Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Cuộc đời Đức Phật Thích Ca TC114A01 : G - Hạ thứ 22 tại Jetavana và Pubbàràma (-568)- Phật nói kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna sutta)
Phật nói kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna sutta)[1] Mùa xuân năm sau, 568 trước tây lịch, tại thủ đô Kammasadhamma xứ Kuru, cách Sàvatthi khoảng 300 km về phía tây, đức Phật nói kinh Tứ Niệm Xứ cho trên 300 khất sĩ và một số đông thính chúng địa phương. Đây là một kinh rất quan trọng về phương pháp tu tập thiền quán (Vipassanà). Phật nói pháp quán Tứ Niệm Xứ giúp người tu được thân tâm thanh tịnh, vượt qua mọi sầu khổ, thành tựu trí tuệ và đạt giải thoát. Tứ niệm xứ là bốn đề tài cần được quán niệm tỉ mỉ và ghi nhớ rành rẽ. Đức Phật nói : –Này quý thầy, quý thầy nên đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng đứng, an trú chánh niệm trước mặt. Rồi quý thầy khởi quán về bốn đề tài sau đây:
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:5027

Các tên gọi khác

Phật nói kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna sutta)[1] Mùa xuân năm sau, 568 trước tây lịch, tại thủ đô Kammasadhamma xứ Kuru, cách Sàvatthi khoảng 300 km về phía tây, đức Phật nói kinh Tứ Niệm Xứ cho trên 300 khất sĩ và một số đông thính chúng địa phương. Đây là một kinh rất quan trọng về phương pháp tu tập thiền quán (Vipassanà). Phật nói pháp quán Tứ Niệm Xứ giúp người tu được thân tâm thanh tịnh, vượt qua mọi sầu khổ, thành tựu trí tuệ và đạt giải thoát. Tứ niệm xứ là bốn đề tài cần được quán niệm tỉ mỉ và ghi nhớ rành rẽ. Đức Phật nói : –Này quý thầy, quý thầy nên đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng đứng, an trú chánh niệm trước mặt. Rồi quý thầy khởi quán về bốn đề tài sau đây:

General Information

Danh sách : Liên quan
:
Cuộc đời Đức Phật Thích Ca TC114A01 : G - Hạ thứ 22 tại Jetavana và Pubbàràma (-568)- Phật nói kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna sutta)

2 Hạ thứ 22 tại Jetavana và Pubbàràma (năm -568)-

 

Phật nói kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthàna sutta)[1]

 

Mùa xuân năm sau, 568 trước tây lịch, tại thủ đô Kammasadhamma xứ Kuru, cách Sàvatthi khoảng 300 km về phía tây, đức Phật nói kinh Tứ Niệm Xứ cho trên 300 khất sĩ và một số đông thính chúng địa phương. Đây là một kinh rất quan trọng về phương pháp tu tập thiền quán (Vipassanà). Phật nói pháp quán Tứ Niệm Xứ giúp người tu được thân tâm thanh tịnh, vượt qua mọi sầu khổ, thành tựu trí tuệ và đạt giải thoát. Tứ niệm xứ là bốn đề tài cần được quán niệm tỉ mỉ và ghi nhớ rành rẽ. Đức Phật nói :

Này quý thầy, quý thầy nên đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng đứng, an trú chánh niệm trước mặt. Rồi quý thầy khởi quán về bốn đề tài sau đây:

1- Quán thân trên tự thân,

2- Quán thọ trên các thọ,

3- Quán tâm trên tự tâm,

4- Quán pháp trên các pháp,

với nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để có thể diệt trừ tham ái, sân hận và buồn khổ ở đời.

 

Thế nào là quán thân trên tự thân ?

Thở vô dài, tuệ tri thở vô dài.

Thở ra dài, tuệ tri thở ra dài.

Thở vô ngắn, tuệ tri thở vô ngắn.

Thở ra ngắn, tuệ tri thở ra ngắn.

Thở vô với cảm giác không khí tỏa khắp toàn thân.

Thở ra với cảm giác không khí tỏa khắp toàn thân.

Thở vô với cảm giác toàn thân an lạc thanh tịnh.

Thở ra với cảm giác toàn thân an lạc thanh tịnh.

Lúc đi đứng nằm ngồi ăn uống hay bất cứ làm việc gì, quý thầy cũng đều an trụ tỉnh giác vào hành động của mình, biết rõ việc mình đang làm.

Quý thầy quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt: "Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, chất nhờn, nước tiểu." Tất cả đều bất tịnh, vô thường và sẽ hoại diệt.

Quý thầy quán thân này do tứ đại là đất nước gió lửa họp thành. Khi tứ đại tan rã thì chẳng còn gì gọi là thân.

Quý thầy quán thân sau khi chết, sình trương, hôi thúi, tan rã.

Như vậy là Tỳ kheo sống quán thân trên nội thân[2], hay quán thân trên ngoại thân[3], hay quán thân trên cả nội và ngoại thân; sống quán tánh sanh khởi trên thân, hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", nhưng vị ấy sống an trú chánh niệm để đạt chánh trí, tuệ tri thân là vô thường[4], là vô ngã[5], là niết bàn[6]. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước vào thân[7]. Này các thầy, như vậy là Tỳ kheo sống quán thân trên thân.

 

Thế nào là quán thọ trên các thọ ?

Khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri có cảm giác khổ thọ.

Khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri có cảm giác lạc thọ.

Khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ tri có cảm giác bất khổ bất lạc thọ.

Khi cảm giác khổ lạc thọ thuộc vật chất, tuệ tri có cảm giác khổ lạc thọ thuộc vật chất.

Khi cảm giác khổ lạc thọ về tinh thần, tuệ tri có cảm giác khổ lạc thọ về tinh thần.

Như vậy là Tỳ kheo sống quán thọ trên các nội thọ; hay sống quán thọ trên các ngoại thọ; hay sống quán thọ trên các nội và ngoại thọ; hay sống quán tánh sanh khởi trên các thọ; hay sống quán tánh diệt tận trên các thọ; hay sống quán tánh sanh diệt trên các thọ. "Có thọ đây", nhưng vị ấy sống an trú chánh niệm để đạt chánh trí, tuệ tri tất cả các thọ đều là vô thường, là vô ngã, là niết bàn. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước vào các cảm thọ. Này các thầy, như vậy là Tỳ kheo sống quán thọ trên các thọ.

 

Thế nào là quán tâm trên tự tâm ?

Khi tâm có tham, tuệ tri tâm có tham.

Khi tâm không tham, tuệ tri tâm không tham.

Khi tâm có sân, tuệ tri tâm có sân.

Khi tâm không sân, tuệ tritâm không sân.

Khi tâm không định, tuệ tritâm không định.

Khi tâm định, tuệ tritâm định.

Khi tâm buồn, tuệ tritâm đang buồn.

Khi tâm lo nghĩ, tuệ tritâm đang lo nghĩ.

vân vân ...

Như vậy là Tỳ kheo sống quán tâm trên nội tâm, hay quán tâm trên ngoại tâm, hay quán tâm trên nội ngoại tâm; hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm, hay quán tánh diệt tận trên tâm, hay quán tánh sanh diệt trên tâm. "Có tâm đây",nhưng vị ấy sống an trú chánh niệm để đạt chánh trí, tuệ tri tâm là vô thường, là vô ngã, là niết bàn. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước vào tâm. Này các thầy, như vậy là Tỳ kheo sống quán tâm trên tâm.

 

Thế nào là quán pháp trên các pháp ?

Đối với 5 triền cái:

Khi nội tâm khởi sanh tham dục, tuệ tri nội tâm khởi sanh tham dục.

Khi nội tâm không còn tham dục, tuệ tri nội tâm không còn tham dục.

Khi nội tâm khởi sanh sân hận, tuệ tri nội tâm khởi sanh sân hận.

Khi nội tâm không còn sân hận, tuệ tri nội tâm không còn sân hận.

Khi nội tâm khởi sanh hôn trầm, tuệ tri nội tâm khởi sanh hôn trầm.

Khi nội tâm không còn hôn trầm, tuệ tri nội tâm không còn hôn trầm.

Khi nội tâm khởi sanh trạo cử, tuệ tri nội tâm khởi sanh trạo cử.

Khi nội tâm không còn trạo cử, tuệ tri nội tâm không còn trạo cử.

Khi nội tâm khởi sanh hoài nghi, tuệ tri nội tâm khởi sanh hoài nghi.

Khi nội tâm không còn hoài nghi, tuệ tri nội tâm không còn hoài nghi.

Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp, hay quán pháp trên các ngoại pháp, hay quán pháp trên các nội và ngoại pháp; hay sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, hay quán tánh diệt tận trên các pháp, hay quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có các pháp ở đây", nhưng vị ấy sống an trú chánh niệm để đạt chánh trí, tuệ tri các pháp đều là vô thường, là vô ngã, là niết bàn. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước bất cứ một vật gì trên đời. Này các thầy, như vậy là Tỳ kheo sống quán pháp trên các pháp, đối với năm triền cái.

 

Đối với 5 thủ uẩn:

Đối trước sắc, tuệ tri sắc là vô thường, là vô ngã, là niết bàn.

Đối trước thọ, tuệ tri thọ là vô thường, là vô ngã, là niết bàn.

Đối trước tưởng, tuệ tri tưởng là vô thường, là vô ngã, là niết bàn.

Đối trước hành, tuệ tri hành là vô thường, là vô ngã, là niết bàn.

Đối trước thức, tuệ tri thức là vô thường, là vô ngã, là niết bàn.

Như vậy thân 5 uẩncũng là vô thường, là vô ngã, là niết bàn.

 

Đối với 6 nội ngoại xứ:

Khi mắt thấy sắc, tham ái sanh, tuệ tri tham ái sanh.

Khi mắt thấy sắc, tham ái không sanh, tuệ tri tham ái không sanh.

Khi tai nghe tiếng, tham ái sanh, tuệ tri tham ái sanh.

Khi tai nghe tiếng, tham ái không sanh, tuệ tri tham ái không sanh.

Khi mũi ngửi mùi, ...

Khi lưỡi nếm vị, ...

Khi thân xúc chạm, ...

Khi tuệ biết ý, ...

Nhờ tuệ tri như vậy mới có thể hộ trì các căn một cách miên mật.

 

Đối với 7 Giác chi:

Khi nội tâm không có Niệm giác chi, tuệ tri không có Niệm giác chi.

Khi nội tâm có Niệm giác chi, tuệ tri có Niệm giác chi.

Khi nội tâm thành tựu Niệm giác chi, tuệ tri thành tựu Niệm giác chi.

Đối với Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, Xảcũng vậy.

Nhờ tuệ tri như vậy mà việc tu tập 7 Giác chi mới có thể thành tựu.

 

Đối với 4 Sự thật:

Quán niệm về Khổđể hiểu biết rõ ràng về các loại khổ.

Quán niệm về Tậpđể hiểu biết rõ ràng về nguyên nhân của khổ.

Quán niệm về Diệtđể hiểu biết rõ ràng về niết bàn.

Quán niệm về Đạođể hiểu biết rõ ràng về Bát Thánh Đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

 

Rồi đức Thế Tôn kết luận như sau:

– Này quý thầy, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại; hai là nếu còn hữu dư y thì cũng chứng quả Bất hoàn. Này quý thầy, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong sáu năm... trong năm năm... trong bốn năm... trong ba năm... trong hai năm... trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại; hai là nếu còn hữu dư y cũng chứng quả Bất hoàn. Này quý thầy, không cần gì đến một năm, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong sáu tháng hay bảy ngày, vị ấy cũng có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại; hai là nếu còn hữu dư y cũng chứng quả Bất hoàn. Này quý thầy, đây là con đường độc nhất, đưa đến sự thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh lý, chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ.

Thế Tôn thuyết pháp xong, các vị khất sĩ hoan hỉ tín thọ phụng hành lời Thế Tôn dạy.

Qua hôm sau, sau khi thượng tọa Ànanda trùng tuyên lời dạy của đức Phật, Thượng tọa Assaji cho biết đức Phật đã giảng về Tứ Niệm Xứ nhiều lần rồi, nhưng đây là lần đầu tiên ngài tổng hợp và đúc kết thành một bài pháp gọn ghẽ, đầy đủ và khúc triết nhất. Đại đức Sàriputta nói kinh Tứ Niệm Xứ rất là quý báu và quan trọng, các vị khất sĩ nên học thuộc lòng để thực hành hằng ngày.

.

Cuộc đời Đức Phật Thích Ca 

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications