Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Cuộc đời Đức Phật Thích Ca TC118A01 : G - Hạ thứ 22 Phật thuyết kinh Quán Niệm Hơi Thở (Ànàpàna sati)[
Thỉnh thoảng Phật hoặc các vị đệ tử lớn lại tới viếng thăm và nói pháp tại ni viện. Mỗi tháng một lần, các vị nữ khất sĩ cũng được tới nghe pháp ở tinh xá Jetavana hoặc Pubbàràma. Năm nay, theo lời yêu cầu của Thượng tọa Sàriputta, Phật cho kéo dài mùa an cư thêm một tháng. Lễ tự tứ sẽ được cử hành vào ngày trăng tròn tháng Kattika (tháng 11 dl) thay vì vào ngày trăng tròn tháng Assayuja (tháng 10 dl) như mọi năm. Mục đích là để các vị khất sĩ, sau khi mãn hạ ở các trung tâm tu học thuộc vùng lân cận Sàvatthi có thể về Pubbàràma gặp Phật. Tin Phật sẽ kéo dài mùa an cư năm nay tại Pubbàràma thêm một tháng được loan đi rất nhanh. Do đó, sau lễ tự tứ, các thầy và các ni cô từ các địa phương khác lục tục tìm về thăm Phật rất đông. Các vị thí chủ lớn như Sudattà, Visàkhà và hoàng hậu Mallikà đã tìm mọi cách để cung cấp phương tiện cư trú và thực phẩm cho các vị khất sĩ từ các nơi tựu về. Vào cuối tháng Kattika (11 dl), số lượng các vị khất sĩ và nữ khất sĩ tại thủ đô Sàvatthi lên tới ba ngàn người.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:5032

Các tên gọi khác

Thỉnh thoảng Phật hoặc các vị đệ tử lớn lại tới viếng thăm và nói pháp tại ni viện. Mỗi tháng một lần, các vị nữ khất sĩ cũng được tới nghe pháp ở tinh xá Jetavana hoặc Pubbàràma. Năm nay, theo lời yêu cầu của Thượng tọa Sàriputta, Phật cho kéo dài mùa an cư thêm một tháng. Lễ tự tứ sẽ được cử hành vào ngày trăng tròn tháng Kattika (tháng 11 dl) thay vì vào ngày trăng tròn tháng Assayuja (tháng 10 dl) như mọi năm. Mục đích là để các vị khất sĩ, sau khi mãn hạ ở các trung tâm tu học thuộc vùng lân cận Sàvatthi có thể về Pubbàràma gặp Phật. Tin Phật sẽ kéo dài mùa an cư năm nay tại Pubbàràma thêm một tháng được loan đi rất nhanh. Do đó, sau lễ tự tứ, các thầy và các ni cô từ các địa phương khác lục tục tìm về thăm Phật rất đông. Các vị thí chủ lớn như Sudattà, Visàkhà và hoàng hậu Mallikà đã tìm mọi cách để cung cấp phương tiện cư trú và thực phẩm cho các vị khất sĩ từ các nơi tựu về. Vào cuối tháng Kattika (11 dl), số lượng các vị khất sĩ và nữ khất sĩ tại thủ đô Sàvatthi lên tới ba ngàn người.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
Cuộc đời Đức Phật Thích Ca TC118A01 : G - Hạ thứ 22 Phật thuyết kinh Quán Niệm Hơi Thở (Ànàpàna sati)[

Phật thuyết kinh Quán Niệm Hơi Thở (Ànàpàna sati)[14]

 

Thỉnh thoảng Phật hoặc các vị đệ tử lớn lại tới viếng thăm và nói pháp tại ni viện. Mỗi tháng một lần, các vị nữ khất sĩ cũng được tới nghe pháp ở tinh xá Jetavana hoặc Pubbàràma. Năm nay, theo lời yêu cầu của Thượng tọa Sàriputta, Phật cho kéo dài mùa an cư thêm một tháng. Lễ tự tứ sẽ được cử hành vào ngày trăng tròn tháng Kattika (tháng 11 dl) thay vì vào ngày trăng tròn tháng Assayuja (tháng 10 dl) như mọi năm. Mục đích là để các vị khất sĩ, sau khi mãn hạ ở các trung tâm tu học thuộc vùng lân cận Sàvatthi có thể về Pubbàràma gặp Phật.

Tin Phật sẽ kéo dài mùa an cư năm nay tại Pubbàràma thêm một tháng được loan đi rất nhanh. Do đó, sau lễ tự tứ, các thầy và các ni cô từ các địa phương khác lục tục tìm về thăm Phật rất đông. Các vị thí chủ lớn như Sudattà, Visàkhà và hoàng hậu Mallikà đã tìm mọi cách để cung cấp phương tiện cư trú và thực phẩm cho các vị khất sĩ từ các nơi tựu về. Vào cuối tháng Kattika (11 dl), số lượng các vị khất sĩ và nữ khất sĩ tại thủ đô Sàvatthi lên tới ba ngàn người.

Vào đêm trăng tròn tháng Assayuja, hoa sen trắng Kumuda nở rộ dưới hồ, hương sen thoang thoảng tỏa khắp tinh xá Pubbàràma. Phật ngồi trên một tòa cao giữa trời, mở lời khen ngợi đại chúng đã tinh tấn tu học trong suốt mùa an cư vừa qua và rất xứng đáng được thêm một tuổi hạ. Rồi nhân cơ hội này, Phật nói kinh Quán Niệm Hơi Thở (Ànàpàna sati).

Đúng ra thì vị khất sĩ nào cũng đã được học về phép quán niệm hơi thở. Nhưng đây là lần đầu tiên mà đa số các vị khất sĩ có mặt được trực tiếp nghe Phật giảng về phép quán niệm hơi thở. Đây cũng là lần đầu Phật tổng hợp những điều đã giảng về pháp môn này và đúc kết lại trong một thời giảng.

Có mặt trong buổi pháp thoại hôm nay có cả ni sư Yasodharà, mẹ của đại đức Ràhula, và ni sư Sundarì Nandà, chủng tử của sư trưởng Pajàpati Gotamì. Sáu tháng sau khi hoàng hậu Pajàpati Gotamì xuất gia, Yasodharà và Sundarì Nandà cũng xin xuất gia và tu học tại một ni viện miền ngoại ô phía bắc thành Kapilavatthu. Ni viện này cũng đã do ni sư Gotamì sáng lập. Chỉ trong vòng một năm, sư cô Yasodharà đã trở nên một phụ tá đắc lực cho ni sư Gotamì. Bắt đầu mùa hạ năm nay, hằng năm ni chúng ở Kapilavatthu đều về nhập hạ tại Sàvatthi để được thừa hưởng sự giáo huấn của Phật và các vị đệ tử lớn. Hoàng hậu Mallikà và nữ cư sĩ Visàkhà đã tận lực ủng hộ ni chúng trong việc thành lập tu viện cho phái nữ. Hai năm đầu, ni chúng được phép sử dụng vườn thượng uyển để làm trung tâm an cư. Đến năm thứ ba họ mới lập được tu viện riêng biệt. Biết mình tuổi đã cao (97 tuổi), ni sư Gotamì chú tâm đào luyện các ni sư tuổi trẻ tài cao trở thành những vị lãnh đạo xuất sắc sau này. Ni sư Yasodharà là một trong những vị lãnh đạo ni chúng xuất sắc. Cùng xuất gia một lượt với bà còn có các ni sư Sela, Vimala, Soma, Mutta và Nanduttara. Tất cả các vị này đều có mặt tại tinh xá Pubbàràma hôm nay cùng với các vị đệ tử lớn như Sàriputta, Mahà Moggallàna, Mahà Kaccàna, Mahà Kotthita (Mahàkausthila), Anuruddha, Ànanda...

Bắt đầu thời pháp, đức Phật nhắc lại về cách tu chứng và an trú từ quả Dự lưu đến quả A la hán, 37 pháp tu căn bản, pháp tu Từ Bi Hỷ Xả, pháp quán bất tịnh, pháp quán vô thường, rồi Phật nói :

Này các vị khất sĩ, pháp Quán Niệm Hơi Thở là căn bản của tất cả các pháp thiền định. Pháp Quán Niệm Hơi Thởđược tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, công đức lớn. Pháp Quán Niệm Hơi Thởđược tu tập thuần thục khiến cho bốn niệm xứđược viên mãn. Bốn niệm xứ được tu tập thuần thục khiến cho bảy giác chiđược viên mãn. Bảy giác chi được tu tập thuần thục khiến cho minh giải thoát(vijjavimutti) được viên mãn.

Hành giả đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết-già, lưng thẳng đứng và trú niệm trước mặt; chánh niệm, vị ấy thở vào; chánh niệm, vị ấy thở ra theo 16 cách thở như sau :

Thứ nhất: Thở vào một hơi dài, biết ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài, biết ta đang thở ra một hơi dài.

Thứ hai: Thở vào một hơi ngắn, biết ta đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, biết ta đang thở ra một hơi ngắn.

Hai cách thở này nhằm tập kiểm soát, điều chỉnh, quán sát, phân loại các hơi thở dài/ngắn, nhanh/chậm, mạnh/nhẹ, ồn ào/êm dịu … khác nhau.

Thứ ba: Cảm giác toàn thân ta thở vào. Cảm giác toàn thân ta thở ra.

Cách thở này nhằm tập quán sát tác dụng của các loại hơi thở vào và hơi thở ra trên khắp toàn thân. Hơi thở vào làm toàn thân thêm sinh lực, hơi thở ra làm toàn thân thư giãn. Hơi thở mạnh làm thân nóng lên, hơi thở nhẹ nhàng làm thân mát dịu. Hơi thở nhanh làm thân bị kích động, hơi thở chậm rãi làm thân an ổn. Hơi thở nhẹ và dài làm thân an tịnh.

Thứ tư: An tịnh thân hành ta thở vào. An tịnh thân hành ta thở ra.

Cách thở này nhằm tập làm cho toàn thân an tịnh, nhẹ nhàng bằng hơi thở thật êm dịu.

Bốn cách thở trên nhằm tập làm chủ và điều hành thân thể bằng cách điều chỉnh hơi thở.

Thứ năm: Cảm giác hỷ thọ (piti, mừng) ta thở vào. Cảm giác hỷ thọ ta thở ra. Cách thở này nhằm tập quán sát sự sanh diệt và ảnh hưởng của hỷ thọ trên thân tâm. Tập làm chủ hỷ thọ bằng cách điều chỉnh hơi thở.

Thứ sáu: Cảm giác lạc thọ (sukha, vui) ta thở vào. Cảm giác lạc thọ ta thở ra. Cách thở này nhằm tập quán sát sự sanh diệt và ảnh hưởng của lạc thọ trên thân tâm. Tập làm chủ lạc thọ bằng cách điều chỉnh hơi thở.

Hai cách thở này nhằm tập làm chủ các cảm thọ bằng cách điều chỉnh hơi thở.

Thứ bảy: Cảm giác tâm hành (các cảm thọ) ta thở vào. Cảm giác tâm hành ta thở ra. Cách thở này nhằm tập quán sát sự sanh diệt của các cảm thọ (tâm hành) và tập làm chủ các cảm thọ bằng cách điều chỉnh hơi thở.

Thứ tám: An tịnh tâm hành (các cảm thọ) ta thở vào. An tịnh tâm hành ta thở ra. Cách thở này nhằm tập diệt trừ các cảm thọ bằng hơi thở thật êm dịu.

Bốn cách thở trên nhằm tập làm chủ và tự giải thoát khỏi các cảm thọ.

Thứ chín: Cảm giác về tâm ta thở vào. Cảm giác về tâm ta thở ra. Cách thở này nhằm tập quán tâm để biết các tâm trạng của ta trong mỗi thời, và biết tâm đang có vọng tưởng, phiền não, hay đang có định.

Thứ mười: Với tâm hân hoan ta thở vào. Với tâm hân hoan ta thở ra. Cách thở này nhằm tập làm tâm hân hoan, an lạc bằng hơi thở thật êm dịu.

Thứ mười một: Thở vào và nhiếp tâm vào định. Thở ra và nhiếp tâm vào định. Cách thở này nhằm đoạn trừ vọng tưởng và phiền não trong tâm, và làm tâm trở nên an định, thanh tịnh và linh hoạt.

Thứ mười hai:Thở vào và giữ tâm thanh tịnh giải thoát. Thở ra và giữ tâm thanh tịnh giải thoát (không còn phiền não và vọng tưởng).

Bốn cách thở trên đây nhằm tập làm chủ và tự giải thoát khỏi sự ràng buộc của tâm ý.

Thứ mười ba: Thở vào và quán chiếu tánh vô thường của vạn pháp. Thở ra và quán chiếu tánh vô thường của vạn pháp (trong đó có thân và tâm ta).

Thứ mười bốn: Thở vào và khởi tâm xa lìa vạn pháp. Thở ra và khởi tâm xa lìa vạn pháp (xuất ly tham ái).

Thứ mười lăm: Thở vào và quán chiếu vạn pháp đều không (sunnata), đều hoàn toàn vắng lặng (nibbana). Thở ra và cũng quán chiếu như thế (đoạn diệt vọng tưởng).

Thứ mười sáu: Thở vào và khởi tâm xả, không nghĩ tưởng. Thở ra và khởi tâm xả, không nghĩ tưởng (xả bỏ tất cả).

Bốn cách thở trên đây nhằm giúp tâm ta tự giải thoát khỏi các đối tượng của tâm ý, tức là giúp sáu căn thanh tịnh, không còn vướng mắc vào sáu trần; dứt trừ vọng tưởng và phiền não trong tâm ; dứt trừ ngã chấp và pháp chấp ; thành tựu minh giải thoát.

Thế gian này không còn gì có thể ràng buộc và gây phiền não cho ta nữa. Như thế là ta được giải thoát.

Một khi đạt được giải thoát, hành giả sống an lạc ngay trong cuộc đời mà không có gì trong cuộc đời có thể ràng buộc hành giả.

Đức Phật đã dạy phép hành trì mười sáu cách thở lồng trong sự quán chiếu về thân thể, cảm thọ, tâm ý và đối tượng của tâm ý. Hơi thở là dây cương để điều phục tâm ý như trừ tán loạn, sân hận, sợ hãi, tham dục ... Chúng ta nhận thấy rằng 16 phép quán hơi thở nầy dùng cả hai phương pháp thiền là Chỉ (Samatha) và Quán (Vipassanà), tức là Định Tuệ song tu, để kiện toàn phép quán Tứ Niệm Xứ và sự thực hành Bảy Giác Chi chóng đạt kết quả.

Gần ba ngàn vị khất sĩ và nữ khất sĩ được nghe kinh này đều lấy làm sung sướng được tỏ ngộ pháp tu giải thoát, tín tâm càng thêm bền chắc, không còn điều gì nghi ngờ nữa. Tất cả đều thầm cám ơn Thượng tọa Sàriputta đã sắp đặt để mọi người được thưởng thức hương vị giải thoát hòa lẫn hương sen Kumuda dưới ánh trăng rằm huyền diệu.

.

Cuộc đời Đức Phật Thích Ca 

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications