Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Chánh tri kiến và tư duy về tên gọi “Phật Thích-ca” hay “Phật Cồ-đàm”
<p>Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu ni Phật là danh hiệu tri niệm, Thích-ca mâu ni Phật là cách gọi quen thuộc tên Đức Phật của nhiều người theo đạo Phật ở Việt Nam. Đây phải chăng là tên gọi đúng về vị Đạo Sư tôn kính của chúng ta? Với tinh thần học Phật là luôn vận dụng trí tuệ để hiểu đúng Sự thật do đó việc truy tìm nguồn gốc, đối chiếu với những chánh kinh, tham khảo qua các dữ kiện lịch sử và các tài liệu khảo cổ học cùng những gì chúng ta tri kiến tu học theo đúng chánh pháp, để giúp chánh tri kiến lại và hiểu chính xác tên Đức Phật. Một ví dụ điển hình, nếu người học trò gọi tên sai tên người thầy, người cô dạy mình thì chúng ta cảm thấy thế nào? Cũng vậy, nếu chúng ta học Phật mà ngay tên vị Bổn sư mà hiểu sai, đọc sai hay là niệm sai thì sao gọi là đệ tử Phật? Vì học Phật chính là học sự thật, Đức Phật luôn khuyến khích chánh tri kiến và tư duy cho đúng. Đức Phật đã từng nhắc nhở trong Tứ y pháp “ Y trí bất quy thức”.</p>
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:5328

Các tên gọi khác

Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu ni Phật là danh hiệu tri niệm, Thích-ca mâu ni Phật là cách gọi quen thuộc tên Đức Phật của nhiều người theo đạo Phật ở Việt Nam. Đây phải chăng là tên gọi đúng về vị Đạo Sư tôn kính của chúng ta? Với tinh thần học Phật là luôn vận dụng trí tuệ để hiểu đúng Sự thật do đó việc truy tìm nguồn gốc, đối chiếu với những chánh kinh, tham khảo qua các dữ kiện lịch sử và các tài liệu khảo cổ học cùng những gì chúng ta tri kiến tu học theo đúng chánh pháp, để giúp chánh tri kiến lại và hiểu chính xác tên Đức Phật. Một ví dụ điển hình, nếu người học trò gọi tên sai tên người thầy, người cô dạy mình thì chúng ta cảm thấy thế nào? Cũng vậy, nếu chúng ta học Phật mà ngay tên vị Bổn sư mà hiểu sai, đọc sai hay là niệm sai thì sao gọi là đệ tử Phật? Vì học Phật chính là học sự thật, Đức Phật luôn khuyến khích chánh tri kiến và tư duy cho đúng. Đức Phật đã từng nhắc nhở trong Tứ y pháp “ Y trí bất quy thức”.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
Chánh tri kiến và tư duy về tên gọi “Phật Thích-ca” hay “Phật Cồ-đàm”

https://phathocnguyenthuy.com/2017/12/07/ve-ten-goi-phat-thich-ca-hay-phat-co-dam/

 

 

Chánh tri kiến và tư duy về tên gọi “Phật Thích-ca” hay “Phật Cồ-đàm”


Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu ni Phật là danh hiệu tri niệm, Thích-ca mâu ni Phật là cách gọi quen thuộc tên Đức Phật của nhiều người theo đạo Phật ở Việt Nam. Đây phải chăng là tên gọi đúng về vị Đạo Sư tôn kính của chúng ta?

Với tinh thần học Phật là luôn vận dụng trí tuệ để hiểu đúng Sự thật do đó việc truy tìm nguồn gốc, đối chiếu với những chánh kinh, tham khảo qua các dữ kiện lịch sử và các tài liệu khảo cổ học cùng những gì chúng ta tri kiến tu học theo đúng chánh pháp, để giúp chánh tri kiến lại và hiểu chính xác tên Đức Phật. Một ví dụ điển hình, nếu người học trò gọi tên sai tên người thầy, người cô dạy mình thì chúng ta cảm thấy thế nào? Cũng vậy, nếu chúng ta học Phật mà ngay tên vị Bổn sư mà hiểu sai, đọc sai hay là niệm sai thì sao gọi là đệ tử Phật? Vì học Phật chính là học sự thật, Đức Phật luôn khuyến khích chánh tri kiến và tư duy cho đúng. Đức Phật đã từng nhắc nhở trong Tứ y pháp “ Y trí bất quy thức”.

Đối chiếu lọc lựa lại (trạch chi) một số các kinh điển xưa tiếng Sanskrit (Bắc Ấn) và tiếng Pali (Nam Ấn) gốc đều dùng tên Cù-đàm (Gautama) hay Cồ-đàm (Gotama) để gọi tên Đức Phật. Cách gọi đó theo đúng cách gọi của thời bấy giờ và còn phổ biến ở nhiều quốc gia như  châu Âu, Mỹ, Úc và châu Á ngày nay là gọi một người bằng họ của người đó, ví dụ Donald John Trump, Xi Jinping, Abe Shinzo người ta gọi là Tổng Thống Trump, Chủ tịch Xi hay Thủ tướng Abe, và họ của Đức Phật là họ Cù-đàm hay Cồ-đàm. Tên họ của Đức Phật là Siddhārtha Gautama (Sanskrit) hay Siddhattha Gotama (Pali ). Phiên âm Hán Việt là Sĩ-đạt-ta Cù đàm/Cồ đàm.

Tiêu biểu là trong Bộ Kinh thông dụng nhất, Kinh Pháp Cú, Phẩm Tạp Lục, đều sử dụng chỉ một cách gọi ngài Cồ-đàm dành cho Đức Phật:

Trích Pháp Cú phẩm Tạp Lụ

 296. Đệ tử Kiều-đáp-ma [->Gotama], phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng Phật đà.

“Đệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

 Vô luận ngày hay đêm,

 Thường tưởng niệm Phật Đà.”

 297. Đệ tử Kiều-đáp-ma [->Gotama], phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng Đạt ma (Pháp).

 “Đệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Thường tưởng niệm Chánh Pháp.”

298. Đệ tử Kiều-đáp-ma [->Gotama], phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng Tăng già.

“Đệ tử Gotama, 

Luôn luôn tự tỉnh giác, 

Vô luận ngày hay đêm, 

Thường tưởng niệm Tăng Già.”

299. Đệ tử Kiều-đáp-ma [->Gotama], phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng sắc thân.

“Đệ tử Gotama, 

Luôn luôn tự tỉnh giác, 

Vô luận ngày hay đêm, 

Thường tưởng niệm sắc thân.”

300. Đệ tử Kiều-đáp-ma [->Gotama], phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường vui điều bất sát.

“Đệ tử Gotama, 

Luôn luôn tự tỉnh giác, 

Vô luận ngày hay đêm, 

Ý vui niềm bất hại.”

301. Đệ tử Kiều-đáp-ma[->Gotama], phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường ưa tu Thiền quán.

“Đệ tử Gotama, 

Luôn luôn tự tỉnh giác, 

Vô luận ngày hay đêm, 

Ý vui tu thiền quán.”

Các đầu sách hiện đang có ở VN lẫn nước ngoài

Hay trong Kinh Trường Bộ phần Phạm Võng Tạng :

 (Tiểu Giới)

 8. Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. – Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai. 

Sa-môn Gotama từ bỏ lấy của không cho, tránh xa sự lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh không có trộm cướp. – Này các Tỷ-kheo, như vậy người phàm phu tán thán Như Lai. 

Sa-môn Gotama từ bỏ tà hạnh, tịnh tu phạm hạnh, sống giải thoát, từ bỏ dâm dục hèn hạ. Này các Tỷ-kheo, đó là những lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu,…

सिद्धार्थ गौतम [Siddhārtha Gautama/Sanskrit] <- Tên Họ của Đức Phật viết/đọc theo Bắc Ấn

शिद्धत्थ ङोतम [ Siddhattha Gotama/Pali] <- Tên Họ của Đức Phật viết/đọc theo Nam Ấn

悉達多瞿曇 [Sĩ- đạt-ta Cù đàm/Cồ đàm] <- Tên Họ của Đức Phật viết/đọc theo Hán Việt

गौतम बुद्ध [Gautama Buddha] : Đức Phật Cù-đàm <- Tên gọi đúng theo kinh điển xưa

Nguồn gốc thế gian của Đức Phật sinh quán miền Cực Bắc Ấn Độ (sát liền với ranh giới Tây Tạng/Nepal), phả hệ Thuộc bộ tộc शाक्य [Śhākya/Sanskrit ; Sākya/Pali] thuộc cao nguyên Bắc Ấn Độ.

釋迦[Thích-già/ca] <-  Viết/Đọc Śhākya theo Hán Việt.

ས་སྐྱ [Sakya/Bod, Tibet] <- Tên dòng tu của Phật/Mật giáo Tây Tạng

Tên gọi Phật Thích-ca chỉ phổ biến ở ba quốc gia là Trung Quốc ,Việt Nam và Tây Tạng. Cách gọi này chỉ mới xuất hiện khoảng giữa cuối thế kỷ XII là thời điểm hưng thịnh kết nối giữa Phật giáo Tây Tạng (Tạng giáo)/Tát-ca phái cùng với Phật giáo Trung Quốc + Thế lực bảo hộ (hộ pháp) của các vua chúa thời ấy… Dòng truyền thừa ས་སྐྱ་(phiên âm La-tinh là Sakya/Shakya, phiên âm Hán Việt là Tát-ca/Thích-ca) do A-đề-sa khải thị 5 vị phật sống (ngũ trí như lai….) được truyền khai giáo hóa rộng rãi…. Và cũng từ đó, tên thật của Đức Phật Cồ-đàm theo các kinh sách cổ Ấn Độ để lại, dần biến thành tên của tộc hệ Thích-ca (trùng âm với dòng tu Tát-ca/Thích-ca của Tạng giáo…) -> phổ biến trong các kinh sách của Phật giáo Tây Tạng và Trung Quốc -> Việt Nam, cũng chính từ đó mà hình thành…

Thích-ca (Sãkya) là tên bộ tộc của Ngài Cồ-đàm, nhưng gọi một người bằng tên bộ tộc cũng chưa thật đúng, ví dụ ở Việt Nam chúng ta có nhà Lãnh Đạo là Hồ Chí Minh, vậy chúng ta gọi là Bác Hồ? Hay gọi theo bộ tộc/dân tộc là Bác kinh? Và gọi Thích-ca cũng dễ nhầm lẫn với trường phái Sakya ở Tây Tạng. Còn từ Mâu-ni Chữ Ấn Độ मुनि [phiên âm La-tinh là Muñí, phiên âm Hán Việt là Mâu-ni] có nghĩa là: Bậc Thánh hiền/Hiền triết/Hiền trí/Trí đức (ngữ nghĩa trong Hindi/Ấn giáo) -> Trí giả trầm lặng/khiêm cung (ngữ nghĩa trong Phật giáo/Tì-na giáo và tôn danh này mọi người tôn kính dành gọi Đức Phật, người đã giác ngộ và luôn khiêm cung xem chúng sanh là bạn.

Học Phật là luôn vận dụng trí tuệ để hiểu đúng sự, chúng ta hãy cũng thực hành chánh ngữ bằng cách gọi và tri ân Đức Phật bằng tên thật của ngài: Cồ-đàm Mâu-ni Phật.

Chúng con đồng thành kính tri ân Ngài, Bổn Sư Cồ-Đàm Mâu-ni Phật.

Với độc giả muốn tìm hiểu sâu về vấn đề này, có thể tham khảo phần tên gọi Đức Phật trong cuốn sách “Phạm Võng Tinh Giải” do tác giả TOTHA. Quý đọc giả có thể đọc thêm tại Sách Phật Học Tinh Hoa: Phạm Võng Tinh Giải Tập 1 – TOTHA

Sau đây là trích một phần trong quyển sách:

*Lược sử thời gian truy cứu để cùng hiểu đúng (Trạch giác) về phái Thích-ca/Thích-già/Tát-ca giáo phân phái trong phật giáo Trung Quốc và Tây Tạng cùng sự biến tướng bành trướng:

Trước tiên, chúng ta sẽ cùng tìm xem sự xuất hiện của bộ tộc शाक्य [phiên âm La-tinh là Sākya, Hán Việt đọc là Thích-già/Thích-ca]. Tham khảo đối chiếu lại bản đồ Ấn Độ cổ thời điểm năm 1750 TCN và năm 600 TCN để hình dung. Ta xem:

Theo tư liệu khảo cổ lịch sử thế giới cho biết bộ tộc SakyaThích-ca, Thích già thuộc bộ lạc Aryan xuất hiện TK XX TCN, sống du mục rải rác khắp vùng thảo nguyên Âu-Á. Khoảng TK XVII bộ lạc Aryan từ Đông Afghanistan cùng tôn giáo Hindu Kush thờ thần mặt trời đổ bộ dần sang: Pakistan/Bắc Ấn Độ/Nepal. Đến khoảng TCN TK VI TCN bộ tộc SakyaThích-ca thuộc bộ lạc Aryan phân bố định cư ở: 1. Gandhara(Càn-đà-la) nay thuộc Đông Afghanistan và một phần của Tây Bắc Pakistan. Đây là địa danh có nhiều di tích phật giáo thời cổ đại  ; 2. Sakastan ; 3. Matsya(Ma-thâu-la) phía nam thủ đô Delhi  của Ấn Độ ngày nay. Đây cũng là địa danh có nhiều di tích phật giáo thời cổ đại ; và bộ tộc SakyaThích-ca rải rác ở 4. Lumbidi(Lâm-tỳ-ni) phía cực Bắc Ấn Đô gần biên giới Nepal/Tây Tạng (ngày nay thuộc Nepal/Tây Tạng), nơi sinh ra Đức Phật Cồ-đàm Sĩ-đạt-ta. Nhắc lại, thế danh (tên họ) của Đức Phật chữ Ấn Độ là शिद्धत्थTênङोतमHọ(phiên âm La-tinh SiddhārthaTên GotamaHọ, phiên âm Hán Việt là: Sĩ-đạt-ta(Tên) Cồ-đàm(Họ), sinh quán लुम्बिनी[phiên âm La-tinh Lumbidi(Lâm-tỳ-ni)phía cực Bắc Ấn Đô gần biên giới Nepal/Tây Tạng (ngày nay thuộc Nepal/Tây Tạng), thời điểm ra đời (đản sinh) khoảng TK VI/V/IV? TCN các kinh sách để lại không rõ ràng, phả hệ thuộc bộ tộc शाक्य(phiên âm La-tinh là Sākya, phiên âm Hán Việt là Thích-già/Thích-ca). Giáo pháp giác ngộ (phật pháp/phật học) do Ngài Cồ-đàm chỉ dạy được thịnh hành ở Ấn Độ đến gần giữa TK V thì bị suy hoá dần (biến tướng thành tôn giáo tín thần, đến TK XII thì bị diệt vong hoàn toàn). Lúc này, thời điểm khoảng giữa TK V vị Tổ thứ 28 là Bồ-đề Đạt-ma – vị Tổ cuối cùng của Đạo Phật chính thống (nguyên thuỷ) tại Ấn Độ – phải thân hành sang Trung Quốc để truyền bá chánh pháp – xem như Sơ Tổ  Đạo Phật chánh tông Trung Quốc – giúp lưu truyền chánh pháp được 5 đời TổHuệ Khả -> Tăng Xán -> Đạo Tín -> Hoàng Nhẫn -> Huệ Năng. Đạo Phật chánh tông (nguyên thuỷ) thịnh hành ở Trung Quốc chưa đầy 2 thế kỷ thì cũng bị biến tướng lai tạp cùng thần giáo/tiên giáo/huyễn giáo (triết học) phát triển rộng khắp bởi sức ảnh hưởng của “Lão phật gia Võ Tắc Thiên Hoàng Đế” hoằng hoá khai thị… Và khoảng giữa TK VI – thời nhà Đường – có vị sư chánh trực là Huyền Trang (玄奘) nhận thấy quá nhiều dị biệt lẫn mâu thuẫn trong kinh sách phật giáo, nên ông đã đích thân sang Ấn Độ để truy tìm chánh kinh mang về Trung Quốc biên dịch lại…đến cuối TK XI cũng dần bị lại tạp biến tướng hoàn toàn thành tôn giáo…

Như vậy, hãy cùng nhau trạch giác chi đồng chánh tri kiến và tư duy đúng đắn (Chánh tri kiến và Tư duy) về ngữ nghĩa giữa Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật và Nam mô Bổn sư Cồ-đàm Mâu-ni Phật thì đâu gọi là Chánh Ngữ và Chánh Niệm về vị Đạo Sư tôn kính của chúng ta? Có vì danh xưng dòng họ Thích…(đúng nghĩa là bộ tộc Thích-ca/Thích-già) phổ biến ờ Tây Tạng mà vội cả tin đây là phật giáo chính tông của Thầy Sĩ-đạt-taTênCồ-đàmHọ hay không?!… Ví như dân tộc Kinh có nhiều thầy tên họ: Trần…, Nguyễn…, Đinh…thì có chắc rằng người, nhóm người, mọi người dân tộc Kinh đều là đệ tử của thầy Nguyễn Trãi hay cháu con của Nguyễn Trãi? Đệ tử của Nguyễn Trãi, cháu con của Nguyễn Trãi có chắc rằng hiểu đúng, làm đúng lời Nguyễn Trãi dạy hay không?…  Nhớ lại thuở xưa, lúc Đức Phật còn tại thế, bộ tộc Thích-ca đã gây tạo hiềm khích với vua Tỳ-lưu-ly -> thù hằn sâu nặng, khiến vua mang quân sang tiêu diệt sạch dòng tộc Thích-ca, lúc ấy đệ tử Phật là Mục-kiền-liên dùng thần thông can thiệp nhưng bất thành, Đức Phật bảo rằng thần thông không thắng được nhân quả… Và đồng cùng nhau đối chiếu xem lại 28 vị Tổ Ấn Độ cho đến 5 vị Tổ chánh tông tại Trung Quốc do Tổ Đạt-ma chọn truyền y bát, có thấy ai ghép tiền danh họ Thích…?

Một truyền tích về họ Thích…(theo một số chi phái của phật giáo Trung Quốc) cho rằng vào khoảng năm 220 – 300 có một nhà sư hiệu là Trúc Đạo Thanh hay còn gọi là Đạo Hinh, đồng thời vị sư này còn có thêm tên gọi là Thích Đạo Thanh… Số khác cho rằng do Thích Đạo An (năm 312 – 385) thiết định ra…. Chúng ta hãy cùng nhau chánh tri kiến và tư duy về lịch sử phật giáo Trung Quốc tại các thời điểm: *TK III:  – Đạo Sư Khương Tăng Hội (Giao chỉ) -> Đông Ngô (Tôn Quyền); – Đạo Sư Đàm-ma-ca-la -> Bắc   Ngụy (Tào Tháo) ; – Đạo Sư Châu Tử Hoàng -> Tây Thục (Lưu Bị) là những danh sư nỗi tiếng (trong đó Đạo Sư Khương Tăng Hội được tôn là đệ nhất danh sư), những vị ấy không hề mang họ Thích… -> Năm 310 Đạo Sư Phật-độ-trừng từ Ấn Độ sang truyền giáo cho Đạo An (312-385), Huệ Viễn (344-416) -> Năm 384 Đạo Sư Cưu-ma­-la-thập từ Ấn Độ sang truyền giáo cho Tăng Triệu (384–414) và Đạo Sinh (360–434). Chỉ mỗi sư Đạo An phác thêm họ Thích có thể hiểu theo nghĩa là ưa thích (gần như nghĩa ái), Đạo An (an bình trên đường đạo), Thích Đạo An tư nghĩa tự niệm tâm Ưa thích thành đạt an bình trên đường đạo hay Thích Đạo Thanh tư nghĩa tự niệm tâm Ưa thích thanh tịnh trên đường đạo…ái giác thay cho ái dục đời thường, tựa như giác nghĩa dụng giải Dục thần túc giác chi (khát khao mong muốn giác ngộ) thuộc chi phần Tứ thần túc/Tứ như ý túc trong 37 phẩm trợ đạo (Tam thập thất Bồ-đề phẩm), nhằm khéo léo cải thiện/hoàn thiện (thiện xảo) tự nhắc nhở tự tâm mình dần xoay thay chuyển/hoá giải dục mê chi trần cấu… Cũng vậy, ở Kinh Pháp Cú 300/301 thiện xảo thay chuyển/hoá giải niềm vuiHỉ/ưa thíchÁi thế tục thành niềm vui bất sát/ưa thích thiền quánTư duy an lặng nghĩa là vậy… Nghĩa là, Dụng pháp Chuyển pháp Thiện xảo Giải giới Pháp...

      Tóm lại, điều mà chúng ta – những người tu học giác ngộ chân chính, thật sự được gọi là đệ tử của Đạo sư Sĩ-đạt-ta Cồ-đàm tôn kính – cần phải hiểu đúng và tư duy đúng (Chánh Tri kiến và Tư duy) về ngữ nghĩa (Chánh Ngữ) “Thích-ca” cùng sự đồng hoá Tát-ca phái/Thích-già giáo của Mật giáo Tây Tạng vào phật giáo… Đó là sự thật.

Trích: “Phạm Võng Tinh Giải Tập 1”, tác giả: TOTHA. Quý đọc giả xem thêm sách ở bài viết Sách Phật Học Tinh Hoa: Phạm Võng Tinh Giải Tập 1 – TOTHA

Chia sẻ:

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ...
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications