Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Cuộc đời Đức Phật Thích Ca TC176A13 : I - (năm -544) Phân chia xá lợi Phật ra làm 8 phần
Tin đức Phật diệt độ ở Kusinàgar được loan đi rất nhanh. Có bảy xứ lân cận đã cử sứ thần với binh tướng yểm trợ, đến Kusinàgar chiêm bái xá lợi Phật và xin thỉnh một phần xá lợi về nước mình để xây bảo tháp thờ phụng cúng dường. Bảy xứ đó là Magadha (thủ đô Ràjagaha, vua Ajàtasattu), Vajji (thủ đô Vesàlì, tổng thống Cedaga[36]Licchavi), Sàkya[37](thủ đô Kapilavatthu 2), Koliya (thủ đô Ràmagama), Buliya (thủ đô Allakappa), một vị Bà-la-môn ở xứ Vethadìpa, Malla (thủ đô Pàvà). Nhưng dân chúng Malla và chính quyền ở Kusinàgar không chịu phân chia xá lợi Phật, viện lý rằng Phật đã nhập diệt tại Kusinàgar thì nên xây tháp thờ toàn thể xá lợi Phật tại đây.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:5127

Các tên gọi khác

Tin đức Phật diệt độ ở Kusinàgar được loan đi rất nhanh. Có bảy xứ lân cận đã cử sứ thần với binh tướng yểm trợ, đến Kusinàgar chiêm bái xá lợi Phật và xin thỉnh một phần xá lợi về nước mình để xây bảo tháp thờ phụng cúng dường. Bảy xứ đó là Magadha (thủ đô Ràjagaha, vua Ajàtasattu), Vajji (thủ đô Vesàlì, tổng thống Cedaga[36]Licchavi), Sàkya[37](thủ đô Kapilavatthu 2), Koliya (thủ đô Ràmagama), Buliya (thủ đô Allakappa), một vị Bà-la-môn ở xứ Vethadìpa, Malla (thủ đô Pàvà). Nhưng dân chúng Malla và chính quyền ở Kusinàgar không chịu phân chia xá lợi Phật, viện lý rằng Phật đã nhập diệt tại Kusinàgar thì nên xây tháp thờ toàn thể xá lợi Phật tại đây.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
Cuộc đời Đức Phật Thích Ca TC176A13 : I - (năm -544) Phân chia xá lợi Phật ra làm 8 phần

Phân chia xá lợi Phật ra làm 8 phần[35]

Tin đức Phật diệt độ ở Kusinàgar được loan đi rất nhanh. Có bảy xứ lân cận đã cử sứ thần với binh tướng yểm trợ, đến Kusinàgar chiêm bái xá lợi Phật và xin thỉnh một phần xá lợi về nước mình để xây bảo tháp thờ phụng cúng dường. Bảy xứ đó là Magadha (thủ đô Ràjagaha, vua Ajàtasattu), Vajji (thủ đô Vesàlì, tổng thống Cedaga[36]Licchavi), Sàkya[37](thủ đô Kapilavatthu 2), Koliya (thủ đô Ràmagama), Buliya (thủ đô Allakappa), một vị Bà-la-môn ở xứ Vethadìpa, Malla (thủ đô Pàvà). Nhưng dân chúng Malla và chính quyền ở Kusinàgar không chịu phân chia xá lợi Phật, viện lý rằng Phật đã nhập diệt tại Kusinàgar thì nên xây tháp thờ toàn thể xá lợi Phật tại đây.

Sau một cuộc tranh chấp gây cấn hầu như sắp xảy ra chiến tranh, vị đại thần Dona (Hương Tánh), dòng Bà-la-môn, đại diện xứ Malla đứng ra dàn xếp. Ông ôn tồn dùng lời Phật dạy, khuyên các vị sứ thần nên thương lượng với nhau trong sự ôn hòa. Cuối cùng tất cả đều đồng ý để cho vị Bà-la-môn Dona phân chia xá lợi (sarìra) Phật ra làm 8 phần bằng nhau. Xứ Magadha xây tháp thờ xá lợi Phật ở Ràjagaha, xứ Vajji xây tháp ở Vesàlì, xứ Sàkya xây tháp ở Kapilavatthu 2, xứ Koliya xây tháp ở Ràmagama, xứ Buliya xây tháp ở Allakappa[38], vị Bà-la-môn xây tháp thờ ở Vethadìpa, xứ Malla nhận hai phần xá lợi, xây một tháp ở thủ đô Pàvà và một tháp khác tại Kusinàgar. Riêng vị Bà-la-môn Dona xin thỉnh cái chậu vàng dùng để chia xá lợi, đem về khu vườn nhà mình xây tháp thờ. Sứ giả xứ Moriya[39]đến trễ, xin thỉnh phần tro còn lại về xây tháp thờ tại thủ đô Pipphalivana.

Khi đoàn sứ thần các nước đã lãnh phần xá lợi của mình ra về, một ngàn vị khất sĩ cũng tuần tự giải tán và trở về trú xứ của mình để hành đạo. Các Thượng tọa Mahà Kassapa, Anuruddha và Ànanda cũng rước y bát của Phật về tinh xá Venuvana (Trúc Lâm).

Đầu hạ 46 vào năm -544, Thượng tọa Mahà Kassapa triệu tập 500 vị khất sĩ A-la-hán họp tại động Sattapanna (Thất Diệp), còn gọi là động Pippala (Tất-bát-la), ở Ràjagaha để ôn tụng và ghi nhớ tất cả những lời Phật dạy thành 3 tạng Kinh, Luật và Luận, còn được chư tăng gìn giữ cẩn thận đến ngày nay. (Tạng Luật, Tiểu Bộ, tập 2: 615)

 

 

 

– x – X – x –

 

 

 

 

Đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni đã nhập niết bàn, nhưng Tam Tạng Pháp Bảo vẫn còn đó, hiện nay các thánh tăng vẫn có mặt ở khắp năm châu. Không tìm kiếm, học hỏi và tu tập Giáo Pháp giác ngộ và giải thoát thì thật là phí cả một đời người.

 

- x - X - x -

 

 

Thân người khó được ! Làm người rất dễ tu hơn các loài khác . Chúng sanh vô minh, nghiệp chướng nặng nề, khó gặp Phật pháp, có thấy trước mắt cũng không hiểu được nên sanh lòng chê bai, phỉ báng. Than ôi ! Biết bao giờ con rùa mù ở đại dương mới ngoi đầu lên mặt nước đúng vào chỗ có bộng cây khô đang trôi ? (Xem Tương Ưng Bộ, chương 56, kinh 47 và 48; Trưởng Lão Ni kệ 499)

 

- x - X - x -

 

 

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu,

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.

Con nay được biết, xin tu học,

Theo gót Như Lai chẳng ngại lâu.

 

 

 

HẾT

 


[1]Xem Trường Bộ 16: kinh Mahà Parinibbàna; Tương Ưng Bộ, chương 51, kinh 10: Cetiya; Tiểu Bộ, Udàna VI.1; Trường A Hàm 2: kinh Du Hành; Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh 5; Tạp A Hàm 638.

[2]Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 146-148; Tăng Chi Bộ, chương 8 pháp, kinh 70: Động đất.

[3]Xem Tiểu Bộ, Udàna VIII.5; The Life of Buddha as Legend and History, trang 149; Buddha and The Gospel of Buddhism, trang 68. Có tài liệu cho rằng ông Cunda là thợ bạc.

[4]Theo kinh Du-Hành, Trường A Hàm 2, thì là cháo nấu với nấm cây chiên đàn (giống như nấm Mộc-nhĩ ở Trung Hoa). Theo kinh Trường Bộ 16 (Đại Bát Niết Bàn) thì là cháo nấu với thịt heo rừng. Theo quyển Buddha and the Gospel of Buddhism, trang 68, thì có thể là loại"truffles", nấm hương đen mọc dưới mặt đất mà loài heo rừng rất ưa thích; người Âu Châu cũng rất thích loại nấm này. Chữ sukara-maddava có thể hiểu là thịt heo rừng hay thức ăn của heo rừng. Nếu đúng là thịt heo rừng thì nên dùng chữ sukara-mamsa (The Life of Buddha as Legend and History, trang 149).

[5]Theo bản đồ trang 236 quyển Đức Phật Và Phật Pháp thì Kusinàgar ở phía đông nam của Pàvà.

[6]Xem The Life of The Buddha của A.Foucher, trang 232-233; Buddha and the Gospel of Buddhism, trang 69; The Life of Buddha as Legend and History, trang 150.

[7]Kusinàgar hiện nay là làng Kasia, thuộc quận Gorakhpur.

[8]Đại đức Cunda này là thị giả trước kia của ngài Sàriputta (Xá Lợi Phất).

[9]Đây chỉ là một nhánh nhỏ của sông Hiranyavati lớn.(Xem Geography of Early Buddhism).

[10]Viện Khảo Cổ Ấn Độ xác nhận tháp kỷ niệm Đại Bát Niết Bàn hiện nay được xây đúng vào chỗ Phật nằm khi xưa. Tháp Đại Bát Niết Bàn là tháp có nóc hình cầu, bên cạnh đền kỷ niệm có tượng Phật nằm.

[11]Có nghĩa là: Các pháp vốn không pháp, "Không pháp" cũng là pháp, Nay truyền cái "không pháp", "Không pháp" nào có pháp.

[12]Xem Buddha and The Gospel of Buddhism, trang 71; Buddhist Legends, quyển II, trang 366.

[13]Chư Thiên dâng hoa cúng dường.

[14]Đại đức Attàdattha, sau khi nghe Phật tuyên bố sẽ nhập diệt trong ba tháng, thay vì sầu khổ và theo sát bên cạnh Phật, thầy tìm nơi thanh vắng quyết tâm cố gắng tu tập để đắc quả A-la-hán trước khi Phật nhập niết bàn.

[15]Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 151.

[16]Trích kinh Mahà Parinibbàna (Đại Bát Niết Bàn).

[17]Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 151.

[18]Bốn động tâmlà bốn thánh tích thường làm cho người Phật tử khi đến chiêm bái phải bùi ngùi xúc động, nhớ đến công ơn sâu dày của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, và phát tâm dõng mãnh tu tập Giáo Pháp của ngài.

[19]Xem Trường Bộ 16.5; The Life of Buddha as Legend and History, trang 151-152; Đức Phật và Phật Pháp, trang 142.

[20]Thực hành Chánh niệmlà quán niệm sắc thọ tưởng hành thức và tất cả muôn vật đều vô thường, vô ngã và tịch tịnh. Có thể thực hành Chánh niệmbằng cách quán niệm hơi thở hoặc quán Tứ Niệm Xứ để đoạn trừ ác kiến, vọng tưởng, phiền não trong tâm.

[21]Xem A-Nan và A-Nan Cụ Bát Pháp trong Từ Điển Phật Học Huệ Quang.

[22]Xem Tiểu Bộ, Jàtaka 307: kinh Palàsa.

[23]Theo Trường Bộ 14: Asoka (A Dục) là thị giả của Phật Vipassi, Khemànkara (Nhẫn Hạnh) là thị giả của Phật Sikhi, Upasannaka (Tịch Diệt) là thị giả của Phật Vessabhù, Buddhija (Thiện Giác) là thị giả của Phật Kakusandha, Sothiya (An Hòa) là thị giả của Phật Konàgamana, Sabbamitta (Thiện Hữu) là thị giả của Phật Kassapa, Ànanda (A Nan) là thị giả của Phật Sàkyamuni.

[24]Xem Trường Bộ 17: kinh Mahà Sudassana; Tiểu Bộ, Jàtaka 95: kinh Mahà Sudassana.

[25]Xem Buddha and The Gospel of Buddhism, trang 73-74; Đức Phật và Phật Pháp, trang 229-232; Buddhìst Legends, quyển III, trang 139.

[26]Xem kinh Pháp Cú, bài 254, 255.

[27]Ngoại lệ này cũng đã được áp dụng cho giáo phái Jatila của 3 anh em ông Uruvelà Kassapa và những người xin xuất gia thuộc dòng họ Sàkya.

[28]Nguyên văn: "Akamkàmano, Ànanda, sangho mamaccayena khuddanukhuddakani sikkhapadani samuhantu".

[29]Về sau Channa hối ngộ, học đạo với ngài Ànanda và chứng quả A la hán.

[30]Xem Tương Ưng Bộ, chương 6, kinh 15: Bát-Niết-Bàn.

[31]Đại Bát Niết Bàn là niết bàn rốt ráo của chư Phật.

[32]Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 154-156; The Buddha and The Gospel of Buddhism, trang 76-78; Tạng Luật, Tiểu Phẩm, tập 2: kinh 614.

[33]Không nên lầm ông Subhaddanày với ông Subhadda là vị đệ tử xuất gia cuối cùng của Phật.

[34]Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Trà Tỳ, sau khi ngài Mahà Kassapa đảnh lễ, đức Phật duỗi hai bàn chân ra khỏi kim quan để an ủi ngài; ngài vuốt ve hai bàn chân Phật, lòng rất bi thảm. Sau đó hai bàn chân lại rút vào trong kim quan và hỏa đàn bốc cháy.

[35]Xem Trường A Hàm 4: kinh Du Hành. Theo kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Cúng Dường Xá Lợi, thì xá lợi răng nanh bên phải hàm trên của Phật được trao cho Thiên Đế (hay Đế Thích) trời Đao Lợi theo di chúc của Phật; xá lợi cặp răng nanh bên trái của Phật bị quỷ La-Sát Thiệp-Tập lấy trộm; phần xá lợi còn lại được chia ra làm 8 phần cho bảy xứ và làng Kusinàgar.

[36]Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 138.

[37]Xem The Life of Buddha as Legend and History, trang 140; Trường Bộ 16; Tiểu Bộ, Jàtaka 4: 144. Theo ngài Huyền Trangthì vua dòng Sàkya lúc bấy giờ là Uttarasena, đóng đô ở Mungali vùng Udyana, cực tây bắc Ấn Độ. Chính Uttarasena đến Kusinàgar thỉnh xá lợi Phật về xây tháp thờ ở thủ đô Mungali. Theo ông H.W.Schumanntrong quyển The Historical Buddha thì khi dòng họ Sàkya bị vua xứ Kosala là Vidùdabha tàn sát thì một số chạy thoát sang các xứ lân cận lánh nạn; sau khi vua Vidùdabha chết những người Sàkya còn sống sót tụ tập lại thành lập Kapilavatthu 2ở làng Piprahwa hiện nay tại Ấn Độ và lãnh xá lợi Phật về lập tháp thờ tại đây. Nơi đức Phật sinh sống lúc thiếu thời là Kapilavatthu 1, hiện nay là làng Tilaurakot thuộc xứ Nepal.

[38]Theo Buddhist Legends, quyển I, trang 247, nói về vua Udena (Udayana) thì AllakappaVethadìpakavà Kosambì (Vatsa,Vamsa)là 3 xứ giáp ranh nhau, gần Benares.

[39]Xứ Moriyaở phía đông xứ Koliya.

.

Cuộc đời Đức Phật Thích Ca 

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications