát khỏi luân hồi. (Điều này không có nghĩa là loài vật có tà kiến ấy,

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                395

chỉ những đạo sĩ bắt chước theo chúng mới mang tà kiến ấy). Sự thực hành này có liên quan đến điều ác.

Nhưng adhiṭṭhāna không liên quan gì đến những lối thực hành sai
lạc như vậy, vì nó thuộc về sự thực hành Ba-la-mật. Ở đây vata chỉ về
những sự thọ trì các pháp hành cao quý như bố thí, trì giới, v.v... Khi
người ta nguyện thọ trì những pháp hành này thì hành động như vậy
được gọi là Vata adhiṭṭhāna (Hạnh nguyện), nhưng chỉ nguyện suông
thì không đủ để gọi là thực hành Quyết định Ba-la-mật. Lý do là
adhiṭṭhāna không thuộc về quá khứ hoặc hiện tại. Người ta thực hành
Quyết định Ba-la-mật tức là người ấy sẽ làm đúng với lời nguyện khởi
phát bây giờ. Dù hiện tại người ấy nguyện có chí thành đến mấy đi
nữa mà không thực hành thì nguyện ấy sẽ trở nên vô nghĩa, không lợi
ích gì cả.

Những loại nguyện như nguyện về Uposatha, nguyện về y bát thì không  được  bao  gồm  trong  Tiền  tướng  nguyện  (Pubbanimitta Adhiṭṭhāna),  Cầu ước nguyện (Āsīsa Adhiṭṭhāna) và Hạnh nguyện (Vata Adhiṭṭhāna), vì chúng là những loại nguyện mà điều Luật bắt buộc. Nói cách khác, nguyện (adhiṭṭhāna) của người có năm pháp thuần  thục  (vasībhāva),  nguyện  (adhiṭṭhāna)  đi  trước thiền  Diệt (Nirodhasamāpatti) và nguyện thuộc về 10 Iddhi là những nguyện thuộc loại Cầu ước nguyện - Āsīsa adhiṭṭhāna.

Các vị Bồ-tát và ba loại Adhiṭṭhāna

Về ba loại Adhiṭṭhāna này, chư Bồ-tát đương lai thực hành Tiền tướng nguyện (Pubbanimitta adhiṭṭhāna) và Cầu ước nguyện (Āsīsa adhiṭṭhāna) không phải là các Ngài đang thực hành Quyết định Ba-la-
mật, mà để đáp ứng một số nhu cầu cần thiết trong những hoàn cảnh nào đó. Nói cách khác, chính Hạnh nguyện (Vata Adhiṭṭhāna) được xem như là Quyết định Ba-la-mật mà các Ngài thực hành cho mục tiêu giác ngộ A-la-hán đạo trí hoặc Nhất thiết trí.

Sau đây là đoạn trích dẫn từ Hạnh Tạng (Cariyā Pitaka), cho thấy sự thực hành Quyết định Ba-la-mật của các vị Bồ-tát.

 

396                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Nisajja pāsādavare evaṃ cintes’ahaṃ tadā

Yaṃ kiñci mānusaṃ dānaṃ dinnaṃ me na vijjati
Yo pi yāceyya maṃ cakkhuṃ dadeyyaṃ avikampito.

Này Sāriputta, trong kiếp sanh làm vua Sivi, lúc ngồi trong vương phòng, Ta đã suy nghĩ như vầy: “Trong số những loại bố thí mà mọi người thường thực hành, những loại bố thí ấy ta cũng đã làm rồi. Nếu có ai xin mắt của ta, ta sẽ vững tâm mà cho nó.”

Qua ý nghĩ này. Chúng ta thấy vua Sivi đã dũng cảm phát nguyện: “Nếu ngày hôm nay có ai đến xin mắt của ta, thì ta sẽ cho nó đến người ấy không chút do dự.”

Khi Sakka giả dạng làm ông lão Bà-la-môn đến xin một con mắt, trung thành với quyết định của mình, vua Sivi đã cho ông lão cả hai con mắt của mình mà không chút do dự. Sự phát nguyện này của vua Sivi liên quan đến sự bố thí.

Ở chương nói về sự thực hành của Bhuridatta, có đoạn nói rằng:

Caturo aṅge adhiṭṭhāna semi vammikamuddhani

chaviyā cammena maṃsena nahāru aṭṭhikehi vā
yasa etena karaniyaṃ dinnaṃ yeva harātu so.

Đoạn này mô tả cách nguyện của Rồng chúa Bhuriatta khi vị ấy thọ trì giới. Nội dung như sau: “Ta nằm trên gò mối nguyện về bốn phần của thân, đó là (1) da dày và mỏng, (2) thịt và máu, (3) những bắp thịt và (4) xương. Sau khi ta nguyện, bất cứ ai cần đến bốn thứ này thì cứ đến mà lấy vì ta đã sẵn lòng bố thí chúng.” Ước muốn việc thọ trì giới được tốt đẹp, Rồng chúa Bhuridatta đã nguyện: “Ta sẽ bảo vệ giới của ta dù phải hy sinh cả bốn phần của thân.” Sự phát nguyện này của rồng chúa Bhuridatta có liên quan đến Giới.

Trong Bổn sanh Campeyya của chương Vīsati Nipāta cũng vậy.
Rồng chúa Campeyya lên cõi người để thọ trì giới sau khi nhắn nhủ
với hoàng hậu của vị ấy về những điềm tướng sẽ xuất hiện nếu vị ấy

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                397

gặp rủi ro. Sau đây là một đoạn trích dẫn từ Chú giải về câu chuyện
ấy: “Nimittāni    ācikkhitvā    cātuddasī    uposathaṃ    adhiṭṭhāya
nāgabhavanā nikkhamitvā tattha gantvā vammikamatthake nipajji -
Sau khi nói về các điềm tướng sẽ xảy ra và sau khi nguyện thọ trì giới
vào ngày mười bốn, Campeyya từ cõi rồng đi đến cõi người và nằm
trên gò mối.” Sự quyết định này của Campeyya thuần túy dành cho sự
thọ trì giới.

Trong tất cả những câu chuyện này, Thí (dāna) hoặc Giới (sīla) là
một pháp và Adiṭṭhāna là một pháp khác. Sự bố thí của vua Sivi xảy ra
vào lúc vị ấy cho mắt nhưng sự phát nguyện của vị ấy xảy ra trước
việc bố thí. Do đó, sự phát nguyện đến trước và theo sau nó là hành
động bố thí. Trong trường hợp thọ trì giới của các vị chúa rồng cũng
vậy, sự phát nguyện xảy ra trước rồi mới đến hành động thọ trì giới.
Những công việc trong thế gian cũng vậy, sự thực hiện công việc chỉ
xảy ra sau khi người ta đã lập quyết định “ Tôi sẽ thực hiện điều này.”

Nguyện của hoàng tử Temiya

Bồ-tát của chúng ta có một kiếp nọ sanh làm con của vua nước Kāsi
và có tên là Temiya. (Sở dĩ hoàng tử có tên như vậy vì vào ngày sanh
của vị ấy, trời mưa nặng hạt trên khắp vương quốc và mọi người đều
được an vui). Khi hoàng tử được một tháng tuổi, trong khi cậu bé đang
ở trong vòng tay của phụ vương, bốn tên trộm được áp giải đến trước
mặt đức vua và đức vua đã truyền lịnh trừng phạt bọn chúng. Hoàng
tử rất xúc động trước cảnh này và trở nên buồn chán khi nghĩ: “Ta sẽ
tìm cách thoát khỏi hoàng cung này.”

Ngày hôm sau trong khi hoàng tử đang ngồi một mình dưới cái
lọng trắng, vị ấy suy nghĩ về hành động của phụ vương và thấy khiếp
đảm với vương vị. Thấy hoàng tử mang bộ mặt thiểu não như hoa sen
bị vò nát, vị nữ thần bảo hộ chiếc lọng trong một kiếp quá khứ đã là
mẹ của hoàng tử Temia mới cất tiếng nói rằng: “Đừng lo, này con
thân. Nếu con muốn thoát khỏi hoàng cung này, hãy quyết chí giả

 

398                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

câm, điếc và bại liệt và con sẽ được toại nguyện.” Khi ấy hoàng tử lập nguyện và bắt đầu thực hành theo đó.

Dù gặp nhiều thử thách suốt thời mười sáu năm ròng rã, vị ấy vẫn
kiên định như núi đá vững chắc. Sự quyết tâm kiên cố của vị ấy là một
hành động về sự quyết chí vĩ đại. Chỉ khi nào người ta thực hành viên
mãn
Vata Adhiṭṭhāna bằng quyết tâm của hoàng tử Temiya với tất cả
nội lực của mình và không hề dao động, khi đó người ấy mới được
xem là đã thực hành Quyết định Ba-la-mật như các vị Bồ-tát đã từng
làm.

Chấm dứt Chương Quyết định Ba-la-mật



I.     TỪ BA-LA-MẬT (METTĀ  PĀRAMĪ)

Ba loại Pema

Các vị A-xà-lê thuở xưa đã dịch chữ mettā trong chữ mettā pāramī
là tình yêu. Tương tự, chữ pema cũng có nghĩa là tình yêu. Nhưng tình
yêu của
mettā đặc biệt hơn tình yêu của pema. Cho nên, pema được
phân thành ba loại:

(1)   Taṅhā-pema (Tình ái)

(2)   Gehasita-pema (Luyến ái)

(3)   Mettā-pema (Từ ái) Trong ba loại này:

(1)    Taṅhā-pema (Tình ái) là tình yêu trai gái giữa những người
        
đàn ông với những người đàn bà và nó sanh lên từ sự tham

muốn, khát dục.

(2)    Gehasita-pema (Luyến ái) là tình yêu giữa cha mẹ và con cái,
        
giữa anh, chị, em và tình yêu dựa trên sự sống chung với

nhau trong cùng một nhà.

 

Tỳ Khưu Minh Huệ                                                                                                                399

Cả Taṅhā pemaGehasita pema đều không có tánh chất thiện:
loại trước là Taṅhā rāga (Tình ái) trong khi loại sau là Lobha (Tham
ái).

(3)    Mettā-pema (Từ ái) là tình thương đối với mọi người với lòng
         mong mỏi cho họ được hạnh phúc. Loại tình thương này hoàn

toàn không có luyến ái. Mọi người có thể có quan điểm và
cách sống khác nhau. Tuy nhiên, người có từ ái cảm thấy vui
mừng nghe tin những người ở cách xa được thịnh đạt. Sự
ngăn cách như vậy không ngăn cản người ta cảm thấy hài
lòng với hạnh phúc của mọi người. Do đó, mettā có đặc tánh
thanh tịnh và cao quý và được gọi là Brahma vihāra (Phạm
trú hay Vô lượng tâm) nghĩa là phát triển tình thương như vậy
tức là sống trong trạng thái tâm siêu việt. Không chỉ
mettā
karunā (bi), muditā (hỉ) và upekkhā (xả) cũng là Brahma
vihāra.

Bởi vậy, Brahma-vihāra bao gồm bốn đức tánh này. Chúng cũng
được gọi là Tứ phạm hạnh (Brahma-cariya). (Một tên khác của
Brahma-vihāraApamaññā - Vô lượng, vì chúng là những trạng thái
tâm được tu tập và trải rộng đến tâm chúng sanh không giới hạn về số
lượng).

Nên chú ý cẩn thận rằng sự tu tập Từ ái không phải là sự phát triển
tình ái bất tịnh (
taṅhā-pema) và luyến ái (gehasita-pema), mà là sự tu
tập
Mettā-pema thanh tịnh và cao quý. Cách tu tập Mettā sẽ được nói
rõ sau.

 

400                                                                                 Đại Phật Sử - Tập 1.A

Mettā & Adosa

Mettā  là  thực  tại  hiện  hữu  trong  ý  nghĩa  cùng  tột  của  nó (Paramattha). Nhưng khi những thực tại cùng tột được kể ra thì metta không có trong số đó vì nó được bao trùm bởi từ adosa cetasika (sở hữu vô sân), là từ được hiểu theo nghĩa khác rộng hơn. Mettā là một phần của vô sân (adosa).

Giải rộng: Theo bộ Abhidhamma Saṅgaha, sở hữu vô sân (adosa
cetasika)
kết hợp với 59 tâm đẹp (sobhana-citta). Bất cứ khi nào 59
tâm này sanh khởi đều có sanh khởi sở hữu vô sân. Adosa có thể bắt
nhiều cảnh của nó. Trong sự thực hành mọi hình thức bố thí hoặc thọ
trì các loại Giới luôn luôn có mặt adosa. Nhưng mỗi lần adosa sanh
khởi trong những trường hợp như vậy thì nó không nhất thiết là metta.
Chỉ khi nào người ta hướng tâm đến chúng sanh với ý nghĩ rằng: “Cầu
cho tất cả chúng sanh đều được an vui hạnh phúc,” khi ấy sở hữu

adosa mới được gọi là Metta.

Về  Nhẫn  nại  Ba-la-mật  (Khantī  Pāramī)  cũng  vậy,  nhẫn  nại (khantī) có thể hàm ý vô sân (adosa), nhưng không phải tất cả sở hữu vô sân (adosa cetasika) đều là Nhẫn nại (khantī). Khi người ta bị kẻ khác đối xử sai trái mà người ấy tự kiềm chế không tỏ thái độ sân hận, thì trạng thái adosa ấy mới được gọi là khantī. Tương tự, không phải tất cả những trường hợp vô sân khởi sanh dưới dạng mong mỏi chúng sanh hạnh phúc, nó mới được xem là từ ái (Mettā).

528 loại Mettā

Về Mettā, mọi người thường nói rằng mettā có 528 loại. Nhưng trên thực tế thì không phải vậy. Cần lưu ý rằng sở dĩ người ta nói vậy là vì theo bộ Paṭisambhidā-magga thì có 528 cách tu tập mettā.

Trong 528 cách này, 5 cách là anodhisa, đó là:

(1)   Sabbe sattā  (Tất cả chúng sanh)

(2)   Sabbe paṇā (Tất cả loài hữu tình)

(3)   Sabbe bhūtā  (Tất cả loài đang hiện hữu)

(4)   Sabbe puggalā  (Tất cả những cá nhân)

(5)   Sabbe attabhāvapariyāpannā (Tất cả loài có thân)

Khi người ta hướng tâm đến tất cả chúng sanh trong 31 cõi bằng
một trong năm cách này, trong sự hướng tâm ấy không một chúng
sanh nào bỏ sót. Vì không một chúng sanh nào mà không được bao
gồm trong năm cách này, nên chúng được gọi là năm anodhisa. Odhi
trong anodhisa nghĩa là hạn lượng. Cho nên anodhisa là “vô hạn
lượng”.

Khi Mettā được hướng đến chúng sanh có đặc tánh riêng thì sự phân loại sẽ như sau:

(1)   Sabbā itthiyo (Tất cả giống cái)

(2)   Sabbe purisā  (Tất cả giống đực)

(3)   Sabbe ariyā  (Tất cả chư Thánh)

(4)   Sabbe anariyā  (Tất cả phàm phu)

(5)   Sabbe devā  (Tất cả chư thiên)

(6)   Sabbe manusā  (Tất cả nhân loại)

(7)   Sabbe vinipātikā  (Tất cả loài đọa xứ)

Mỗi nhóm trong bảy nhóm này là một loại riêng và vì thế chúng được gọi là odhisa (hay bảy loại chúng sanh có hạn lượng).

Bằng cách này, có cả thảy 12 loại chúng sanh: 5 anodhisa và 7 odhisa, là những loại chúng sanh làm đối tượng cho mettā.

Cách rải tâm bác ái đến 12 loại chúng sanh này được chỉ bày như
sau:

(1)   Averā hontu  (Cầu cho các chúng sanh đừng oan trái lẫn nhau)

(2)    Abyapajjhā hontu (Cầu cho các chúng sanh đừng có ác tâm
        
với nhau)

(3)   Anīghā hontu (Cầu cho các chúng sanh thoát khỏi khổ đau)

(4)   Sukhī attānaṃ pariharantu (Cầu cho các chúng sanh có thể
       
giữ mình cho được an vui)

Khi Mettā được rải đến 12 loại chúng sanh bằng bốn cách này, ta có

48 cách rải tâm bác ái, chưa kể đến các hướng trong 48 cách này.

Nếu rải mettā đến mười phương chúng sanh, ta có 480 cách rải tâm bác ái: “Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng đông đừng có oan trái lẫn nhau, đừng có khổ, đừng làm hại lẫn nhau và có thể giữ mình cho được an vui.” Tâm bác ái cũng được rải đến các hướng khác như vậy. Cho nên có tổng cộng 480 cách rải tâm bác ái.

Lấy 48 cách không kể mười phương cộng vào 480 cách có kể mười phương, ta có tổng cộng 528 cách rải tâm bác ái.

528 cách rải tâm bác ái này có tên gọi ngắn gọn là “rải tâm bác ái”
do các vị A-xà-lê xưa soạn ra để tụng đọc mỗi ngày. Nếu người ta
muốn rải tâm bác ái theo cách thứ nhất bằng tiếng Pāḷi, người ấy có
thể thực hiện bằng cách đọc như vầy: “Sabbe sattā averā hontu”.
Thường xuyên tụng đọc theo cách này có nghĩa là đang tu tập tâm bác
ái. Nếu người ta muốn làm như vậy theo cách thứ hai bằng tiếng Pāḷi
thì nên đọc như vầy: “Sabbe sattā abyāpajjhā hontu.” Tất cả 528 cách
rải tâm bác ái nên hiểu như vậy).

Sự tu tập tâm bác ái bằng 528 cách này là pháp môn được chỉ dẫn
trong bộ Patisambhidāmagga rất phổ biến. Trong bộ kinh ấy, không
thấy đề cập đến sự tu tập
karunā, muditāupekkhā ở cuối của bài
nói về
mettā. Nhưng ngày nay sự tu tập tâm bác ái đã được đưa vào
một số bộ sách, trong đó ở cuối mục tu tập tâm bác ái có: (a) Dukkha
muccantu (Cầu cho họ thoát khỏi đau khổ) là sự tu tập karunā (bi), (b)
Yathā laddhā sampattito māvigacchantu (Cầu cho họ đừng bị mất mát
của cải họ kiếm được) là sự tu tập muditā (hỉ), và (c) Kammassakā
(Chúng sanh có nghiệp là của riêng của họ, mỗi chúng sanh là sản
phẩm do chính nghiệp của họ tạo ra) là sự tu tập upekkhā (xả). Như

vậy sự tu tập Mettā bao hàm cả bác ái pháp còn lại: karunā, muditā
upekkhā.

Theo bộ Paṭisambhidāmagga, sự tu tập mettā có bốn cách chính. Nhưng còn có những cách khác nữa như: “Sabbe sattā sukhino hontu -
Cầu cho tất cả chúng sanh đều được hạnh phúc”; “
Sabbe sattā khemino hontu - Cầu cho tất cả chúng sanh sống trong yên ổn”. Những ý tưởng như vậy đều là mettā.

Sự tu tập Mettā theo bài kinh Mettā

Bài kinh Mettā được Đức Phật thuyết giảng liên quan đến các vị tỳ khưu ở rừng, được tụng lại ở các hội nghị Kiết tập và được lưu giữ ở chương Sutta Nipāta và Khuddaka Pātha. Bài kinh mô tả 15 đức tánh mà những ai muốn tu tập mettā cần phải có. Mười lăm đức tánh này có tên Pāḷi là Mettāpubbabhāga.

Bài Kinh có nội dung như vầy:

Hành giả sáng trí trong pháp cao quý và chân chánh là người muốn trú quán Niết bàn qua trí tuệ - Niết bàn là tịch tịnh. Hành giả nên cố gắng để có được những đức tánh sau đây:

(1)    Khả năng làm điều thiện.

(2)    Chánh trực

(3)    Hoàn toàn chân thật

(4)    Tiếp thu những lời nói của những bậc trí tuệ.

(5)    Nhu thuận (Mudu).

(6)    Không ngã mạn.

(7)    Tri túc.

(8)    Dễ nuôi

(9)    Không bận rộn do những phận sự không cần thiết.

(10) Sống giản dị (Vị tỳ khưu chỉ cần tám món vật dụng là đủ, như con chim bay đi với đôi cánh duy nhất).

(11) Lục căn thanh tịnh.

(12) Có trí tuệ chính chắn,

(13) Khiêm tốn trong việc làm, lời nói và ý nghĩ.

(14) Không dính mắc với các thí chủ nam nữ (đặc biệt đối với các
vị tỳ khưu. Người tại gia cũng vậy, không nên luyến ái với bạn bè,
người thân).

(15) Không làm những điều mà các bậc trí tuệ hằng chê trách, dù là việc nhỏ nhất.

Bài kinh giải thích cách tu tập Mettā được lưu ý như sau:

(a)   Sabbasaṅgāhika mettā - Mettā được tu tập bao gồm hết thảy
       
chúng sanh.

(b)   Dukabbhāvanā mettā - Mettā được tu tập bằng cách chia
       
chúng sanh thành hai nhóm, và

(c)    Tikabhāvanā mettā - Mettā được tu tập bằng cách chia chúng
     
sanh thành ba nhóm.

(a)   Sabbasaṅgāhika mettā

Trong ba cách tu tập mettā này, cách tu tập Sabbasaṅgāhika mettā
được giải thích bằng tiếng Pāḷi khuyên chúng ta rải tâm như vầy:
Sukhino vā khemino  hontu, sabbe sattā bhavantu sukhitattā.” Nếu ai
muốn tu tập mettā theo sự giải thích này thì nên đọc và quán như sau:

(1)    Sabbe sattā sukhino hontu- Nguyện cho tất cả chúng sanh đều
         có thân an lạc.

(2)    Sabbe sattā khemino hontu - Nguyện cho tất cả chúng sanh
        
được thoát khỏi tai họa.

(3)   Sabbe sattā sukhitattā hontu - Nguyện cho tất cả chúng sanh
       
đều có tâm an lạc.

Đây là cách tu tập Sabbasaṅgāhika mettā đã được giảng dạy trong bài kinh Mettā.

(b) Dukabhāvanā mettā

Dukabhāvanā mettāTikabhāvanā mettā cả hai cách này rất có
thể làm bối rối những người không biết cách diễn dịch bài kinh Pāḷi.

(Người ta có thể bị bối rối như thế nào sẽ không được giải thích, e
rằng nó sẽ tạo ra nhiều rối rắm hơn). Cách tu tập Dukabhāvanā mettā
như sau:

Có bốn cặp chúng sanh, đó là:

(1) Tasa thāvara duka - Cặp chúng sanh có sợ hãi và không sợ hãi.

(2) Diṭṭhādiṭṭha duka - Chúng sanh hữu hình và chúng sanh vô hình.

(3) Dūra santika duka - Chúng sanh ở gần và chúng sanh ở xa.

(4) Bhūta sambhavesī duka - Các vị A-la-hán và phàm phu cùng các bậc hữu học.

(1)    Tasā   vā   thāvarā   vā   anavasesā   sabbe   sattā   bhavantu
sukhitattā - “Cầu cho tất cả những phàm phu và các bậc hữu học còn
sợ hãi và cầu cho những bậc A-la-hán đã hết sợ hãi, được an vui cả
thân lẫn tâm.” Quán như vậy là cách tu tập Tasa thavara duka
bhāvanā mettā.

(2)   Diṭṭhā   vā   adiṭṭhā   vā   anavasesā   sabbasattā   bhavantu
sukhitattā - “Cầu cho tất cả chúng sanh hữu hình và vô hình đều được
an vui cả thân lẫn tâm”. Quán như vậy là cách tu tập Diṭṭhādiṭṭha duka
mettā
.

(3)   Dūrā   vā   avidūrā   vā   anavasesā   sabbasattā   bhavantu sukhitattā - “Cầu cho tất cả chúng sanh ở gần và ở xa đều được an vui cả thân lẫn tâm”. những ý nghĩ như vậy là cách tu tập Dura santika dukabhāvanā mettā.

(4)   Bhūtā vā sambhavesi va anavasesā sabba- sattā bhavantu
sukhitattā - “Cầu cho tất cả những chúng sanh là các bậc A-la-hán, và

những phàm phu và các bậc hữu học (hoặc những chúng sanh đã sanh ra và những chúng sanh còn trong bụng mẹ), tất cả đều an vui cả thân lẫn tâm”. Những ý nghĩ như vậy là cách tu tập về Bhūta sambhavesī dukabhāvanā mettā.

Bốn cách tu tập bác ái trên đây được gọi là dukabhāvanā mettā, tức là Mettā được tu tập sau khi chia chúng sanh thành hai nhóm.

(c) Tikabhāvanā mettā

Pháp tu tập Tikabhāvanā mettā này có ba loại:

(1)    Dīgha rassa majjhima tika - nhóm 3 gồm những chúng sanh
        
thấp (ngắn), cao (dài) và bậc trung.

(2)   Mahantāṇuka majjhima tika - nhóm 3 gồm những chúng sanh
       
lớn, nhỏ và trung bình.

(3)   Thūḷānuka majjhima tika - nhóm 3 gồm những chúng sanh
       
mập, gầy và trung bình.

(1)   Dīghā  vā  rassa  vā  majjhimā  vā  anavasesā  sabbasattā bhavantu sukhitattā - “Cầu cho tất cả chúng sanh có thân dài, ngắn và trung bình thảy đều an vui cả thân lẫn tâm.” Quán như vậy là cách tu tập Dīgha rassa majjhima tikabhāvanā mettā.

(2)   Mahantā  vā  aṇukā  vā  majjhimā  anavasesā  sabbasattā bhavantu sukhitattā - “Cầu cho tất cả chúng sanh có thân to lớn, nhỏ bé hoặc trung bình thảy đều an vui cả thân lẫm tâm.” Quán như vậy là cách tu tập Mahantāṇuka majjhima tikabhāvanā mettā.

(3)   Thūlā  vā  anukā  vā  majjhimā  vā  anavasesā  sabbasattā
bhavantu sukhitattā
- “Cầu cho tất cả chúng sanh có thân béo mập,
gầy ốm hoặc trung bình thảy đều được an vui cả thân lẫm tâm.” Quán
như vậy là cách tu tập Thūlāṇuka majjhima tikabhāvanā mettā.

Ba cách tu tập Mettā kể trên được gọi là Tika bhāvanā mettā, tức là Mettā được tu tập sau khi chia chúng sanh thành ba nhóm.

Bởi vì ba cách tu tập mettā này, đó là (a) Sabbasaṅgāhika mettā,

(b) Dukabhāvanā mettā và (c) Tikabhāvanā mettā là những tư tưởng
về bác ái được tu tập với lòng mong ước thấy chúng sanh được hạnh

phúc và thạnh đạt, nên chúng được gọi là Hitasukhāgamapatthanā
mettā.

Tương tự, những tư tưởng bác ái được tu tập với lòng mong ước
trông  thấy  chúng  sanh  thoát  khỏi  bất  hạnh  và  đau  khổ,  đó  là

Ahitadukkhānāgamapatthanā mettā. Loại mettā này được mô tả bằng
tiếng Pāḷi như sau:

Na paro paraṃ nikubbetha,

Nā’ timaññetha katthaci naṃ kañ ci, Vyārosanā paṭighasaññā.

Nānnamaññassa dukkham iccheyya.

Ý nghĩa là: “Cầu cho chúng sanh đừng dối gạt lẫn nhau, đừng khinh khi lẫn nhau. Cầu cho họ đừng gây đau khổ và hại kẻ khác bằng thân,    khẩu    và    ý.”    Quán    như    vậy    là    cách    tu    tập Ahitadikkhānāgamapatthanā mettā.

Người ta có thể thắc mắc rằng: “Tại sao sự tu tập mettā không được mô tả bằng một cách duy nhất mà phải có nhiều cách như đã được mô tả trong bộ Paṭisambhidāmagga và trong bài kinh Mettā?”

Câu trả lời là: Tâm của kẻ phàm phu luôn luôn bay nhảy hết cảnh
này đến cảnh khác. Tâm như vậy không thể được giữ chắc vào đối
tượng của mettā chỉ bằng một cách. Sự định tâm vững chắc có thể đạt
được bằng sự thay đổi phương pháp quán được lập lại nhiều lần. Cho
nên Đức Phật mới giảng dạy nhiều cách tu tập mettā. Về sau các vị
trưởng lão cũng có bổn phận giải thích những cách khác nhau này. Có
cách giải thích khác: những người tu tập bác ái, mỗi người đều có
năng lực cơ bản  khác nhau; đối với một số người thì phương pháp
anodhisa mettā dễ hiểu hơn; đối với một số người thì phương pháp
odhisa mettā minh bạch hơn; đối với một số người phương pháp rải
mettā đến chúng sanh trong các phương hướng thì cụ thể hơn; đối với

một số người thì phương pháp tu tập Sabbasaṅgāhika trong bài kinh Mettā  thì  rõ  ràng  hơn;  đối  với  một  số  người  thì  cách  tu  tập Dukabhāvanā thì thích hợp hơn; đối với một số người thì phương pháp tu tập Tikabhāvanā thì chi tiết hơn. Vì những người tu tập mettā có những căn tánh khác nhau, nên để thích hợp với mỗi cá nhân, Đức Phật đã giảng dạy những cách tu tập khác nhau này và về sau các vị A-xà-lê phải giải thích chúng một cách đầy đủ.

Mettā của vị Bồ-tát

Cách   tu   tập   mettā   của   vị   Bồ-tát   giải   rõ   trong   Bổn   sanh
Suvaṇṇasāma của bộ Cariya Pitaka và chương Mahā Nipāta của Bổn
sanh kinh. Câu chuyện trong bộ Cariya Piṭaka được tóm tắt như sau:
“Này Sāriputa, khi ta sanh làm Suvaṇṇasāma, sống ở một chỗ ngụ do
Sakka dựng lên, ta rải tâm bác ái đến các loại sư tử và hổ báo trong
rừng. Ta sống giữa các loài thú rừng như sư tử, cọp, beo, chó sói, trâu
núi, nai đốm và gấu. Chẳng có con thú nào sợ hãi khi gần ta và ta cũng
không e sợ chúng. Ta sống hạnh phúc trong rừng vì ta được che chở
bởi năng lực của
mettā.”

Qua đoạn kinh này, chúng ta không biết gì về gia đình, dòng dõi, v.v… của Suvaṇṇasāma. Điều mà chúng ta biết là cuộc sống hạnh phúc và thánh thiện của vị ấy, không chút sợ hãi đối với các loại thú rừng nhờ oai đức của pháp bác ái của vị ấy.

Tuy nhiên, ở chương Mahā Nipāta, câu chuyện kể rằng khi Bồ-tát
Suvaṇṇasāma bị trúng tên, vị ấy hỏi: “Tại sao ông bắn tên vào người
tôi?” và vua Piliyakkha trả lời: “Trong khi ta nhắm vào con nai, con
nai đã ở đúng điểm nhắm của ta, nhưng vì sợ ngươi nên nó đã bỏ
chạy, vì thế ta đã nổi giận mà bắn vào người.” Rồi Suvaṇṇa-sāma đáp
lại: “Khi thấy ta, con nai không bị sợ hãi, những con thú khác cũng
vậy.” Vị ấy cũng nói rằng: “Tâu bệ hạ, ngay cả loài Kinnara có tánh
rất rụt rè, đang sống ở núi Gandhamādana cũng vui sướng đến gần ta
khi chúng đang đi trong núi đồi và các khu rừng.”

Từ câu kệ này, chúng ta thấy rằng Bồ-tát Suvaṇṇa-sāma, khi sống ở trong rừng, đã rải tâm bác ái đến tất cả muôn thú bao gồm loại Kinnara và tất cả thú rừng đều yêu thương vị ấy.

Trong bài liệt kê mười một điều lợi ích phát sanh từ việc rải tâm bác ái, có một lợi ích là được chư thiên, nhân loại, dạ xoa, a-tu-la thương mến. Nhưng từ câu chuyện Suvaṇṇasāma, chúng ta biết rằng loài muôn thú cũng yêu mến người rải tâm bác ái.

Chuyện trưởng lão Visākha

Visākha là một gia chủ xứ Pātaliputta, sau khi nghe nói về Sri
Laṅkā bèn khởi ước muốn đi đến nước ấy để thực hành pháp. Sau khi
để lại tất cả tài sản cho gia đình, vị ấy lên tàu đi đến Sri Laṅkā và xuất
gia tỳ khưu tại tịnh xá Mahāvihāra. Trong năm tháng, vị ấy đã học hai

bộ Dve Mātikā (hai bộ sách về Luật tổng quát) và sau đó vị ấy rời
khỏi Mahāvihāra để đi đến một tịnh xá thích hợp cho việc hành thiền
của vị ấy. Ở mỗi tịnh xá vị ấy hành đạo trong bốn tháng.

Trên đường đi đến tịnh xá tọa lạc trên một ngọn đồi có tên là
Cittala, Visākha đi đến một ngã tư đường và trong khi ấy đang suy
nghĩ nên chọn con đường nào, thì chư thiên của ngọn đồi dẫn vị ấy rẽ
về hướng phải. Nhờ thế mà vị ấy đến tịnh xá và ngụ ở đó trong bốn
tháng. Sau khi sửa soạn hành trang để đi đến tịnh xá khác vào ngày

hôm sau, trưởng lão đi ngủ. Trong khi Ngài đang nằm ngủ như vậy thì
một vị thọ thần ngồi khóc trên một tấm ván của bậc thang, trưởng lão
hỏi: “Ai đang khóc thế?”

Vị thiên trả lời: “Bạch Ngài, tôi là thọ thần.” “Tại sao ông khóc?”

“Bởi vì Ngài sắp ra đi.”

“Có lợi ích gì cho ngươi nếu ta ở đây?”

“Ngài ở đây sẽ khiến cho chư thiên, dạ xoa và quỉ thần thương mến
lẫn nhau. Sau khi Ngài đi rồi, họ sẽ gây gỗ nhau và nói lời thô lỗ.”

“Nếu ta ở đây mà thực sự giúp các ngươi sống hạnh phúc như ngươi đã nói thì ta sẽ ở lại đây thêm bốn tháng nữa.”

Khi bốn tháng đã hết đã hết, vị trưởng lão sắp ra đi và vị thọ thần lại đến khóc. Bằng cách này, vị trưởng lão không thể nào ra đi được nữa và đã nhập Niết bàn tại tịnh xá Cittala ấy.

Câu chuyện cho thấy rằng những kẻ hưởng mettā không chỉ yêu mến người rải mettā, họ còn khởi tâm mát mẻ với nhau nữa do ảnh hưởng của mettā được rải ra.

Mettā của người thợ săn

Trong Bổn sanh Mahāhaṃsa của chương Asīti Nipāta, khi Bồ-tát,
chúa của loài thiên nga, bị dính bẫy, vị ấy đau đớn do bị thương tích.
Trông thấy chúa của loài thiên nga đang quằn quại trong đau đớn,
người thợ săn ân hận, nhẹ nhàng bồng thiên nga chúa trên đôi tay và
săn sóc nó với tâm chan chứa từ ái để làm vơi đi cơn đau của nó. Ngay
cả những vết bầm xước cũng không còn trên đôi chân của thiên nga
mà trở lại bình thường, liền lại như cũ do năng lực bác ái của người
thợ săn.

Đây chỉ là phần cô đọng của Bổn sanh Mahā Haṃsa. Những câu chuyện tương tự được kể lại ở Bổn sanh Pathama Cūla Haṃsa Jātaka của chương Asīti Nipāta, Bổn sanh Rohana Haṃsa Jātaka và Bổn sanh Cūla Haṃsa Jātaka của chương Vīsati Nipāta. Oai lực của Mettāthể được hiểu rõ hơn từ những câu chuyện này.

Tham ái trong lớp vỏ của bác ái

Người tu tập bác ái nên chú ý một điều, là không để tham ái (rāga) len lỏi vào pháp bác ái của người ấy như đã được giải thích trong bộ Chú giải Netti: “Rāgo mettā-yanāmukhena vañceti - Tham ái trong lớp vỏ bác ái là sự dối gạt.”

Trong phần Brahmavihāra Niddesa của bộ Visuddhi-magga cũng
có đoạn giải thích như sau: “Sự diệt tắt nóng giận có nghĩa là sự thành
tựu bác ái nhưng sự sanh khởi tham ái có nghĩa là sự tiêu diệt bác ái.”

Ý nghĩa là: Khi một người rải tâm bác ái của mình đến một người
khác mà người ấy đã từng giận ghét thì sự giận ghét sẽ biến mất và
mettā xuất hiện trong người ấy, đó là thiện ý. Do đó, sự biến mất nóng
giận dẫn đến sự xuất hiện
mettā. Nếu tham ái xuất hiện trong người ấy
khi anh ta đang rải
mettā như vậy thì mettā của anh ta sẽ mất đi. Bấy
giờ người ấy bị đánh lừa bởi tham ái đang đội lốt của mettā.

mettā là một trong mười pháp Ba-la-mật, nó cần được rải đến những chúng sanh khác cho đến khi người ta đáp lại thiện ý của họ. Do đó, sự biến mất nóng giận dẫn đến sự xuất hiện mettā. Nếu tham ái xuất hiện trong người ấy trong khi anh ta đang rải mettā thì mettā thật ấy sẽ nhường chỗ cho mettā giả, tức là tham ái.

mettā là một trong mười pháp Ba-la-mật nên nó cần được rải
đến những chúng sanh khác cho đến khi người ta đáp lại thiện ý của
họ   đến   chính   mình   giống   như   trong   câu   chuyện   về   Bồ-tát
Suvaṇṇasāma và những câu chuyện khác. Mettā không chỉ có mặt
trong mười pháp Ba-la-mật mà cũng có mặt trong bốn mươi đề mục
của thiền chỉ. Thế nên, chư Bồ-tát và những bậc hiền trí thuở xưa đã tu
tập
mettā để đắc định và có thần thông. Những câu chuyện minh họa
được tìm thấy trong bổn sanh Seyya, Abbhantara Vagga trong Tika
Nipāta và Bổn sanh Ekarāja, Kaliṅga Vagga trong Cātukka Nipāta.

Câu chuyện Bổn sanh Seyya

Đây là câu chuyện tóm tắt: Vua Brahmadatta của vương quốc
Bārāṇasī trị vì rất chính đáng nhờ vị ấy có thọ trì mười vương pháp.
Vị ấy bố thí, thọ trì ngũ giới và bát quan trai giới. Một vị quan phạm

tội trong hoàng cung bị đức vua trục xuất ra khỏi vương quốc. Ông ta
di đến nước láng giềng Kosala, vào xin phục vụ vua nước đó và xúi
dục vị vua ấy xâm chiếm nước Bārāṇasī, mà theo ông ta, có thể thực
hiện dễ dàng. Vua Kosala nghe lời của vị quan này, tấn công nước
Bārāṇasī và bắt sống vua Brahmadatta. Tuy nhiên, vua Brahmadatta
và các quan của vị ấy từ đầu chí cuối không hề kháng cự.

 

Trong nhà giam, Brahmadatta rải tâm bác ái đến vua Kosala, vị vua
cướp nước và nhờ vậy đã đắc định bằng đề mục mettā này, nó được
gọi là mettājhāna (thiền tâm từ). Do oai lực của metta ấy, vua Kosala
cảm thấy toàn thân bị đốt cháy đau đớn mãnh liệt. Vua Kosala hỏi các
quan: “Tại sao ta bị đốt cháy như thế này?” Họ đáp lại: “Tâu bệ hạ, sở

dĩ như vậy là vì bệ hạ đã bắt giam vua Brahmadatta, là người có giới
đức  trong  sạch.”  Nghe  vậy,  vua  Kosala  vội  vã  đi  đến  Bồ-tát
Brahmadatta, xin lỗi Bồ-tát và trả lại vương quốc cho vị ấy. Câu
chuyện này cho thấy rằng việc rải tâm bác ái dẫn đến sự đắc Thiền.

Câu chuyện Bổn sanh Ekarāja

Thuở nọ, một vị quan của vua Brahmadatta đã phạm tội. Câu chuyện bắt đầu như vậy, sự kiện diễn ra giống như trong bổn sanh Seyya. Cả câu chuyện Seyya và Ekarāja đều giống như Bổn sanh Sīlava trong Ekaka Nipāta. Muốn biết toàn bộ câu chuyện, hãy xem bổn sanh Mahā Sīlava Jātaka.

Điểm đặc biệt của Bổn sanh Ekarāja như thế này: Trong khi vua
nước Bārāṇasī đang ngồi uy nghi giữa các quan trong triều, vua
Dubbhisena của nước Kosala sai trói và nhốt vị ấy trong khung cửi,
rồi treo ngược vị ấy trên ngưỡng cửa của hoàng cung. Sau khi lấy vị
vua cướp nước làm đề mục để rải tâm bác ái, vua Brahmadatta chứng
đắc thiền và ngũ thông. Vị ấy tự thoát mình ra khỏi xiềng xích và ngồi
kiết già giữa không trung. Thân của Dubbhisena trở nên nóng cháy và

sức nóng mãnh liệt đến nổi ông ta lăn mình vật vã trên đất mà kêu
gào: “Ôi! nóng quá! Nóng quá!” Rồi vị ấy hỏi các quan: “Tại sao điều
này lại xảy đến với ta?” Các quan đáp lại: “Tâu bệ hạ, bệ hạ bị nóng
cháy như vậy là vì bệ hạ đã lầm lạc sai bắt và treo ngược một vị vua

có giới đức và vô tội.” “Thế thì hãy nhanh chóng trả tự do cho vị ấy.”
Theo lịnh truyền, các quan ngay lập tức đi đến chỗ của đức vua
Brahmadatta và trông thấy vị ấy đang ngồi kiết già giữa hư không. Bởi
vậy họ trở lại và tâu với vua Dubbhisena.

 

Mettā của Đức Phật

Một thuở nọ khi Tăng chúng có Đức Phật dẫn đầu đang du hành
đến Kusinara, các vị hoàng tử xứ Malla đã bàn bạc và thỏa thuận với
nhau rằng nếu có người nào trong bọn họ mà không đón tiếp Tăng
chúng thì sẽ bị phạt. Do đó, một vị hoàng tử nọ tên là Roja, đã từng là
bạn của Ānanda khi trưởng lão chưa xuất gia, đã cùng với các vị
hoàng tử Malla đón tiếp chúng Tăng. Nhân đó, đại đức Ānanda nói lời
khích lệ Roja rằng đó là cơ hội hiếm có để làm như vậy vì Tăng chúng
có Đức Phật dẫn đầu. Roja đáp lại rằng vị ấy làm như vậy không phải
vì niềm tin nơi Tam bảo mà do sự thỏa thuận giữa họ. Thấy câu trả lời
đầy miễn cưỡng của Roja, Ānanda bèn đi đến Đức Phật và bạch lại
chuyện ấy. Vị ấy cũng thỉnh cầu Đức Phật tế độ cho Roja. Khi ấy Đức
Phật rải tâm bác ái đến Roja khiến vị ấy không thể ở yên một chỗ,
giống như con bê xa mẹ, đã đi đến tịnh xá nơi mà Đức Phật đang trú
ngụ. Với niềm tịnh tín nơi Đức Phật đang khởi sanh trong vị ấy, vị ấy
đảnh lễ Đức Phật và nghe Ngài thuyết pháp. Cuối thời pháp Roja
chứng quả Nhập lưu.

Một lần khác cũng vậy, khi chúng Tăng có Đức Phật dẫn đầu đang đi vào thành Rājagaha để khất thực, thì Devadatta, sau khi bàn bạc với vua Ajātasattu, đã thả voi dữ Nālāgiri để tấn công Đức Phật. Đức Phật nhiếp hóa voi dữ bằng cách rải tâm bác ái đến nó. Khi ấy dân chúng thành Rājagaha vui mừng nói lên bài kệ sau đây:

Daṇḍen’eke damayanti ankusāhi kasāhi ca
adaṇdena asatthena nāgo danto mahesinā.

Những người dạy thú, quản tượng và người huấn luyện ngựa đã thuần phục chúng bằng roi hay gậy.

Tuy nhiên, voi điên Nālāgiri đã được Đức Phật nhiếp hóa mà không cần dùng đến roi gậy hay khí giới.

Chấm dứt Chương Từ Ba-la-mật

 

J.  XẢ BA-LA-MẬT
(UPEKKHĀ  PĀRAMĪ)

Cách dịch theo nghĩa đen của chữ upekkhā là “cái nhìn trung
dung”, nghĩa là giữ vị trí trung dung giữa hai cực đoan khổ và lạc.

Nếu ý nghĩa này không được hiểu đúng thì người ta có thể nghĩ sai về nó là “vô tâm hay lãnh đạm”. Nhưng upekkhā không phải như thế, upekkhā chú ý đến đối tượng nhưng với tâm trạng bình thản khi đối diện với các cảnh vui hoặc buồn.

Sự tu tập Upekkhā

Sự tu tập upekkhā giống như sự tu tập mettā được nêu ra trong bộ Paṭisambhidāmagga. Như đã nêu ra ở trên, những phương pháp được đem vào thực hành trong việc tu tập mettā có đến 528 vì có 4 cách cơ bản. Nói cách khác, trong việc tu tập upekkhā, chỉ có một cách là kammassakā, nghĩa là “tất cả chúng sanh đều có nghiệp là tài sản của chính họ”. Do đó, những phương pháp trong trường hợp này hình thành ¼ trong 528 cách, tức là 132 cách.

Giống như ở phương pháp tu mettā, có 12 loại chúng sanh: 5 vô hạn lượng (anodhisa) và 7 hạn lượng (odhisa). Nếu có 4 cách rải mettā thì upekkhā chỉ có một cách, nên chúng ta chỉ dùng một cách để ứng dụng upekkhā vào 12 loại chúng sanh trong 10 phương.

(1)    Sabbe sattā kammassakā (tất cả chúng sanh đều có nghiệp là
        
tài sản riêng của họ);

(2)    Sabbe pāṇā kammassakā (tất cả loài hữu tình đều có nghiệp là
         tài sản riêng của họ);

(3)   Sabbe bhūtā kammassakā (tất cả mọi loài đang hiện hữu đều
       
có nghiệp là tài sản riêng của họ);

(4)   Sabbe puggalā kammassakā (tất cả các cá nhân đều có nghiệp
       
là tài sản của riêng họ);

(5)    Sabbe attabhāvapariyāpannā kammassakā (tất cả loài có nhục

thể đều có nghiệp là tài sản riêng của chúng);

(6)    Sabbā itthiyo kammassakā (tất cả giống cái đều có nghiệp là

tài sản riêng của họ)

(7)    Sabbe purisā kammassakā (tất cả giống đực đều có nghiệp là

tài sản riêng của họ);

(8)    Sabbe ariyā kammassakā (tất cả chư thánh hiền đều có nghiệp

là tài sản riêng của họ);

(9)    Sabbe anariyā kammassakā (tất cả phàm phu đều có nghiệp là

tài sản riêng của họ);

(10) Sabbe devā kammassakā (tất cả chư thiên đều có nghiệp là tài

sản riêng của họ);

(11) Sabbe manussā kammassakā (tất cả nhân loại đều có nghiệp là

tài sản riêng của họ);

(12) Sabbe vinipātikā kammassakā (tất cả loài đọa xứ đều có

nghiệp là tài sản riêng của họ);

Khi 12 cách quán của upekkhā được áp dụng vào 10 phương, ta có
120 cách. Đem 120 cách này cộng với 12 cách chính thì ta có 132
cách. Trong 132 cách này, người ta có thể chọn một cách hoặc cả thảy
để tu tập
upekkhā.

Giải rõ hơn: Như trong trường hợp của mettā, người ta có thể tu tập mettā bằng cách sử dụng những tên gọi khác của chúng sanh và cá nhân nếu người ấy muốn. Từ kammassakā cũng có thể được thay thế bằng những từ Pāḷi khác có cùng ý nghĩa đã được nêu ra trong bài kinh Abhinha, Nīvarana Vagga, Pañcaka Nipāta trong Tăng chi bộ. Có đoạn viết rằng: Sabbe sattā kammassakā, kammadāyadā, kammayonī, kammabandhū, kammapaṭissaraṇā.

(1)    Kammassakā - Có nghiệp là tài sản riêng của mình;

(2)    Kammadāyadā - Có nghiệp là tài sản kế thừa của mình;

     (3)    Kammayonī - Có nghiệp là mẫu thai của chính mình;

(4)   Kammabandhū - Có nghiệp là người thân của chính mình;

(5)    Kammapaṭissaranā - Có nghiệp là chỗ nương tựa của chính
        
mình.

Bởi vì cả 5 từ Pāḷi này đều có cùng ý nghĩa giống nhau nên người tu tập upekkha có thể thay thế “sabbe sattā kammassakā” bằng bất cứ câu nào trong những câu còn lại như:

Sabbe sattā kammadāyadā.

Sabbe sattā kammayonī.

Sabbe sattā kammabandhū.

Sabbe sattā kammapaṭissaranā.

Điểm cần suy xét

Điểm cần suy xét ở đây là: Chúng ta biết rằng mettā là pháp Ba-la-
mật cần được thực hành vì lợi ích của chúng sanh và vì thế nó đáng
được xem là pháp Ba-la-mật cao quý. Nói cách khác, tuy upekkhā
pháp Ba-la-mật cần được thực hành viên mãn, nó là thái độ tâm cho

rằng “hạnh phúc hay đau khổ là số phận của con người trong kiếp
sống. Nếu người ta có thiện nghiệp để cho quả hạnh phúc, người ấy sẽ
được hạnh phúc. Nếu người có ác nghiệp cho quả đau khổ, người ấy
sẽ phải lãnh chịu đau khổ. Ta không thể làm gì để thay đổi nghiệp của
kẻ khác.” Thật không sai chút nào khi cho rằng thái độ như vậy là cao

quý. Có sai lầm không khi cho rằng Xả là thái độ vô cảm không quan
tâm đến phúc lợi của chúng sanh? Do đó điều cần xét đến là tại sao Xả
lại được xem là đức tôn quý của pháp Ba-la-mật.

Trong những vấn đề thuộc tục sự cũng như thánh sự, điều hiển nhiên là cái gì khó đạt được thì có giá trị lớn và điều gì dễ thành đạt thì có ít giá trị. Cho nên ai cũng biết rằng: Trong thế gian những thứ dễ dàng có được như cát sạn thì rẻ tiền. Còn vàng, bạc, hồng ngọc và những loại ngọc khác là những thứ hiếm, thì quý giá.

 

Tương tự, những vấn đề thuộc thánh sự thì tham, sân và những
pháp bất thiện khác có thể sanh khởi dễ dàng. Cho nên chúng có ít giá
trị và không cần cố gắng để làm cho chúng sanh khởi. Trên thực tế,
điều khó làm là ngăn chặn không cho chúng sanh khởi trong điều kiện
khó kiểm soát. Chúng quả thật giống như rêu cỏ vô dụng. Nói cách
khác, bố thí, trì giới và những thiện nghiệp khác không thể sanh khởi
nếu không có sự nỗ lực cố gắng cần thiết. Chúng không sanh khởi một
cách tự nhiên. Một trong những thiện nghiệp ấy là sự tu tập pháp

mettā, là pháp cao hơn cả bố thí và trì giới. Pháp bác ái chân thật này
quả thật khó tu tập.

Có ba loại người: verī-puggala (kẻ thù), majjhatta- puggala (người
không thân cũng không thù) và piya- puggala (người thân). Rải mettā
đến kẻ thù thì khó, đến người không thân không thù thì không khó.
Ngược lại, rải mettā đến người thân thì dễ dàng! Mettā mà chỉ dành
riêng cho người thân thì không có giá trị vì đó là việc làm dễ dàng.

Nếu người ta muốn thực hành viên mãn mettā pāramī một cách
đúng pháp thì người ấy nên rải
mettā đến chính mình trước để làm
chuẩn.

Khi mettā được rải đến kẻ thù, người thân và người không thân
không thù, người rải phải thực hiện đối với ba hạng người này một
cách đồng đều, không phân biệt, giống như đã làm đối với chính mình.
Làm như thế có dễ dàng không? Không, không dễ chút nào cả. Quả
thật khó rải
mettā ngay cả đến người thân giống như đến chính mình,
nói chi đến kẻ thù hoặc người không thân không thù, như đã được
Đức Phật chỉ dạy: “Atasamaṃ pemaṃ n’atthi - Không có ai yêu
thương người khác hơn chính mình”. Chỉ khi nào mettā được rải đến
cả ba hạng người một cách đồng đều không chút phân biệt, giống như
rải đến chính mình thì mettā như vậy mới là mettā pāramī thực sự.

Điều này cho thấy sự tu tập mettā khó đến mức nào và giá trị của
nó to lớn dường nào. Về sự tu tập hình thức mettā này, như đã nói ở

 

trên, Suvannasāma được yêu mến bởi các loại thú rừng như cọp, sư tử, v.v… Sự tu tập upekkhā còn khó hơn nữa.

Thật không dễ gì để tu tập upekkhā ngay cả đến người không thân không thù. Có nhiều người thường nói rằng: “Bây giờ tôi có tâm xả đối  với  người  ấy”  hoặc “trong  vấn  đề  này,  tôi  giữ  thái  độ kammassavā,” v.v… Vì câu nói như vậy hàm nghĩa không quan tâm, nên xem ra upekkhā xem ra ít quan trọng. Trên thực tế, upekkhā bao hàm sự quan tâm đến đối tượng.

Rải mettā đến người thân dễ dàng như thế nào thì quán upekkhā đối
với đối tượng không thân không thù cũng dễ dàng như thế ấy. Vì
người quán upekkhā không thương cũng không ghét người kia, nên dễ
dàng giữ thái độ bình thản đối với người ấy mà không có ước muốn
thấy người ấy hạnh phúc hay đau khổ. Nhưng quán
upekkhā đến kẻ
thù thì khó khăn hơn. Người đã có tâm ghét một ai đó thì sẽ cảm thấy
vui sướng khi người kia bị suy sụp hoặc ganh ghét khi thấy người kia

được thịnh đạt. Thật khó để ngăn chặn hai loại ác pháp này. Khi một
trong hai loại ác pháp này sanh khởi trong tâm thì người ta không còn
giữ được trạng thái upekkhā.

Quán upekkhā đối với người thân còn khó hơn đối với kẻ thù. Người ta vốn có tình thương mến đối với người thân, nên khi người thân được thịnh đạt thì người ấy vui mừng, hài lòng còn khi người thân gặp bất hạnh thì người ấy sẽ buồn phiền thất vọng. Thật khó để ngăn chặn tình cảm vui sướng hoặc buồn khổ trong chính mình, chừng nào người ta còn mang tâm phân biệt và thiên vị thân thù, chừng đó người ấy không thể tu tập upekkhā được.

Như đã nói, sự tu tập upekkhā không phải là thái độ vô tâm hay
lãnh đạm. Ngược lại, nó quan tâm đến đối tượng quán. Khi quán như
vậy, người ta tự nhủ rằng: “Chẳng làm gì được để khiến cho chúng
sanh bao gồm cả chính mình được hạnh phúc hay không hạnh phúc.
Những người có thiện nghiệp thì sẽ được hạnh phúc và những người
có ác nghiệp sẽ phải lãnh chịu đau khổ. Vì hạnh phúc và đau khổ có

 

liên quan đến nghiệp quá khứ của họ nên họ không làm gì được. Chỉ
có sự quán xét thâm sâu theo cách này khi lấy chúng sanh làm đối
tượng của pháp quán mới là Xả thực sự. Tâm xả ấy không chứa đựng
sự bồn chồn hay khó chịu, nó cao quý và bình lặng. Tâm xả càng vượt
xa
mettā bao nhiêu thì mức độ tâm linh càng cao bấy nhiêu.

Giống như mettā, upekkhā là một trong bốn mươi đề mục của thiền
chỉ và cũng là một trong mười pháp Ba-la-mật. Người tâm thiền chỉ
lấy upekkhā làm đề mục chỉ vì muốn đạt được tầng thiền cao nhất, chứ
không phải các tầng thiền bậc thấp. Những người chậm trí phải qua 5
lần chứng đắc các tầng thiền mới đạt đến tầng thiền cao nhất.

Đức Phật đã giảng giải về ngũ thiền gọi là phương pháp pañcaka. Thiền đạt được lần đầu tiên gọi là Sơ thiền, chứng lần thứ hai gọi là Nhị thiền và cứ như thế cho đến Ngũ thiền. Như vậy, có năm tầng thiền dành cho những người chậm trí.

Tuy nhiên, người mẫn trí đạt đến tầng thiền cao nhất sau khi đạt được trải qua bốn lần. Đức Phật đã giảng giải về bốn tầng thiền gọi là Catukka. Thiền được chứng lần thứ nhất gọi là Sơ thiền, v.v... Bằng cách này, có bốn tầng thiền dành cho những người mẫn trí.

Những người chưa đạt được tầng thiền nào bằng một trong hai cách
này thì không nên cố gắng niệm
upekkhā để đạt được tầng thiền cao
nhất.
Upekkhā là đề mục thiền thứ năm trong phương pháp pañcaka
và thuộc về tầng thiền thứ tư trong phương pháp catukkha. Người
chậm trí có thể niệm upekkhā chỉ khi nào họ đã chứng đắc tứ thiền và
người mẫn tiệp trí chỉ sau khi đạt được ba tầng thiền đầu tiên, bằng
những đề mục thiền chỉ khác. Như đã nói, upekkhā có tính chất vi tế,
trong lặng và cao quý thuộc về tầng thiền cao nhất, không thuộc về
những tầng thiền thấp.

Nói cách khác, mettā thuộc về ba hoặc bốn tầng thiền bậc thấp. Điều này khẳng định rằng upekkhā cao siêu hơn mettā. Nếu upekkhā không được dùng làm đề mục thiền, mà chỉ được dùng trong pháp Bala-mật thì nó có thể được tu tập bất cứ lúc nào.

 

Mahā Lomahaṃsa Cariya

Thân mao thụ lập đại bổn sanh

Liên quan đến xả Ba-la-mật, câu chuyện về những cố gắng khốc liệt, làm dựng tóc của Bồ-tát trong khi thực hành xả Ba-la-mật sẽ được ghi lại từ Chú giải của bộ Cariyā Piṭaka.

Một thuở nọ, Bồ-tát sanh vào một gia đình giàu sang và có địa vị. Khi đến lúc để phải học các môn học, vị ấy đến học một vị giáo sư nổi tiếng. Sau khi hoàn thành việc học, vị ấy về nhà để phụng dưỡng cha mẹ. Khi cha mẹ qua đời, mọi người trong gia đình khuyên vị ấy hãy bảo vệ và làm Tăng trưởng của cải kế thừa.

Tuy nhiên, Bồ-tát đã từng phát triển nổi sợ hãi tam giới và nổi sợ
hãi ấy dựa trên bản chất vô thường của tất cả các pháp hữu vi. Vị ấy
cũng đã từng giác ngộ tánh bất tịnh của tấm thân và không còn ưa
thích chút nào với tình trạng vướng víu trong đám rừng phiền não của
đời sống gia chủ. Thực ra, ước muốn thoát ra khỏi thế giới dục lạc của

vị ấy đã và đang lớn dần. Vị ấy muốn xuất ly thế gian sau khi từ bỏ
khối của cải to lớn. “Nhưng nếu ta xuất gia thì mọi người sẽ ca ngợi
hết lời và nhờ đó ta sẽ trở nên nổi tiếng,” vị ấy tự suy nghĩ. Vì vị ấy
không thích danh tiếng, lợi lộc và tôn vinh nên vị ấy không từ bỏ thế
gian. Để thử năng lực của chính mình xem bản thân có thể đứng vững
trước những thăng trầm của thế gian như được mất v.v… vị ấy ăn mặc
như người bình thường rời khỏi nhà. Ước muốn đặc biệt của vị ấy là
thực hành viên mãn hình thức cao nhất của xả Ba-la-mật bằng cách
chịu đựng sự lăng mạ của kẻ khác. Sống cuộc đời cao quý với những
pháp khổ hạnh, vị ấy được mọi người gọi là người lập dị có tâm nhu
nhược, không bao giờ có thái độ nóng giận đối với kẻ khác, được xem
là người sống bên lề của xã hội, vị ấy lang thang qua những ngôi làng,

thành phố lớn nhỏ nhưng mỗi nơi vị ấy chỉ dừng lại qua một đêm rồi
đi tiếp. Chỗ nào bị hành hạ, lăng nhục nhiều nhất thì vị ấy ở lại lâu
hơn. Khi áo quần trên mình rách toạc, cũ sờn, vị ấy cố gắng vá víu lại
để che thân. Dù bị rách nát tệ hại, vị ấy cũng không nhận y phục của

người khác cho, mà chỉ chấp vá lại bằng những miếng giẻ vụn nhặt bên đường hay đống rác để che thân rồi đi tiếp.

Sau khi sống cuộc đời như vậy trong một thời gian dài, vị ấy đi đến
một ngôi làng. Những đứa trẻ trong làng có tánh nghịch ngợm thô
bạo. Một số đứa trẻ thuộc  những gia đình của người đàn bà góa và
những gia đình quan chức thì có tâm bốc đồng, ba hoa, ăn nói bừa bãi,
phóng túng. Chúng thường sống bụi đời và quậy phá kẻ khác. Khi
chúng thấy những người lớn tuổi và nghèo đang đi, chúng đi theo và
rắc tro trên lưng họ, chúng để lá ketaki vào trong nách của những
người già để làm cho họ ngứa ngáy, khó chịu. Khi những người già
quay lại để nhìn chúng thì chúng nhại theo cử chỉ, dáng điệu của họ
như khom lưng uốn gối, giả bộ câm v.v… rồi la cười vui vẻ.

Khi Bồ-tát trông thấy những đứa trẻ bất trị, Ngài suy nghĩ: “Ta đã
tìm thấy đối tượng thích hợp để thực hành viên mãn Xả Ba-la-mật,”
và Ngài quyết định ở lại ngôi làng ấy. Khi thấy Ngài, bọn trẻ tinh
nghịch ra sức trêu chọc và Ngài giả bộ như không thể chịu đựng
chúng và làm như sợ chúng, bèn bỏ chạy. Bọn trẻ vẫn bám theo Ngài.

Trên đường bỏ chạy, Ngài đến một bãi tha ma rồi suy nghĩ: “Đây là
chỗ mà không ai ngăn chặn bọn trẻ tinh nghịch đừng hãm hại ta. Bây
giờ, ta có cơ hội để thực hành Xả Ba-la-mật đến mức cao nhất.” Ngài
đi vào bãi tha ma lấy một cái sọ người làm gối và nằm xuống ngủ.
Được cơ hội để buông thả tánh tinh nghịch quái ác, những đứa trẻ ngu
ngốc đi đến chỗ Bồ-tát đang nằm ngủ và tuôn ra đủ lời lăng mạ, phun
đàm, nhổ nước bọt vào Ngài và làm các điều ác khác rồi bỏ đi. Bằng
cách này, mỗi ngày chúng đều đến bãi tha ma để hành hạ Bồ-tát.

Thấy hành động sái quấy của bọn trẻ bất lương này, một số người có trí đã ngăn chặn hành động của chúng. Với sự hiểu biết rằng: “Đây quả thật là vị Sa-môn thánh thiện có đại oai lực.” Tất cả họ đều đảnh lễ Ngài bằng sự tôn kính tột bậc.

Bồ-tát giữ cùng một thái độ đối với cả bọn trẻ ngu dốt và những
người có trí. Ngài không biểu lộ tình cảm đối với những người tôn

kính Ngài mà cũng không giận ghét đối với bọn trẻ lăng nhục Ngài. Thay vào đó, Ngài giữ thái độ bình lặng giữa thương và ghét đối với cả hai hạng người thiện trí và ác ngu. Bằng cách này, Ngài đã thực hành viên mãn Xả Ba-la-mật.

(Câu  chuyện  này  được  gọi  là  Mahā  Lomahaṃsa  Jātaka,  tên Lomahaṃsa không phải là tên của Bồ-tát. Câu chuyện chỉ đề cập tác dụng đến những người biết Bồ-tát thực hành thế nào, câu chuyện khiếp sợ này khiến họ phải dựng đứng tóc; cho nên mới có câu chuyện có nhan đề Mahā Lomahaṃsa).

Sự thành tựu Upekkhā

Sự lịm tắt của thương và ghét chính là sự thành tựu upekkhā
(Upekkhā Pāramī có nghĩa là sự vắng lặng của hai trạng thái tâm này.
Không có Xả Ba-la-mật nếu cả hai trạng thái tâm này không được
vắng lặng).

Trong những vấn đề đặc biệt, giữ thái độ làm ngơ không chút quan
tâm đến điều gì dẫn đến sự suy yếu của upekkhā. Thái độ như vậy
không thể gọi là upekkhā được. Nó chỉ là sự vô tâm mà cứ tưởng lầm
là xả.

Xả chân thực không phải là sự vô tâm hay lãnh đạm. Nó trông thấy cả điều thiện lẫn điều ác dẫn đến hạnh phúc và đau khổ. Nhưng người thọ trì upekkhā thì quán xét rõ ràng như vầy: “Ta không quan tâm đến những vấn đề hạnh phúc và đau khổ này. Chúng là kết quả của những nghiệp thiện và ác của chúng.”

Trong bộ Chú giải Netti, có đoạn giải thích rằng: người mất trí dầu
đối diện với các cảnh thiện hoặc bất thiện cũng thản nhiên giống như
trạng thái xả. (Si mê (moha) mang lốt upekkhā là giả dối). Miễn cưỡng
làm các việc phước cũng có khuynh hướng giả dối nếu cho rằng đó là
cách thực hành
upekkhā cao nhất. Sự giải đãi (kosajja) trong khi làm
các việc thiện cũng có thể mang lốt upekkhā. Cho nên cần phải cẩn
thận đừng bị si mê hoặc giải đãi dối gạt mà lầm tưởng là upekkhā.

Thực chất của Upekkhā

Upekkhā trong ý nghĩa cùng tột là một thực tại riêng biệt. Nó là
một sở hữu (cetasika) có tên gọi là Tatramajjhattata (Trung bình xả).
Nhưng tất cả mọi sở hữu tatramajjhattata không thể được gọi chung
Upekkhā Pāramī. Tatramajjhattatā là sở hữu kết hợp với tất cả các
tâm đẹp (sobhana citta). Tatramajjhattatā được xem là Upekkhā
Pāramī khi nó bắt cảnh chúng sanh và suy xét như vầy: “Hạnh phúc
và đau khổ của chúng sanh do nghiệp của họ mang lại mà không ai có
thể can thiệp được. Họ có nghiệp là tài sản riêng và nguyên nhân.”
Tatramajjhattatā sanh khởi không phải từ sự quán xét về chúng sanh
mà về Tam bảo, bố thí và trì giới thì không thể là Upekkhā Pāramī
được.

Khi xả được duy trì trong lúc quán hạnh phúc và đau khổ của chúng
sanh thì
Tatramajjhattatā không sanh khởi đơn lẻ, mà tâm và tất cả sở
hữu   tương   ứng   đều   cùng   xuất   hiện   với   nó.   Dầu   cảnh   của

Tatramajjhattatā và cảnh của những pháp tương ứng với với nó là
một, nhưng xả đối với hạnh phúc và đau khổ của chúng sanh là phận
sự chính của nó. Do đó, Tatramajjhattatā được định danh là Upekkhā
Pāramī
. Tâm và những sở hữu tương ứng của nó cũng được bao gồm
trong Upekkhā Pāramī. Tatramajjhattatā giữ vai trò chủ đạo và đây là
sự khác biệt duy nhất giữa nó và những pháp tương ưng của nó.

10 loại Upekkhā

Có những loại upekkhā khác mà không thể được bao gồm trong
Upekkhā  Pāramī  dầu  mỗi  loại  đều  là  thực  thể  cùng  tột.  Bộ
Visuddhimagga và bộ Atthasalinī có kể ra 10 loại upekkhā như vầy:

(1)     Chalang’upekkhā - Lục phần xả

(2)     Brahmavihār’upekkhā - Phạm trú xả

(3)     Bojjhaṅg’upekkhā - Giác chi xả

(4)     Vīriy’upekkhā - Tinh tấn xả

(5)     Saṅkhār’upekkhā - Hành xả

(6)     Vedan’upekkhā - Thọ xả

(7)     Vipassan’upekkhā - Quán xả

(8)     Tatramajjhatt’upekkhā - Xứ trung pháp xả

(9)     Jhān’upekkhā - Thiền xả

(10)  Parisuddh’upekkhā - Biến tịnh xả

1.  Có sáu cảnh thiện và bất thiện xuất hiện ở sáu môn. Các vị A-la-
hán không vui thích đối với các cảnh khả ái và không buồn chán đối
với những cảnh không khả ái. Vì luôn luôn có niệm và tỉnh giác, các
Ngài ghi nhận chúng trong tâm. Loại tâm bình thản này được gọi là

Chalang’upekkhā (Nghĩa là xả đối với sáu phần, đó là 6 môn và 6
cảnh).

2.  Xả với cái nhìn rằng hạnh phúc và đau khổ của chúng sanh xảy ra tùy theo nghiệp của họ thì được gọi là Brahmavihār’upekkhā (Xả Ba-la-mật chính là loại xả này).

3.  Khi những cố gắng được thực hiện nhằm mục đích chứng đắc
Đạo Quả, nếu một số pháp yếu và số khác mạnh, những chi pháp yếu
sẽ được làm cho mạnh lên và những chi pháp mạnh hơn sẽ bị áp chế
lại. Nhưng khi những chi đạo này đạt đến trạng thái của những pháp
Giác chi (
Bojjhaṅga) thì những chi đạo tương ưng của chúng có sức
mạnh bằng nhau. Upekkhā giữ quân bình những yếu tố này được gọi
Bojjhang’upekkhā.

4.  Trong việc nỗ lực nhằm mục đích chứng đắc Đạo Quả, sự tinh tấn được phát triển chỉ đến mức độ cần thiết, không nhiều hơn cũng không ít hơn, thì được gọi là Vīriy’upekkhā.

5.  Trong việc nỗ lực nhằm mục đích chứng đắc định, Đạo và Quả,
sự duy trì trạng thái tách khỏi những pháp hữu vi (saṅkhāra dhamma)
như năm triền cái (nīvarana) v.v... mà cần phải được đoạn trừ bằng Sơ
thiền, v.v... thì được gọi là
Saṅkhār’upekkhā. (Saṅkhār’upekkhā này

khởi sanh khi tuệ Vipassana chín muồi. Trước khi tuệ Vipassana chín
muồi, người ta cần phải nỗ lực để đoạn trừ saṅkhāra dhamma. Khi sự
chín muồi đã đạt được thì không cần tạo ra những nỗ lực đặc biệt để
đoạn trừ chúng. Chỉ có thái độ bình thản là cần thiết cho mục đích
này).

6.  Sự cảm thọ không vui không buồn, không khổ không lạc khi đối diện cảnh là thọ xả - Vedan’upekkhā.

7.  Trạng thái xả xảy ra khi tuệ quán khởi sanh về ba đặc tánh vô
thường, khổ và vô ngã của các uẩn thì được gọi là quán xả -
Vipassan’upekkhā (Vipassanā được giải thích tóm tắt như vầy: Vi
nghĩa là “đặc biệt” và passana là “thấy”. Vipassanā là sự thấy đặc biệt
hay tuệ quán. Biết những vật cụ thể như đàn ông, đàn bà, v.v... là sự
hiểu biết thông thường đối với tất cả mọi người. Đó là sự hiểu biết dựa
vào tưởng, không phải sự hiểu biết đặc biệt dựa vào trí tuệ thâm sâu.
Tuệ
Vipassanā là như vầy: “Không có những pháp như “ta” hoặc
“người ấy”. Cái được mệnh danh là “ta” hoặc “người kia” chỉ là khối
danh và sắc, nó phải chịu sự tan rã và hoại diệt. Những uẩn này biến
hoại liên tục mà không có sự gián đoạn. Không có dấu hiệu của sự suy
hoại chỉ vì mọi vật đang biến hoại hằng được thay thế bởi cái mới).

8.  Upekkhā được duy trì mà không tạo ra những cố gắng để duy trì trạng thái bình thản đối với những pháp tương quan này, đã được làm cho khá quân bình trong mỗi phận sự của chúng thì được gọi là Tatramajjhatt’upekkhā.

9.  Trong việc phát triển các tầng thiền, sự duy trì trạng thái xả đối
với  sự  an  lạc  tột  bậc  của  tam  thiền  được  gọi  là  thiền  xả -
Jhānu’pekkhā. (Đó là trạng thái xả mà chỉ có được ở tầng thiền cuối
cùng).

10. Tính cách làm thanh tịnh các pháp đối nghịch và không đòi hỏi sự cố gắng nào trong việc làm yên tịnh chúng thì được gọi là Biến tịnh xả - Parisuddh’upekkhā. (Đó là trạng thái xả mà chỉ có ở tầng thiền thứ tư, ở đó không cần còn các pháp đối nghịch).

Trong   mười   loại   xả   này,    6   loại,   đó   là   Chalaṅg’upekkhā, Brahmavihār’upekkhā,     Bojjhaṅg’upekkhā,     Tatramajjhattat’-upekkhā, Jahān’upekkhā Parisuddh’upekkhā đều giống nhau về ý nghĩa cùng tột của chúng. Tất cả chúng đều là những sở hữu Tatramajjhattatā.

Như vậy tại sao chúng được kể thành sáu loại? Bởi vì chúng khác
nhau về thời gian sanh khởi của chúng. Ví dụ: một người lúc nhỏ được
gọi là cậu bé (
kumāra). Khi lớn hơn thì được gọi là thanh niên (yuva);
khi già hơn thì gọi là người lớn (vuddha), “vị tướng lãnh”, “vị vua”,
v.v... một người được gọi khác nhau như vậy theo các thời kỳ trong
cuộc đời.

Nói rõ hơn là: Chúng khác nhau về phận sự riêng của chúng như:

(1)     Như đã nói ở trên: quán tất cả 6 cảnh tốt và xấu bằng tâm xả

là phận sự của Chalaṅg’upekkhā.

(2)     Quán hạnh phúc và đau khổ của chúng sanh bằng tâm xả là

phận sự của Brahmavihār’upekkhā.

(3)     Trong sự cố gắng để chứng đắc các tầng thiền, Đạo và Quả,

quán năm triền cái bằng tâm xả, năm triền cái phải được đoạn trừ là phận sự của Bojjhaṅg’upekkhā.

(4)     Phát triển tinh tấn không nhiều hơn cũng không ít hơn mức

cần thiết là phận sự của Viriy’upekkhā.

(5)     Quán bằng tâm xả tất cả những pháp tương quan mà không có

sự cố gắng làm mạnh lên hoặc làm yếu đi là phận sự của Saṅkhār’upekkhā.

(6)     Quán   các   thọ   bằng   trạng   thái   xả   là   phận   sự   của

Vedan’upekkhā.

(7)     Quán bằng tâm xả ba đặc tánh (vô thường, khổ và vô ngã) là

phận sự của Vipassan’upekkhā.

(8)     Quán bằng tâm xả các pháp tương ưng mà đã trở nên quân

bình là phận sự của Tatramajjhattatupekkhā.

(9)     Quán bằng trạng thái xả ngay cả sự an lạc cao nhất của các

tầng thiền là phận sự của Jhān’upekkhā.

(10)  Quán bằng trạng thái xả các pháp đối nghịch đã được thanh
        
tịnh hóa là phận sự của Parisuddh’upekkhā.

Như vậy, không chỉ những khác biệt về phận sự, mà những khác
biệt về cảnh cũng cần được lưu ý.
Viriy’upekkhā là sở hữu vīriya
vedan’upekkhā là sở hữu vedanā : cả hai đều là những sở hữu trí tuệ
(paññā cetasikā). Nhưng chúng có hai phận sự khác nhau như sau:

Khi quán mà không cần tạo ra những cố gắng đặc biệt về ba đặc
tánh của các pháp hữu vi là Vipassan’upekkha. Khi quán các pháp hữu
vi  (
saṅkhāra)  bằng  trạng  thái  xả  mà  không  có  sự  sợ  hãi  là
Saṅkhār’upekkhā.

Upekkhā Pāramī & 10 Upekkhā

Bản liệt kê 10 upekkhā này do các nhà Chú giải nêu ra không bao gồm Upekkhā Pāramī. Cho nên người ta có thể thắc mắc rằng: Phải chăng sự loại trừ này là do Upekkhā Pāramī không được kết hợp bởi upekkhā nào trong mười upekkhā này hay do sự sơ xuất của các nhà Chú giải? Không thể nói rằng các nhà Chú giải đã quá sơ xuất đến nổi quên không đưa nó vào bản liệt kê. Người ta cho rằng Pāramī Upekkhā được chứa trong Brahmavihār’upekkhā.

Tuy nhiên có một số người cho rằng Brahma-vihār’upekkhā
Upekkhā Pāramī là hai pháp khác nhau. Theo họ thì giữ cùng một thái
độ đối với kẻ thù cũng như người thân là
Upekkhā Pāramī. Giữ cùng
một thái độ đối với hạnh phúc cũng như đau khổ của chúng sanh cho
rằng  hai  tình  trạng  này  là  quả  nghiệp  của  chính  họ,  đó  là

Brahmavihār’upekkhā.

Tuy nhiên bản chất của Upekkhā Pāramī được giải thích trong bộ Buddhavaṃsa như vầy:

That’eva tvaṃ pi sukhadukkhe tulābhūto sadā bhava

 

upekkhāpāramitaṃ gantvā
sambodhiṃ pāpuṇissati

Trong câu kệ này, sukhadukkhe tulābhuto nghĩa là “hạnh phúc và đau khổ giống như hai đĩa của cái cân”.

Như vậy sự quán hạnh phúc và đau khổ được giảng dạy là nền tảng của Upekkhā Pāramī cũng có trong câu chuyện Mahā Lomahaṃsa của bộ Cariyā piṭaka. Trong đó có đoạn nói rằng:

Ye me dukkhaṃ upadahanti

ye ca denti sukhaṃ mama
sabbesaṃ samako homi.

Trong câu kệ này cũng có dạy rằng: “Một số người làm hại trong
khi số khác thì an ủi xoa dịu. Thái độ của ta đối với tất cả họ đều như
nhau.” “ Sukha dukkhe tulābhuto yayesu ca - Dầu ở trong hạnh phúc
và đau khổ, hoặc trong danh tiếng và nhục nhả, ta giống như hai cái
đĩa trên bàn cân.”

Theo bộ Atthasālinī và Chú giải bộ Pātha Jātaka, những lời giải
thích được nêu ra cũng dựa trên cơ sở của hai trạng thái tâm ấy: hạnh
phúc và đau khổ. “Dầu những đứa trẻ làng hành hạ, lăng nhục (phun
đàm, v.v…) thường đem đến sự đau khổ và sự tôn kính bằng hoa, vật
thơm, v.v… của dân làng đem lại hạnh phúc cho vị ấy, nhưng Bồ-tát
chỉ tỏ thái độ xả đối với cả hai. Xả của Bồ-tát không đi lệch khỏi vị trí
cân bằng là Xả Ba-la-mật tối thượng -
Paramattha Upekkhā Pāramī.

Ngoài ra, khi bộ Visuddhimagga và bộ Atthasālinī giải thích những
đặc tánh, v.v... của
Brahmavihā-r’upekkhā, trong đó nói rằng: Sattesu
majjhattakaralakkhana upekkhā - pekkhā có đặc tánh nhìn các pháp
bằng trạng thái xả.  Satta “chúng sanh” ở đây được dùng là từ chung.
Nó có nghĩa là những kẻ có ác cảm và những kẻ có thiện cảm đối với
chính mình, hoặc những kẻ hạnh phúc và những kẻ đau khổ. Do đó,
giữ thái độ xả đối với kẻ thù cũng như người thân rõ ràng là
Brahmavihār’upekkhā. Cho nên rõ ràng là nó cũng có nghĩa rằng
Pāramī Upekkhā được bao gồm trong Brahmavihār'upekkhā.

 

 

 

Chấm dứt Chương Xả Ba-la-mật



 

 

(HẾT TẬP 1.A)

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications